Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

HOẠT ĐỘNG CHO VAY của NGÂN HÀNG THƯƠNG mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.27 KB, 32 trang )

Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Lời mở đầu
Trong mọi mặt của một đất nước thì kinh tế là một mặt vô cùng quan
trọng, sự phát triển của kinh tế sẽ khẳng định sự phát triển, vị thế của một đất
nước, góp phẩn ổn định chính trị xã hội, tằng tiềm lực quốc phòng, ổn điịnh và
nâng câo đời sống nhân dân, thúc đẩy quá trình mở rộng quan hệ quốc tế về mọi
mặt…
Ở Việt Nam, từ sau Đại hội Đảng sáu (1986) nền kinh tế đã chuyển từ chế
độ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ thời gian đó, nền kinh té nước
ta đã có sự khởi sắc rõ rết, và cho đến nay chóng ta đã đạt được nhiều thành tưu
to lớn.Cùng với quá trình hội nhập và phát triển kinh tế, Việt Nam đẫ phát triển
một nền kinh tế toàn diện, vững chắc,sự phát triển diễn ra ở tất cả các ngành,
lĩnh vực trong đó đặc biệt phải kể tới là lĩnh vực ngân hàng. Hệ thống ngân hàng
Việt Nam tuy được hình thành muộn nhưng đã có sự phát triển vượt bậc, nhất là
đối với các ngân hàng thương mại,mà hoạt đọng chủ yếu của nó là kinh doanh
tiền tệ. NHTM tiến hành huy động vốn trong nền kinh tế rồi cho vay,nguồn lợi
nhuận chủ yếu mà ngân hàng thu được chính là từ hoạt đọng cho vay, nó chiếm
khoảng 60% lợi nhuận của ngân hàng, các khoản cho vay luôn chiếm từ 60%
đến 80% toàn bộ tài sản có của ngân hàng. Lãi suất thu từ cá khoản cho vay
mới bù đắp được các chi phí bỏ ra của ngân hàng và nhuhững thiẹet hại do
người vay vốn không trả nợ.
Vậy ngân hàng đã tiến hành cho vay nh thế nào? Bằng các hình thức cho
vay gì? Nguyên tắc quản lý tiền cho vay là già? dể thu được lợi nhuận lớn nh
vậy. Để trả lời các câu hỏi đó nên em đã chọn đề taì này.
Do nhận thức còn hạn chế, nên trong bài viết còn có nhiều thiết sót, trình
bày chưa thật rõ ràng khoa học. Em rất mong được sự chỉ bảo của Cô để em có
thể hiểu rõ hơn trong vấn đề này.
Em xin chân thành cảm ơn Cô!


1


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

CHƯƠNG I: tổng quan về ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức kinh doanh chính quan trọng nhất,
và là một tổ chức thu hót tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng
triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều
gửi tiền tại ngân hàng. ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn bộ xã
hội. Thu nhập của ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia
đình. Ngân hàng là một tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá
nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước. Ngân hàng thực hiện các chính
sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong
chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế, xã hội.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế
nói chung và hệ thống tàI chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại
(NHTM) thường chiếm tỉ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng
các ngân hàng. vì vậy, muốn hiểu rõ hơn về NHTM, ta phải hiểu dược một số
vấn đề liên quan về NHTM.
1.1. Khái niệm :
lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử của nền
sản xuất hàng hoá. Có rất nhiều định nghĩa về ngân hàng, trong đó cách tiếp cận
then trọng nhất là ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng (các dịch vụ)
mà chúng thực hiện trong nến kinh tế. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một
kháI niệm chính xác về ngân hàng, ở mỗi nước cố một kháI niệm khác nhau. ở
đây, ta có thể có được một kháI niệm chung như sau:ngân hàng là một tổ choc
tàI chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tàI chính đa dạng nhất,đặc biệt là
tín dụng,tiết kiệm,dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tàI chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.

NHTM là một tổ chức trung gian tàI chính hoạt động trên lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ và cung cấp các dịch vụ ngân hàng.
Theo luật ngân hàng của nước ta:NHTM là một tổ chức giữ nhiệm vụ chủ
yếu là huy động tiền gửi, sử dụng tiền đó để cho vay và các hoạt động dịch vụ
ngân hàng khác.
2


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Từ kháI niệm đó ta có thể rót ra một số điểm đặc trưng sau:
-NHTM là một tổ chức được nhận tiền gửi của công chúng với trách
nhiệm hoàn trả lại
-NHTM là một tổ chức được sử dụng tiền gửi của công chúng để cho
vay,chiết khấu và thực hiện các dịch vụ khác.
1.2. Chức năng của NHTM:
1.2.1. Trung gian tài chính (TGTC):
NHTM là một tổ chức TGTC hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ
với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, nên chức năng TGTC là
chức năng cơ bản nhất của ngân hàng. Để thực hiện chức năng này đòi hỏi ngân
hàng phảI tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: thứ nhất là
các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi phí cho tiêu dùng và
đầu tư vượt quá thu nhập, và vì thế họ là những người cần bổ xung vốn (người
vay), thứ hai là các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chỉ tiêu, tức là thu nhập
hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có
tiền để tiết kiệm (người gửi tiền). Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức này
hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là chuyển tiền từ người gửi tiền
sang người vay tiền nếu cả hai cùng có lợi. Nh vậy thu nhập gia tăng là động lực
tạo nên mối quan hệ tàI chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều
kiện phảI quay trở lại một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định

thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn.
Trước kia mối quan hệ giữa hai bên là mối quan hệ trực tiếp, được gọi là quan
hệ tín dụng trực tiếp. Tuy nhiên, mối quan hệ tín dụng trực tiếp bị nhiều hạn chế
về quy mô, thời gian, không gian…. Điều này làm cản trở quan hệ trực tiếp phát
triển và là điều kiện nảy sinh TGTC. NHTM là một TGTC, huy động tiền nhàn
rỗi trong nền kinh tế sau đó cho vay, có thể nói NHTM là “cầu nối” giữa người
tiết kiệm và người đầu tư thực hiện chức năng TGTC. Do chuyên môn hoá,
NHTM có thể làm giảm chi phí giao dịch, chi phí thu nhập thẩm định thông tin,
sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành chứng

3


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

khoán Ýt rủi ro cho người gửi tiền, làm tăng thu nhập cho cả người gửi tiền và
người đầu tư:
+) Đối với người gửi tiền: họ sinh lợi được vốn tạm thời nhàn rỗi
của mình bởi lãI xuất tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ, được ngân hàng tạo ra
cho họ tiện Ých như sự an toàn hoặc cung cấp các phương tiên thanh toán.
+) Đối với người vay: sẽ thoả mãn được nhu cầu kinh doanh hoặc
chi tiêu, thanh toán mà khỏi tốn nhiều công sức, thời gian vào việc tìm kiếm nơI
vay tiền tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.
+) Đối với NHTM: Sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho bản thân mình
từ chênh lệch giữa lãI xuất cho vay và lãI xuất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới.
Lợi nhuận này chính là cơ sở tồn tại và phát triển của NHTM.
Thông qua chức năng TGTC làm cho đồng tiền quay vòng nhanh hơn,
tham gia vào quá trình sáng tạo của các vật chất cho nền kinh tế, những người có
vốn và cần vốn có thêm cơ hội để lùa chọn, giảI quyết mâu thuẫn giữa cung và
cầu vốn.

