Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

VẤN đề CẠNH TRANH và độc QUYỀN TRONG nền KINH tế TOÀN cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.86 KB, 18 trang )

Tiểu luận Kinh tế chính trị

Khoa Lí luận chính trị

Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội

Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu

Vấn đề cạnh tranh
và độc quyền trong
nền kinh tế toàn cầu
Ng uyễ n Thị Hải Yế n
Lớ p Anh 1 Khố i 1 Khó a
51
Chuyê n ng ành Kinh tế
Đố i ng o ại
MS S V: 1211110764
GVHD: ThS Ng uyễ n Thị
Quỳnh Hà
Hà Nộ i, năm 2012
Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com


Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
MỤC LỤC
1.1 Tại sao xuất hiện cạnh tranh?...........................................................................................................4
1.2 Thế nào là cạnh tranh?...................................................................................................................4

Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com



Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Tiếp cận ở góc độ đơn giản, mang tính tổng quát thì cạnh tranh là hành
động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục
đích giành được sự tồn tại, sống còn, lợi nhuận, địa vị, các phần thưởng... Bất
kỳ lĩnh vực nào cũng có cạnh tranh. Không có cạnh tranh sẽ không sinh tồn và
phát triển. Trong kinh tế chính trị học thì cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế
giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều
kiện thuận lợi để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Thực hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam phải chấp nhận những qui luật của kinh tế
thị trường, trong đó có cạnh tranh. Từ hơn mười năm nay, các hoạt động cạnh
tranh của các thành phần kinh tế ở Việt Nam đă tái xuất hiện và dần trở lên
căng thẳng, quyết liệt. Ngày nay với xu hướng toàn cầu hoá, các nước trên thế
giới đang xích lại gần nhau, Việt Nam đã xúc tiến tốt công tác hội nhập đặc
biệt là gia nhập WTO. Điều đó đã tạo cho các doanh nghiệp nhiều thuận lợi để
mở rộng thị trường, huy động vốn từ nước ngoài để phát triển công nghệ.
Bên cạnh đó chúng ta cũng đang đối mặt với không ít khó khăn, nhất là
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn yếu kém. Cùng với việc tham
gia thị trường khu vực và quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam chịu sự cạnh
tranh gay gắt của các tập đoàn tư bản nước ngoài. Trong bối cảnh như vậy,
việc học hỏi kinh nghiệm về cạnh tranh và chống độc quyền của các nước có
nền kinh tế thị trường phát triển để vận dụng phù hợp vào điều kiện riêng biệt
của Việt Nam là một việc cần thiết.
Vậy thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở nước ta hiện nay như thế nào?
Và nước ta cần làm gì để duy trì cạnh tranh và kiểm soát độc quyền? Chúng ta
hãy cùng tìm hiểu cụ thể sau đây.

Kho tài liệu miễn phí Ketnooi.com



Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
PHẦN 2: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN

1. Cạnh tranh
1.1 Tại sao xuất hiện cạnh tranh?
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá bao
gồm các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất. Nền kinh tế thị
trường là hình thức phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá, mà ở đó mọi yếu
tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất đều được qui định bởi thị trường.
Sự trao đổi hàng hoá phát triển rất sớm trong lịch sử loài người, nhưng
chỉ đến khi xuất hiện trao đổi thông qua vật ngang giá là tiền tệ cạnh tranh mới
xuất hiện. Khi nghiên cứu sâu về nền sản xuất TBCN và cạnh tranh TBCN,
Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản của sự cạnh tranh là quy luật điều chỉnh
tỷ suất lợi nhuận, qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật
này dựa trên sự chênh lệch giữa giá trị và chi phí sản xuất và khả năng có thể
bán hàng hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận. Ngày nay,
trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh vẫn là điều kiện, yếu tố kích thích
kinh doanh, thúc đẩy sản xuất và sự phát triển của xã hội nói chung.
1.2 Thế nào là cạnh tranh?
Cạnh tranh phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá
tư bản chủ nghĩa. Khái niệm cạnh tranh được nhiều tác giả trình bày dưới
nhiều góc độ khác nhau trong các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh
tế xã hội. Thuật ngữ “Cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng La Tinh với nghĩa
chủ yếu là sự đấu tranh, ganh đua giữa các đối tượng cùng phẩm chất, cùng
loại, giá trị nhằm đạt được những ưu thế, lợi thế, mục tiêu xác định.
Theo Samuelson: Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh
với nhau để giành khách hàng. Theo Mác “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu

