Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

THỰC TRANG sử DỤNG đất NÔNG NGHIỆP tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.73 KB, 41 trang )

Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com

MỞ ĐẦU
Đất đai đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của mọi
sinh vật và loài người trên trái đất. Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động
kinh tế xã hội, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế trong
ông nghiệp, là yếu tố quan trọng bậc nhất cấu thành lên bất động sản và thị
trường bất động sản. Đất đai còn là một trong những bộ phận lãnh thổ của
mỗi một quốc gia. Chính vì vậy mà Điều 1, chương I, luật Đất đai có ghi
“Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, Nhà nước
giao đất cho các tổ kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước, tổ
chức chính trị xã hội (gọi chung là tổ chức) , hé gia đình và cá nhân sử dụng
ổn định lâu dài...”
Đất nông nghiệp là một thành phần cấu tạo nên quỹ đất nên phải có những
giải pháp hợp lý trong quản lý và sử dụng đất nông nghiệp.
Đất nông nghiệp là đất để canh tác và những mảnh đất này có các điều
kiện thuận lợi. Đất nông nghiệp có rất Ýt nên vấn đề cải tạo và quản lý đất
nông nghiệp là vấn đề cấp thiết.
Mục đích nghiên cứu để vạch ra những hướng quản lý, từ đó sẽ sử
dụng đất đảm bảo hiệu quả, phù hợp với yêu cầu quản lý đất đai của Nhà
nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu để người đọc hiểu được rõ thực trạng về đất
nông nghiệp ở nước ta để cùng nhau bảo quản và sử dụng hợp lý quỹ đất
nông nghiệp.
Đề tài được nghiên cứu với các phương pháp duy vật biện chứng và
phương pháp duy vật lịch sử.
Phương pháp phân tích tổng hợp.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam.
Với toàn bộ quỹ đất nông nghiệp, thực trạng sử dụng đất và những giải pháp
về sử dụng đất nông nghiệp.


1


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
CHUONG :I
1. Khái niệm đất nông nghiệp.
Như Luật đất đai năm 1993 đã khẳng định: Đất đai là tài nguyên quóoc
gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng
hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng
các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh và quốc phòng.
Và đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản
xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên
cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Trong nông nghiệp, đất đai vừa là đối tượng
lao động, vừa là tư liệu lao động. Ở đây, đất đai không chỉ là chỗ đứng, chỗ
tựa của lao động mà còn cung cấp thức ăn cho cây trồng và thông qua sự phát
triển của trồng trọt tạo điều kiện cho ngành chăn nuôi phát triển. Với ý nghĩa
đó, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là cơ sở tự nhiên sản sinh ra của cải vật
chất cho xã hội. Ở nước ta với gần 80% dân số làm trong ngành nông nghiệp
cho nên vấn đề phát triển nông nghiệp là mặt trận hàng đầu tạo cơ sở vững
chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2:Dac diem dat nn.
Đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản xuất của các ngành
nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc sử dụng để
nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Ngoài tên gọi đất nông nghiệp, đất sử
dụng vào sản xuất nông nghiệp còn được gọi là ruộng đất.
Đất nông nghiệp là một loại đất chủ yếu trong vốn đất đai của Nhà
nước. Tầm quan trọng đặc biệt của nó được xác định bởi phần lớn loại đất
này đóng vai trò là tư liệu sản xuất chính tạo ra sản phẩm nông nghiệp mà
chủ yếu là lương thực, thực phẩm- yếu tố cơ bản để duy trì sự tồn tại và phát
triển của xã hội.

Mét trong những nhiệm vụ cơ bản của việc phát triển kinh tế nông
nghiệp đến năm 2000 mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra tại Đại hội toàn
quốc lần thứ VII là: “Sản xuất nông nghiệp đi vào chuyên canh kết hợp với
kinh doanh tổng hợp nhằm đạt giá trị cao nhất trên một đơn vị diện tích.
2


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
Thâm canh tăng vụ là chính và mở thêm diện tích ở những nơi có điều kiện.
Tăng sản lượng lương thực đủ nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu.
Đất nông nghiệp là người ta nghĩ ngay đến vấn đề sử dụng đất vào sản
xuất các ngành nông nghiệp, bởi vì trên thực tế có trường hợp đất đai được sử
dụng vào những mục đích khác nhau của các ngành. Trong trường hợp đó,
đất đai được sử dụng chủ yếu cho mục đích hoạt động sản xuất nông nghiệp
mới coi là đất nông nghiệp, nếu không sẽ là loại đất khác (tuỳ theo việc sử
dụng vào mục đích nào là chính).
Tuy nhiên, để sử dụng đầy đủ, hợp lý ruộng đất trên thực tế người ta
coi đất đai có thể tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà không cần
có đầu tư lớn nào là đất nông nghiệp cho dù nó đã đưa vaof sản xuất nông
nghiệp hay chưa. Vì vậy, trong Luật Đất đai năm 1993, Điều 17 ghi rõ:
“Khoanh định các loại đất nông nghiệp ..... điều chỉnh việc khoanh định cho
phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội trong phạm vi từng địa
phương và cả nước. Những diện tích đất đai phải qua cải tạo mới đưa vào
hoạt động sản xuất nông nghiệp được coi là đất có khả năng nông nghiệp.
Nhà nước xác định mục đích sử dụng chủ yếu của đất nông nghiệp là sử dụng
vào sản xuất nông nghiệp. Song, do đặc điểm tính chất từng loại đất này có sự
khác nhau, dẫn đến tác dụng sử dụng cụ thể cũng khác nhau, người ta chia đất
nông nghiệp thành 4 loại sau đây:
- Đất trồng cây hàng năm: là toàn bộ diện tích thực tế trồng các loại cây
mà thời gian sinh trưởng và tồn tại thường không quá 1 năm như đất trồng

lúa, đất trồng màu, đất trồng chuyên rau, .....
- Đất trồng cây lâu năm: là toàn bộ diện tích thực tế đã trồng các loại
cây mà thời gian sinh trưởng và tồn tại trên một năm như đất trồng cà phê,
dừa, cam, chanh, xoài, .... kể cả đất làm vườn ươm, cây giống.
- Đất trồng cây nông nghiệp lâu năm không bao gồm cây lâm nghiệp,
cây công nghiệp lâu năm trồng xen, trồng kết hợp trên các loại đất khác như
xen đường giao thông, xung quanh các vùng đất chuyên dùng khác.