Chức năng này của Ngân hàng Thương mại thực sự huy động được sức
mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoa,
thực hiện các dịch vụ tiện Ých cho xã hội. Nếu nh không có Ngân hàng Thương
mại việc huy động của cải xã hội qúa trình sản xuất kinh doanh sẽ chậm đi rất
nhiều.
1.2.2. Tạo phương tiện thanh toán.
Trước kia phương tiện thanh toán chủ yếu là tiền kim loại, sau đó chuyển
dần sang giấy nợ rồi tiền giấy... Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao
gồm nhiều bộ phận, tiền giấy trong lưu thông, số dư tiền tài khoản tiền gửi tiết
kiệm và tiền gửi có kỳ hạn. Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện
thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân
hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản
tền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức là làm tăng số dư tiền gửi) của kế
hoạch khác tại ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi đó
không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự thừa, toàn bộ hệ
4


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

thống ngân hàng có thể tạo ra được khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh
toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay tạo(tạo tín dông).
Khối lượng tiền gửi mà hệ thống Ngân hàng tạo ra chịu tác động trực tiếp
của các nhân tố như tỷ lệ dư trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt bắt buộc, tỷ lệ thanh
toán bằng tiền mặt, tỷ lệ tiền gửi không phải là tiền gửi thanh toán.
1.2.3. Trung gian thanh toán.
Ở đâu hết các quốc gia Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn
nhát hiện nay. Thay mặt khách hàng, KH thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá
và dịch vụ. Các ngân hàng có thể thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu,
các loại thẻ... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung

cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các Ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù
trừ qua Ngân hàng Trung ương hoặc qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ
Ngân hàng này càng hiện đại vì vậy phạm vi thanh toán ngày càng rộng không
chỉ giữa các Ngân hàng trong nước mà còn giữa các Ngân hàng trên toàn thế
giới. Hiện nay thanh toán qua Ngân hàng là hình thức thanh toán quan trọng, có
hiệu quả, phục vụ đắc lực cho kinh tế toàn cầu. Chức năng trung gian thanh toán
mang lại một ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung.
- Hệ thống Ngân hàng Thương mại sẽ cung cấp cho các chủ thể của nền
kinh tế người những công cụ thanh toán mang tiện Ých cao nh: Thẻ thanh toán,
thẻ tín dụng, thẻ rút tiền, ngân phiếu, uỷ nhiệm chi, ủy nhiệm thu.
- Khi sử dụng các phương thức thanh toán, bản thân các chủ thể kinh tế sẽ
tiết kiệm được rất nhiều chi phí lao động, thời gian, lại an toàn. Hệ thống Ngân
hàng Thương mại lại tích tụ được nguồn vốn khổng lồ có thể mở rộng bằng tín
dụng của mình.
Có thể nói rằng hoạt động thanh toán của hệ thống Ngân hàng Thương
mại chiếm một vị trí quan trọng hoạt động của Ngân hàng Thương mại. Nó tạo
điều kiện cho nhiều dịch vụ ngân hàng khác phát triển dễ dàng hơn, tiết kiệmk
một khối lượng rất lớn tiền mặt trong lưu thông, qua chức năng trung gian thanh
toán thì vai trò của Ngân hàng Thương mại sẽ được nâng cao hơn với tư cách là
người thủ quỹ của xã hội.
5


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

1.3 Hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại .
1.3.1 Thay đổi tiền dự trữ.
Nói chung, các ngân hàng thu lợi nhuộn bằng cách bán những tài sản nợ
có một số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và dùng tiền
thu được để mua những tài sản có một số đặc tính khác. Như thế, các Ngân hàng

cung cấp một số dịch vụ chuyển một loại tài sản thành một loại tài sản khác cho
công chóng.
Quá trình chuyển các tài sản và cung cấp một loại dịch vụ (thanh toán séc,
ghi chép sổ sách, phân tích tín dụng...) cũng giống như bất cứ quá trình sản xuất
nào khác trong một hãng kinh doanh. Nếu một ngân hàng tạo ra những dịch vụ
hữu Ých với chi phí thấp và có được doanh thu nhờ vào tài sản của mình, thì
Ngân hàng đó thu được lợi nhuận. Hoạt động của Ngân hàng là huy động tiền
gửi và cho khách hàng vay hoặc khách hàng rút tiền gửi, lượng tiền này khi đưa
vào ngân hàng sẽ được chuyển vào khoản tiền dự trữ của Ngân hàng. Vì vậy khi
một Ngân hàng Thương mại nhận thêm tiền gửi, thì tiền dự trữ tăng thêm đúng
bằng số tiền gửi đó, khi tiền gửi rót ra, nó bị mất một số lượng tiền dự trữ đúng
bằng với số tiền gửi rót ra.
1.3.2. Tạo lợi nhuận từ việc cho vay.
Khi Ngân hàng nhận tiền gửi thì theo luận định Ngân hàng phải gửi dự trữ
bắt buộc một tỷ lệ nhất định trên tiền gửi đó. Phần còn lại được gọi là dự trữ
vượt mức. Vì tiền dự trữ không đem lại tiền tài, Ngân hàng không có thu nhập gì
từ sóo tiền gửi này, do đó muốn có lợi nhuận ngân hàng phải sử dụng toàn bộ
hoặc một phần số tiền dự trữ quá mức để cho vay hoặc đầu tư. Nh vậy, Ngân
hàng thu được một khoản tiền lãi từ việc cho vay do sử dụng những món tiền
gửi ngắn hạn để mua, tài sản dài hạn, hay có thể nói rằng Ngân hàng kinh doanh
theo kiều vay ngắn hạn và cho vay dài hạn.
1.4 Hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt nam.
Hoạt động Ngân hàng ở Việt nam ra đời vào vuối thế kỉ 19 (1875) với sự
ra đời của 2 Ngân hàng: Ngân hàng Đông Dương và Ngân hàng Pháp Hoa.
Nhưng hệ thống Ngân hàng Việt Nam chính thức ra đời ngày 6/5/1951 bởi sắc
6


