Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

MỘT số GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGHIỆP vụ CHUYỂN TIỀN TRONG THANH TOÁN QUỐC tế tại NHNN PTNT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.82 KB, 132 trang )

ĐỀ TÀI: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ
CHUYỂN TIỀN
TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NHNo& PTNT Việt Nam
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ
PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN CHUYỂN TIỀN
I.

TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ.

1. Khái niệm và cơ sở hình thành thanh toán quốc tế.
Lịch sử và thực tiễn phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh
rằng kinh tế của một quốc gia không thể phát triển với một chính
sách “đóng cửa”, chỉ trông vào tích lũy và trao đổi trong phạm vi
nước đó mà phải biết phát huy mặt mạnh trong nước, tận dụng khả
năng có lợi từ bên ngoài, biết kết hợp sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại trong hợp tác kinh tế, giao lưu buôn bán, nghĩa là
phải có giao dịch và quan hệ với nước khác. Mối quan hệ kinh tế lẫn
nhau giữa các nước chính là tổng thể các mối quan hệ kinh tế đối
ngoại giữa các quốc gia.
Mối quan hệ này bao gồm nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
ngoại giao, văn hóa, hợp tác khoa học kỹ thuật… trong đó quan hệ
về kinh tế chiếm vị trí quan trọng, nó là cơ sở cho các mối quan hệ
quốc tế khác. Quá trình tiến hành các hoạt động này đều liên quan
tới tài chính, tất yếu làm nảy sinh những nhu cầu chi trả, thanh toán
giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. Từ đó cũng làm xuất
hiện nhu cầu thực hiện các hoạt động thanh toán quốc tế.


Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về
tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa


các tổ chức, cá nhân nước này với các tổ chức, cá nhân nước khác,
hay giữa các quốc gia, chính phủ với các tổ chức quốc tế, thông
qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan.
Hiểu theo nghĩa rộng, khi có sự di chuyển các yếu tố đầu vào
như nhập khẩu, nhận đầu tư của nước ngoài, nhận các khoản nợ gốc
và lãi đến hạn, dịch vụ thu ngoại tệ, nhận tín dụng của nước ngoài
và các yếu tố đầu ra như xuất khẩu, đầu tư ra nước ngoài hoặc cho
vay, trả vốn và lãi cho nước ngoài… của một nước sẽ có sự di
chuyển ngược lại của các hướng tiền tệ. Việc thanh toán các hướng
tiền tệ như vậy giữa người cư trú và những người phi cư trú mà kết
quả của nó sẽ làm tăng hoặc giảm dự trữ ngoại tệ của một nước thì
được coi là hoạt động thanh toán quốc tế.
Khác với thanh toán nội địa, thanh toán quốc tế thường gắn với
việc trao đổi đồng tiền của nước này sang đồng tiền của một nước
khác. Đồng tiền thanh toán phải là ngoại tệ đối với ít nhất một bên.
Đồng tiền trong thanh toán quốc tế có thể tồn tại dưới dạng tiền mặt
hoặc tiền tín dụng nhưng hiện nay phần lớn các giao dịch chi trả đều
được thực hiện thông qua các lệnh chuyển tiền bằng điện tín, bằng
thư hoặc qua các ủy nhiệm thu, chi hộ và các phương tiện thanh
toán như hối phiếu, séc…


Dưới giác độ kinh tế, các quan hệ quốc tế được phân chia thành
hai loại: quan hệ mậu dịch và quan hệ phi mậu dịch. Do đó thanh
toán quốc tế cũng bao gồm hai loại: Thanh toán mậu dịch và thanh
toán phi mậu dịch.


Thanh toán phi mậu dịch là quan hệ thanh toán không liên quan
đến hàng hóa cũng như việc cung ứng lao vụ, nó không mang

tính chất thương mại. Đó là những khoản thanh toán liên quan
đến chi phí của các cơ quan ngoại giao, ngoại thương ở nước sở
tại; các chi phí về vận chuyển, đi lại của các đoàn khách nhà
nước, các tổ chức, cá nhân; các nguồn tiền, quà biếu, trợ cấp
của các tổ chức, cá nhân nước ngoài cho các tổ chức, cá nhân
trong nước và ngược lại…