3


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
- Đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi: bao gồm diện tích đồng cỏ tự nhiên;
đồng cỏ trồng, bãi cỏ để thả gia sóc.
Đất có mặt nước dùng vào sản xuất nông nghiệp bao gồm các loại ao,
hồ, sông cụt, .... thực tế đã nuôi trồng các loại thuỷ sản như cá, tôm, cua, ...
loại đất này không tính đến hồ, kênh, mương, máng thuỷ lợi.
Đất nông nghiệp ở nước ta phâm bố không đồng đều giữa các vùng
trong cả nước. Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long có tỷ trọng đất nông nghiệp
trong tổng diện tích đất tự nhiên lớn nhất cả nước, có 2.654.066 ha đất nông
nghiệp, chiếm 67,1% diện tích toàn vùng và vùng đất nông nghiệp Ýt nhất là
vùng Duyên hải miền Trung. Đất nông nghiệp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của
đất tại các vùng nên độ phì và độ màu mỡ của đất nông nghiệp giữa các vùng
cũng khác nhau. Đồng bằng Sông Hồng với Đồng bằng Sông Cửu Long đất
đai ở hai vùng này được bồi tụ phù sa thường xuyên nên rất màu mỡ, mỗi
năm đất phù sa bồi tụ ở Đồng bằng Sông Cửu Long thêm 80m. Vùng Tây
Nguyên và Đông Nam Bộ phần lớn là đất bazan.
Tuy đất đai khác nhau nhưng trong tổng quỹ đất nông nghiệp vm là rất lớn,
chiếm 19-22% diện tích đất tự nhiên. Với quỹ đất như vậy sẽ đảm bảo cho
nguồn lương thực, thực phẩm tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Do đặc

điểm tự nhiên, khí hậu cận nhiệt đới và thảm thực vật nhiệt đới đa dạng nên
sản xuất nông nghiệp ở nước ta cũng đan dạng và phong phú, miền Bắc với 4
mùa rõ rệt nên việc sản xuất nông nghiệp cũng mang tính thời vụ theo 4 mùa,
còn ở miền Nam 2 mùa (mưa và khô) nên việc sản xuất lúa nước rất thuận lợi
cũng như trồng các loại cây công nghiệp có tính chiến lược cao như cao su,
tiêu, cà phê, .... Để khai thác hợp lý đất nông nghiệp cần phải có biện pháp
kết hợp khoa học với truyền thống áp dụng đổi mới để việc sử dụng đất trong
nông nghiệp đạt hiệu quả tốt nhất.
3.vai tro.
Đất nông nghiệp là loại đất phù hợp cho trồng cây lương thực, cây hoa màu
và chỉ trồng trên đất nông nghiệp thì mới đạt hiệu quả cao, đảm bảo cho sự

4


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
tồn tại, duy trì và phát triển của các loại cây lương thực, hoa màu này. Phát
triển kinh tế nông nghiệp chủ yếu do quỹ đất nông nghiệp và tính chất đất đó
là yếu tố cơ sở, nền tảng và làm tiền đề cho sự phát triển này.
Đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng có vai trò quan trọng đối với
việc phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp có nhiệm vụ bảo đảm
lương thực, thực phẩm cho toàn dân, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp,
đẩy mạnh xuất khẩu, xây dựng cơ sở vật chất, tạo thêm việc làm, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, mở rộng thị trường, ổn định xã hội
và bảo vệ an ninh quốc gia, tạo cơ sở vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để đảm bảo được các vấn đề nêu trên thì đất nông nghiệp phải đảm bảo
trú trọng hàng đầu. Bởi vì quỹ đất đai tự nhiên là không thay đổi song do nhu
cầu phát triển của xã hội đã làm cho đất nông nghiệp bị thu hẹp lại, do đó cần
phải có các chính sách đảm bảo quỹ đất nông nghiệp luôn luôn đủ để đáp ứng

cho quá trình sản xuất nông nghiệp đảm bảo lương thực, thực phẩm cho toàn
xã hội và kích thích các ngành nghề khác cùng phát triển.
Nước ta gần 80% dân số là làm trong nông nghiệp, do đó nông nghiệp
là môi trường việc làm cho đa số đông dân số tăng thu nhập, nâng cao đời
sống cho nhân dân, đây là điều kiện giữ vững sự ổn định trong nhân dân tạo
nền móng vững chắc về chính trị.
Đất nông nghiệp nước ta đang ngày càng phát triển, ngoài trồng trọt ra,
đất nông nghiệp còn sử dụng vào lĩnh vực chăn nuôi, đặc biệt là mặt nước
nuôi trồng thuỷ sản đang ngày càng phát triển, có chiến lược mạnh trong việc
xuất khẩu như: tôm, cua, cá, ...
Đất nông nghiệp có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nông
nghiệp trong nông thôn nước ta, đời sống vật chất tinh thần đang ngày được
cải thiện đúng như mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
II.Vai trò của việc sử dụng đất nông nghiểp trong sự phát triển kinh tế

5


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
Xã hội. Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động và cùng
với quá trình lịch sử phát triển kinh tế xã hội, đất đai là điều kiện chung của
lao động.Đất đai đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người và các sinh vật trên trái đất.
Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế xã hội.
Đất đai là địa điểm, là cơ sở của các thành phố, làng mạc, các công trình
công nghiệp, giao thông...
Đất đai và cùng với các điều kiện tự nhiên khác là một trong những cơ
sở quan trọng nhất để hình thành các vùng kinh tế của đất nước nhằm khai
thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng tự nhiên, kinh tế, xã hội ở mỗi

vùng của đất nước.
Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất của xã hội
nhưng là một tư liệu sản xuất đặc biệt. Tuy nhiên đối với mỗi ngành cụ thể
trong nền kinh tế quốc dân, đất đai cũng có những vị trí vai trò khác nhau.
Trong ngành công nghiệp (trừ ngành khai khoáng) , đất đai làm nền
tảng, làm cơ sở, làm địa điểm để tiến hành những thao tác, những hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Trong nông nghiệp, đất đai có vị trí đặc biệt quan trọng là yếu tố hàng
đầu của ngành sản xuất này. Đất đai không chỉ là chỗ tựa, chỗ đứng để lao
động mà còn là nguồn cung cấp thức ăn cho cây trồng, mọi tác động của con
người vào cây trồng đều dùa vào đất đai và thông qua đất đai. Đất đai sử
dụng trong nông nghiệp được gọi là ruộng đất. Trong nông nghiệp, ruộng
đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế được, Ruộng
đất vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Con người lợi dụng
một cách có ý thức các tính chất tự nhiên của đất đai như lý học, hóa học,
sinh vật và các tính chất khác để tác động lên cây trồng.
Đất đai là một trong những bộ phận lãnh thổ của mỗi một quốc gia. Nói
đến chủ quyền của mỗi quốc gia là phải nói đến những bộ phận lãnh thổ,
trong đó có đất đai.

6


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
III.Những nhân tố ảnh hưởng tới việc quả lý và sử dụng đất nông
ngiệp.
1. Cơ cấu dân số.
Tỷ lệ dân số nông nghiệp và phi nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới
việc quản lý đất đai bởi vì tỷ lệ đó phản ánh mức độ, nhu cầu sử dụng đất
đai cho hoạt động sản xuất và đời sống của dân cư. Một đặc trưng khác nữa