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục


lệnh số 15 của Chủ tịch HCM ký, lấy tên gọi là Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
đến năm 1960 đổi thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tổ chức tín dụng đầu
tiên là tổ chức Nha tin dụng được thành lập năm 1951. Từ năm 1951 đến 1975
Việt Nam chia thành 2 miền Bắc -Nam, ở miền Bắc là mô hình Ngân hàng 1
cấp (là Ngân hàng duy nhất thuộc sở hữu Nhà nước, được tổ chức thành hệ
thống từ Trung ương đến địa phương, các thành phần kinh tế khác trong không
được phép thành lập Ngân hàng), còn ở miền Nam là mô hình Ngân hàng cấp 2
(Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm phát hành tiền thay mặt nhà nước để
quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, thanh toán ngoại hối và hoạt động Ngân
hàng. Còn lại các tổ chức tín dụng thực hiện kinh doanh tiền tệ, mục tiêu là lợi
nhuận), vì thời kỳ này nền kinh tế miền Nam vận hành theo cơ chế thị trường.
Từ 1975 - 1987, thống nhất đất nước, Ngân hàng vận hành theo mô hình
Ngân hàng 1 cấp, sau 1 thời gian vận hành theo mô hình này thấy rất nhiều
nhược điểm: Ngân hàng không sử dụng được các công cụ gián tiếp để sử dụng
đồng tiền trong lưu thông, sử dụng đồng vốn không hiệu quả, triệt tiêu ảnh cạnh
tranh kìm hãm phát triển, không thuận lợi cho các đối tượng muốn tham gia giao
dịch qua Ngân hàng. Cuìng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao
cấo sang cơ chế thị trường từ Đại hôị 6/1986, hệ thống Ngân hàng cũng tiến
hành đổi mới thí điểm vào năm 1987. Đến 26/3/1988 theo Nghị định 53 của Hội
đồng bộ trưởng ban hành chính thức chuyển hệ thống Ngân hàng Việt Nam vận
hành từ Ngân hàng 1 cấp sang Ngân hàng 2 cấp. Pháp lệnh Ngân hàng Nhà
nước, Pháp lệnh Ngân hàng - Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ban hành
1990 tạo điều kiện cho hệ thống Ngân hàng đổi mới một cách đáng kể, góp phần
quan trọng vào sử tăng trưởng kinh tế của đất nước. Pháp lệnh đã mở đường cho
sự phát triển các loại hình Ngân hàng tại Việt Nam gồm: Ngân hàng quốc
doanh, Ngân hàng Thương mại Cổ phần, Ngân hàng liên doanh giữa Việt nam
với nước ngoài, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Nhưng do được
xây dựng từ đầu những năm đổi mới, pháp lệnh đã không thể đáp ứng được
những nhu cầu phát triển của hệ thống tài chính ở Việt Nam những năm sau, do


7


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

đó quốc hội đã thông qua luật về Ngân hàng nhà nước và luật về các tổ chức tín
dụng tạo môi trường pháp lý mới cho sự phát triển của các ngân hàng.
Các Ngân hàng Thương mại mở rộng đối tượng phục vụ cho mọi thành
phần kinh tế, mở rộng thị trương, nhiều nghiệp vụ Ngân hàng mới được thực
hiện: Cầm đồ, chiết khấu, tài trợ, đấu thầu tín phiếu kho bạc... Nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt đông, các Ngân hàng Thương mại bỏ dần các trung gian, tách biệt
dần các chính sách và các hoạt động thương mại, tăng tính độc lập tương đối cho
các chi nhánh, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, tạo
lập các công ty con...
Được sù quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực Ngân
hàng, hệ thống Ngân hàng Thương mại đã thu được nhiều thành tựu lớn. Trong
cơ chế thị trường hiện nay, các chính sách của Nhà nước ngày càng được hoàn
thiện để tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động của các Ngân
hàng Thương mại, tạo ra những động lực mới cho sự phát triển của hệ thống
Ngân hàng Thương mại .

8


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Chương II Hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại
2.1 - Khái niệm.
Với Ngân hàng Thương mại hoạt động chủ yếu của Ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ, hay cũng có thể nói rằng Ngân hàng đi vay để cho vay.

Cho vay (hay còn gọi là tín dụng) là hoạt động quan trọng của Ngân hàng, là
hoạt động đem lại cho Ngân hàng một khoản lợi nhuận rất lớn, khoản mục cho
vay chiếm 1 tỷ trọng lớn trong tài sản của Ngân hàng (khoảng 70%) với quy mô
như vậy cho vay ảnh hưởng đến nhiều chiến lược hoạt động của Ngân hàng như
dự trữ, vay, đầu tư... Để hiểu rõ hơn về hoạt động cho vay của Ngân hàng
Thương mại trước hết ta phải tìm hiểu về khái niệm cho vay.
Trong quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì cho
vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng
một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận
với nguyên tắc hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Theo khái niệm đó trong chương này ta chỉ xét đến những khoản cho vy
tằng tiền chứ không xét đến cho vay bằng tài sản nguồn cung cấp chủ yếu cho
hoạt động cho vay của Ngân hàng là tiền huy động được trong nền kinh tế Ngân
hàng dùng tiền đó để cho vay khoản tiền này là khoản nợ đối với cá nhân hoặc
tổ chức nhận món tiền vay nhưng là một tài sản có đối với Ngân hàng và nó
mang lại thu nhập cho Ngân hàng. Trong các hoạt động của ngân hàng thì cho
vay là hoạt động đóng vai trò quan trọng và nó mang lại lợi nhuận chủ yếu cho
ngân hàng, trang trải cho mọi hoạt động của ngân hàng, cân đối giữa đầu vào và
đầu ra, khoản này Ngân hàng chủ yếu vào cho vay để trang trải cho các hoạt
động của Ngân hàng, cân đối giữa đầu vào và đầu ra hay có thể nói cho vay có
một vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương
mại.
2.2 Vị trí của khoản mục cho vay trong bảng cân đối tài sản.
Các khoản mục cho vay trong bảng cân đối tài sản Ngân hàng Thương
mại.
9


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục


Tiền dự trữ

Tiền gửi giao dịch

Tiền mặt trong quá trình thu

Tiền gửi phi giao dịch

Tiền gửi Ngân hàng khác

Tiền vay vốn ngân hàng

CK
Cho vay
Tài sản có khác
Tổng tài sản có
Tổng tài sản nợ
Cho vay là một hoạt động giữ vai trò quan trọng, nó được thể hiện ở chỗ,
khoản mục cho vay thông thường chiếm 1 tỷ lệ rất lớn khoảng từ 1/2 đến 3/4
trên tổng tài sản của Ngân hàng Thương mại, lãi suất cho vay lớn, vì thế lợi
nhuận đem lại từ cho vay là rất lớn khoảng 60% đây là nguồn đem lại lợi nhuận
chủ yếu cho Ngân hàng Thương mại. Tuy nhiên hầu hết rủi ro của Ngân hàng
đều nằm trong lĩnh vực cho vay, vì thế theo luật pháp các nước, ngày nay không
một ngày hàng nào được phép cho 1 người vay quá 15% vốn tự có của ngân
hàng. Nhìn vào bảng cân đối tài sản của một Ngân hàng Thương mại ta có thể
biết đưcợ Ngân hàng đó lớn hay nhỏ, hoạt động kinh doanh có phù hợp hiệu quả
hay không dùa vào khoản mục cho vay, tỷ lệ giữa tiền vay với các tài sản khác
và với tổng tài sản thông thường. Các Ngân hàng nhỏ thì tập trung cho vay tiêu
dùng và cho vay bất động tài sản, còn các Ngân hàng lớn thì lại tập trung cho
vay thương mại và công nghiệp. Sự chuyên môn hoá các loại cho vay thể hiện