Nguyễn Thị Hải Yến

Page 4 of 18


Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Như
vậy, hiểu theo một nghĩa chung nhất, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế trong việc giành giật thị trường và khách
hàng và các điều kiện thuân lợi trong các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình cạnh tranh các nguồn lực của xã hội được chuyển từ nơi
sản xuất kém hiệu quả đến nơi hiệu quả hơn. Cạnh tranh có thể được xem là
quá trình tích luỹ về lượng để thực hiện các bước nhảy thay đổi về chất. Mỗi
bước nhảy thay đổi về chất là mỗi nấc thang của xã hội, làm cho xã hội phát
triển đi lên, tốt đẹp hơn.. Quá trình duy trì sức cạnh tranh của doanh nghiệp là
quá trình lâu dài, nếu không nói vĩnh viễn. Bất kỳ doanh nghiệp nào tham gia
hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh.
Đây là một điều tất yếu và là đặc trưng cơ bản nhất của cơ chế thị trường. Nếu
như lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động
sản xuất kinh doanh thì cạnh tranh buộc họ phải tiến hành một cách có hiệu
quả nhất. Ở Việt Nam, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, cạnh tranh được
thừa nhận là một quy luật kinh tế khách quan và được coi như là một nguyên
tắc cơ bản trong tổ chức điều hành kinh doanh trong từng doanh nghiệp.
1.3 Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1.3.1 Đối với doanh nghiệp
Cạnh tranh là cuộc chạy đua khốc liệt mà các doanh nghiệp không thể
lẩn tránh và phải tìm mọi cách để vươn lên, chiếm ưu thế. Cạnh tranh gây nên
sức ép cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Chỉ khi có sự cạnh
tranh thực sự thì các doanh nghiệp mới có sự đầu tư và nhờ đó sản phẩm hàng

hoá đa dạng và chất lượng tốt hơn. Cạnh tranh cũng tạo ra môi trường cho
doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, tăng tính chủ động sáng tạo, tạo ra được
các doanh nghiệp mạnh hơn, một đội ngũ những người làm kinh doanh giỏi.
Nguyễn Thị Hải Yến

Page 5 of 18


Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
1.3.2 Đối với người tiêu dùng
Nhờ có cạnh tranh, người tiêu dùng nhận được các dich vụ ngày càng
đa dạng, phong phú hơn. Chất lượng của dịch vụ được nâng cao trong khi đó
chi phí bỏ ra ngày càng thấp hơn. Hàng hoá sẽ có chất lượng ngày càng tốt
hơn, mẫu mã ngày càng đẹp và phong phú hơn, và đáp ứng tốt những yêu cầu
của người tiêu dùng trong xã hội. Người tiêu dùng có thể dễ dàng trong việc
lựa chọn các sản phẩm phù hợp với túi tiền và sở thích của mình. Cạnh tranh
làm quyền lợi của người tiêu dùng được tôn trọng và quan tâm tới nhiều hơn.
1.3.3 Đối với nền kinh tế - xã hội
Cạnh tranh điều tiết cung, cầu hàng hoá trên thị trường, thúc đẩy việc
ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Khi lợi nhuận của các
doanh nghiệp tăng lên kích thích các doanh nghiệp nâng cao năng suất lao
động, làm tăng thêm vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực
sản xuất của toàn xã hội. Đứng ở góc độ lợi ích xã hội, cạnh tranh là một hình
thức mà Nhà nước sử dụng để chống độc quyền, tạo cơ hội để người tiêu dùng
có thể lựa chọn được những sản phẩm có chất lượng tốt, giá rẻ.
Cạnh tranh cũng giúp phân bổ lại nguồn lực của xã hội một cách hiệu
quả nhất, đem lại lợi ích cho xã hội cao hơn. Nếu cứ để cho các doanh nghiệp
kém hiệu quả sử dụng các loại nguồn lực thì sẽ lãng phí nguồn lực xã hội
trong khi hiệu quả đem lại không cao, chi phí cho sản xuất và giá trị hàng hoá
tăng lên không cần thiết. Như vậy, sự phá sản của các doanh nghiệp không

hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực. Muốn có hiệu quả sản xuất của xã hội cao
chúng ta phải chấp nhận sự phá sản của những doanh nghiệp yếu kém. Sự phá
sản này không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà là sự huỷ diệt sáng tạo.
Như vậy cạnh tranh là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một
cách hợp lý giữa lợi ích doanh nghiệp và lợi ích xã hội. Ở đâu thiếu cạnh tranh
hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ và kém phát triển.
Nguyễn Thị Hải Yến