trong cơ cấu dân số là tỷ lệ dân số biến động cơ học. Việc tỷ lệ dân số biến
động cơ học tăng cao thì nhu cầu tất yếu phải thu hẹp diện tích đất nông
nghiệp để xây dựng các công trình đô thị, dân cư nông nghiệp một bộ phận
chuyển đổi nghề nghiệp tại chỗ thành dân cư phi nông nghiệp, một bộ phận
phải di chuyển tới các đô thị khác hoặc các vùng nông nghiệp khác còn có
khả năng diện tích đất để sinh sống.
2. Cơ cấu các ngành kinh tế.
Phản ánh mức độ nhu cầu sử dụng đất đai làm cơ sở nền tảng, đối
tượng lao động, tư liệu lao động trong quá trình bố trí hoạt động kinh doanh
sản xuất. Cụ thể là cơ cấu các ngành kinh tế (Công nghiệp, Nông nghiệp,
Dịch vô - Du lịch - Thương mại, Giao thông vận tải)
3. Tác động của quá trình đô thị hóa.
Do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội nên quá trình đô thị hóa dẫn tới
đất nông nghiệp bị thu hẹp khá lớn để phục vụ cho nhu cầu xây dựng nhà ở
đô thị của dân cư, của các đơn vị cơ quan Nhà nước và xây dựng các công
trình hạ tầng kỹ thuật. Do vậy gây ảnh hưởng rất lớn tới công tác quản lý đất
đai bởi các lý do chủ yếu là:
* Do tác động của quá trình đô thị hóa, dân cư biến động cơ học dẫn
đến tăng nhu cầu về đất xây dựng, tình trạng mua bán đất trái phép, mua bán
đất nông nghiệp để xây dựng nhà ở phát sinh rất phức tạp. Hiện tượng vi
phạm pháp luật đất đai của các cá nhân, tổ chức... kèm theo đó là tình trạng
vi phạm về công tác quản lý trật tự xây dựng đô thị.
* Quá trình đô thị hóa đòi hỏi phải sử dụng diện tích đất ngày càng
nhiều để xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị và các công trình phục vụ đời
sống văn hóa, phát triển sản xuất trong khi đó quỹ đất đai lại có hạn.

7


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com

* Do tốc độ của đô thị hóa nhanh do vậy có ảnh hưởng rất lớn tới việc
thiết lập các hồ sơ tài liệu địa chính bao gồm:
- Thống kê tổng hợp diện tích các loại đất theo loại đất và theo thành
phần quản lý sử dụng.
- Lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất ở các loại tỷ lệ.
- Hoàn chỉnh hệ thống bản đồ địa chính, thiết lập sổ mục kê, sổ đăng
ký thống kê đất đai tới từng chủ sử dụng.
* Quá trình lập quy hoạch kiến trúc chịu tác động mạnh mẽ của quá
trình đô thị hóa.
III. QUỸ ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA.

Đất nước chúng ta trải dài từ Bắc đến Nam với việc phân thành 7 vùng
kinh tế để tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp
nói riêng.
Quỹ ruộng đất là tổng thể về diện tích ruộng đất trên một vùng lãnh thổ
theo mét ranh giới nhất định, nằm trong phạm vi một đơn vị sản xuất (hộ gia
đình, doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp ....) của một địa phương như xã,
huyện, tỉnh hay cả nước.
Tổng quỹ đất nông nghiệp ở Việt Nam là: 7.637.710 ha, đối với mỗi
đơn vị sản xuất, mỗi địa phương quỹ đất nông nghiệp là có giới hạn về mặt
diện tích. Đặc trưng của các loại quỹ đất được quy định bởi đặc điểm của đ.
Trong đó, đặc điểm có tính hữu hạn về số lượng đất đai và tính vô hạn về sự
sinh lời của đất đai chi phối một cách rõ rệt nhất.
Tuy nhiên, trong các quỹ đất, quỹ đất tự nhiên mang tính bao trùm và
được phân thành các loại khác nhau. Mỗi loại đất hình thành mỗi quỹ riêng
(trong đó có quỹ đất nông nghiệp). Vì vậy, quỹ đất nông nghiệp và một số
quỹ đất chuyên dùng khác có sự biến động nhất định. Sự biến động của quỹ
đất nông nghiệp sẽ diễn ra theo hai hướng.
Hướng thứ nhất: Thu hẹp quỹ đất nông nghiệp do quá trình đô thị hoá,
do sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, do sự hình hành các


8


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
trung tâm công nghiệp mới, .... chỉ tính riêng ở Thủ đô Hà Nội trong khoảng
4 năm từ 1994 đất nông nghiệp giảm 1.300 ha. Việc hình thành nhiều khu chế
xuất, khu công nghiệp đã làm giảm quỹ đất nông nghiệp. Bởi vậy, việc bố trí
quy hoạch để sử dụng đất đạt hiệu quả sử dụng cao và tránh tình trạng xây
dựng, quy hoạch trên đất nông nghiệp.
Hướng thứ hai: Tăng quỹ đất nông nghiệp bởi vì nhu cầu về lao động
và thu nhập, do nhu cầu về các sản phẩm nông nghiệp ngày càng tăng, dân số
ngày càng Đông nên việc khai khẩn đất hoang hoá để đưa vào sản xuất nông
nghiệp tăng lên. ĐâY là xu hướng vận động theo chiều rộng là vấn đề cần
được khuyến khích và thực hiện theo những chính sách, tính toán của Nhà
nước, theo những định hướng, những mục tiêu đã đề ra.
Quỹ đất nông nghiệp được cấu thành từ các loại đất khác nhau, tuỳ
theo mục đích sử dụng của chúng. Nói cách khác, quỹ đất nông nghiệp được
phân thành các loại khác nhau. Khi mục đích sử dụng đất nông nghiệp thay
đổi làm cho số lượng loại đất này tăng lên, loại đất kia giảm đi. Quỹ đất nông
nghiệp có sự biến động trong nội bộ của nó cùng với sự biến động các loại
quỹ đất trong tổng quỹ đất tự nhiên, ở từng loại quỹ đất cũng có sự biến đổi.
Đối với quỹ đất nông nghiệp, sự biến động trong nội bộ của nó thương
theo xu hướng: Giảm dấn diện tích trồng cây lương thực để chuyển sang
trồng các loại cây khác. Xu hướng biến động này do trình độ sản xuất ngày
càng cao, nhờ thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng xanh
năng suất cây lương thực đã tăng lên đảm bảo an toàn lương thực, từ một
nước thiếu ăn, nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo của
đất nước ta chiếm ưu thế về số lượng nhưng chất lượng thì còn kém và thua
so với chất lượng gạo của các nước như Thái, Mỹ. Đòi hỏi phải thay thế,

chuyển đổi các loại cây trồng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất cũng như
nâng cao hiệu quả kinh tế của cây trồng. Mặt khác, do sự phát triển của hệ
thống kết cấu hạ tầng nông thôn, đặc biệt là của hệ thống giao thông đã mở ra

9


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
khả năng giao lưu hàng hoá làm cho việc chuyển sang trồng các loại cây
trồng khác mang tính thiết thực hơn như cây ăn quả và cây công nghiệp.
Vấn đề giao thông phải thật sự cải thiện tốt, đảm bảo cho sự vận
chuyển thuận lợi nhanh chóng để đưa ccc sản phẩm ra thị trường trao đổi thì
mới tránh được hình thức sản xuất tự cung - tự cấp tại mỗi địa phương.
Trong quỹ đất trồng cây lương thực cũng như quỹ đất trồng các loại
cây trồng khác đã dần dần thay thế những cây trồng có chất lượng thấp bằng
cây có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao theo hướng khai thác lợi thế của
vùng. Ví dụ: Ngay trong ngành trồng lúa xu thế thay các loại lúa có năng suất
cao nhưng chất lượng thấp bằng các loại lúa cổ truyền có chất lượng cao ngày
càng tăng.
Trong quỹ đất đai của cả nước, quỹ đất nông nghiệp đứng thứ 3 về tỷ
trọng và có xu hướng tăng trong thời kỳ 1980 trở lại đây. Nguyên nhân chủ
yếu là do tác động của cơ chế quản lý và sử dụng đất đai đã tạo động lực để
người nông dân tích cực khai hoang, tăng vụ mở rộng diện tích... đưa đất đai
vào hoạt động nông nghiệp. Với những chính sách của Nhà nước đã từng
bước cải tạo Đồng Tháp Mười, cải tạo đất ở Đồng bằng sông Cửu Long đã
làm tăng quỹ đất nông nghiệp.
Quỹ đất nông nghiệp có sự biến động theo xu hướng tỷ trọng đất trồng
cây hàng năm giảm dần từ 86,4% năm 1980 xuống còn 72,5% năm 1997; tỷ
trọng đất trồng cây lâu năm tăng dần từ 7,9% năm 1980 lên 18,98% năm
1997.