sự khác nhau chủ yếu trong bảng cân đối tài sản của Ngân hàng Thương mại, ví
dụ Ngân hàng tiết kiệm và cho vay, Ngân hàng tiết kiệm tương chợ thì chuyên
cho vay thế chấp nhà ở, Ngân hàng công thương cho vay công nghiệp và thương
mại.
2.3- Phân loại cho vay.
Có rất nhiều căn cứ để phân loại cho vay, sau đây là một số căn cứ thường
thấy.
2.3.1 - Căn cứ theo thời gian.
Khi căn cứ theo thời gian thì cho vay được chia thành 3 loại. cho vay
ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn.
10


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

2.3.1.1- Cho vay ngắn hạn (tín dụng ngắn hạn).
Cho vay ngắn hạn là khoảng cho vay có thời hạn thương thường dưới 1
năm (có nước 2 năm) loại cho vay này nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc
nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất, Ngân
hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc cho vay gián tiếp, cho vay từng lần
hoặc theo hạn mức, có hoặc không cần tài sản đảm bảo, dưới hình thức chiết
khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.
Ngân hàng cho vay ngắn hạn theo các trường hợp sau:
- Ngân hàng cho nhà nước vay để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu thường
xuyên của Nhà nước. Hình thức phổ biến hiện nay là Ngân hàng mua trái phiếu
do kho bạc phát hành. Khả năng hoàn trả của Nhà nước rất cao, song cũng
không loại trừ những trường hợp nhà nước mất khả năng chỉ trả khi đến hạn.
Ngân hàng cho các tổ chức tài chính vay như ngân hàng, các công ty tài
chính, quỹ tín dụng... nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Một số công ty chứng
khoán vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Thương mại trong quá trình bảo lãnh và

phân phối chứng khoán cho Công ty phát hành. Hình thức cho vay có thể cho
vay trực tiếp (trên thị trường liên Ngân hàng) hoặc cho vay gián tiếp (thông qua
nắm giữ chứng khoán). Phần lớn các khoản vay này đều dùa trên uy tín của
người vay, phần còn lại dùa trên bảo lãnh của người thứ 3, hoặc dùa trên cầm cố
chứng khoản thanh khoản cao.
Ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp (DN) nhằm tài trợ nhu cầu vốn
tăng thêm cho sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp là khách hàng chiếm số lượng
đông nhất của Ngân hàng Thương mại. Phần lớn các khoản cho vay này có thế
chấp hoặc cầm cố tài sản.
Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu mua
sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển... cho vay tiêu
dùng có thể gồm tín dụng trực tiếp đối với người tiêu dùng, hoặc tín dụng gián
tiếp thông qua việc Ngân hàng mua lại các phiếu (hoá đơn) bán hàng của các
nhà bán lẻ hàng hoá. Tín dụng tiêu dùng gián tiếp còn được gọi là tài trợ bán
hàng trả góp.
11


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Để được vay vốn, trừ trường hợp nhà nước cơ quan nhà nước, các tổ chức
tài chính có uy tín, còn lại các doanh nghiệp, các Công ty và hộ sản xuất đều
phải làm đơn và trình bày với Ngân hàng kế hoạch sử dụng tiền vay. Ngân hàng
thực hiện phân tích tín dụng, xác định hiệu quả sử dụng vốn vay, rủi ro, khả
năng và nguồn trả nợ cùng các điều khoản có liên quan.
2.3.1.2 Cho vay (tín dụng) trung và dài hạn.
ở Việt Nam trung hạn là khoản cho vay có thời hạn 1 đến 2 năm còn cho
vay dài hạn là từ 2 năm đến 5 năm. ở một số nước khác thì cho vay trung hạn là
từ 2 năm đến 7 năm, còn cho vay dài hạn là trên 7 nam đến 15, 20, 30 năm.
Doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng trung và dài hạn để mua sắm trang

thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật, mua công nghệ... với sự phát triển nhanh
chóng của khoa học và công nghệ để tồn tại và phát triển nhu cầu vốn trung và
dài hạn ngày càng cao. Nhà nước vay trung và dài hạn để đầu tư phát triển. Vai
trò của Nhà nước trong phát triển ngày được nhấn mạnh đặc biệt tại các nước
đang phát triển, nơi mà khả năng tích lũy của các doanh nghiệp chưa cao.
Ngân hàng tiến hành cho vay trung và dài hạn bằng cách:
Cho vay bằng cách mua các trái phiếu, các Ngân hàng mua trái phiếu
trung và dài hạn doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình thành tài sản cố
định. Kỳ hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi xuất trái phiếu, tình hình
tài chính doanh nghiệp, các kế hoạch tương lai... đều được Ngân hàng tính toán
khi mua trái phiếu.
Cho vay theo dự án: Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài
sản cố định... nhằm thức hiện dự án nhất định, có thể xin vay Ngân hàng. Một
trong những yêu cầu của Ngân hàng hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể
hiện mục đích, kế hoạch đầu tư còng nh qúa trình thực hiện dự án (sản xuất kinh
doanh). Thẩm định dự án là điều kiện để Ngân hàng quyết định phần vốn cho
vay và khả năng hoàn trả của Doanh nghiệp.
Thời hạn cho vay trung hạn căn cứ vào thời gian khấu hao các tài sản cố
định dùng để đảm bảo cho khoản vay, đó là những máy móc công cụ, thiết bị
nhá.
12