Page 6 of 18


Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
2. Độc quyền
2.1 Thế nào là độc quyền
Một thị trường được xem là độc quyền khi chỉ có một nhà cung ứng.
Độc quyền trong kinh doanh là việc một hay nhiều tập đoàn kinh tế với những
điều kiện kinh tế chính trị, xã hội nhất định khống chế thị trường sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Một ngành được xem là độc quyền hoàn
toàn khi nó thoả mãn hai điều kiện sau:
- Những đối thủ cạnh tranh không thể gia nhập ngành.
- Không có những sản phẩm thay thế tương tự.
Trước tiên, có những thị trường mà cạnh tranh không đem lại ý nghĩa
kinh tế gọi là "độc quyền tự nhiên", trong đó lợi ích của việc cạnh tranh không
đáng với cái giá phải bỏ ra. Chúng ta không muốn các công ty nước đào các
đường ống dẫn dưới các phố để những người tiêu dùng có thể chọn lựa nhà
cung cấp. Những lĩnh vực này thường do nhà nước quản lý hoặc điều tiết. Mặt
khác, một đất nước không thể lúc nào cũng tự có khả năng ủng hộ thị trường
cạnh tranh trong một số lĩnh vực nhất định. Costa Rica không bao giờ có ba
nhà sản xuất thép, hay Croatia không bao giờ có ba hãng truyền hình độc lập.
Trong khi đó, các doanh nghiệp luôn muốn tự quyết định đến việc sản xuất và

tiêu thụ hàng hoá của mình. Nhưng cạnh tranh trên thị trường không cho phép
họ làm vậy, họ sẽ cố gắng vô hiệu hoá cạnh tranh. Họ thích có cạnh tranh chỉ
khi đóng vai trò người mua trên thị trường và độc quyền ra đời để đáp ứng yêu
cầu đó của họ.
2.2 Các nguyên nhân xuất hiện độc quyền:
Nguyên nhân chủ yếu xuất hiện độc quyền ở một ngành nào đó là do
các doanh nghiệp khác không thể tồn tại hay không thể gia nhập vào ngành
đó. Những hàng rào ngăn cản sự gia nhập ngành là nguồn gốc của sự độc
quyền. Chúng ta có thể phân loại ra những loại rào cản sau:
Nguyễn Thị Hải Yến

Page 7 of 18


Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
2.2.1 Chi phí sản xuất
Những doanh nghiệp có quy mô lớn thường là những doanh nghiệp sản
xuất với chi phí thấp hơn những doanh nghiệp khác nhờ vào kinh nghiệm, tính
kinh tế của quy mô,... Do đó, những doanh nghiệp lớn có khả năng loại trừ
những doanh nghiệp khác ra khỏi ngành bằng cách cắt giảm giá (mà vẫn có
thể thu được lợi nhuận), từ đó tạo ra thế độc quyền cho mình. Một khi vị thế
độc quyền được thiết lập, sự gia nhập ngành của các doanh nghiệp khác rất
khó khăn và sẽ dễ dàng bị nhà độc quyền loại khỏi thị trường.
2.2.2 Pháp lý
- Pháp luật bảo hộ bằng phát minh, sáng chế. Bằng phát minh, sáng chế được
pháp luật bảo vệ là một trong những nguyên nhân tạo ra độc quyền vì luật bảo
hộ bằng sáng chế chỉ cho phép một nhà sản xuất sản xuất mặt hàng vừa được
phát minh và do vậy họ trở thành nhà độc quyền.
- Pháp luật bảo hộ những ngành có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.Các ngành
công nghiệp công ích như điện, nước, thông tin liên lạc, một số kênh phát

thanh, truyền hình, v.v. sẽ được bảo hộ hay độc quyền bởi nhà nước vì chúng
có vai trò quan trọng đối với an ninh quốc gia
2.2.3 Xu thế sát nhập của các công ty lớn:
- Áp lực của việc tìm kiếm khách hàng: Việc sáp nhập của các công ty sẽ giúp
mở rộng thị trường cho từng công ty, tận dụng được mạng lưới phân phối có
sẵn của mình và những công ty trong liên minh để nâng cao thị phần và chiếm
lĩnh thị trường. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi hình thành vị thế độc quyền.
- Giảm chi phí sản xuất: Việc sát nhập làm mở rộng thị trường nên có thể làm
tăng quy mô sản xuất cho từng doanh nghiệp. Điều này có thể tạo ra tính kinh
tế nhờ quy mô của quá trình sản xuất. Do vậy, sự sát nhập có thể giúp doanh
nghiệp sử dụng tài nguyền về nhân lực, tiền của,… hiệu quả hơn.
2.2.4 Tình trạng kém phát triển của thị trường:
Nguyễn Thị Hải Yến