Biến động quỹ đất nông nghiệp từ 1980-1997
Đơn vị: 1.000 ha
Các loại đất
Đất nông nghiệp trong cả

1980
6.913,

1985
6.942,

1990
6.993,2

1994
7.367,2

1997
7.367,72

nước
1. Đất trồng cây hàng năm

4
5.974,

2
5.615,

5.339,0


5.463,8

5.553,80

2. Đất trồng cây lâu năm
3. Đất trồng cỏ

2
549,5
272,2

8
804,8
328,6

1.045,2
342,3

1.347,7
221,0

1.449,60
132,50

10


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
4. Đất có mặt nước dùng


117,5

169,8

266,7

334,7

......

vào sản xuất nông nghiệp.

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Tổng cục Địa chính.
Tuy nhiên, so với quỹ đất chưa sử dụng, đất nông nghiệp chiếm tỷ
trọng nhỏ hơn còn lượng lớn đất đai chưa được khai thác. Việc đầu tư khai
thác đất nông nghiệp một cách đầy đủ và hợp lý đã và đang được đặt ra một
cách cấp thiết.
2. Phân bố đất nông nghiệp
Đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội. Vì
vậy việc phân bổ quỹ đất đai đặc biệt là quỹ đất nông nghiệp bị chi phối của
hai yếu tố đó rất mạnh. Phân bố đất đai theo vùng bị chi phối bởi các điều
kiện tự nhiên gắn với đất đai mạnh hơn, còn phân bố theo hai loại cây trồng
lại bị chi phối bởi các yếu tố về mặt xã hội mạnh hơn.
2.1. Phân bố đất nông nghiệp theo vùng kinh tế
Phân bố đất nông nghiệp theo vùng kinh tế trước hết được thể hiện theo
tính tự nhiên của đất đai. Tức là trong quỹ đất nông nghiệp của cả nước, đất
nông nghiệp thuộc phân bố theo các vùng như thế nào phụ thuộc vào đặc tính
tự nhiên của đất đai. Trong đó, các yếu tố địa hình, nông hoá, thổ nhưỡng
đóng vai trò quyết định.

Ở Việt Nam căn cứ vào các yếu tố tự nhiên của đất đai là chủ yếu,
người ta phân quỹ đất đai thành 7 vùng lãnh thổ. Đất Nhà nước phân theo 7
vùng đó như sau:
* Vùng Trung du miền núi phía Bắc:
Đất nông nghiệp có 1.201.437 ha chiếm 11,67% so với tổng quỹ đất tự
nhiên của vùng. Đất nông nghiệp ở đây chủ yếu trồng cây hàng năm (lúa rẫy,
sắn, đậu, đỗ....). Phần lớn đất nông nghiệp ở vùng này là cây công nghiệp dài
ngày (chè, cà fê, ....) và cây ăn quả. Nhờ thành tựu phát triển sản xuất lương
thực của cả nước, nhờ các cơ sở hạ tầng của vùng đang từng bước được củng
cố và xây dựng nên khả năng chuyển đổi cây trồng và khai thác nông nghiệp
của vùng còn rất lớn.
11


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
* Vùng Đồng bằng sông Hồng:
Đất nông nghiệp có 664.638 ha, chiếm 56,56% so với tổng diện tích
toàn vùng. Đất trong vùng được hình thành và bồi tụ thường xuyên bởi phù sa
của hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình nên địa hình tương đối bằng
phẳng, chất lượng đất tốt, rất phù hợp cho việc trồng lúa. Vì vậy, vùng Đồng
bằng sông Hồng được coi là vựa lúa ở các tỉnh phía Bắc. Do quá trình đô thị
hoá, dân số Đông nên đất nông nghiệp bị giảm mạnh.
* Vùng Khu Bốn cũ:
Đất nông nghiệp 676.707 ha chiếm 13,1% diện tích toàn vùng. Đất đai
ở đây chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Bởi vậy,
việc mở rộng quỹ đất nông nghiệp của vùng gắn với đầu tư xây dựng các cơ
sở hạ tầng, nhất là các cơ sở hồ, đập đã và đang trở thành cần thiết.
* Vung duyên hải miền Trung:
Đất nông nghiệp chiếm 604.956 ha chiếm 12,05% so với quỹ đất tự
nhiên của vùng. Vùng này có sự biến động đất nông nghiệp tương đối lớn

theo hướng giảm cây hàng năm, tăng các loại cây lâm nghiệp bảo vệ môi
trường. Từ năm 1980 đến 1994, đất nông nghiệp giảm 45.587 ha để chuyển
sang đất lâm nghiệp. Đất trồng cây hàng năm giảm 93.495 ha, đất bồi tụ từ
các con sông lớn đa số đất nông nghiệp là đất rẫy có độ dốc lớn, dễ bị rửa trôi
khi gặp mưa kéo dài.
* Vùng Tây Nguyên:
Đất nông nghiệp là 798.358 ha, chiếm 11,2% so với quỹ đất tự nhiên
của vùng. Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng đất của vùng Tây Nguyên là đất đỏ
bazan màu mỡ nên rất thích hợp với các loại cây công nghiệp dài ngày có giá
trị kinh tế cao như: cà fê, cao su, hạt điều, .... Đất chưa sử dụng 1.580.342 ha,
đất có khả năng nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Vì vậy, tiềm năng về nông
nghiệp ở vùng này rất lớn.
* Vùng Đông Nam Bé:

12


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
Diện tích đất nông nghiệp là 1.029.375 ha, chiếm hơn 41,22% quỹ đất
của vùng. Vùng này chủ yếu là đất bazan màu mỡ thuận lợi cho phát triển các
cây công nghiệp dài ngày và các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao. Vì vậy,
đây là một trong những vùng kinh tế trù phú, là miền đất có sức hấp dẫn đối
với những người làm nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện tại trong vùng vẫn còn
35.087 ha đất chưa sử dụng, trong đó đất có khả năng nông nghiệp chiếm tỷ
trọng đáng kể. ĐâY là nguồn lực quý giá cần được khai thác.
* Vùng Đồng bằng sông Cửu Long:
Đây là vùng đất nông nghiệp chiếm thành phần lớn đất nông nghiệp
2.620.238 ha trong tổng số 3.955.550 ha, chiếm 73,77% diện tích đất nông
nghiệp. Hệ thống đất đai của vùng này được hệ thống sông Cửu Long bồi tu
phù sa thường xuyên nên rất màu mỡ. Vì vậy, đấy được coi là vựa lúa của cả