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Tín dông trung hạn thích hợp với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ nên được
các Doanh nghiệp này hưởng ứng ngày càng nhiều.
Thời hạn cụ thể của một khoản cho vay dài hạn được xác định tuỳ theo
thời hạn khấu hao các bất động sản thế chấp nhằm tài chợ cho Doanh nghiệp
mua sắm máy móc, công cụ mới thay thế cho công cụ cũ lạc hậu phải dỡ bỏ, xây

dựng công trình thuỷ lợi...
Do thị trường tín dụng có nhiều biến động thất thường rất khó lường trước
được, nên thơì hạn cho vay càng dài, hệ số rủi ro của tín dụng càng lớn. Khi cho
vay dài hạn, Ngân hàng phải hết sức thận trọng, thường xuyên theo dõi, kiểm
soát chặt chẽ việc sử dụng số tiền đã cho vay cũng như phải có hạn mức tín dụng
hợp lý và những tài sản đảm bảo tương ứng với số dư nợ của người đi vay.
2.3.2. Căn cứ theo tính chất đảm bảo.
2.3.2.1. Cho vay có đảm bảo.
Loại cho vay này áp dụng trong trường hợp Ngân hàng chưa thực sự tin
tưởng vào khả năng kinh doanh và tình hình tài chính của người đi vay, nên đỏi
hỏi người đi vay phải có tài sản đảm bảo cho khoản vay. Có các hình thức phổ
biến sau:
+ Nghiệp vụ triết khấu các chứng từ ghi nợ: Nghiệp vụ này phát sinh khi
chứng từ chưa đến kỳ hạn thanh toán, nhưng người sở hữu nó đang cần vốn và
sẽ đem đến Ngân hàng xin triết khấu. Ngân hàng sẽ kiểm tra tính hợp pháp và
năng lực thanh toán của chứng từ, nếu chấp thuận sẽ thông báo mức lãi xuất triết
khấu và mức hoa hồng.
Trường hợp người sở hữu chứng từ đồng ý sẽ chuyển nhượng quyền đòi
tiền trên chứng từ cho Ngân hàng sau khi nhận được phần giá trị còn lại của
chứng từ, còn nếu người sở hữu không đồng ý bán cho Ngân hàng thì có thể xin
vay triết khấu.
+ Nghiệp vụ cho vay cầm cố:
Ngân hàng có thể cho vay khi người đi vay có tài sản cầm cố tại Ngân
hàng dưới các hình thức như: Vật tư hàng hoá, các chứng từ có giá, vàng bạc,
đá quý, ngoại tệ. Ngân hàng sẽ cho vay không vượt quá 50 - 70% tài sản cầm cố.
13


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục


Ngân hàng sẽ quản lý tài sản cầm cố trong suốt thời hạn nợ và chỉ hoàn lại khi
thu đủ gốc và lãi. Nếu khách hàng cho vay không có khả năng thanh toán khi
đến hạn, Ngân hàng có quyền lập hồ sơ xin phát mãi tài sản để thu nợ.
Kết cấu: Nghiệp vụ cho vay thế chấp tài sản:
Ngân hàng sẽ cho vay nếu người vay có giâý tờ chính thực quyền sở hữu
về bất động sản đem thế chấp. Nghiệp vụ này tương tù nh cho vay cầm cố, chỉ
khác là người vay vẫn được sử dụng tài sản thế chấp và Ngân hàng chỉ nắm giữ
hồ sơ gốc.
+ Nghiệp vụ cho vay có bảo hành: Phát sinh trong điều kiện bên vay
không đủ điều kiện vay vốn và Ngân hàng đòi hỏi phải có một chủ thể thứ 3
đứng ra bảo lãnh. Bên bảo lãnh sẽ lập hồ sơ bảo lãnh tại ngân hàng và cam kết
hoàn trả nợ nếu bên vay không có khả năng thanh toán, Ngân hàng cũng có thể
đề nghị bên bảo lãnh phải có tài sản cầm cố hoặc thế chấp tại Ngân hàng.
2.3.2.2. Cho vay không đảm bảo.
Đây là loại cho vay được Ngân hàng áp dụng với các khách hàng có uy tín
đã có quan hệ thường xuyên với Ngân hàng hoặc những Doanh nghiệp có quy
mô lớn.
Do đó, mặc dù không cần bảo đảm, nhưng bản thân uy tín quy mô, thanh
danh của khách hàng đã là tín chấp với Ngân hàng. Cho vay không đảm bảo là
loại tín dụng trung hạn và tiêu dùng như cho nông dân vay vốn mua sắm máy
móc nông nghiệp, cải tạo đất, cơ cấu lại cây trồng vật nuôi, cho sinh viên vay
tiền để bù đắp sinh hoạt, đến khi nông dân có thu nhập, sinh viên có việc làm sẽ
trả nợ dần Ngân hàng theo định kỳ: 1 tháng hay 2 tháng, 3 tháng một lần, mỗi
lần trả 1 phần vốn và lãi.
Cùng với cho vay không đảm bảo ở Việt Nam còn có cho vay xoá đói
giảm nghèo, cho vay các gia đình chính sách, cho vay các tổ chức sản xuất của
những người khuyết tật như Hội người mù...

14



Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

2.2.3 Theo nghiệp vụ tín dụng:
2.2.3.1 Thấu chi.
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho phép người vay
được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Giới hạn này gọi là giới hạn thấu
chi.
Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin Ngân hàng hạn mức thấu
chi và thời gian thấu chi. Trong thời gian hoạt động, khách hàng có thể ký séc,
lập uỷ nhiệm chi... vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (trong hạn mức thấu chi).
Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, Ngân hàng sẽ thu nợ gốc và
lãi. Các khoản chi quá mức thấu chi sẽ trừ lãi xuất phạt và bị đình chỉ sự dụng
hình thức này.
Hình thức cho vay thấu chi tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong
quá trình thanh toán: Chủ động, nhanh, kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng
ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn không có đảm bảo, có thể cấp
cho cả doanh nghiệp, cá nhân. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các
khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
2.3.2.2 Cho vay trực tiếp từng lần.
Đây là hình thức cho vay tương đối phổ biến của Ngân hàng đối với các
khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được
cấp hạn mức thấu chi.
Mỗi lần khách hàng vay thì cần phải làm đơn và trình Ngân hàng phương
án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho
vay xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và tài
sản đảm bảo nếu cần. Mỗi khoản vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ khác
nhau
Theo từng hạn nợ trong hợp đồng, Ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong qúa

trình khách hàng sử dụng tiền vay. Ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu
quả.
2.3.3.3 Cho vay theo hạn mức.
15


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Cho vay theo hạn mức là nghiệp vụ tín dụng theo đó Ngân hàng cấp cho
khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụngcó thể tích cho cả kỳ hoặc cuối
kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở
kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu va vốn của khách hàng.
Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ
không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp Ngân hàng quy định
hạn mức cuối kỳ, do đó dư nợ trong kỳ có thể vượt quá hạn mức nhưng cuối kỳ
khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuố kỳ không được vượt
quá hạn mức.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh
doanh. Trong nghiệp vụ này, Ngân hàng không xác định trước kỳ hạn nợ và thời
hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập, Ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ
động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Do các lần vay không tách biệt thành
các kỳ hạn nợ cụ thể nên Ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần
vay. Ngân hàng chỉ phát hiện được vấn đề khi Ngân hàng báo cáo tài chính dư
nợ lâu không giảm sót.
2.3.3.4. Cho vay luân chuyển.
Là nghiệp vụ cho vay dùa trên luân chuyển hàng hoá. Doanh nghiệp khi
mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng sẽ cho vay để Doanh nghiệp mua hàng và
thu nợ khi bán hàng. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân
chuyển, Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn

mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín
dụng có thể được thoả thaụan trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là
thời hạn hoàn trả mà là thời hạn Ngân hàng xem lại mỗi quan hệ với khách hàng
và tình hình tài chính của khách hàng.
Việc cho vay dùa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả Ngân hàng lẫn
Doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự toán
dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tùy
theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ vẫn của người vay. Các khoản phải
16


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

thu và cả hàng hoá trong kho của Doanh nghiệp trở thành vật đảm bảo cho
khoản vay.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các Doanh nghiệp thương
nghiệp hoặc Doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiệu thụ ngắn ngày, có quan hệ
vay trả thường xuyên với Ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần
thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng vốn kịp thời và vay
thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Nếu khách hàng gặp khó khăn
trong tiêu thụ thì Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn
của khoản vay không được quy định rõ ràng.
2.3.3.5. Cho vay trả góp.
Là hình thức cho vay mà Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm
nhiều lần trong thời hạn cho vay đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp
dụng với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng
lâu bền, số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ.
Ngân hàng thường cho vay đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất
định.