Thanh toán mậu dịch là quan hệ thanh toán dựa trên cở sở trao
đổi hàng hóa và các dịch vụ thương mại theo giá cả quốc tế.
Về cơ bản, thanh toán quốc tế phát sinh trên cở sở hoạt động

thương mại quốc tế, nó phản ánh sự vận động có tính chất độc lập
tương đối của giá trị trong quá trình chu chuyển hàng hóa và tư bản
giữa các quốc gia. Như vậy, nếu khâu thanh toán quốc tế được thực
hiện nhanh chóng, an toàn và chính xác thì nó đã trực tiếp tác động
vào việc rút ngắn thời gian luân chuyển vốn, giảm bớt và khắc phục
những rủi ro liên quan tới sự biến động của tiền tệ, tới khả năng
thanh toán của con nợ, tạo điều kiện cho việc phát triển và mở rộng
hoạt động ngoại thương của mỗi nước. Do đó, thanh toán quốc tế


trở thành một yếu tố quan trọng để đánh giá hiệu quả của hoạt
động kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương.
2. Vai trò của thanh toán quốc tế.
2.1. Vai trò của thanh toán quốc tế trong hoạt động kinh tế đối
ngoại.
Vị trí và tầm quan trọng của hoạt động thanh toán quốc tế ngày
càng được khẳng định trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung,

xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp nói riêng. Đặc biệt trong bối
cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt hoạt động kinh tế đối ngoại
ở vị trí hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất
yếu trong chiến lược phát triển kinh tế nước mình.
Thanh toán quốc tế là khâu then chốt cuối cùng để khép kín một
chu trình mua bán hàng hóa hay trao đổi dịch vụ. Nhờ có hoạt động
thanh toán quốc tế mà các khoản tín dụng, đầu tư, mọi giao dịch đối
ngoại mới có thể thực hiện được. Việc tổ chức thanh toán được tiến
hành nhanh chóng, an toàn và chính xác là đảm bảo giải quyết được
mối quan hệ lưu thông hàng hóa – tiền tệ giữa các bên giao dịch. Về
mặt kinh doanh, thanh toán thể hiện chất lượng của kinh doanh, nói
lên hiệu quả kinh tế về tài chính trong hoạt động của các doanh
nghiệp. Trong điều kiện tiền tệ thường xuyên biến động, khả năng
thanh toán của con nợ bấp bênh, rủi ro trong việc thực hiện hợp
đồng mua bán ngày càng cao, vị trí và vai trò của hoạt động thanh
toán quốc tế càng vì thế mà được khẳng định hơn.


Thanh toán quốc tế không những tạo điều kiện thuận lợi, nâng
cao tốc độ chu chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu, làm cho các hợp
đồng ngoại thương được thực hiện an toàn, giảm bớt chi phí kinh
doanh do không phải thanh toán tiền mặt mà còn tạo uy tín thanh
toán giữa các bên, góp phần mở rộng các phương thức hợp tác giữa
các nước, tạo cơ sở cho mối quan hệ làm ăn lâu dài. Không những
thế, hoạt động thanh toán quốc tế qua hệ thống ngân hàng còn giúp
cho chúng ta thu phí dịch vụ nhằm cải thiện cán cân thanh toán quốc
tế. Như vậy, có thể nói, thương mại quốc tế có được mở rộng hay
không một phần nhờ vào hoạt động thanh toán quốc tế có được thực
hiện tốt hay không.
Tóm lại, thanh toán quốc tế trong hoạt động thương mại nói

riêng và kinh tế đối ngoại nói chung có một vị trí đặc biệt quan
trọng. Nó là một mắt xích không thể thiếu trong toàn bộ sợi dây
chuyển kể từ khi chuẩn bị đầu vào cho sản xuất cho đến khi thu
được tiền về. Thanh toán quốc tế là một ngành dịch vụ thuộc lĩnh
vực kinh tế đối ngoại, nó góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy
ngoại thương phát triển và là yếu tố quan trọng để đánh giá quan hệ
kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của một quốc gia. Nhận thức
được vai trò quan trọng của thanh toán quốc tế, Chính phủ ngày
càng quan tâm hơn tới vấn đề này, tạo điều kiện cho hoạt động
thanh toán quốc tế được mở rộng, tiến hành nhanh chóng, thuận lợi
bằng việc cải cách hệ thống ngân hàng vì ngân hàng đóng vai trò rất


quan trọng trong hệ thống thanh toán: cung cấp các dịch vụ bù trừ
và tổ chức phục vụ thanh toán quốc tế.
2.2. Vai trò của thanh toán quốc tế đối với hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại.
Thanh toán quốc tế là chức năng ngân hàng quốc tế của ngân
hàng thương mại. Trong các lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng,
chức năng thanh toán quốc tế ra đời từ tương đối sớm. Nó được
hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển các quan hệ kinh tế
đối ngoại của một nước và ngân hàng thương mại được nhà nước
giao độc quyền làm công tác thanh toán này.
Hoạt động thương mại cần đến sự can thiệp, trợ giúp về kỹ
thuật và tài chính của ngân hàng. Ngân hàng thương mại đứng ra
với vai trò trung gian thanh toán trong các quan hệ kinh tế đối
ngoại. Bằng uy tín của mình, khả năng tài chính, các phương tiện kỹ
thuật và những kinh nghiệm trong nghiệp vụ, ngân hàng giúp cho
quá trình thanh toán của khách hàng được tiến hành an toàn, nhanh
chóng, tiện lợi. Ngân hàng tư vấn, bảo vệ quyền lợi của khách hàng