nước, vùng có sản lượng lương thực và sản lượng lương thực hàng hoá lớn
nhất trong cả nước. Bên cạnh đó tiềm năng về đất đai của vùng cũng còn rất
lớn. Đất chưa sử dụng chủ yếu là đất nông nghiệp và được tập trung ở vùng
Đồng Tháp Mười và khu Tứ Giác Long Xuyên. Để khai thác tiềm năng này
cần đầu tư một cách đồng bộ cả về kinh tế và xã hội, từ khai hoang cải tạo đất
đến xây dựng được các kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật. Giải quyết được các
vấn đề đó việc khai thác mở ra rất lớn, vùng sản xuất lúa hàng hoá sẽ được
mở rộng.
2.2 Phân bố đất nông nghiệp theo cây trồng.
Trong tổng số 7.637.710 ha đất nông nghiệp của cả nước, đất trồng cây
hàng năm có 5.553..889 ha, đất trồng cây lâu năm chiếm 1.449.607 ha. Còn
lại là đất đồng cỏ và đất mặt nước có sử dụng vào nông nghiệp.
Trong đất trồng cây hàng năm, đất trồng lúa chiếm tỷ trọng lớn hơn cả.
Tổng diện tích trồng lúa năm 1994 là 4.230.077 ha chiếm 54,42% diện tích
đất nông nghiệp. Đất trồng lúa chủ yếu tập trung ở hai vựa lúa của cả nước là
trồng lúa ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Đất trồng
lúa của Đồng bằng sông Hồng là 581.460 ha, của Đồng bằng sông Cửu Long

13


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
là 1.957.977 ha chiếm 60,03% diện tích trồng lúa cả nước. Đây không chỉ là
vùng có diện tích lớn nhất, mà còn là vùng có điều kiện đất đai thuận lợi cho
trồng (đất phù sa màu mỡ, điều kiện tưới tiêu thuận lợi). Vì vậy, hai vùng này
có sản lượng lúa cao nhất trong cả nước.
Đứng thứ hai trong diện tích cây hàng năm là đất trồng màu và cây
công nghiệp hàng năm vào thời điểm 1994 diện tích màu và cây công nghiệp
hàng năm là 1.075.175 ha, chiếm 19,68% đất trồng cây hàng năm và 14,59%
đất nông nghiệp. Trong đất chuyên trồng màu, đất trồng ngô ngày càng tăng

và từng bước thay thế cho cây khoai lang và cây sắn. Trong đất trồng cây
công nghiệp hàng năm, đất trồng các loại đay, lạc, ... chiếm tỷ trọng đáng kể
và được phân bố chủ yếu ơr các bãi ven sông. Hai vùng có diện tích cây màu
và cây công nghiệp hàng năm lớn nhất nước là vùng miền núi và trung du
Bắc Bộ (diện tích 2.770.807 ha chiếm 25,83% tổng diện tích cây màu và cây
công nghiệp hàng năm cả nước và 27,19% diện tích đất nông nghiệp của
vùng) và vùng Đông Nam Bộ (diện tích 215.352 ha, chiếm 20,03 diện tích đất
cùng loại của cả nước và 22,552% đất nông nghiệp của vùng).
Đất trồng cây công nghiệp lâu năm như cà phê, chè, cao su, .... chiếm
tỷ trọng lớn và tập trung ở các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam
Bộ, vùng miền núi trung du Bắc Bé. Ở các vùng này đã hình thành nên các
vùng cây ăn quả nổi tiếng như bưởi, xoài, chôm chôm, (Biên Hoà, Đồng Nai,
Sông Bé, ....).

14


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VÊ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG VỀ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRONG THỜI
GIAN QUA.
1. Đường lối đổi mới của Đảng về ruộng đất ở miền Bắc (1957) Đảng ta đã
chủ trương tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp với mục tiêu xây dựng nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa gồm 2 hình thức sở hữu: toàn dân và tập thể.
Theo mô hình kinh tế hợp tác là tập thể hoá ruộng đất cùng những tư
liệu sản xuất khác đưa nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể.
Với các hợp tác xã dùa trên chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất nên
chúng ta đã làm nhanh và tốt hơn một số khâu thủy lợi, cải tạo và quy hoạch

đồng ruộng, ... trên thực tế ruộng đất lại bị lãng phí trong quản lý và sử dụng
chế độ sở hữu tập thể và mô hình hợp tác kiểu cũ đã làm cho nông dân không
thiết tha với ruộng đất lắm, không tạo ra động lực vật chất để thúc đẩy họ tích
cực sản xuất. Kiểu “Cha chung không ai khóc” dẫn đến kém hiệu quả, sản
xuất bị trì trệ do không nhận ra điểm bất hợp lý đó nên sau 1975 mô hình này
lại áp dụng vào miền Nam mà không tính đến sự khác nhau giữa nông
nghiệp và nông thôn miền Nam và miền Bắc. Vì quyền sở hữu ruộng đất
15


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá chứ không phải nền kinh tế tự cung tự
cấp như ở miền Bắc trước khi hợp tác hoá ruộng đất từ chỗ có chủ nhân cụ
thể, trực tiếp có kinh nghiệm sản xuất nay chuyển sang sở hữu tập thể dẫn
đến phát triển nông nghiệp chậm chạp , trì trệ cả khi coi nông nghiệp là hàng
đầu. Từ thực tế Đảng ta đã dẫn thấy rằng cần phải khắc phục mô hình kiểu cũ
tìm tòi các bước đi và hình thức thích hợp , phấn đấu để thoát khỏi ràng buộc
của các quan niệm lỗi thời.
Năm 1979, Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 đã cho phép xã viên
mượn đất làm vụ đông, khuyến khích nông dân tận dụng đất hoang để sản
xuất, tạo thêm sản phẩm cho xã hội. Năm 1981, Ban Bí thư TW Đảng ra chỉ
thị số 100 cho phép áp dụng rộng rãi chế độ khoán sản phẩm đến nhóm và
người lao động thực chất là đến hộ gia đình xã viên. Ruộng đất của tập thể
song hé gia đình được giao đảm bảo nhận nhiều khâu trong canh tác có thể
đầu tư thêm công sức, vật tư, kỹ thuật để tăng sản lượng. Năm 1986, Đại hội
VI đã đề ra đường lối đổi mới trong đó có đổi mới về quản lý, cơ chế khoán.
Với Nghị quyết 10 Bộ chính trị (4-1988) về đổi mới quản lý kinh tế
nông nghiệp. Ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân nhưng nông dân đã được giao
khoán ruộng đất ổn định dài hạn trong khoảng 10-15 năm. Cùng với Nghị
quyết 10 của Bộ chính trị thì tháng 3/1989, Hội nghị Trung ương VI đã tiến

thêm một bước quan trọng đó là việc xác định lại vị trí của kinh tế hộ gia
đình, vai trò quyền lợi của người lao động. Hộ gia đình được coi là đơn vị
kinh tế tự chủ. Điều đó hoàn toàn phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp
của nước ta hiện nay.
Để tiếp tục hoàn chỉnh đường lối đổi mới, Nghị quyết Hội nghị Trung
ương V và Luật đất đai 1993. Với Luật đất đai , Nhà nước đã chính thức giao
quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân (cây ngắn ngày-20 năm; cây dài
ngày-2 chu kỳ sản xuất- 50 năm). Người nông dân không chỉ được quyền sử
dụng mà còn được quyền thừa kế, thế chấp, chuyển nhượng, cho thuê đất đai .

