Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Một số biện pháp nhằm hoàn thiện tổ chức kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty cổ phần quốc tế rb

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.79 KB, 110 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước ta hiện nay, có tổ
chức kinh tế, doanh nghiệp có quyền tổ chức và thực hiện hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình một cách độc lập tự chủ theo quy định của pháp luật. Họ phải tự
hạch toán và đảm bảo doanh nghiệp mình hoạt động có lợi nhuận, và phát triển lợi
nhuận đó, từ đó nâng cao lời ích của doanh nghiệp mình hoạt động có lợi nhuận,
và phát triển lợi nhuận đó, từ đó nâng cao lợi ích của doanh nghiệp , của người lao
động. Đối với nhân viên, tiền lương là khoản thù lao của mình sẽ nhận được sau
thời gian làm việc làm tại công ty. Còn đối với công ty đây là một phần chi phí bỏ
ra để có thể tồn tại và phát triển được. Một công ty sẽ hoạt động có kết quả tốt khi
kết hợp hài hòa hai vấn đề này,
Do vậy, việc hạch toán tiền lương là một trong những công cụ quản lý quan
trọng của doanh nghiệp. Hach toán chính xác chi phí về lao động có ý nghĩa cơ sở,
căn cứ để xác định nhu cầu về số lượng, thời gian lao động và xác định kết quả lao
động. Qua đó nhà quản trị quản lý được chi phí tiền lương trong giá thành sản
phẩm. Mặt khác công tác hạch toán chi phí về lao động cũng giúp việc xác định
nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước. Trong thực tế, mỗi doanh nghiệp có
đặc thù sản xuất và lao động riêng, cho nên cách thức hạch toán tiền lương và các
khoản trích theo lương ở mỗi doanh nghiệp cũng sẽ có sự khác nhau. Từ sự khác
nhau này mà có sự khác biệt trong kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế hiện nay, tuỳ theo đặc điểm của mỗi doanh
nghiệp mà thực hiện hoạch toán tiền lương sao cho chính xác, khoa học, đảm bảo
lợi ích cho doanh nghiệp và người lao động đồng thời phải đảm bảo công tác kế
toán thanh tra, kế toán kiểm tra được dễ dàng, thuận tiện.
Từ nhận thức như vậy nên trong thời gian thực tập tại công ty Cổ phần
Quốc tế R&B em đã chọn đề tài “ Tổ chức kế toán tiền lương và các khoản trích
theo lương tại công ty Cổ phần Quốc tế R&B” Với những hiểu biết còn hạn chế và
thời gian thực tế quá ngắn ngủi, và sự giúp đỡ của lãnh đạo Công ty và các anh chị
em trong phòng kế toán Công ty, em hy vọng sẽ nắm bắt được phần nào sự hiểu
hiết đối với lĩnh vực kế toán tiền lương trong Công ty


Bài viết được chia làm 3 chương:


Chương 1: Cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng vấn đề nghiên cứu tại công ty Cổ phần Quốc tế R&B
Chương 3: Một số Biện pháp nhằm hoàn thiện tổ chức kế toán tiền lương và
các khoản trích theo lương tại công ty Cổ phần Quốc tế R&B

Chương 1: Cơ sở lý luận về kế toán tiền lương và các khoản
trích theo lương


1.1 Tổng quan về tiền lương
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm
1.1.1.1 Khái niệm
Lao động là hoạt động chân tay và trí óc của con người nhằm biến đổi các
vật thể tự nhiên thành những vật phẩm cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của xã hội.
Trong một chế độ xã hội, việc sáng tạo ra của cải vật chất không thể tách rời khỏi
lao động, lao động là điều kiện đầu tiên, cần thiết cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Xã hội càng phát triển, tính chất quyết định của lao động con người
đối với quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội càng biểu hiện rõ rệt. Lao động
còn là phạm trù kinh tế gắn liền với lao động tiền tệ và sản xuất hàng hóa, là một
bộ phận cấu thành nên giá trị sản phẩm do lao động tạo ra, nó là bộ phận của
nguồn thu nhập, kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh
trong doanh nghiệp.
Tiền lương là biểu hiện bằng tiền hay sản phẩm mà xã hội trả cho người lao
động tương ứng với thời gian chất lượng và kết quả lao động mà họ đã cống hiến.
Như vậy tiền lương thực chất là khoản thù lao mà doanh nghiệp trả cho người lao
động trong thời gian mà họ cống hiến cho doanh nghiệp. Tiền lương có chức năng
vô cùng quan trọng nó là đòn bẩy kinh tế vừa khuyến khích người lao động chấp