và trong trường hợp cần thiết còn có thể là nhà tài trợ cho khách
hàng trong quá trình thanh toán. Vì vậy, ngân hàng thương mại có
thể góp phần giảm thiểu rủi ro cho hoạt động thanh toán quốc tế, tạo
tâm lý an tâm, tin tưởng cho các bên trong các giao dịch với nước
ngoài.


Thực hiện chức năng thanh toán quốc tế do Nhà nước giao cho,
ngân hàng cũng đồng thời thực hiện luôn chức năng trực tiếp quản
lý ngoại hối và giám sát tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu theo đúng chính sách kinh tế đối ngoại mà Nhà
nước đã đề ra.
Về phía ngân hàng, thanh toán quốc tế là một loại hình hoạt
động đem lại thu nhập đáng kể trên cơ sở thu phí thanh toán. Hơn
nữa, so với các lĩnh vực kinh doanh khác của ngân hàng, thanh toán
quốc tế được xem là tương đối an toàn mà lại không phải bỏ vốn vì
ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian.
Ngoài chức năng là một lĩnh vực kinh doanh độc lập, thanh
toán quốc tế còn bổ sung, hỗ trợ cho các hoạt động khác của ngân
hàng và đồng thời tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng quy mô hoạt
động. Thanh toán quốc tế là khâu cuối cùng của hoạt động kinh
doanh tiền tệ, tài trợ xuất nhập khẩu và các dịch vụ ngân hàng quốc
tế khác. Thông qua hoạt động thanh toán quốc tế, ngân hàng có
được những quan hệ đại lý với ngân hàng và đối tác nước ngoài.
Việc thiết lập mạng lưới ngân hàng đại lý giúp cho ngân hàng giảm
bớt việc thanh toán vòng vèo qua trung gian và có thể sử dụng nhiều
loại ngoại tệ khác nhau.
Không những thế, hoạt động thanh toán quốc tế còn làm góp
phần tăng nguồn vốn lưu động trong kinh doanh cho ngân hàng
thông qua việc lợi dụng khoản ngoại tệ của ngân hàng nước ngoài



mở tại tài khoản ngân hàng mình hay những khoản ký quỹ của
khách hàng. Vì vậy, hoạt động thanh toán quốc tế được mở rộng và
đạt hiệu quả cao sẽ góp phận mở rộng thị trường, tăng cường các
mối quan hệ và nâng cao uy tín cho ngân hàng trong hệ thống ngân
hàng quốc tế. Trên cở sở đó nó góp phần giúp ngân hàng nhận được
nguồn vốn tài trợ, những khoản vay ưu đãi hay đầu tư tín dụng từ
thị trường tài chính thế giới.
Như vậy có thể thấy, thanh toán quốc tế có một vị trí và vai trò
vô cùng quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng thương mại.
Lượng thanh toán qua ngân hàng càng lớn chứng tỏ ngân hàng hoạt
động càng mạnh, có hiệu quả và có uy tín. Nó vừa là một yếu tố
giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả vừa có thể được coi là một chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
3. Các phương thức thanh toán quốc tế.
Phương thức thanh toán là cách thức người hưởng lợi đòi tiền
người trả tiền và người trả tiền trả tiền cho người hưởng lợi.
Trong thanh toán quốc tế có nhiều phương thức thanh toán khác
nhau. Mỗi phương thức đều có ưu điểm và nhược điểm, thể hiện
thành mâu thuẫn quyền lợi giữa người thanh toán và người được
thanh toán. Khi lựa chọn phương thức thanh toán, người ta phải tùy
thuộc vào quan hệ giữa người hưởng lợi và người trả tiền, khả năng
tài chính của người trả tiền và đặc điểm của đối tượng làm phát sinh
nhu cầu thanh toán, nhưng xét cho cùng việc sử dụng phương thức


nào cũng phải xuất phát từ yêu cầu của người hưởng lợi là thu tiền
nhanh, đầy đủ, đúng và từ yêu cầu của người trả tiền là nhận được
hàng hóa, dịch vụ đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn.

