Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Lịch sử hành chính nhà nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.02 KB, 6 trang )

1. Cải cách hành chính thời họ Khúc
Sau đây là những cải cách của Khúc Hạo:
Bối cảnh lịch sử:
- Tháng 7 năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên thay cha làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân.
Nhà Hậu Lương lên thay nhà Đường công nhận ông làm “An Nam đô hộ, sung Tiết độ sứ”. Ông đã kế
tiếp sự nghiệp của cha một cách tài tình để củng cố sự nghiệp độc lập của Việt Nam lúc đó từ tay Trung
Quốc.
Khúc Hạo đã tiến hành cải cách quan trọng về các mặt. Đường lối chính trị của ông được sử sách tóm
lược ngắn gọn song rất rõ ràng: “Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui”.
Khoan dung tức là không bắt buộc, không quá khắt khe với dân, chống tham quan ô lại.Giản dị là không
làm phiên hà, sách nhiễu bởi nhiều thủ tục quan liêu. Yên vui,“an cư lạc nghiệp” là lý tưởng của nếp sống


người

nông

dân

nơi

thôn

xóm

mong

đợi.

Tóm lại, đó là một đường lối chính trị thân dân. Nó chứng tỏ bất cứ một phong trào dân tộc chân chính
nào cũng phải có một nội dung dân chủ nào đó.


Nội dung cải cách:
- Khúc Hạo sửa lại chế độ điền tô, thuế mà lực dịch nặng nề của thời thuộc Đường. Ông ra lệnh “bình
quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho giáp trưởng (quản giáp) trông
coi”.
- Từ mô hình của chính quyền đô hộ nhà Đường với An Nam, nhằm khắc phục tình trạng phân tán
quyền lực vào tay các thủ lĩnh địa phương, Khúc Hạo đã có những cố gắng lớn đầu tiên nhằm xây dựng
chính quyền độc lập, thống nhất từ trung ương đến xã. Ông chia cả nước thành những đơn vị hành chính
các cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã. Mỗi xã đặt ra xã quan, một người chánh lệnh trưởng và một người tá
lệnh trưởng. Một số xã ở gần nhau thời thuộc Đường gọi là hương nay đổi là giáp, mỗi giáp có một quản
giáp và một phó tri giáp để trông nom việc kê hộ khẩu, nhân khẩu và việc thu thuế. Theo sách “An Nam
chí nguyên”, Khúc Hạo đặt thêm 150 giáp, cộng với những giáp trước đây nhà Đường đặt, cả thảy toàn
bộ Tĩnh Hải quân có 314 giáp.
Tác dụng:
- Thành công và hiệu quả lâu dài của cải cách là đem lại sự vững vàng và ổn định cho đất nước. Đối
nội là củng cố và phát huy được quyền độc lập tự chủ. Đối ngoại chống lại được mọi kẻ thù, giữ được
chính quyền trong mấy chục năm, tạo tiền đề thuận lợi cho các bước phát triển của đất nước.
- Nếu sau các cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, Lý Bôn, Triệu Quang Phục... trước đây, dân tộc ta chỉ
giữ được chính quyền trong một thời gian ngắn rồi lại bị bọn xâm lược quay lại thống trị, thì nay cuộc
giành chính quyền và cải cách của họ Khúc đã mở đầu cho một quá trình liên tục đấu tranh giành cho kỳ
được độc lập dân tộc.
Qua cuộc cải cách của Khúc Hạo cho chúng ta thấy chúng đều có một điểm chung đó là xuất phát
từ sự khủng hoảng suy thoái nền kinh tế xã hội, và nhà nước đang đứng trước nguy cơ sụp đổ. Và
những nhà cải cải đều là những nhân vật ưu tú của thời đại, của lịch sử, họ là người con người có hoài
bão, có tấm lòng yêu nước muốn cho đất nước thoát khỏi sự khủng hoảng, nhân dân được sống yên
bình. Tất cả những họ ( Khúc Hạo, Hồ Quý Ly, Lê Thánh Tông, Quang Trung) đều có chung một tư tưởng
đó là muốn cho“Quốc thái dân an”. Tuy nhiên hoài bão,tài năng đó, tấm lòng đó không phải lúc nào cũng
được đi đến nơi đến chốn của sự thành công. Và một điều không thể tránh khỏi trong quá trình thực hiện
công cuộc cải cách đó là gặp nhiều khó khăn, chướng ngại vật ngăn cản sự tiến bộ đó.