Cho vay trả góp thường có rủi ro cao do khách hàng thế chấp bằng hàng
hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người
vay. Chính rủi ro cao lên lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong khung
lãi suất cho vay của Ngân hàng.
2.3.3.6 Cho vay gián tiếp.
Phần lớn cho vay của Ngân hàng là cho vay trực tiếp, tuy nhiên bên cạnh
đó Ngân hàng còn có các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay
thông qua tổ chức trung gian. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu sang tổ
chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay... tổ chức trung gian cũng có thể đứng
ra tín chấp cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho
1 thành viên vay.

17


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Ngân hàng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào
của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử
dụng tiền sai mục đích.
Cho vay gián tiếp thường áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ,
người vay phân tán, cách xa Ngân hàng, thông qua trung gian có thể tiếp cận chi
phí cho vay, giảm bớt rủi ro. Tuy nhiên cũng có nhiều khuyết điểm, nhiều trung
gian đã lợi dụng vị thế của mình và nếu Ngân hàng không kiểm soát tốt sữ tăng
lãi suất, hoặc giữ lại số tiền của các thành viên cho riêng mình, các nhà bán lẻ có
thể bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
2.3.4 Theo mục đích cho vay.
2.3.4.1 Cho vay công nghiệp và thương mại.
Loại cho vay này còn gọi là tín dụng công thương nghiệp, trong loại tín
dụng này, hầu hết các khoản cho vay đều đưcợ cấp thẳng cho các công ty,

Doanh nghiệp, Doanh nghiệp công thương nghiệp lớn, vừa và nhỏ. Các khoản
cho vay này là một loại tài sản có thanh khoản kém không thể bán, chuyển
nhượng hoặc thế chấp được và có mức rủi ro cao, nhưng chúng đem lại nhiều lợi
tức cho Ngân hàng, vì vậy các khoản cho vay công nghiệp và thương mại chiếm
phàn lớn trong tổng tài sản có của các Ngân hàng.
Tín dụng công thương nghiệp bao gồm các khoản cho vay ngắn hạn về
vốn lưu động (cho vay hỗ trợ ngân quỹ) và các khoản cho vay trung, dài hạn về
vốn cố định. Các khoản cho vay ngắn hạn về vốn lưu động gồm có tín dụng
vãng lai (cho vay theo tài khoản vãng lai) tín dụng chấp nhận (chiết khấu thương
phiếu) và tín dụng thế chấp. Cho vay trung và dài hạn để đầu tư vào tài sản cố
định nh thuê mua đất, xây dựng cơ bản trong lâm, nông, ngư nghiệp. xây dựng
nhà xưởng, kho tàng, bến bãi, cảng, mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện sản
xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng.
2.3.4.2 Cho vay nông nghiệp.
Ở Việt Nam hiện nay, cho vay nông nghiệp có vai trò quan trọng trong
việc tài trợ cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân, góp phần cơ cấu lại nền

18


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

kinh tế nông nghiệp, phát triển kinh tế hàng hoá, cung ứng lương thực thực
phẩm và các sản phảm nông nghiệp.
Đối tượng của cho vay nông nghiệp là các hộ gia đình nông dân (nông hộ)
các chủ trang trại, các Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông, lâm ngư nghiệp
xuất khẩu. Các khoản tín dụng nông nghiệp chủ yếu là cho vay đối với hạng trục
triệu nông hộ, giúp nông dân có vốn mua sắm giống cây trồng, gia súc, thực
phẩm chăn nuôi. Tín dụng nông nghiệp còn gồm các khoản cho vay trung, dài
hạn như: Cơ cấu lại cây trồng, cải tạo đồng ruộng vườn cây, mua sắm công cụ

sản xuất... các nông hé nghèo còn được vay xoá đói giảm nghèo, xoá nợ mỗi
khi gặp rủi ro hoặc thiên tai.
Tín dụng nông nghiệp còn 06 nhiệm vụ tạo điều kiện giúp đỡ nông dân
chuyển dịch cơ cấu sản xuất, chuyên môn hoá sản xuất các nông sản có giá trị
xuất khẩu, khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống, phát triển cơ sở hạ
tầng nông thôn....
Với khoản cho vay này, Ngân hàng đặt ra một sô nguyên tắc và điều kiện
vay vốn nhất định. Khách hàng đủ điều kiện thì có thể vay ngân hàng và phải
tuân thủ theo nguyên tắc do Ngân hàng đặt ra. Hé vay vốn phải chịu sự kiểm tra,
giám sát của tổ chức tín dụng trong và sau khi nhận được tiền vay, phải cung cấp
các số liệu cần thiết liên quan đến việc vay vốn.
2.3.4.3. Cho vay tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng là loại cho vay cá nhân đang có xu hướng phát triển
nhằm giúp người vay tiền giải quyết các nhu cầu cấp bách, đồng thời còn là
phương tiện cải thiện sức sống của người tiêu dùng, khuyết khích họ tiêu dùng
một loại hàng hoá nào đó mà chưa có khả năng chi trả. Những người sử dụng tín
dụng tiêu dùng thường là những người có thu nhập từ trung bình trở lên. Nhu
cầu tín dụng thường là các khoản vay để mua, sửa chữa, cải tạo nhà ở, mua sắm
ô tô, xe máy, các phương tiện thông tin, sinh hoạt phí của sinh viên.
Cho vay tiêu dùng được chia làm 2 loại: ch vay tiêu dùng trực tiếp và cho
vay tiêu dùng gián tiếp.