Các phương thức thanh toán quốc tế được chia thành hai nhóm:
3.1. Nhóm các phương thức thanh toán không phụ thuộc chứng
từ:
Người ta còn gọi đây là nhóm các phương thức thanh toán thực
giao thực thanh vì chúng không đòi hỏi phải có chứng từ làm căn cứ
để đòi tiền và trả tiền giữa các bên, do đó chúng chỉ thường được sử
dụng khi các bên tin tưởng lẫn nhau, ở gần nhau, giá trị của khoản
tiền thanh toán không lớn hoặc sử dụng trong thanh toán phi mậu
dịch. Các phương thức thanh toán thuộc nhóm này bao gồm:


Phương thức chuyển tiền: là phương thức mà trong đó khách
hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một
số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ở một
địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách
hàng yêu cầu.



Phương thức ghi sổ: là phương thức thanh toán trong đó người
bán sau khi đã hoàn thành giao hàng hoặc cung cấp dịch vụ cho
người mua sẽ mở một quyển sổ hoặc một tài khoản trên đó ghi
nợ người mua theo từng chuyến giao hàng còn người mua theo
định kỳ (tháng, quý, năm) sẽ quyết toán quyển sổ đó.




Phương thức thanh toán bằng thư bảo đảm của ngân hàng: là
phương thức thanh toán trong đó ngân hàng của người nhập

khẩu theo yêu cầu của người nhập khẩu sẽ phát hành cho người
xuất khẩu một bức thư bảo đảm sau khi hàng hóa đến một địa
điểm quy định sẽ trả tiền hàng cho người xuất khẩu.

3.2. Nhóm các phương thức thanh toán phụ thuộc chứng từ.
Các phương thức thanh toán này đòi hỏi phải có chứng từ làm
căn cứ để thanh toán. Chính vì vậy mà phạm vi sử dụng của chúng
rộng hơn và mức độ an toàn cao hơn so với nhóm các phương thức
thanh toán trên. Các phương thanh toán thuộc nhóm này bao gồm:


Phương thức nhờ thu: là phương thức thanh toán trong đó các
ngân hàng tiếp nhận các chứng từ theo đúng các chỉ thị để nhận
được việc thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán của khách
hàng hoặc giao các chứng từ cho khách hàng theo các chỉ thị đã
nhận được.



Phương thức tín dụng chứng từ: là một sự thỏa thuận bằng văn
bản trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo
yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) hoặc
nhân danh chính mình sẽ phát hành một bức thư cam kết trả
tiền cho người hưởng lợi hoặc chấp nhận các hối phiếu do
người hưởng lợi ký phát khi người hưởng lợi xuất trình được
các chứng từ phù hợp với các điều kiện đặt ra trong bức thư đó.





Phương thức thư ủy thác mua: là phương thức thanh toán mà
ngân hàng của người nhập khẩu yêu cầu ngân hàng của người
xuất khẩu phát hành một thư ủy thác mua cam kết sẽ mua lại
các hối phiếu của người xuất khẩu với điều kiện người xuất
khẩu xuất trình một bộ chứng từ phù hợp với điều kiện của thư
ủy thác.
Trong thực tế thanh toán quốc tế tại các ngân hàng ở Việt Nam

hiện nay, người ta thường chỉ sử dụng ba phương thức thanh toán:
phổ biến nhất là tín dụng chứng từ, sau là đến chuyển tiền và một
số lượng nhỏ các giao dịch sử dụng phương thức nhờ thu vì đây là
ba phương thức thanh toán có nhiều ưu điểm và phù hợp với thông
lệ quốc tế cũng như hoạt động thanh toán quốc tế ở Việt Nam.
4. Rủi ro trong thanh toán quốc tế.
4.1. Khái quát về rủi ro trong thanh toán quốc tế.
Rủi ro là điều không tốt lành xảy ra một cách bất ngờ, không
lường trước được. Trong cuộc sống hàng ngày, rủi ro được xem như
một sự việc đem đến sự nguy hiểm, thất bại và tổn hại cho con
người. Trong kinh doanh, rủi ro gây tổn thất, mất mát về tài sản, lợi
nhuận của nhà kinh doanh.
Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực phức tạp, luôn luôn biến
động và mức độ rủi ro cao. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng có thể


gây ra những mất mát, thiệt hại cho thu nhập, tài sản của cả khách
hàng và ngân hàng.
Khác với thanh toán nội địa, thanh toán quốc tế liên quan đến
việc luân chuyển những nguồn vốn lớn từ nước này sang nước khác,
đến việc chuyển đổi giữa các đồng tiền của các quốc gia, nên
thường phức tạp hơn và nguy cơ rủi ro cao hơn nhiều do sự biến