hành kỷ luật lao động, đảm bảo ngày công, giờ công, năng suất lao động giúp tăng
lợi nhuận cho doanh nghiệp.
1.1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của tiền lương
Để thực hiện chức năng của kế toán trong việc điều hành quản lý hoạt
động của doanh nghiệp, kế toán tiền lương cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
• Tổ chức ghi chép, phản ánh, tổng hợp một cách trung thực, kịp thời,
đầy đủ, tình hình hiện có và sự biến động về số lượng và chất lượng lao động,
tình hình sử dụng thời gian lao động và kết quả lao động.
• Tính toán chính xác, kịp thời, đúng chính sách, chế độ các khoản tiền
lương và các khoản liên quan khác cho người lao động trong doanh nghiệp, kiểm
tra tình hình huy động lao động và sử dụng lao động. Phản ánh kịp thời đầy đủ,
chính xác tình hình thanh toán các khoản trên cho người lao động.
• Thực hiện việc kiểm tra tình hình huy động và sử dụng lao động, tình
hình chấp hành các chính sách, chế độ về lao động tiền lương
• Tính toán và phân bổ chính xác, đúng đối tượng các khoản tiền lương và
các khoản liên quan khác vào chi phí sản xuất kinh doanh


• Hướng dẫn và kiểm tra các bộ phận trong đơn vị thực hiện đầy đủ, đúng
đắn chế độ ghi chép ban đầu về lao động, tiền lương. Mở sổ kế toán và hạch toán
lao động, tiền lương
• Lập các báo cáo về lao động, tiền lương và các báo cáo khác thuộc
phạm vi trách nhiệm của kế toán. Tổ chức phân tích tình hình sử dụng lao
động đề xuất các biện pháp nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng lao động, tăng
năng suất lao động. Đấu tranh chống những hành vi vô trách nhiệm, vi phạm kỷ
luật lao động, vi phạm chính sách chế độ về lao động tiền lương
Tiền lương có vai trò rất to lớn nó làm thỏa mãn nhu cầu của người lao động vì
tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động, người lao động đi làm
cốt là để nhận được khoản thù lao mà doanh nghiệp trả cho họ để đảm bảo cho
cuộc sống. Đồng thời đó cũng là khoản chi phí doanh nghiệp bỏ ra để trả cho

người lao động vì họ đã làm ra sản phẩm cho doanh nghiệp. Tiền lương có vai trò
như một nhịp cầu nối giữa người sử dụng lao động với người lao động. Nếu tiền
lương trả cho người lao động không hợp lý sẽ làm cho người lao động không đảm
bảo được ngày công và kỷ luật lao động cũng như chất lượng lao động, lúc đó
doanh nghiệp sẽ không đạt được mức tiết kiệm chi phí lao động cũng như lợi
nhuận cần có của doanh nghiệp để tồn tại như vậy lúc này cả hai bên đều không có
lợi. Vì vậy công việc trả lương cho người lao động cần phải tính toán một cách
hợp lý để cả hai bên cùng có lợi.
Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động, ngoài ra người
lao động còn được hưởng một số nguồn thu nhập khác như: Trợ cấp BHXH, tiền
lương, tiền ăn ca… Chi phí tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá thành sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Tổ chức sử dụng lao động hợp lý, thanh toán kịp
thời tiền lương và các khoản liên quan cho người lao động từ đó sẽ làm cho người
lao động chấp hành tốt kỷ luật lao động nâng cao năng suất lao động, tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp đồng thời tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho người lao động
Các nhân tố ảnh hưởng tới tiền lương
Giờ công, ngày công lao động, năng suất lao động, cấp bậc hoặc chức danh
thang lương quy định, số lượng, chất lượng sản phẩm hoàn thành, độ tuổi, sức
khỏe, trang thiết bị kỹ thuật đều là những nhân tố ảnh hưởng đến tiền lương cao
hay thấp.
1.2 Các hình thức tiền lương trong doanh nghiệp


Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa dù thực hiện bất kì chế độ tiền lương nào, muốn
phát huy đầy đủ tác dụng đòn bẩy kinh tế của nó đối với sản xuất và đời sống
phải thực hiện đầy đủ những nguyên tắc sau:
• Trả lương bằng nhau cho lao động như nhau
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc phân phối theo lao động. Trả lương
bằng nhau cho lao động như nhau có nghĩa là khi quy định tiền lương, tiền