19


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Cho vay tiêu dùng trực tiếp gồm: cho vay trả theo định kỳ, cho vay trả từ
tài khoản vãng lai và cho vay trả qua thẻ tín dông.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp được thực hiện bằng cách Ngân hàng mua

các phiếu bán hàng của các cửa hàng bán lẻ nh vậy chính là cách cho vay trả góp
của Ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng rủi ro rất cao. Nếu người vay bị chết ốm, thất nghiệp
thì Ngân hàng khó thu được nợ, Nhiều khoản vay với thời hạn dài (mua nhà bếp
thế chấp). Vì vậy, nhiều Ngân hàng lớn lập phòng cho vay tiêu dùng để chuyên
theo dõi cho vay tiêu dùng. Bên cạnh đó Ngân hàng thương yêu cầu lãi suất cao,
người vay phải mua bảo hiểm thất nghiệp, nhân thọ, bảo hiểm hàng hoá đã
mua...
2.3.4.4 Cho vay kinh doanh bất động sản.
Các Ngân hàng tiến hành cho vay bất động sản nhằm tài trợ cho việc mua
những tài sản thực: nhà cửa khu căn hộ, trung tâm bán, khu văn phòng, nhà kho,
đất đai, các cơ sở vật chất khác. Cho vay bất động sản là một lĩnh vực mà bản
thân nó chứa đựng một sự khác biệt quan trọng so với các dạng cho va khác của
Ngân hàng. Trong hoạt động Ngân hàng, cho vay bất động sản có thể là những
món cho vay xây dựng ngắn hạn cũng có thể là những khoản thế chấp dài hạn để
cung cấp một nguồn tài chính lâu dài cho việc mua lại một tài sản hoặc cải tạo,
nâng cấp chúng. Cho vay vất động sản ngày càng phát triển nhanh chóng. Tuy
nhiên hình thức cho vay bất động sản là một trong những hình thức rủi ro nhất
trong hoạt động tín dụng Ngân hàng.
Với hình thức cho vay bất động sản, quy mô trung bình của vay thường
lớn hơn nhiều quy môn trung bình của các món vay khác đặc biệt là cho vay tiêu
dùng và cho vay kinh doanh nhỏ. Có những khoản cho vay bất động sản có thời
gian khá dài, do đó rủi ro cao vì có nhiều vấn đề có thể xảy ra. Trong suốt kỳ
hạn của món vay. Để cho vay bất động sản Ngân hàng phải chú ý đến giá trị và
tình trạng tài sản của người vay, sự đánh giá chính xác tài sản là rất quan trọng
đối với Ngân hàng.
2.3.4.5 Các hình thức cho vay khác.
20



Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Ngoài các hình thức đã nêu ở trên còn có một số hình thức khác cho vay
khác như:
- Tín dụng ngoại thương: các khoản cho vay xuất khẩu và nhập khẩu hàng
hoá. Đối với các Doanh nghiệp nhập khẩu: Ngân hàng cho vay bằng cách chiết
khấu hối phiếu, ứng trước.
Đối với các Doanh nghiệp nhập khẩu: Ngân hàng cấ tín dụng cho các
Doanh nghiệp này bằng cách cho vay để mở thư tín dụng, bán chịu hàng (thể
hiện qua hệ tín dụng giữa Công ty xuất khẩu và Công ty nhập khẩu, nhưng thực
chất là khoản tín dụng chiết khẩu của Ngân hàng).
- Tín dụng Ngân hàng (các Ngân hàng cho nhay vay) dưới các hình thức
như cho vay bằng tài khoản ứng trước, dư nợ trên tài khoản vãng lai, tín dụng
khoản chấp nhận, cho vay tài chính.
- Tín dụng hỗn hợp giữa Nhà nước và tư nhân: là hình thức cho vay (hoặc
tài trợ) giữa chính phủ nước này với chính phủ nước khác.

21


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Chương III: Các nguyên tắc quản lý tiền cho vay
Như đã trình bày ở các phần trước, hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng
Thương mại là hoạt động kinh doanh tiền tệ, Ngân hàng huy động vốn trong
nền kinh tế rồi tiến hành vay một phần tài sản để kiếm lợi nhuận. Vì tài sản của
Ngtân hàng được hình thành từ việc đi vay nên vấn đề quản lý tài sản là một vấn
đề quan trọng, mục tiêu chủ yếu của Ngân hàng là tối đa hóa lợi nhuận của
Ngân hàng trên cơ sở đảm bảo an toàn, để thu được lợi nhuận cao từ tài sản cho
vay Ngân hàng cần thực hiện các món cho vay có hiệu quả và chúng phải được

hoàn trả đầy đủ. Việc Ngân hàng cho khách hàng vay phải dùa trên điều kiện
Ngân hàng phải biết được về khách hàng, nắm được những thông tin cần thiết
về phía khách hàng như khách hàng đó là người kinh doanh mạo hiểm hay
không, kết quả kinh doanh của khách hàng đó tốt hay không, quan hệ của khách
hàng đó với các Ngân hàng khác như thế nào... Để thực hiện các món cho vay
có hiệu quả Ngân hàng cần phải biết được một số rủi ro khi tìm hiểu khách
hàng và tiến hành cho khách hàng vay tiền . Đó là: Trong thị trường cho vay nảy
sinh sự lùa chọn đối nghịch và những người rất kém tín nhiệm (những người rất
dễ không trả món nợ vay của mình) lại là những người thường sắp hàng để vay
tiền: Nói một cách khác những người dễ có thể tạo ra một kết cục đối nghịch
nhất lại có thể dễ được lùa chọn nhất. Những người vay tiền với những dự án
đầu tư rất rủi ro có nhiều cái để được lợi nếu các dự án cuả họ thành công và nh
vậy họ là người khao khát nhận được món vay nhất. Tuy thế, rõ ràng họ là
những người vay tiền Ýt được ưa chuộng nhất bởi vì có nhiều khả năng hơn
rằng họ sẽ không thể hoàn trả được các món nợ của họ. Rủi ro đạo đức nảy sinh
trong các thị trường vay nợ bởi vì những người vay tiền có ý muốn thực hiện
những hoạt động không mong muốn (không có đạo đức) theo quan điểm của
người cho vay. Trong những tình trạng như vậy, dễ có thể là người cho vay này
sẽ bị đặt vào sự rủi ro về vỡ nợ. Một khi những người vay đã có món tiền vay,
22


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

họ dễ có thể đầu tư vào những dự án có rủi ro cao. Những dự án đem lại lợi tức
cao cho những người vay tiền nếu thành công. Tuy nhiên sự rủi ro cao này khíên
họ có khả năng hoàn trả lại món tiền vay.
Để có lợi nhuận, các Ngân hàng phải vượt qua những vấn đề để lùa chọn
đối nghịch và rủi ro đạo đức này, những vấn đề khiến cho sự vỡ nợ có thể xảy
ra. Sự cố gắng của các Ngân hàng để giải quyết những vấn đề này giúp giải