động của tiền tệ, sự khác biệt về ngôn ngữ, tập quán, do vị trí địa lý
của các bên cách xa nhau làm hạn chế khả năng kiểm soát toàn bộ
quá trình từ lưu thông đến thanh toán… Rủi ro trong thanh toán
quốc tế là sự thiệt hại, mất mát xảy ra cho các bên liên quan khi một
quy trình thanh toán bị vi phạm, hay do chính những đặc trưng của
hoạt động này gây ra. Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế có
thể xảy ra đối với tất cả các bên liên quan:


Đối với người mua: Đã thanh toán tiền nhưng không nhận
được hàng hoặc phải nhận hàng không đúng quy cách, số
lượng, chất lượng…



Đối với người bán: Đã giao hàng nhưng không thu được tiền
hay thu hồi tiền chậm.



Đối với các ngân hàng liên quan: Do trình độ năng lực hạn
chế, sai sót trong nghiệp vụ hoặc do nguời mua, người bán
thiếu trung thực, hoặc do biến động tỷ giá…

4.2. Phân loại rủi ro trong thanh toán quốc tế.


Tùy theo căn cứ phân loại khác nhau, rủi ro có thể được phân
chia theo phạm vi hoạt động, theo nguồn gốc, theo bản chất tác
động hay tính chất tác động.

4.2.1.

Căn cứ theo phạm vi hoạt động:

Rủi ro được chia thành hai loại là rủi ro trong nước và rủi ro
ngoài nước.


Rủi ro trong nước là những rủi ro phát sinh trong nội địa khi
thực hiện các công việc như: thu mua, chế biến, vận chuyển, tập
kết hàng, làm thủ tục xuất nhập khẩu, làm các thủ tục thanh
toán…



Rủi ro ngoài nước là rủi ro trong quá trình luân chuyển hàng
hóa xuất nhập khẩu, những trục trặc trong thanh toán tiền phát
sinh từ nước ngoài.
4.2.2.

Căn cứ theo nguồn gốc:

Rủi ro được chia thành bốn loại:


Rủi ro do thiên nhiên, môi trường sống.



Rủi ro do bất ổn về chính trị, văn hóa, xã hội như: Chiến tranh,

nội chiến, đảo chính, đình công, sự thay đổi chính sách của Nhà
nước…




Rủi ro do các yếu tố kinh tế như: lạm phát, biến động tỷ giá hối
đoái, lãi suất…



Rủi ro do thay đổi về nhận thức, thói quen của con người như
mode, sự ưa thích…
4.2.3.

Căn cứ theo bản chất tác động:

Rủi ro được chia làm hai loại là rủi ro khách quan và rủi ro chủ
quan.


Rủi ro khách quan là những rủi ro xảy ra ngoài dự đoán và tầm
kiểm soát của con người. Loại rủi ro này thường do các điều
kiện thiên nhiên và môi trường sống gây ra.



Rủi ro chủ quan là những rủi ro do chính con người tạo ra, đó là
những rủi ro do sự lừa đảo hoặc do sự thiếu năng lực của con
người.

4.2.4.

Căn cứ theo tính chất tác động:

Rủi ro được chia làm hai loại là rủi ro trực tiếp và rủi ro gián
tiếp.


Rủi ro trực tiếp là những rủi ro mà các bên chủ thể phải chịu
khi thực hiện nhiệm vụ của mình.




Rủi ro gián tiếp là những rủi ro ảnh hưởng đến các chủ thể qua
các mối quan hệ dây chuyền.
Nói tóm lại, dù là do nguyên nhân gì thì rủi ro vẫn luôn song

hành như một yếu tố của thanh toán quốc tế. Vì vậy, các nhà quản lý
ngân hàng luôn phải tìm mọi biện pháp để dự đoán, phòng ngừa và
hạn chế rủi ro như phân tích và quản trị rủi ro, thực hiện các nghiệp
vụ đảm bảo, bảo lãnh ngân hàng, hoạt động tín dụng của các tổ chức
tiền tệ, tài chính quốc tế… để hỗ trợ cho hoạt động thanh toán quốc
tế nhằm đạt hiệu quả cao trong kinh doanh cũng như nâng cao uy tín
của mình.
II. PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN CHUYỂN TIỀN
TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ.
1. Khái niệm.
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó
khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển

một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ở một
địa điểm nhất định bằng một phương tiện chuyển tiền do khách
hàng yêu cầu.
Đây là phương thức thanh toán đơn giản nhất và xuất hiện sớm
nhất trong lịch sử các phương thức thanh toán. Thanh toán chuyển
tiền là phương thức thanh toán trực tiếp giữa người chuyển tiền và
người nhận tiền. Ngân hàng khi thực hiện việc chuyển tiền và trả


tiền chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán theo sự ủy nhiệm của
khách hàng mà không bị ràng buộc gì đối với cả hai bên.
Nếu căn cứ vào phương tiện chuyển tiền thì có hai hình thức
chuyển tiền:


Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer – M/T): là việc ngân hàng
theo yêu cầu của khách hàng (người chuyển tiền) lập lệnh
chuyển tiền bằng thư để gửi cho người hưởng lợi.
Hình thức chuyển tiền này có ưu điểm là chi phí thấp những tốc

độ chậm và độ an toàn thấp vì thư được gửi qua đường bưu điện nên
hiện này người ta gần như không sử dụng hình thức này trong thanh
toán quốc tế.