thưởng cho công nhân viên chức nhất thiết không được phân biệt giới tính,
tuổi tác, dân tộc mà phải trả cho mọi người đồng đều số lượng, chất lượng
mà họ đã cống hiến cho xã hội.
• Bảo đảm tốc độ tăng năng suất lao động bình quân phải nhanh hơn tốc
độ tăng tiền lương bình quân trong toàn đơn vị và trong kỳ kế hoạch. Tiền lương
bình quân tăng chủ yếu phụ thuộc vào các yếu tố chủ yếu do nâng cao năng
suất lao động như nâng cao trình độ lành nghề, giảm bớt thời gian tổn thất cho
lao động, còn năng suất lao động tăng không phải chỉ do những nhân tố trên mà
còn trực tiếp phụ thuộc vào các nhân tố khách quan như: áp dụng kỹ thuật mới,
sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, tổ chức tốt lao động và các quá trình sản
xuất. Như vậy tốc độ tăng năng suất lao động rõ ràng có điều kiện khách quan
để lớn hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân. Đây là nguyên tắc quan trọng khi
tổ chức tiền lương . Có như vậy mới tạo cơ sở giảm giá thành, hạ giá cả, tăng
tích lũy để tái sản xuất mở rộng.


Đảm bảo thu nhập tiền lương hợp lý giữa các ngành nghề khác nhau

trong nền kinh tế
Khi trả lương cho công nhân cần chú ý các vấn đề sau:
Mỗi ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân có tính chất phức tạp về kỹ
thuật khác nhau. Do đó đối với những người lao động làng nghề làm việc trong
các ngành có yêu cầu kỹ thuật phức tạp phải trả lương cao hơn những người lao
động làm việc trong những ngành không có yêu cầu kỹ thuật cao.
Tiền lương bình quân giữa các ngành có điều kiện lao động khác nhau cần
có sự chênh lệch khác nhau.Công nhân làm việc trong điều kiện nặng nhọc có
hại đến sức khỏe phải được trả lương cao hơn những người làm việc trong điều
kiện bình thường.



Những ngành chủ đạo có tính chất quyết định sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân thì cần được đãi ngộ mức tiền lương cao hơn nhiều nhằm khuyến khích
công nhân yên tâm phấn khởi làm việc lâu dài ở những ngành nghề đó, sự khuyến
khích này cũng phải phù hợp với yêu cầucủa việc phân phối sức lao động một
cách có kế hoạch trong thời kỳ phát triển kinh tế.
Đối với những cơ sở sản xuất ở những vùng xa xôi hẻo lánh, điều kiện
khí hậu xáu, sinh hoạt đắt đỏ, đời sống gặp khó khăn, nhân lực thiếu,…Cần được
đãi ngộ tiền lương cao hơn hoặc thêm những khoản phụ cấp thì mới thu hút được
công nhân đến làm việc
Khuyến khích bằng lợi ích vật chất kết hợp với giáo dục tư tưởng cho
người lao động.

1.2.1. Hình thức tiền lương theo thời gian:
Là tiền lương trả cố định căn cứ vào hợp đồng lao động và thời gian làm
việc: Hình thức tiền lương theo thời gian được chia thành: Tiền lương tháng, ngày,
giờ.
- Tiền lương tháng: là tiền lương trả cho người lao động theo bậc lương
quy định gồm có tiền lương cấp bậc và các khoản phụ cấp (nếu có). Được áp dụng
cho nhân viên làm công tác quản lý hành chính, quản lý kinh tế và các nhân viên
thuộc các ngành hoạt động không có tính chất sản xuất.
- Lương ngày: được tính bằng cách lấy lương tháng chia cho số ngày làm
việc theo chế độ. Lương ngày làm căn cứ để tính trợ cấp BHXH phải trả công
nhân, tính trả lương cho công nhân viên trong những ngày hội họp, học tập, trả
lương theo hợp đồng.
- Lương giờ: Được tính bằng cách lấy lương ngày chia cho số giờ làm việc
trong ngày theo chế độ. Lương giờ thường làm căn cứ để tính phụ cấp làm thêm
giờ.
1.2.2 Hình thức trả lương theo sản phẩm:
Hiện nay phần lớn các nhà máy, xí nghiệp ở nước ta đều áp dụng hình thức
trả lương theo sản phẩm. Trả lương theo sản phẩm là hình thức tiền lương căn cứ

vào số lượng, chất lượng sản phẩm sản xuất ra của mỗi người và đơn giá lương
sản phẩm để trả lương cho cán bộ công nhân viên chức.