Bên cạnh những mặt ưu điểm của cuộc cải cách thì những hạn chế vẫn còn tồn tại khá nhiều, và
điều đó đã gây ảnh hưởng xấu đến việc đưa công cải cách đi đến kết quả cuối cùng. Song không vì thế
mà chúng ta phủ nhận công lao to lớn của các nhà cải cách, giá trị của những cuộc cải cách đó luôn là
nền tản cho các cuộc cách tân đổi mới lần kế tiếp đi đến thành công.
Qua công cuộc cải cách trên của Khúc Hạo cho chúng ta thấy được rằng càng về sau công cuộc cải
cách càng mang tính kế thừa và phát huy những thành tựu của các cuộc cải cách đi trước, đồng thời
những sai lầm, khuyết điểm đã dần được khắc phục ở lần cải cách về sau. Đó là bước phát triển vô cùng
quan trọng của lịch sử cải cách dân tộc, nó là tiền đề cho quá trình kiến thiết đổi mới và xây dựng đất
nước ta hiện nay. Tiền lệ đó là kết quả của trí tuệ, lòng yêu nước nhiệt thành, có trách nhiệm với dân tộc,
đó cũng là sự táo bạo mạnh dạng tìm tòi, suy nghĩ, dũng cảm đề xuất tiến hành cải cách.
Lịch sử đã chỉ ra rằng bất kỳ một cuộc cải cách nào cũng đều có mục tiêu, mục đích xã hội của
nó. Mục tiêu cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay là: xây dựng một nền hành chính trong sạch,
vững mạnh, tiết kiệm, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn.
Cải cách hành chính ở Việt nam được tiến hành nhiều năm nay với những bước đi- lộ trình khác
nhau từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết các công
việc của cá nhân, tổ chức, đến cải cách một bước nền hành chính nhà nước với ba nội dung là: cải cách
thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Ngày
nay cải cách hành chính đã chuyển sang một bước mới với bốn nội dung: cải cách thể chế hành chính;
cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.
Trong những năm qua cải cách hành chính ở Việt Nam đã làm được những gì để góp phần xây
dựng nhà nước pháp quyền đó là:
- Về thể chế hành chính đã sửa đổi Hiến pháp, ban hành các Luật mới và các văn bản dưới luật về
tổ chức bộ máy nhà nước; Sửa đổi bổ sung một số điều Pháp lệnh cán bộ, công chức; ban hành các
nghị định để cụ thể hóa Pháp lệnh, cán bộ, công chức...Điều quan trọng là: các văn bản về tổ chức bộ
máy nhà nước là đã quy định khá cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, từng
bước thể hiện sự phân cấp trong quản lý giữa Trung ương và địa phương; các văn bản pháp luật về
công vụ, cán bộ, công chức đã quy định khá cụ thể các quyền, nghĩa vụ của các cán bộ, công chức và
đã bước đầu đi theo hướng chuyên biệt hoá các đối tượng những người phục vụ trong cơ quan, tổ chức
nhà nước.
- Về bộ máy hành chính đã giảm dần các đầu mối quản lý, số lượng các cơ quan quản lý nhà nước

đã giảm xuống đáng kể, thủ tuc hành chính được cải cách theo hướng "một cửa", mẫu hóa các văn bản
hành chính, giấy tờ, công khai các thủ tục hành chính. Chính việc cải cách thủ tục hành chính này đã góp
phần hạn chế sự sách nhiễu, phiến hà, tham những của các công chức hành chính trong khi giải quyết
các công việc của công dân. Đây là điểm căn bản nhất của cải cách hành chính góp phần xây dựng nhà
nước pháp quyền.
Một vấn đề đang được quan tâm trong cải cách hành chính ở Việt Nam là vấn đề phân cấp trong
quản lý nhà nước. Phân cấp thực chất là việc chuyển dần các công việc, nguồn lực do chính quyền trung
ương nắm giữ cho chính quyền địa phương các cấp một cách lâu dài, ổn định bằng các văn bản luật,
dưới luật, nhằm mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ động sáng tạo của chính quyền địa phương. Trong
xu hướng phân cấp bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương sẽ tập trung vào việc xây dựng chính
sách, bảo đảm sự thống nhất về thể chế, việc giải quyết những vấn đề lớn của quốc gia, còn những việc
thuộc phạm vi cộng đồng lãnh thổ do cộng đồng lãnh thổ giải quyết. Như vậy, vấn đề phân cấp gắn với