Page 8 of 18


Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
Sự kém phát triển của thị trường sẽ dẫn đến hàng hoá không được lưu
thông một cách thông suốt cho nên nhà cung ứng không có điều kiện cung ứng
hàng hoá cho một thị trường nào đó mà các nhà cung ứng khác không thể với
tới thì sẽ trở thành độc quyền trên thị trường đó.
2.3 Hậu quả của độc quyền
Độc quyền trong kinh doanh dù hình thành và tồn tại bằng cách nào
cũng đều gây hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế. Độc quyền dẫn đến hình thành
giá cả độc quyền, giá cả lũng đoạn ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng.
Trong một số trường hợp nó cản trở sự phát triển khoa học kĩ thuật, làm chậm
và lãng phí các nguồn lực xã hội. Sự phục vụ của người tiêu dùng nói riêng và
cho xã hội nói chung kém hiệu quả hơn so với cạnh tranh tự do. Độc quyền
thường làm cho xã hội luôn luôn ở tình trạng khan hiếm hàng hoá, sản xuất

không đáp ứng được nhu cầu ảnh hưởng đến nhịp độ tăng trưởng kinh tế.
Độc quyền hình thành biểu hiện sự thất bại của thị trường. Để có sự
cạnh tranh hoàn hảo, nhiều quốc gia đã coi chống độc quyền và tạo nên cạnh
tranh hoàn hảo là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà nước. Để tạo nên
cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh thì cần phải có
những điều kiện nhất định.
II. THỰC TRẠNG CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG

1. Thực trạng trên thế giới
Cạnh tranh bao giờ cũng mang tính sống còn, gay gắt và nó còn gay gắt
hơn khi cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Rất nhiều nước trên thế giới đã áp
dụng quy luật cạnh tranh hiệu quả và đạt được nhiều thành tựu. Hiện nay có
nhiều doanh nghiệp của nhiều quốc gia khác nhau với những đặc điểm và lợi
thế riêng đã tạo ra một sức ép cạnh tranh mạnh mẽ, không cho phép các doanh
nghiệp hành động theo ý muốn của mình mà buộc doanh nghiệp phải quan
Nguyễn Thị Hải Yến

Page 9 of 18


Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
tâm đến việc thúc đẩy khả năng cạnh tranh của mình theo hai xu hướng: Tăng
chất lượng của sản phẩm và hạ chi phí sản xuất.
Vì tầm quan trọng của các vấn đề cạnh tranh trong thương mại quốc tế,
tại Hội nghị Singapore năm 1996, WTO đã quyết định thành lập Ban công tác
nghiên cứu mối tương tác giữa thương mại và chính sách cạnh tranh. Tuy
nhiên, do quan điểm trái ngược nhau giữa Mỹ, Cộng đồng Châu Âu (EC) và
các nước đang phát triển về xây dựng và phát triển pháp luật cạnh tranh, vấn
đề cạnh tranh tạm thời bị đưa ra khỏi chương trình đàm phán của WTO.

Mặt khác ở nhiều nước đang phát triển, nền kinh tế với khả năng cạnh
tranh còn nhiều hạn chế vẫn chưa đem lại hiệu quả thuyết phục. Việt Nam, sau
khi chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO ngày 11/1/2007, thì việc
nghiên cứu các quy định của WTO về cạnh tranh cũng như các vụ tranh chấp
liên quan là rất cần thiết, nhằm có thể vận dụng các quy định để bảo vệ doanh
nghiệp Việt Nam cũng như hoàn thiện pháp luật cạnh tranh quốc gia .
2. Thực trạng ở Việt Nam
Hiện nay việc nhận thức về cạnh tranh và độc quyền kinh doanh ở nước
ta chưa nhất quán, chưa nhận thấy vai trò quan trọng của nhà nước trong nền
kinh tế nên chưa có quan điểm dứt khoát. Nhà nước chưa có những qui định
cụ thể, những cơ quan chuyên trách theo dõi giám sát các hành vi liên quan
đến cạnh tranh và độc quyền. Do đó mà thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở
Việt Nam còn nhiều bất cập.
2.1 Tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng
Các doanh nghiệp nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi như: ưu đãi về
vốn đầu tư, thuế,… tập trung trong tay một lượng lớn các ngành nghề quan
trọng: điện, nước, dầu lửa, giao thông vận tải…, còn các doanh nghiệp tư nhân
không được coi trọng. Tình trạng duy trì ưu đãi các DN nhà nước và tài trợ
cho các tập đoàn kinh doanh quốc doanh đầu tư vào các dự án không có hiệu
Nguyễn Thị Hải Yến

Page 10 of 18


Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
quả kinh tế đã dẫn tới trong khi tỉ lệ tăng trưởng GDP của VN ở mức 7,4% thì
tỉ lệ tăng trưởng kinh tế tính trên vốn đầu tư của VN suy giảm khoảng 25%
trong các năm gần đây. Theo UNDP, trong vài năm tới nếu tiếp tục tập trung
vốn đầu tư cho các DN nhà nước các ngành độc quyền thì VN không thể có đủ
khả năng cung cấp các dịch vụ công cộng cho thành phố và nông thôn .