16


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
Sự nới rộng các quyền hạn của nông dân đối với ruộng đất và việc thể
chê hoá các quyền đó bằng luật pháp Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi về
kinh tế, pháp lý và tâm lý để phát huy tiềm năng to lớn của kinh tế hộ gia
đình. Đồng thời thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nông nghiệp,
phát triển các ngành nghề nông thôn là động lực thúc đẩy nền nông nghiệp
phát triển, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo
hướng CNH-HĐH.
2. Thực trạng về quản lý, sử dụng ruộng đất hiện nay.
* Về quản lý biến động chủ sử dụng:
Hiện nay việc quản lý biến động chủ sử dụng đất được thực hiện với
kết quả rất khác nhau giữa các vùng với vùng Đồng bằng sông Hồng, Trung
du miền núi phía Bắc, ven biển miền Trung. Công tác này nhìn chung diễn ra
nền nếp và Ýt phức tạp. Riêng ở Nam Bộ là phức tạp nhất. Ở các tỉnh này
ruộng đất được chuyển nhượng, cầm cố không đủ tiền không chuộc lại. Đến
mức Nhà nước trực tiếp là chính quyền địa phương không thể kiểm soát
được.

Trong nội bộ từng vùng cũng có sự khác nhau về tình hình quản lý biến
động chủ sử dụng đất, nhìn chung ở vùng ven đô thị tình hình biến động phức
tạp hơn vùng sâu, xa.
* Về quản lý biến độn mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
Hiện nay nội dung này còn một số bất cập:
Thứ nhất: trong xu thế chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, một mặt chúng ta đang khuyến khích quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn mà xu hướng chung là tăng tỷ trọng cây công
nghiệp, cây ăn quả, các loại thuỷ hải sản cao cấp ,.... cho phù hợp với nhu cầu
của thị trường. Song mặt khác, Luật đất đai còn hạn chế việc chuyển đất trồng
lúa, trồng lương thực thành đất nuôi trồng các sản phẩm khác.
Thứ hai: trên quan điểm bảo toàn lương thực quốc gia, pháp luật đã
giới hạn việc chuyển đất trồng cây lương thực chủ yếu là đất trồng lúa sang

17


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
nuôi trồng các sản phẩm khác. Song trên quan điểm đảm bảo tăng hiệu quả
kinh tế thì ta lại khuyến khích nuôi trồng các loại sản phẩm có giá trị kinh tế
cao, đang được thị trường chấp nhận chưa có cơ chế thích hợp để giải quyết
mâu thuẫn này.
Thứ ba: chóng ta muốn quy hoạch sử dụng đất để đảm bảo lợi Ých
quốc gia cao nhất nhưng lại chưa có cơ chế để buộc các chủ sử dụng đất tuân
theo quy hoạch. Trong quyền tự do kinh doanh theo cơ chế thị trường, các
chủ sử dụng đất nông nghiệp được giao 5 quyền: chuyển nhượng, chuyển đổi,
thừa kế, thế chấp, cho thuê thì chính quy hoạch là một quá trình quản lý Nhà
nước đối với đất nông nghiệp. Song thực tế Nhà nước quy hoạch một đường
thì nông dân làm một nẻo. Điển hình là Tây Nguyên, Trung du và miền núi.
Ở Tây Nguyên, để đảm bảo cân bằng sinh thái ta chủ trương không tiếp

tục phá rừng để trồng cà phê hoặc nếu phá rừng thì chỉ nên trồng cao su- vừa
có sản phẩm như cây công nghiệp, vừa có tác dụng lâu dài như rừng. Theo
chủ trương đó đã có kế hoạch bảo vệ rừng để trồng cà phê chạy theo lợi Ých
trước mắt, bất chấp quy hoạch và lời cảnh báo về môi trường.
Còn vùng Trung du và miền núi thì diễn ra theo hai hướng:
- Hướng truyền thống lạc hậu phá rừng làm rẫy, chuyển đất lâm nghiệp
thành đất nông nghiệp.
- Hướng mới là chuyển đất trồng cây lương thực sang trồng cây ăn quả
cao cấp. Ví dụ: huyện Lục Ngạn- Bắc Giang hầu hết đất trồng khoai, sắn
trước kia nay đã trồng vải, xét về công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nông nghiệp trong nông nghiệp công tác này diễn ra rất chậm ở ngay
thời kỳ sau khi có Nghị định 64/CP ngày 27/09/1993. Nguyên nhân thì có
nhiều nhưng chủ yếu là kinh phí không đủ có một vấn đề không tốn kém
nhưng sẽ thúc đẩy nhanh và đỡ tốn kém cho quá trình cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là đổi ruộng đất cho nhau, thúc đẩy quá trình tập trung hoá
ruộng đất. Quá trình này vừa nằm trong luật pháp cho phép lại vừa phù hợp
thực tiễn cuộc sống.

18


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
Làm tốt công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tiền đề đưa
việc quản lý đất đi vào nền nếp. Cho đến nay có thể cho rằng việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là nhân tố quan trọng mà là tạo
tâm lý vững chắc cho nông dân đâù tư thâm canh nâng cao năng suất ruộng
đất.
Cho đến đầu năm 1998, nhiều tỉnh đã cơ bản hoàn thành thủ tục và cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân, nội dung này hiện nay
có thể nói đã được thực hiện tương đối tốt.

Về việc giải quyết tranh chấp:
Đây là vấn đề quan trọng trong nội dung quản lý Nhà nước về đất đai
đã được quy định trong Luật đất đai năm 1993. Từ sau khi có Luật đất đai
năm 1993 , Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, tình hình tranh chấp ruộng đất
xảy ra khá nhiều ở hầu khắp các vùng, từ đó đến nay, nhất là khi có Luật đất
đai năm 1993 các Nghị định của Chính phủ về đất nông nghiệp, đất lâm
nghiệp, đất ở, ... Đảng và Nhà nước các cấp đã nỗ lực giải quyết ở các nơi có
sự khác nhau, nhưng đều dùa trên nguyên tắc là có cơ sở pháp lý và bảo đảm
thuận tình giữa các hộ nông dân.
Cho đến nay có thể khẳng định công tác giải quyết tranh chấp đất đai
trong nông nghiệp, lâm nghiệp đã được thực hiện với kết quả tốt vừa tạo điều
kiện tiền đề để sử dụng ruộng đất đạt hiệu quả cao vừa tôn trọng các thành
qủa của các giai đoạn cách mạng về ruộng đất trước đây vừa đảm bảo ổn định
chính trị, xã hội trong nông thôn.
3. Các chính sách về quản lý và sử dụng ruộng đất
Chính sách đổi mới của Đảng và Chính phủ đã tạo ra sự chuyển biến rõ
rệt trong nền nông nghiệp phân phối và tổ chức lại đất đai , tù do hoá việc ra
quyết định sản xuất nông nghiệp mở cửa thị trường đầu vào và đầu ra. Thừa
nhận hộ nông dân là đơn vị cơ bản của sản xuất nông nghiệp. Dưới tác động
của chính sách đổi mới Luật đất đai năm 1993 ra đời đặc biệt là Luật đất đai