vấn đề dân chủ, dân chủ là cốt lõi của nhà nước pháp quyền, không có dân chủ thì không có nhà nước
pháp quyền, không mở rộng quyền chủ động sáng tạo của chính quyền địa phương thì không có nhà
nước pháp quyền. Bởi vì chỉ có thể thông qua những thiết chế dân chủ, phát huy tính dân chủ, sáng tạo
của cộng đồng lãnh thổ mới có thể tạo lập được môi trường thuận lợi để nhân dân các cộng đồng lãnh
thổ kiểm soát được hoạt động của nhà nước.
Ngày nay một số địa phương đã áp dụng tiêu chuẩn ISO để đánh gía, kiểm soát thường xuyên hoạt
động của các cơ quan hành chính trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức. Trong số các
tiêu chí đánh giá về cơ quan hành chính có các tiêu chí đáng lưu ý gắn với nhà nước pháp quyền: tính
hợp pháp của nội dung các quyết định; tính đúng đắn về thời hạn theo quy định của pháp luật của các
quyết định; tính đúng đắn về thủ tục giải quyết các công việc. Thực tiễn việc áp dung các tiêu chuẩn ISO
vào hoạt động hành chính đã mang lại những kết quả đáng kể: việc giải quyết các công việc của dân đơn
giản, nhanh gọn, đúng pháp luật, đúng thời hạn, đúng thủ tục.
Tóm lại việc cải cách hành chính ở Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai đi theo
hướng làm cho bộ máy hành chính hoàn bị hơn, hoạt động có hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân ngày một
đúng pháp luật, tốt hơn và tiết kiệm nhất, dần từng bước chuyển nền hành chính từ cơ quan cai quản
thành các cơ quan phục vụ dân, làm các dịch vụ hành chính đối với dân, công dân là khách hàng của

nền hành chính, là người đánh gía khách quan nhất về mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ máy
hành chính.
Tất cả những mục tiêu đó của cải cách hành chính cũng là nhằm góp phần xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa với bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

2.NGOÀI XƯNG ĐẾ, TRONG XƯNG VƯƠNG
Chính Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí cũng đã chỉ rõ đặc điểm này:"Nước ta từ
thời Hùng Vương mới bắt đầu thông hiếu với Trung Quốc, nhưng danh hiệu còn nhỏ, không được dự
vào hàng chư hầu triều hội của nhà Minh đường. Rồi bị Triệu Đà kiêm tính, nhà Hán phong Đà làm
Nam Việt Vương, chỉ được sánh với chư hầu của Trung Quốc, chứ chưa từng được nêu là một
nước. Đến sau nội thuộc vào nhà Hán nhà Đường, bèn thành quận huyện. Đến khi Đinh Tiên Hoàng
bình định các sứ quân, khôi phục mở mang bờ cõi, bấy giờ điển lễ sách phong của Trung Quốc mới
nhận cho đứng riêng là một nước”
Vậy là xét về thực chất, việc Trung Quốc phong vương cho Việt Nam trước hết là công nhận vị trí
độc lập của Việt Nam theo điển lễ đã được xác định của Trung Quốc với các nước có quan hệ triều
cống và thụ phong. Và đối với Việt Nam, nước có biên giới ngay sát đại đế quốc phong kiến Trung
Quốc, lại đã từng bị Trung Quốc xâm chiếm hàng ngàn năm, thì việc cầu phong luôn được sử dụng
như một phương sách ngoại giao để giữ mối quan hệ hoà hiếu với nước láng giềng Trung Quốc.
Hoạt động cầu phong ấy kéo dài đến thời vua Tự Đức (triều Nguyễn), bởi đến năm 1885 với hoà
ước Thiên Tân giữa Pháp và Trung Hoa thì đã chấm dứt vĩnh viễn quan hệ thượng quốc - chư hầu
giữa Việt Nam với Trung Quốc.


1. Nguyên nhân của hoạt động cầu phong trong quan hệ bang giao giữa Việt Nam với
Trung Quốc thời phong kiến
Có thể nói, dưới thời đại phong kiến ở nước ta, các vị vua sau khi giành được chính quyền đều có
mong muốn xin phong vương với Trung Hoa. Cái lý buộc các vua phong kiến Việt Nam xin phong
vương cũng như các triều vua trước đó là ở cái thực tế: Việt Nam là một nước nhỏ, sát cạnh ngay
một quốc gia phong kiến Trung Hoa lớn gấp nhiều lần, lại thường xuyên có mưu đồ thôn tính Việt
Nam. Vì thế, để đảm bảo an ninh, để có thể duy trì quan hệ hoà hiếu với nước láng giềng khổng lồ