Chuyển tiền bằng điện (Telegaphic Transfer – T/T): là việc
ngân hàng theo yêu cầu của khách hàng lập lệnh chuyển tiền
bằng điện để gửi cho người hưởng lợi.
Điện chuyển tiền có thể được thực hiện thông qua truyền tin


Telex hoặc qua hệ thống SWIFT. Hình thức chuyển tiền này tuy chi
phí cao hơn chuyển tiền bằng thư nhưng có ưu điểm là tốc độ nhanh
và độ an toàn cao.
2. Các bên liên quan.
2.1. Người yêu cầu chuyển tiền:


Người yêu cầu chuyển tiền là các cá nhân, tổ chức, Nhà nước
có nhu cầu chuyển tiền từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại.
Tùy theo mục đích của hoạt động chuyển tiền, người chuyển tiền có
thể là:


Trong hoạt động tín dụng: Người yêu cầu chuyển tiền là chủ nợ
vào thời điểm cấp tín dụng, là con nợ vào thời điểm trả tín
dụng.



Trong hoạt động đầu tư: Người yêu cầu chuyển tiền có thể là
nhà đầu tư chuyển tiền vào nước nhận đầu tư hoặc là đơn vị
nhận đầu tư chuyển tiền trả lãi.



Trong hoạt động kiều hối: người yêu cầu chuyển tiền là kiều
bào chuyển tiền về nước.




Trong ngoại thương: người chuyển tiền là nhà nhập khẩu.



Trong chuyển tiền liên ngân hàng: người chuyển tiền là ngân
hàng điều chuyển vốn giữa các chi nhánh của một ngân hàng
hoặc giữa các ngân hàng với nhau.

2.2. Người hưởng lợi (người nhận tiền):
Trong chuyển tiền quốc tế, người hưởng lợi có thể là bất cứ cá
nhân, tổ chức nào được người yêu cầu chuyển tiền chỉ định, đó có
thể là chủ nợ, con nợ (đối với hoạt động tín dụng); nhà đầu tư hoặc
đơn vị tiếp nhận vốn đầu tư (đối với hoạt động đầu tư); người nhận


tiền kiều hối; người xuất khẩu (đối với hoạt động ngoại thương);
hoặc là ngân hàng (đối với hoạt động chuyển tiền liên ngân hàng).
2.3. Ngân hàng:
Các ngân hàng có thể tham gia vào nghiệp vụ chuyển tiền với
hai vai trò:
 Vai trò trung gian và thu phí dịch vụ.
 Ngân hàng là chủ thể chuyển tiền hoặc nhận tiền để phục vụ
cho nhu cầu chuyển tiền của bản thân mình.
Phải có ít nhất hai ngân hàng tham gia vào quy trình của nghiệp
vụ chuyển tiền là ngân hàng đại diện cho người chuyển tiền (gọi là
ngân hàng chuyển tiền) và ngân hàng đại diện cho người hưởng lợi
(gọi là ngân hàng đại lý).
Để có thể thực hiện được việc chuyển tiền, giữa các ngân hàng
này phải có quan hệ đại lý với nhau. Có hai loại quan hệ đại lý:



Ngân hàng đại lý tài khoản: là ngân hàng mà ngân hàng chuyển
tiền có tài khoản tiền gửi tại đó. Các tài khoản này được gọi là
tài khoản NOSTRO và VOSTRO.
- Tài khoản NOSTRO: là tài khoản ngoại tệ của ngân hàng
nước mình để tại ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng đại lý
giữ tài khoản NOSTRO thường là ngân hàng của nước có