Các doanh nghiệp nước ngoài thì hoạt động theo qui chế riêng, không
được ưu đãi từ nhà nước. Điều này gây thiệt hại lớn về kinh tế, bởi một số
doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả, trông chờ vào nhà nước gây ra lãng
phí nguồn lực xã hội, trong khi các công ty tư nhân hoạt động năng nổ và hiệu
quả hơn. Ngoài ra do những qui định không hợp lí trong hoạt động của các
doanh nghiệp nước ngoài gây nên sự e ngại về đầu tư vào nước ta của các
công ty nước ngoài.
2.2 Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Một số doanh nghiệp thông đồng câu kết với nhau nhằm tăng sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong hội, loại bỏ các doanh nghiệp khác bằng
cách ngăn cản không cho tham gia hoạt động kinh doanh, hạn chế việc mở
rộng hoạt động, tẩy chay không cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ. Các doanh
nghiệp thoả thuận với nhau phân chia thị trường làm sự lưu thông hàng hoá
trên thị trường bị gián đoạn, thị trường trong nước bị chia cắt. Sự câu kết giữa
các doanh nghiệp dẫn tới việc độc quyền một số mặt hàng trong một thời gian
nhất định làm giá một số mặt hàng tăng cao. Ví dụ như thuốc tân dược giá đắt
gấp 3 lần so với mặt hàng cùng loại ở nước ngoài, gây thiệt hại cho người tiêu
dùng, triệt tiêu động lực cạnh tranh.
Hành vi lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp để chi phối thị trường. Các
công ty này dựa vào thế mạnh của mình, sử dụng các biện pháp cạnh tranh
không lành mạnh để loại trừ đối thủ cạnh tranh, thao túng thị trường. Sự lạm
dụng ưu thế của doanh nghiệp dẫn đến việc áp dụng các điều kiện trong sản
Nguyễn Thị Hải Yến

Page 11 of 18


Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp yếu hơn và chi phối họ. Hơn nữa
việc còn hạn chế khả năng lựa chọn của người tiêu dùng, khả năng kinh doanh

của các doanh nghiệp thành viên tham gia kinh doanh trong các lĩnh vực khác.
Hiện nay nước ta chưa có khung pháp lí hoàn chỉnh cho cạnh tranh nên
việc xác định, xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là khó khăn.
Điều đó tạo điều kiện cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng
phát triển. Một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: Nạn hàng giả,
hàng nhái, hàng kém chất lượng được tung ra thị trường. Các hình thức quảng
cáo gian dối, thổi phồng ưu điểm của hàng hoá mình làm giảm ưu điểm của
các hàng hoá khác cùng loại, rồi đưa ra những mức giá cao hơn so với mức giá
thực tế của sản phẩm. Các hành vi thông đồng với cơ quan quản lý nhà nước
để cản trở hoạt động của các đối thủ trong các ký kết hợp đồng, hối lộ các giao
dịch kinh tế, lôi kéo lao động lành nghề, những chuyên gia giỏi của các doanh
nghiệp Nhà nước một cách không chính đáng còn phổ biến trong nền kinh tế.
2.3 Độc quyền của một số công ty.
Với ưu thế độc quyền, nhiều công ty đã định ra những sản phẩm mà họ
sản xuất tạo ra sự bất bình đẳng giữa những người kinh doanh với nhau trên
thị trường. Ví dụ: cùng một loại hàng hoá dịch vụ tổng công ty áp đặt nhiều
giá khác nhau đối với từng loại khách hàng. Cạnh tranh trong nội bộ tổng
công ty cũng bị hạn chế. Được sự bảo hộ của chính phủ, nhiều tổng công ty
hoạt động trì trệ, ỷ lại gây tốn kém, lãng phí cho xã hội.
Vấn đề là độc quyền hiện nay ở Việt Nam chủ yếu là độc quyền nhà
nước, các công ty tư nhân chưa có khả năng và tiềm lực kinh tế để chiếm vị trí
thống lĩnh hay độc quyền trong các ngành kinh tế chính. Bên cạnh đó, cùng
với quá trình mở cửa thị trường thông qua việc ký kết và gia nhập các hiệp
định thương mại song phương và đa phương, đã và sẽ xuất hiện các công ty đa
quốc gia hoạt động tại Việt Nam. Những công ty này, với sức mạnh kinh tế
Nguyễn Thị Hải Yến