ấy, các vua nước ta phải có đường lối đối ngoại "mềm dẻo", "lấy nhu, thắng cương", giả danh "thần
phục", cầu phong Trung Quốc.
Hơn nữa, khi cầu phong Trung Quốc, bên cạnh lợi ích dân tộc, các vị vua ở nước ta còn tính đến lợi
ích giai cấp dòng họ mình, bởi ngay từ đầu họ đã nhận thấy sự cần thiết phải khẳng định chính
thống, hợp pháp hoá sự tồn tại của triều đại mình, để ổn định "nhân tâm" và cũng là để làm chỗ dựa
hậu thuẫn bảo vệ quyền lợi lâu dài của dòng họ. Điều này đồng nghĩa với việc họ phải sớm được
"thiên triều" Trung Quốc phong hiệu.
Không những vậy, các vị vua dưới thời phong kiến nước ta cũng nhận thức sâu sắc được cần có sự
phong vương của Thiên triều để khẳng định vai trò của mình với các nước trong khu vực. Có như
vậy mới thực hiện được ý muốn của các triều đại phong kiến Việt Nam: tự coi mình như một "Trung
Quốc" nhỏ hơn ở phía Nam đối với các nước chư hầu, ngang hàng với nước Trung Quốc ở phía
Bắc. Điều này được thể hiện đặc biệt rõ nét dưới thời nhà Nguyễn.
Trong khi đó, bản thân Trung Quốc cũng sẵn lòng chấp nhận việc cầu phong của các vị vua nước ta
vì một mặt nó là phương tiện giao hảo, duy trì không để quan hệ giữa Trung Quốc - Việt Nam bị cắt
đứt, mặt khác để cốt giữ lấy cái quan hệ giữa "thiên triều" Trung Hoa với "phiên thần" Việt Nam như
là một nhu cầu thiết thân về cả lợi ích chính trị lẫn kinh tế của mình. Do đó, sau những đoàn sứ bộ
của nước ta sang cầu phong, các vua Trung Quốc đã cử sứ sang ban sắc phong cho các vua Việt
Nam.
Vì những lí do ấy, suốt từ thời Ngô (từ Ngô Xương Ngập) đến thời Nguyễn, các vị vua phong kiến
Việt Nam ngay khi lên ngôi, việc đầu tiên là xin phong vương của các hoàng đế Trung Hoa.
Bề ngoài thì như vậy, song ta nên hiểu thực chất của việc sách phong, triều cống này ra sao?
Trong tư tưởng của các triều đại phong kiến nước ta - đại diện cho cả dân tộc Việt Nam lúc này
cũng giống như tư tưởng của người Việt Nam hàng nghìn năm qua luôn hiểu khái niệm “độc lập” có
nghĩa là đất nước hòa bình, không có ngoại xâm, phương Nam và phương Bắc cương giới phân
định rõ ràng, còn “lệ thuộc” được hiểu là bị mất độc lập, bị ngoại bang xâm chiếm đất đai, lãnh thổ
và bị đè nén, áp bức trên mọi lĩnh vực. Nếu chúng ta đối chiếu cách hiểu trên với việc sách phong,
triều cống thời bấy giờ thì rõ ràng là việc thực hiện sách phong, triều công của các triều đại phong
kiến Việt Nam với Trung Hoa lúc này xét về cơ bản là không xâm phạm vào nguyên tắc “độc lập”,



tức là sẽ không bị “lệ thuộc” theo cách hiểu như trên. Thực tế cho ta thấy danh hiệu “quốc vương”
mà Trung Hoa phong cho các vua nước ta chỉ mang tính chất tượng trưng mà thôi. Các vị vua dưới
thời phong kiến Việt Nam ngoài thì xưng vương nhưng trong nước lại xưng đế với thần dân. Hơn
nữa, tuy danh nghĩa là “Thiên tử” đứng đầu “Thiên hạ” song thực tế thì Trung Quốc không được biết
gì nhiều về những công việc nội trị của Việt Nam, ngoài những thông báo mang tính nghi lễ ngoại
giao việc vua này lên ngôi, vua khác băng hà… Không những vậy, chúng ta còn dễ dàng nhận thấy
hễ khi Trung Quốc có ý đồ xâm lấn đất đai biên giới, lãnh thổ hay khi an ninh biên giới bị đe doạ thì
các triều đại phong kiến nước ta đều kiên quyết đánh trả bằng mọi phương tiện quân chính trị, ngoại
giao, quân sự…