Sở dĩ như vậy là vì chế độ lương cấp bậc và các khoản phụ cấp chưa
kiểm tra giám sát được chặt chẽ về sức lao động của mỗi người để đãi ngộ về tiền
lương một cách đúng đắn. Hình thức tiền lương trả theo sản phẩm là hình thức
căn bản để thực hiện quy luật phân phối theo lao động. Để quán triệt đầy đủ hơn
nữa nguyên nhân, nguyên tắc phân phối theo số lượng và chất lượng lao động
nghĩa là căn cứ trực tiếp vào kết quả lao động của mỗi người sản xuất. Ai làm
nhiều, chất lượng sản phẩm tốt, được hưởng nhiều lương, ai làm ít chất lượng
sản phẩm xấu thì hưởng ít lương. Những người làm việc như nhau thì phải
được hưởng lương bằng nhau. Mặt khác chế độ trả lương theo sản phẩm còn
phải căn cứ vào số lượng lao động, chất lượng lao động kết tinh trong từng sản
phẩm của mỗi công nhân làm ra để trả lương cho họ, làm cho quan hệ giữa tiền
lương và năng suất lao động, giữa lao động và hưởng thụ có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau.
1. 2.2.1. Tác dụng của hình thức trả lương theo sản phẩm:
-

Làm cho mỗi người lao động vì lợi ích vật chất mà quan tâm đến việc nâng

cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, bảo đảm hoàn thành toàn diện và
vượt mức kế hoạch nhà nước. Vì hình thức lương sản phẩm căn cứ trực tiếp vào
số lượng và chất lượng sản phẩm của mỗi người sản xuất ra để tính lương nên nó
có tác dụng khuyến khích người công nhân tích cực sản xuất, tận dụng thời
gian làm việc tăng năng suất lao động. Hơn nữa chỉ những sản phẩm tốt mới
được trả lương cao nên người công nhân nào cũng cố gắng sản xuất đảm bảo chất
lượng sản phẩm tốt. Như vậy năng suất lao động tăng, chất lượng sản phẩm bảo
đảm thì giá thành sản phẩm sẽ hạ.

-

Khuyến khích người công nhân quan tâm đến việc nâng cao trình độ

văn hóa, trình độ chuyên môn, khoa học kĩ thuật hợp lý hóa sản xuất và lao
động. Tích cực sáng tạo và áp dụng các phương pháp sản xuất tiên tiến. Khi thực
hiện trả lương theo sản phẩm, công nhân phải phấn đấu để thường xuyên đạt và
vượt mức các định mức lao động đề ra do đó họ không đơn thuần dựa vào sự lao
động hết sức mình, tận dụng thời gian làm việc mà phải cố gắng học tập để
không ngừng nâng cao trình độ văn hóa khoa học kỹ thuật thì mới có thể dễ dàng
tiếp thu, nắm vững và áp dụng các phương pháp sản xuất tiên tiến. Hơn nữa họ
còn phải biết tìm tòi suy nghĩ để phát huy sáng kiến,cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa


sản xuất. Có như vậy thì sản phẩm làm ra sẽ tăng và sức lao động sẽ giảm
xuống. Đẩy mạnh việc cải tiến, tổ chức quá trình sản xuất, thúc đẩy việc thực
hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế. Khi áp dụng chế độ tiền lương tính theo sản
phẩm đòi hỏi có sự chuẩn bị sản xuất nhất định. Phải củng cố kiện toàn tổ chức
sản xuất, kỹ thuật sản xuất, tổ chức lao động đảm


bảo cho quá trình sản xuất được cân đối hợp lý. Trong quá trình thực hiện do
năng suất lao động của công nhân tăng, nhiều vấn đề mới đặt ra cần giải quyết
như cung cấp nguyên vật liệu đúng quy cách, chất lượng, kịp thời gian. Kiểm tra
nghiệm thu được chính xác số lượng, chất lượng sản phẩm. Điều chỉnh lại lao
động trong dây chuyền sản xuất. Thống kê thanh toán tiền lương nhanh chóng,
chính xác, đúng kì hạn,…Các vấn đề đó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất tiền
lương của công nhân nên họ rất quan tâm phát hiện và yêu cầu giải quyết. Bất kì
một hiện tượng nào vi phạm đến kỹ thuật công nghệ và chế độ phục công tác,
người công nhân không những tìm cách khắc phục kịp thời mà còn tích cực đề

phòng các khuyết điểm có thể xảy ra. Đồng thời, đấu tranh chống hiện tượng tiêu
cực, làm việc thiếu trách nhiệm trong cán bộ quản lí và công nhân sản xuất.
-