Page 12 of 18



Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
của mình, có khả năng tạo lập được vị thế độc quyền và các doanh nghiệp nội
địa Việt Nam với tiềm lực hạn chế đang bị loại dần khỏi đời sống kinh tế.
Có thể minh hoạ thông qua các ví dụ sau đây:
Độc quyền nhà nước: (Điện, nước máy, bưu chính viễn thông...) Bưu điện
Việt Nam độc quyền cung cấp dịch vụ điện thoại quốc tế. Hệ quả: cước phí
quá cao (ví dụ từ Việt Nam sang Hoa Kỳ giá 3,00 USD/phút; giá fax quốc tế
là 75.000 VND/trang. Giá dịch vụ tương tự của AT &T (Hoa Kỳ ) là 1,19
USD cho phút đầu tiên và 0.85 USD cho các phút tiếp theo)
Độc quyền hành chính (địa phương hoặc ban ngành) Bia Hà Nội muốn mở
đại lí tại Hà Tĩnh đăng kí kinh doanh sở tại cho biết rằng địa phương đang
thực hiện khẩu hiệu "Người Hà Tĩnh dùng bia Hà Tĩnh", ở các tỉnh thành khác
đều có những hạn chế gia nhập thị trường do các cơ quan hành chính đặt ra.
Phá giá độc quyền: Thương lái Việt Nam nhập trứng gà từ Trung Quốc với
giá thành 200 đ/quả; trong khi đó giá thành sản xuất bình thường ở
Việt Nam là 500 đ/quả.
Đại lí loại trừ: Một số đại lí chỉ bán hàng cho P&G; không được bán Daso,
Tico; một số hàng quán đại lí cho bia Tiger không bán bia Hà Nội.
2.4 Độc quyền tự nhiên:
Độc quyền tự nhiên tồn tại trong những ngành kết cấu hạ tầng đòi hỏi
vốn đầu tư lớn mà lợi nhuận đem lại chậm và không đáng kể. Trong những
ngành kinh tế quan trọng, độc quyền cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến chiến lược
phát triển kinh tế của đất nước như: Điện, nước, dầu khí. Các doanh nghiệp
này kinh doanh theo mô hình khép kín theo chiều dọc vừa thực hiện các khâu
đầu vừa thực hiện các khâu cuối. Do đó nên hạn chế cạnh tranh hay dường
như không có đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Do vậy các tổng công ty có
thể đưa ra những mức giá chung cao hơn so với mức giá thực tế của sản phẩm
để thu được lợi nhuận siêu ngạch cao. Điều này làm cho người tiêu dùng mất
Nguyễn Thị Hải Yến


Page 13 of 18


Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
nhiều chi phí hơn để sử dụng các hàng hoá dịch vụ trong khi chất lượng không
tương xứng. VD: giá điện ở Việt Nam là 0,07USD/kwh so với Thái Lan là
0,04 USD, phí vận hành, cảng đối với 1 vạn tấn ở cảng Sài Gòn là
40.000USD, cảng Bangkok là 20.000USD, cước viễn thông từ Hà Nội gọi đến
Tokyo hết 7,92USD/3phút, từ Bangkok hết 2,48USD.
2.5 Các thực trạng khác
Nhà nước ta chưa có quy định cụ thể và các cơ quan chuyên trách theo
dõi, giám sát các hành vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Chưa có
những hiệp hội người tiêu dùng đủ mạnh để hỗ trợ cho việc giám sát cạnh
tranh và độc quyền. Hệ thống những quy định pháp luật điều chỉnh các quan
hệ liên quan đến cạnh trạnh và độc quyền cũng chưa hoàn chỉnh, ý thức chấp
hành pháp luật của mọi người và của các doanh nghiệp chưa nghiêm minh,
nên những hành vi cạnh tranh không hợp thức còn tồn tại khá phổ biến.
Quan điểm về vai trò của cạnh tranh và độc quyền chưa nhất quán nên
nội dung một số quy định pháp lý liên quan đến cạnh tranh còn mâu thuẫn với
nhau.Thủ tục hành chính chưa được cải thiện, đơn giản hoá kịp thời nên còn
gây nhiều phiền hà cho các nhà đầu tư và cũng tạo ra sự bất bình đẳng trong
cạnh tranh, làm tăng chi phí giao dịch, giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu
tư ở trong nước so với các nước khác. Hệ thống thông tin thì còn yếu kém,
chưa kịp thời cân xứng thiếu minh bạch ảnh hưởng không tốt đến môi trường
cạnh tranh. Quá trình cải cách hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước diễn ra
còn chậm. Còn nhiều doanh nghiệp Nhà nước hoạt động không hiệu quả.
III. CÁC GIẢI PHÁP DUY TRÌ CẠNH TRANH VÀ CHỐNG ĐỘC QUYỀN.