Trong b ối c ảnh hi ện nay, xu th ế toàn c ầu hóa tr ở thành xu th ế ch ủ đạo, xu h ướng hòa
bình, h ợp tác, phát tri ển đã thành xu h ướng chung c ủa các qu ốc gia trên th ế gi ới thì
ngo ại giao l ại càng tr ở nên quan tr ọng đối v ới m ỗi qu ốc gia trong vi ệc gi ữ v ững n ền độc
l ập, t ự ch ủ. Trong đó, quan h ệ v ới các n ước l ớn luôn đượ c các qu ốc gia tính t ới trong
vi ệc ho ạch đị nh chính sách đối ngo ại c ủa mình. Có th ể nói, quan h ệ v ới các n ước l ớn
ngày x ưa và ngày nay tuy m ỗi th ời k ỳ có khác nhau song nh ững nét c ơ b ản trong v ăn
hóa ứng x ử đối v ới các n ước l ớn mà ông cha ta để l ại có nh ững giá tr ị tham kh ảo r ất
c ần thi ết, mà chúng ta c ần h ọc t ập và phát huy trong vi ệc tìm ki ếm nh ững đối sách
thích h ợp để ứng x ử v ới các n ước l ớn trong th ời đại ngày nay.
3 xưng hoàng đế có giá trị gì
Các vua Vi ệt Nam ý th ức đượ c r ằng mình là hoàng đế, coi mình ngang hàng v ới vua Trung
Hoa trong vi ệc trị n ước, đó c ũng chính là để kh ẳng đị nh Vi ệt Nam là m ột qu ốc gia độc l ập, có
ch ủ quy ền, không khác gì Trung Hoa. Và t ất nhiên, các vua Vi ệt Nam c ũng không cho Thiên t ử
Trung Hoa can thi ệp vào công vi ệc n ội b ộ c ủa qu ốc gia mình. T ất c ả nh ững cách ứng x ử này
đều được th ể hi ện rõ trong Bài th ơ th ần “Nam Qu ốc S ơn Hà” trong cu ộc kháng chi ến ch ống
T ống l ần th ứ hai nh ư m ột b ản tuyên b ố v ề ch ủ quy ền và độc l ập dân t ộc c ủa đất n ước.

Vi ệt Nam t ừ lâu đờ i đã là m ột qu ốc gia độ c l ập, có ch ủ quy ền, lãnh th ổ, có v ăn hi ến,
trong đó các tri ều đạ i Đinh, Lê, Lý, Tr ần đã đứng ngang hàng v ới các tri ều đại phong
ki ến ph ương B ắc. V ăn hóa ứng x ử c ủa Vi ệt Nam trong quan h ệ v ới Trung Hoa còn th ể

hi ện quy ết li ệt trong vi ệc không cho đố i ph ương khinh mi ệt n ước ta và các vua n ước ta,
bu ộc Trung Hoa ph ải công nh ận Vi ệt Nam là m ột qu ốc gia ngang hàng v ới Thiêu tri ều.
Trong các v ăn b ản ngo ại giao c ủa Trung Hoa g ửi cho Vi ệt Nam, các tri ều đình phong
ki ến ph ương B ắc th ường g ọi n ước Nam là Man di. Các s ứ b ộ đời Lê, Tây S ơn, Nguy ễn
đều kiên quy ết đấu tranh bu ộc chúng ph ải s ửa đổi, không được g ọi n ước Nam là “Man”
và ph ải g ọi s ứ b ộ là “An Nam c ống s ứ”.


Đấu tranh ngo ại giao để gi ữ gìn qu ốc th ể được th ể hi ện rõ qua vi ệc vua Lê Đại Hành
coi mình là vua m ột n ước nên không ch ịu l ạy khi nh ận chi ếu ch ỉ c ủa Thiên tri ều. Các
vua Vi ệt Nam c ũng kiên quy ết đấ u tranh ch ống l ại nh ững áp đặt, đòi h ỏi vô lý, đấu tranh
gi ữ v ững ch ủ quy ền, không cho các th ế l ực phong ki ến ph ương B ắc can thi ệp vào công
vi ệc n ội b ộ Vi ệt Nam. Khi tri ều đình Trung Hoa đưa nh ững tên tay sai bù nhìn v ề n ước
nh ư Tr ần Di Ái đờ i Tr ần, Lê Chiêu Th ống cu ối đời Lê Trung H ưng thì các tri ều Tr ần và
Tây S ơn đề u không ch ấp nh ận. Nhà Nguyên đòi n ước ta ph ải n ộp l ương th ực và quân
lính cho chúng đi đánh các n ước Đại Lý, Vân Nam và Chiêm Thành nh ưng các vua
Tr ần đề u t ừ ch ối. Cách ứng x ử khéo léo nh ưng quy ết li ệt c ủa phía Vi ệt Nam làm cho
các vua Trung Hoa r ất t ức gi ận nh ưng ph ần l ớn c ũng đành ph ải b ỏ qua.



×