đồng tiền đó là bản tệ. Ví dụ: tài khoản NOSTRO của ngân
hàng Việt Nam bằng USD để tại một số ngân hàng ở Mỹ.
- Tài khoản VOSTRO: là tài khoản bằng đồng nội tệ của ngân
hàng nước ngoài để tại nước mình. Ví dụ: đối với một ngân
hàng Việt Nam, tài khoản VOSTRO là tài khoản VND của
ngân hàng Mỹ để tại ngân hàng Việt Nam.
Trong quá trình chuyển tiền quốc tế, việc hạch toán trên tài
khoản NOSTRO hay VOSTRO là tùy thuộc vào đồng tiền thanh
toán là nội tệ hay ngoại tệ. Nếu khách hàng muốn chuyển nội tệ ra
nước ngoài thì hạch toán Có vào tài khoản VOSTRO của ngân hàng
đại lý tại ngân hàng chuyển tiền. Nếu khách hàng muốn chuyển
ngoại tệ ra nước ngoài thì hạch toán Nợ vào tài khoản NOSTRO của
ngân hàng chuyển tiền tại ngân hàng đại lý.


Ngân hàng đại lý giao dịch: Ngân hàng chuyển tiền không có
tài khoản tiền gửi tại ngân hàng này mà chỉ thông qua các ngân
hàng đại lý giao dịch để thuận lợi trong việc trao đổi thư từ điện
tín và giao dịch với khách hàng.
Có bao nhiêu ngân hàng tham gia vào quy trình chuyển tiền phụ


thuộc vào mạng lưới ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền và
sự lựa chọn ngân hàng đại lý trả tiền của thanh toán viên. Nếu tại
nước người hưởng lợi có ngân hàng đại lý tài khoản của ngân hàng
chuyển tiền thì chỉ cần hai ngân hàng tham gia vào quy trình nghiệp
vụ chuyển tiền là ngân hàng chuyển tiền và ngân hàng đại lý tài


khoản của nó tại nước người hưởng lợi. Nếu tại nước người hưởng
lợi không có ngân hàng đại lý tài khoản của ngân hàng chuyển tiền
thì phải có ít nhất là ba ngân hàng tham gia vào quy trình chuyển
tiền là ngân hàng chuyển tiền, ngân hàng đại lý tài khoản của nó và
ngân hàng đại lý giao dịch của nó tại nước người hưởng lợi.


3. Quy trình nghiệp vụ.
NH chuyển
tiền

3

2

Người
chuyển tiền

NH đại lý

4

1


Người
hưởng lợi

(1) Giao dịch thương mại: Sau khi thỏa thuận đi đến ký kết hợp

đồng mua bán ngoại thương, người xuất khẩu thực hiện việc
cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho người nhập khẩu, đồng thời
chuyển giao bộ chứng từ hàng hóa cho người nhập khẩu.
(2) Người chuyển tiền viết lệnh chuyển tiền gửi đến ngân hàng

phục vụ mình. Trong trường hợp người chuyển tiền là người
nhập khẩu thì phải kiểm tra hàng hóa và bộ chứng từ hàng hóa
trước khi lập lệnh yêu cầu ngân hàng chuyển tiền.
(3) Ngân hàng tiến hành kiểm tra lệnh chuyển tiền và tài khoản của

người chuyển tiền, nếu hợp lệ và đủ khả năng thanh toán thì
ngân hàng thực hiện lệnh chuyển tiền đối ngoại qua ngân hàng
đại lý của mình tại nước người hưởng lợi. Tùy theo yêu cầu của
khách hàng, lệnh này có thể bằng thư hoặc bằng điện. Đồng
thời, ngân hàng chuyển tiền ghi Nợ tài khoản của người chuyển
tiền tại ngân hàng mình.


(4) Ngân hàng đại lý chuyển trả tiền cho người hưởng lợi bằng cách

báo Có tài khoản của người hưởng lợi.
Lưu ý: - Bước (1) chỉ áp dụng trong trường hợp thanh toán hàng
hóa xuất nhập khẩu.
- Nếu ngân hàng chuyển tiền để phục vụ yêu cầu của chính

mình thì chỉ cần thực hiện bước (3).
4. Trường hợp áp dụng
Chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn giản nhất, nội dung
của phương thức này là người chuyển tiền thông qua ngân hàng
chuyển tiền cho người hưởng lợi.
Phương thức chuyển tiền được áp dụng trong cả thanh toán mậu
dịch và thanh toán phi mậu dịch.
Chuyển tiền để thanh toán mậu dịch bao gồm chuyển tiền thanh
toán hàng hóa xuất nhập khẩu, chuyển tiền trong tín dụng, chuyển
tiền trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, điều chuyển vốn giữa các tổ
chức tài chính… Chuyển tiền trong ngoại thương có thể được thực
hiện trước lúc giao hàng (người mua ứng trước cho người bán),
ngay lúc giao hàng hoặc sau lúc giao hàng.
Chuyển tiền để thanh toán phi mậu dịch bao gồm chuyển tiền
trong hoạt động đầu tư, chuyển trả các khoản chi phí, chuyển tiền
kiều hối và các trường hợp khác theo yêu cầu của khách hàng.
Sử dụng phương thức thanh toán này có ưu điểm là thủ tục
thanh toán đơn giản, thời gian thực hiện nhanh và chi phí thường