thích những nguyên lý các món tiền cho vay sau đây: Sàng lọc giám sát, thiết lập
mối quan hệ khách hàng lâu dài và quy tắc tín dụng, vật thế chấp và số dư bù,
hạn chế tín dụng, vốn Ngân hàng và tính tương hợp ý muốn.
3.1. Sàng lọc và giám sát:
Thông tin không cân xứng có mặt trong các thị trường cho vay bởi vì
những người cho vay có Ýt thông tin về những cơ hội đầu tư và những hoạt
động của người cho vay tiền làm. Tình trạng này đưa đến 2 hoạt động sản xuất
thông tin do các ngân hàng thực hiện: sàng lọc và giám sát.
3.1.1. Sàng lọc:
Lùa chọn đối nghịch trong các thị trường chovay đòi hỏi rằng các ngân
hàng phải lọc những người mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng tốt ra khỏi
những người mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng xấu, nhờ vậy các món tiền
cho vay sẽ có lợi nhuận cho các ngân hàng đó. Nhằm thựchiện việc sàng lọc một
cách có hiệu quả, các ngân hàng phải tập hợp thông tin tin cậy về những người
vay tiền có triển vọng. Sàng lọc một cách có hiệu quả và tập hợp thông tin, tạo
ra một nguyên tắc quan trọng của việc quản lý món tiền cho vay.
Khi ngân hàng tiến hành cho vay tiêu dùng đối với một cá nhâ, ngân hàng
phải yêu cầu cá nhân đó ký vào các mẫu đơn, mẫu đơn này nhằm tìm hiểu
những thôn tin về tình hình tài chính của cá nhân đó, như là: lương các tài khoản
ngân hàng, tài sản của cá nhân, số năm làm việc… ngoài ra, ngân hàng còn hái
thêm về tuổi tác, gia đình, tình trạng hôn nhân và số con của họ. Ngân hàng
dùng những thông tin này để đánh giá xem cá nhân đó là người mạo hiểm vay
tín dụng tốt đến mức nào, dùng nó làm dự báo xem liệu cá nhân đó có khó khăn
trong việc thanh toán món tiền vay hay không. Người phụ trách cho vay còn có
23


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

thể đến nhà, nơi làm việc để tìm hiểu thêm những thông tin về cá nhân, và có thể

dùa vào thái độ của người đến vay để phán đoán, xem xét xem có cho vay hay
không.
Quá trình sàng lọc và tập hợp thông tin là tương tự khi ngân hàng thực
hiện một món cho vay kinh doanh. Nó tập hợp thông tin về thu nhập( lợi nhuận
và tổn thất) của Công ty, về tài sản có và tài sản nợ của Công ty đó. Ngân hàng
cũng cần đánh giá cụ thể về kết quả có thể của vụ kinh doanh này trong tương
lai. Ngân hàng cần thu được những thông tin về doanh số bán, cách sử dụng
món tiền vay, sự cạnh tranh của Công ty…
Dù đối với các món cho vay cho cá nhân hay cho kinh doanh, các ngân
hàng cũng đều phải tinh tường. Chuyên môn hoá trong việc cho vay cũng giúp
cho NHTM sàng lọc được khách hàng và lùa chọn được dự án cho vay tốt. Việc
chuyên môn hoá đã tạo ra mét ý nghĩa hoàn hảo: Ngân hàng có thể thu được
thôn tin rõ ràng đối với khách hàng quen, giảm bớt chi phí về thu thập thông tin
có khả năng dự báo tốt hơn đối với khả năng thanh toán cuả khách hàng.Tuy
nhiên,chuyên môn hoá tạo ra một việc khó xử là ngân hàng không đa dạng hoá
được các danh mục cho vay, không mở rộng được khách hàng, như vậy ngân
hàng đang đặt bản thân trước nhiều rủi ro hơn.
3.1.2 Giám sát.
Khi một món tiền cho vay được thực hiện,người vay có ý muốn tiến hành
những hoạt động rủi ro để món tiền vay này Ýt có khả năng được thanh toán. Để
giảm bớt tính chất có thể như vậy của rủi ro đạo đức, các ngân hàng phải theo
nguyên lý quản lý tiền vay, cácNHTM phải đưa ra hợp đồng(khế ước vay tiền).
Trong các hợp đồng này thường có những điều khoản nhằm hạn chế những
người vay tiền không được thực hiện những hoạt động rủi ro. Bằng cách giám
sát những hoạt động của người vay để xem liệu họ có tuân theo những hạn chế
đó hay không, và bằng cách cưỡng chế thi hành những quy định hạn chế nếu họ
không tuân theo, các ngân hàng có thể đảm bảo chắc chắn rằng những người vay
đang không làm những việc rủi ro bằng các món tiền mà ngân hàng cho vay.

24



Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Sự cần thiết thực hiện việc sàng lọc và giám sát của ngân hàng giải thích
vì sao các ngân hàng có những thành công lại phải chi nhiều cho các hoạt động
nghe và tập hợp thông tin.
3.2 Quan hệ khách hàng lâu dài và quy tắc tín dụng.
Một cách nữa để các ngân hàng thu được thông tin về những người vay
tiền của họ là nhờ quan hệ khách hàng lâu dài- một nguyên lý quan trọng khác
của việc quản lý ngân hàng.
Nếu một người có triển vọng vay tiền đã có một tài khoản séc, tài sản tiết
kiệm hoặc các món vay khác với một ngân hàng qua một thời gian dài, người
cho vay có thể nhìn vào hoạt động quá khứ đối với các tài khoản đó và biết được
một số thông tin về người vay tiền này. Những số dư trong các tài khoản séc và
tài khoản tiết kiệm cho ngân hàng biết được tiềm năng của người vay tiền, cũng
như việc trả các khoản vay cò cho ngân hàng biết được tư cách của người vay.
Nh thế, những quan hệ khách hàng lâu dài giảm được rủi ro tín dụng tốt và xấu.
Sự cần thiết giám sát của ngân hàng cũng góp thêm vào tầm quan trọng
của quan hệ khách hàng lâu dài. Với những khách hàng đã quan hệ lâu dài với
ngân hàng thì ngân hàng có sẵn những thông tin và phương thức giám sát khách
hàng đó, do vậy các chi phí thu thập thông tin và chi phí giám sát khách hàng sẽ
giảm đi, vì thế những khách hàng này sẽ dễ được vay với mức lãi suất thấp hơn
các khách hàng khác.
Quan hệ khách hàng lâu dài làm lợi cho khách hàng cũng như cho ngân
hàng.Đối với ngân hàng thì không một ngân hàng nào có thể nghĩ được hết mọi
sự bất ngờ khi nó viết ra những quy định hạn chế vào một hợp đồng cho vay, sẽ
luôn có những hoạt động rủi ro của người vay tiền mà chưa có mét quy định
hạn chế nào loại bỏ được. Tuy nhiên nếu người vay tiền muốn giữ quan hệ lâu
dài với ngân hàng thì họ sẽ có ý tránh những hoạt động rủi ro để không làm phật

lòng ngân hàng. Vì nếu khi ngân hàng không thích những hoạt động mà người
vay tiền đang làm ngay cả khi họ không vi phạm những điều quy định hạn chế,
thì ngân hàng có thể đe doạ không cho người vay này vay những món vay mới
trong tương lai. Do vậy, quan hệ khách hàng lâu dài giúp ngân hàng có thể đối
25


×