1. Ban hành chính sách cạnh tranh
Trong một số bối cảnh, sức mạnh của thị trường không bảo vệ được sự

cạnh tranh trong kinh doanh và lợi ích của nó, những bối cảnh như vậy rất phổ
biến ở các nước đang phát triển. Các doanh nghiệp trước kia là của nhà nước
Nguyễn Thị Hải Yến

Page 14 of 18


Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
thường khống chế một nền công nghiệp và các nhà quản lý ở các khu vực đã
được tư nhân hoá thường thích hợp tác hơn là cạnh tranh. Các chính sách cạnh
tranh và chống độc quyền cần phải là một bộ phận của cơ sở hạ tầng pháp lý ở
tất cả mọi nền kinh tế thị trường vì những nước này cũng dễ bị những hành
động chống cạnh tranh làm tổn hại chẳng kém gì các nước phát triển.
2. Đổi mới nhận thức về cạnh tranh
Xác định một cách rõ ràng và hợp lý vai trò của Nhà nước cũng như vai
trò chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế. Việc đổi mới
nhận thức cần được thể hiện trong toàn bộ hệ thống quản lý Nhà nước, trong
các chương trình và chiến lược cải cách hành chính, trong tổ chức, phong cách
làm việc hành vi ứng xử của các cơ quan. Đưa nội dung về cạnh tranh và độc
quyền vào chương trình giáo dục. Đào tạo các khoá ngắn hạn cho các doanh
nghiệp và công chức Nhà nước để nâng cao, trau dồi kiến thức về cạnh tranh
và độc quyền. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng tuyên truyền về
cạnh tranh và độc quyền.
3. Cải tổ pháp luật về cạnh tranh, khuyến khích các nhà đầu tư tham gia
sản xuất kinh doanh.
Luật lệ mới ban hành ở bất cứ nước nào cũng phải phù hợp với bối cảnh
pháp lý, kinh tế, và xã hội của nước đó. Không ai nói luật Clayton hay luật
cạnh tranh của Liên minh Châu Âu cần phải được áp dụng nguyên xi ở một
nước nào. Một số nước trên thế giới có nền kinh tế thị trường phát triển đã ban
hành “Luật chống độc quyền” như Mỹ, EU một cách hoàn chỉnh. Việc hình

thành nên khung pháp lý chung cho các loại hình kinh doanh thuộc các khu
vực kinh tế khác nhau là điều cần thiết. Cần xoá bỏ những quy định hiện hành
không phù hợp với nền kinh tế thị trường, với những cam kết quốc tế. Trong
quá trình sửa đổi, bổ sung và ban hành pháp luật thì cần có sự phối hợp đồng

Nguyễn Thị Hải Yến

Page 15 of 18


Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
bộ giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phương với sự tham gia của các
doanh nghiệp, các chuyên gia nghiên cứu kinh tế và người tiêu dùng.
4. Xây dựng cơ quan chuyên trách theo dõi, giám sát
Rà soát lại và hạn chế bớt số lượng các lĩnh vực độc quyền, kiểm soát
giám sát độc quyền chặt chẽ hơn. Nhà nước cần giám sát chặt chẽ hơn các
hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp lớn. Cần phải đổi mới chế độ chứng
từ, kế toán kiểm toán để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát tài chính
của các doanh nghiệp.
5. Cải cách thủ tục hành chính, khuyến khích ứng dụng KH công nghệ
Tăng ngân sách cho các ngành nghiên cứu khoa học công nghệ, Khuyến
khích tư nhân đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ sản
xuất. Sửa đổi chế độ hoạch toán, kế toán nhằm khuyến khích khấu hao nhanh
để đổi mới công nghệ, phát triển thành lập các trung tâm nghiên cứu khoa học,
gắn nghiên cứu khoa học với việc chuyển giao công nghệ. sử dụng kinh
nghiệm quản lý của quốc tế để áp dụng cho các doanh nghiệp.
6. Cơ cấu lại và kiểm soát độc quyền
Xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh, chỉ duy trì độc quyền ở một số
ngành quan trọng, kiểm soát chặt chẽ các doanh nghiệp độc quyền Nhà nước,
có thể thực hiện theo hai hướng. Cho phép nhiều doanh nghiệp tham gia kinh