19


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
năm 1998 sửa đổi tuỳ theo mục tiêu cụ thể của chính sách được cụ thể hoá
dưới các dạng văn bản pháp lý được Chính phủ ban hành đến các địa phương.
Các chính sách sử dụng đất phải đảm bảo vừa phát triển về kinh tế, vừa
ổn định về xã hội. Sử dụng đầy đủ và hợp lý ruộng đất tạo ra nhiều nông sản
có chất lượng cao, giá hạ, đáp ứng đầy đủ sản lượng ngày càng tăng của dân

cư, có sản phẩm tốt để xuất khẩu tác động đến các ngành kinh tế hữu quan,
bảo vệ chất đất và ổn định môi trường.
Từ các mục tiêu kể trên các chính sách sử dụng đất nông nghiệp và bảo
vệ đất nông nghiệp gồm các loại sau đây:
+ Các chính sách xác lập về quyền lợi gắn chặt với đất đai
- Chính sách bảo vệ người nông dân có đất sản xuất ổn định lâu dài.
- Chính sách khuyến khích người trồng lúa, chính sách đền bù thoả
đáng để có thể khai hoang, thâm canh tăng vụ để bù sản lượng do mất đất
trồng lúa.
- Chính sách ưu tiên phát triển đất nông nghiệp.
- Chính sách bảo vệ và phát triển đất trồng lúa.
+ Các chính sách về nghĩa vụ của người sử dụng đất như:
- Chính sách đánh thức thích đáng khi chuyển đất nông nghiệp trồng
lúa sang mục đích sử dụng khác.
- Chính sách sử dụng đất nông nghiệp.
- Chính sách sử dụng đất đúng mđ.
- Chính sách thuế chuyển quyền sử dụng đất.
II. Các biện pháp sử dụng chủ yếu
1. Bố trí cơ cấu cây trồng.
Việc bố trí cơ cấu cây trồng sao cho hợp lý là một vấn đề quan trọng vì
cơ cấu cây trồng phụ thuộc vào điều kiện của tự nhiên như khí hậu, địa
hình, ... như vậy, vấn đề đặt ra là sử dụng hợp lý cây trồng đúng mục đích,
hiệu quả kinh tế cao phù hợp với từng điều kiện sinh thái của từng vùng.

20


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
Ở nước ta, khí hậu thay đổi rõ rệt từ Bắc vào Nam cho nên cần phải có
hình thức bố trí hợp lý bên cạnh điều kiện về khí hậu việc bố trí còn phụ

thuộc vào đặc điểm của đất nông nghiệp, chiến lược sản phẩm của Nhà nước
hay là mục tiêu phát triển của ngành.
Thực tế là vùng Tây Nguyên có khí hậu Êm áp hai mùa rõ rệt cộng với
địa thế của cao nguyên GiaLaiKonTum, Đăklăk, Lâm Đồng đều là đất đỏ
bazan màu mỡ nên bố trí trồng các cây công nghiệp như cà phê, cao su, ...
vừa đảm bảo được diện tích lâm nghiệp, ngoài ra còn bố trí trồng các cây
công nghiệp ngắn ngày như; mía đường, tiêu. Đối với vùng Đông Nam Bộ
cũng vậy đất chủ yếu là bazan, khí hậu Êm áp phù hợp với cây công nghiệp
đặc biệt là cao su. Đây là vùng có diện tích trồng cao su lớn nhất trong nước.
Đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đất đai ở đây màu mỡ, khí
hậu cận nhiệt đới Êm áp, thuận lợi cho việc trồng lúa nước và các cây ăn quả
cao cấp như nhãn, xoài, ... ngoài ra còn là vùng mặt nước nuôi trồng thuỷ sản
thuận lợi.
Vùng Duyên hải miền Trung có khí hâụu khắc nghiệt nên cần bố trí có
hệ thống rừng phòng hộ để đề phòng thiên tai và sự cố môi trường, trồng các
loại cây lâu năm.
Ở vùng khu Bốn cũ, vùng này khí hậu cũng thay đổi theo mùa lại chịu
ảnh hưởng khắc nghiệt giữa hai vùng Nam- Bắc nên thường hay có thiên tai
lũ lụt, do đó cần bố trí cây trồng kèm lẫn rừng phòng hộ, chú ý có thể xen
canh gối vụ, ngoài hai vụ lúa mùa và chiêm có thể bố trí được một vụ hoa
màu lương thực như rau mùa đông, khoai Đông xuân, ngô, ...
Vùng Đồng bằng sông Hồng ngoài chịu ảnh hưởng của thời tiết địa
hình ở đây cũng phức tạp, bên cạnh diện tích đất trồng lúa còn có diện tích
đất bãi trồng màu, các cây lương thực ngô, khoai, ... ngoài ra còn vùng rộng
lớn đất chiêm trũng. Vì vậy việc bố trí cây trồng ở đây rất đa dạng tuỳ thuộc
vào từng địa phương cũng như vùng ven thành phố Hà Nội nhu cầu cung cấp
cho thành phố về rau màu là rất nhiều nên cần bố trí trồng cây rau màu.

21



Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc với diện tích rộng lớn đất đai đa
dạng nên việc bố trí cây trồng ở đây cũng phụ thuộc vào loại chất đất đai và
điều kiện phù hợp của từng loại cây các tỉnh Thái Nguyên, Yên Bái có diện
tích đất xám bạc màu, thời tiết bốn mùa rõ rệt phù hợp để trồng các cây công
nghiệp chè, vùng miền núi Sơn La có thời tiết phù hợp với các loại cây ăn quả
như mận, xoài, đào, ... Vùng miền núi Lạng Sơn, Bắc Giang phù hợp với cây
ăn quả: vải, mận, na, ... như vậy việc bố trí cơ cấu cây trồng trong cả nước
sao cho phù hợp với lợi thế của từng vùng cũng như là việc phát triển nông
nghiệp cả nước là rất quan trọng là một khâu trong việc quản lý nông nghiệp
nước ta.
2. Thâm canh.
Đây là biện pháp cơ bản lâu dài để phát triển nền nông nghiệp theo
chiều sâu, quy mô công nghiệp hiện đại thực hiện thâm canh là khai thác
“Khả năng sinh lời vô hạn của ruộng đất”. Tuy nhiên, khai thác đặc điểm của
ruộng đất bằng thâm canh phải coi trọng tính hiệu quả và phải gắn với việc
cải tạo, bảo vệ, bồi dưỡng đất.
Trong điều kiện của sản xuất hàng hoá để thâm canh có hiệu quả cần
hiểu rõ mối quan hệ giữa các yếu tố của quá trình sản xuất của từng cây trồng
cụ thể. Phải xem xét và tính toán trạng thái và hiệu quả kinh tế của từng
hướng đầu tư cho từng yếu tố và tập hợp các yếu tố.
Khi đầu tư các yếu tố vật chất: phân bón, giống, thuốc trừ sâu,... cần
lưu ý đến đặc điểm sinh học của cây trồng đảm bảo sản xuất nông sản có chất
lượng cao đảm bảo về vệ sinh an toàn thực phẩm, tạo lòng tin với người tiêu
dùng. Trên thực tế, ở nước ta nhiều nơi nông dân vẫn canh tác theo kiểu
truyền thống chưa có kỹ thuật cũng như áp dụng các thành tựu khoa học mới
như giống, phân, ... nên sản phẩm thu được với kết quả thấp ở đây nói chủ
yếu là vùng miền núi và trung du có đồng bào dân téc thiểu số.
3. Về khai hoang.