không lớn. Tuy nhiên như đã nói ở trên, chuyển tiền là phương thức
thuộc nhóm thanh toán không kèm chứng từ nên mức độ rủi ro cho
người hưởng lợi cao do việc thanh toán có được thực hiện hay
không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người chuyển tiền. Vì vậy,
phương thức này phù hợp nhất khi hai bên có đã có quan hệ hợp tác
lâu dài, có sự tín nhiệm lẫn nhau và ngân hàng tham gia thanh toán
là ngân hàng có uy tín cao, khả năng thanh toán tốt.
Phương thức chuyển tiền hiện nay được áp dụng khá rộng rãi ở
các nước phát triển do những ưu điểm của nó. Nếu chỉ tính riêng
thanh toán hàng hóa xuất nhập khẩu thì tỷ trọng của phương thức

chuyển tiền đạt gần 30% giá trị thanh toán. Còn nếu tính trên giá trị
thanh toán quốc tế nói chung, phương thức chuyển tiền chiếm đến
hơn 70%.
Ở nước ta, chuyển tiền ít được sử dụng trong thanh toán ngoại
thương, chỉ khoảng 10% giá trị thanh toán hàng hóa xuất nhập khẩu
và thường tập trung ở một số ngân hàng thương mại có uy tín trên
thị trường quốc tế; khi thanh toán những hợp đồng có giá trị nhỏ
hoặc kết hợp với các phương thức thanh toán khác trong những hợp
đồng có điều kiện thanh toán hỗn hợp bằng nhiều phương thức khác
nhau; khi trả tiền ứng trước, tiền thừa, tiền bồi thường và những chi
phí mậu dịch liên quan đến xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, phương thức
này lại được áp dụng rất phổ biến trong các trường hợp thanh toán
phi mậu dịch như chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền đầu tư, viện trợ,
thanh toán các khoản phí…


Ngoài những trường hợp trên với vai trò là một phương thức
thanh toán độc lập, chuyển tiền còn là bước cuối cùng của tất cả
phương thức thanh toán quốc tế khác và là khâu không thể thiếu
trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của ngân hàng. Vì vậy nếu xét
theo nghĩa rộng là chuyển tiền trong thanh toán quốc tế thì đây là
nghiệp vụ được áp dụng rộng rãi nhất vì bản chất của thanh toán
quốc tế chính là chuyển tiền.
5. Rủi ro của phương thức chuyển tiền trong thanh toán quốc
tế.
Mỗi phương thức thanh toán đều có những ưu, nhược điểm nhất
định và các nhược điểm là mầm mống của rủi ro. Như đã phân tích
ở trên, chuyển tiền là một phương thức thanh toán đơn giản, trong
đó ngân hàng chỉ tham gia với vai trò trung gian mà không có một
sự ràng buộc nào. Chính vì vậy mà rủi ro đối với các bên thanh toán

cao, đặc biệt là trong thanh toán hàng hóa xuất nhập khẩu. Nhìn
chung, việc sử dụng phương thức chuyển tiền trong thanh toán quốc
tế thường gặp những rủi ro sau:


 Rủi ro đối với người bán và người mua trong thanh toán hàng
hóa xuất nhập khẩu.
- Đối với người bán:
∗ Hàng đã giao nhưng người mua chậm thanh toán hoặc
không thanh toán do gặp khó khăn về tài chính hoặc cố ý
chây ỳ trong việc thanh toán.
∗ Người mua từ chối nhận hàng khi giá cả thị trường có xu
hướng giảm, do đó sẽ không thực hiện việc thanh toán.
- Đối với người mua: nếu người mua sử dụng phương thức
chuyển tiền để mua hàng theo hình thức trả tiền trước khi
nhận hàng thì có thể gặp nhiều rủi ro.
∗ Người bán thiếu uy tín, giao hàng không đúng số lượng,
chất lượng theo hợp đồng.
∗ Người bán chậm giao hàng, chiếm dụng vốn của người
mua.
∗ Người bán không giao hàng do bị phá sản hoặc hủy hợp
đồng khi giá cả thị trường có xu hướng tăng.
 Rủi ro trong các nghiệp vụ thanh toán khác.
- Thanh toán nhầm người hưởng do sơ suất của ngân hàng, do
sự thiếu cẩn thận của người chuyển tiền hoặc do sự gian lận
của người nhận tiền.


×