doanh bằng cách xây dựng điều kiện cấp phép các loại hình dịch vụ hoặc chia
tách các doanh nghiệp đang chiếm vị trí chủ đạo thành các đơn vị nhỏ độc lập
và chia tách các doanh nghiệp không trực tiếp gắn với cung cấp dịch vụ cơ sở
hạ tầng khỏi doanh nghiệp chủ đạo. Trường hợp có nhiều doanh nghiệp hoạt
động trong cùng một lĩnh vực thì sự tham gia trực tiếp của Nhà nước vào hoạt
động của các doanh nghiệp là không cần thiết. Nhà nước chỉ cần ban hành một
số quy định hướng dẫn hoạt động và hạn chế cạnh tranh không lành mạnh để
các doanh nghiệp tự điều chỉnh hoạt động. Trường hợp phải duy trì độc quyền
Nguyễn Thị Hải Yến

Page 16 of 18


Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
một số ngành chủ đạo thì cần xây dựng các luật đặc thù cho từng lĩnh vực để
kiểm soát độc quyền, tránh tình trạng lạm dụng ưu thế chi phối thị trường.
7. Cần phải có luật cạnh tranh.
Nội dung luật cạnh tranh cần được thường xuyên nghiên cứu, thay đổi
cho phù hợp với những biến động của môi trường cạnh tranh trong nước cũng
như những yếu tố liên quan đến nước ngoài. Nhiều nước trên thế giới đã áp
dụng tốt chính sách cạnh tranh trong phát triển kinh tế và đem lại hiệu quả
cao. Một trong những nước sử dụng rộng rãi và thành công yếu tố cạnh tranh
để phát triển kinh tế là Mỹ, Mỹ đã ban hành rất sớm luật cạnh tranh.
8. Thành lập các hiệp hội người tiêu dùng
Hoạt động chủ yếu là cung cấp thông tin phục vụ người tiêu dùng và kịp
thời phát hiện những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Các
hiệp hội này sẽ là đối trọng của các doanh nghiệp khống chế thị trường. Kinh
nghiệm các nước cho thấy hoạt động bảo vệ lợi ích người tiêu dùng hỗ trợ rất
tốt cho việc duy trì tốt môi trường cạnh tranh lành mạnh. Bảo vệ lợi ích người
tiêu dùng và cạnh tranh là 2 vấn đề liên quan mật thiết đến nhau.

PHẦN 3. KẾT LUẬN
Cạnh tranh là một quy luật, là một phần của nền kinh tế thị trường. Cạnh
tranh cũng có mặt trái của nó. Tuy nhiên xét trong một quá trình lâu dài và
dựa vào toàn bộ lợi ích của xã hội thì cạnh tranh là động lực cho sự phát triển
kinh tế xã hội. Những mặt trái do cạnh tranh đem lại là điều không đáng ngại
nếu như chúng ta có một chính sách cạnh tranh và chống độc quyền hợp lý.
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một con dao hai lưỡi, nó là động lực
cho sự phát triển kinh tế hay không còn tuỳ thuộc vào sự vận dụng quy luật
này ở mỗi nước. Là nước áp dụng quy luật cạnh tranh muộn nên Việt Nam sẽ
có được nhiều kinh nghiệm của những nước đi trước. Chúng ta hy vọng rằng
nền kinh tế Việt Nam sẽ có những bước phát triển đột phá trong tương lai.
Nguyễn Thị Hải Yến

Page 17 of 18


Vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế toàn cầu
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. "Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát
độc quyền kinh doanh" của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương.
2. Kinh tế học công cộng - Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị
Hiên và những người khác),NXB Khoa học và Kỹ thuật (1995)
3. Tạp chí điện tử của bộ ngoại giao Mỹ tháng 2/1999 “Chính sách cạnh
tranh và chống độc quyền quốc tế”
4. Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 91 tháng 2/2007 ” Pháp luật cạnh tranh
trong WTO và kinh nghiệm cho Việt Nam”
5. Tạp chí thương mại 17/2001
6. www.SAGA.vn
7. www.voer.edu.vn/bai-viet/kinh-te/nhung-ly-luan-co-ban-ve-canh-tranhva-kha-nang-canh-tranh.html


Nguyễn Thị Hải Yến

Page 18 of 18



×