22


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
Khai hoang là quá trình đầu tư cải tạo đất hoang (đất chưa sử dụng)
biến đất đai là sản phẩm của tự nhiên thành sản phẩm của xã hội để đưa vào
sản xuất nông nghiệp.
Đối với nước ta khai hoang không những nhằm sử dụng đầy đủ và hợp
lý đất đai để tăng thêm sản phẩm cung cấp cho xã hội, mà còn có ý nghĩa to
lớn như góp phần tích cực vào cải thiện tình hình phân bố lực lượng sản xuất,
lực lượng lao động giữa các vùng, xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện,
sản xuất nhiều nông sản hàng hoá, nâng cao đời sống cho nhân dân làm thay
đổi bộ mặt kinh tế văn hoá ở vùng dân téc Ýt người, tăng cường củng cố quốc
phòng.
Nhận thức được vấn đề trên, trước sức Ðp về việc tăng dân số, trong
nhiều năm qua, đất nước ta có nhiều cố gắng trong việc tổ chức khai hoang
xây dựng vùng kinh tế mới như Tây Nguyên, Sông Bé, Đồng bằng sông Cửu
Long, Sơn La, .... Vì vậy công tác khai hoang đã thu được những kết quả nhất
định, diện tích đất nông nghiệp ngày càng tăng, nhiều vùng kinh tế mới đã
hình thành, bộ mặt nông thôn miền núi đã có nhiều thay đổi.
Trong khai hoang phải chú ý đến tính hiệu quả về kinh tế, chọn khu
vực hợp lý đặc biệt để khai hoang, phải chú ý đến môi trường để tránh những
hậu quả xấu.
4. Về tăng vụ.
Tăng vụ là tăng thêm số lần trồng trọt trên diện tích ruộng đất, trên
thực tế tăng vụ vừa thực hiện khai thác đất đai theo chiều rộng và theo cả
chiều sâu vì nó vừa đưa diện tích vào sản xuất tăng đồng thời đầu tư thêm các
yếu tố vật chất để khai thác đất đai trong trường hợp này tăng vụ chính là
hình thức thâm canh trên diện tích hiện có. Vì vậy tăng vụ chỉ có ý nghĩa thực

tế khi tổng giá trị lâm sản trên một đơn vị canh tác được tăng thêm. Tăng vụ
chính là biện pháp để tăng thêm sản phẩm, tiết kiệm được quỹ đất đai hạn
hẹp.

23


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
Để tăng vụ đạt hiệu quả cao cần phải giải quyết các vấn đề như sử dụng
linh hoạt các giống cây ngắn ngày có năng suất cao và chất lượng cao, ổn
định, chọn loại cây trồng thích hợp đảm bảo các điều kiện vật chất kỹ thuật,
phòng trừ dịch bệnh.
5. Kết quả sử dụng đất nông nghiệp.
Với các chính sách về đất nông nghiệp của Nhà nước, các biện pháp
quản lý hợp lý cũng như các biện pháp sử dụng khai thác có hiệu quả đất
nông nghiệp đã đưa nước ta từ một nước luôn thiếu lương thực phải nhập
khẩu và xin viện trợ đã trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới
sau Thái Lan (khối lượng xuất khẩu năm 1999 là 4,560 triệu tấn). Nói chung
về lương thực đã cơ bản ổn định, việc sử dụng đất nông nghiệp đang có xu
hướng ngày càng hiệu quả, chúng ta đang từng bước chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, đầu tư vào những loại cây có giá trị kinh tế cao, hình thành các vùng
chuyên cung cấp nguồn nguyên, nhiên vật liệu cho sản xuất công nghiệp.
Ví dô: cao su, mía,cà phê, ... nhưng vẫn đảm bảo đất trồng lúa là 4,3
triệu ha.
Có thể tổng hợp kết quả sử dụng đất nông nghiệp như sau:
Đất nông nghiệp đến năm 2000:
Đơn vị: 1000 ha.
Cả

TDMN


ĐBS

KBC

nước
8.072,6

1.471,8

H
727,1

761,9

nghiệp
Đất trồng trọt
Cây hàng năm
- Trồng lúa

7.367,8
5.809,2
4.332,5

1.177,0
972,7
595,8

675,9 716,2
644,8 528,0

588,3 422,3

-

1.476,7

376,9

Đất

nông

Cây

công

nghiệp
Cây lâu năm
Đất cá
Mặt nước NN

56,5

TN

ĐNB

594,0 727,9 1.032,5

SCL

2.727,4

556,7 673,3 1.007,9 2.561,8
474,7 333,2
569,9 2.215,9
266,4 156,
293,7 2.009,6
208,3

4
176,

276,2

260,3

8
1.558,6
204,3
31,1 118,2
82,0 340,1
438,0
396,2
248,7
56,4
27,2 48,3
15,6
308,6
46,2
51,2

20,3
10,1
6,3
9,0
Nguồn: Viện điều tra quy hoạch đất đai; Tổng cục Địa chính.

345,9
165,6

24

175,7

DHMT


Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com
Kết quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 3 năm từ 1997 đến năm 1999:
Đơn vị tính: triệu tấn.
Năm

1997

1998

1999

Quý
I
II

III
IV
Tổng khối lượng
Giá trị (triệu USD)

0,472
1,376
1,082
0,750
3,680
900

1,383
1,237
0,647
0,703
3,790
1.005

0,850
1,370
1,545
0,795
4,560
1.035

III. Những tồn tại và nguyên nhân đối với việc sử dụng đất nông nghiệp ở
nước ta.
1. Những tồn tại.
Từ khi có chính sách đổi mới của Đảng về ruộng đất cũng như việc ra

đời của Luật đất đai 1993 và sửa đổi 1998 đã thúc đẩy nền nông nghiệp nước
ta tiến lên một bậc từ một nước thiếu lương thực đã trở thành một nước có
sản lượng xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới làm cho bộ mặt của nền
kinh tế nông nghiệp nông thôn thay đổi rõ rệt, tạo ra nhiều ngành nghề trong
nth, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tận dụng tốt nguồn lực trong nông
nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm cho xuất khẩu thúc tiến quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh thành tựu đạt được còn tồn tại những
khó khăn do cơ chế thị trường tạo ra, đó là:
- Do chạy theo lợi Ých kinh tế trước mắt mà bất chấp hậu quả sau đó
cho nên nhiều vùng đất có rừng đã bị chặt phá để làm rẫy, làm nương, trồng
các cây lương thực, trồng cây có giá trị kinh tế cao như là cà phê, hạt tiêu, ...
đã làm cho diện tích rừng bị chặt phá đặc biệt là rừng đầu nguồn. Nên hậu
quả về sinh thái và thực tế đã cho thây như lũ quét ở Lai Châu, Bắc Cạn, lũ
lụt miền Trung, hạn hán ở Bình Định, Phú Yên năm 1998.
- Việc áp dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp,
đưa giống cây trồng có hiệu quả và năng suất cao, áp dụng các công nghệ
sinh học và vi sinh vào nông nghiệp vừa bảo đảm năng suất, vừa ổn định môi
25


×