Củng cố và phát triển mạnh mẽ phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, xây

dựng tác phong thái độ lao động xã hội chủ nghĩa. Phong trào thi đua phát triển là
do nhiệt tình yêu nước, ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ văn hóa kỹ
thuật của công nhân, do năng suất lao động được nâng cao mà có. Muốn thi đua
đạt được bền bỉ thường xuyên liên tục thì phải được bồi dưỡng bằng vật chất mới
có tác dụng. Trả lương theo sản phẩm là phương tiện tốt để thực hiện yêu cầu đó.
Động viên thi đua liên tục và mạnh mẽ đồng thời áp dụng một cách đúng chế độ
tiền lương tính theo sản phẩm sẽ kết hợp chặt chẽ được hai mặt khuyến khích
bằng vật chất và động viên tinh thần để thúc đẩy và phát triển sản xuất. Hai vấn
đề này phải dựa vào nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm cho năng suất lao động ngày
càng tăng và phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa ngày càng mở rộng và có chất
lượng cao. Ngoài ra chế độ lương sản phẩm còn góp phần bồi dưỡng giáo dục cho
công nhân có hứng thú nhiệt tình trong lao động _ có ý thức và trách nhiệm quan
tâm đến việc của tập thể.
Qua những tác dụng kể trên ta thấy chế độ trả lương theo sản phẩm có ý
nghĩa kinh tế, chính trị quan trọng. Nó động viên mạnh mẽ mọi người tích cực
sản xuất với chất lượng tốt và năng suất cao. Vừa tăng thu nhập cho cá nhân
người lao động vừa làm tăng hơn sản phẩm cho xã hội góp phần thay đổi nền
kinh tế cả nước.
1.2.2.2 Điều kiện và hình thức trả lương theo sản phẩm:
Muốn tổ chức trả lương theo sản phẩm xí nghiệp chuẩn bị các điều
kiện sau đây:


Công tác chuẩn bị sản xuất:



- Chuẩn bị về nhân lực: khi tổ chức trả lương theo sản phẩm, việc chuẩn bị về
nhân lực là vấn đề cần thiết vì con người là yếu tố quan trọng trong quá trình
sản xuất. Con người có quán triệt ý nghĩa tác dụng cúa chế độ lương sản phẩm
thì mới đề cao tinh thần trách nhiệm, tích cực và quyết tâm tạo điều kiện cần
thiết cho việc thực hiện chế độ lương sản phẩm. Để chuẩn bị tốt yếu tố con người
cần phê phán các tư tưởng rụt rè, cầu toàn, khuynh hướng làm bừa, làm ẩu. Thiếu
chuẩn bị điều kiện cần thiết, thiếu chỉ đạo chặt chẽ gây hoang mang dao động
trong công nhân. Phải giải thích giáo dục cho công nhân hiểu rõ mục đích ý
nghĩa của chế độ lương sản phẩm và cho họ thấy mục tiêu phấn đấu của họ về
sản lượng và năng suất lao động, chát lượng sản phẩm, chi phí sản xuất.
Ngoài ra còn phải bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ lao động tiền
lương, cán bộ kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản
phẩm,…
- Chuẩn bị về kế hoạch sản xuất: kế hoạch sản xuất phải rõ ràng cụ thể, phải tổ
chức cung cấp đầy đủ thường xuyên nguyên vật liệu, máy móc thiết bị và
phương tiện phòng hộ lao động để công nhân có thể sản xuất được liên tục.
Xác định đơn giá lương sản phẩm:
Để thực hiện chế độ lương sàn phẩm cần xác định đơn giá lương sản
phẩm cho chính xác trên cơ sở xác định cấp bậc công việc và định mức lao động
chính xác.
Xác định cấp bậc công việc như ta đã biết đơn giá lương sản phẩm
được tính như sau:

Mức lương cơ bản công nhân + phụ cấp
Đơn giá sản phẩm

= Mức sản lượng


Như vậy muốn có đơn giá hợp lý, chính xác phải xác định đúng đắn cấp
bậc công việc. Nếu cấp bậc công việc được đánh giá xác định cao hơn yêu cầu kỹ
thuật thì đơn giá sẽ cao hơn hoặc ngược lại nếu cấp bậc công việc được đánh giá
xác định thấp hơn yêu cầu kỹ thuật thì đơn giá sẽ thấp hơn. Do đó nếu xí
nghiệp chưa có cấp bậc công việc thì phải xây dựng cấp bậc công việc. Nếu có


rồi thì phải rà soát lại để kịp thời sữa đổi những cấp bậc công việc đã lạc hậu.
Định mức lao động: là thước đo tiêu chuẩn về tiêu hao lao động, đánh giá
kết quả lao động và tính đơn giá sẽ sai và tiền lương của công nhân sẽ tăng
hoặc giảm không hợp lý. Do đó sẽ không khuyến khích công nhân tăng năng suất
lao động.


Định mức lao động để trả lương sản phẩm là mức lao động trung bình tiên
tiến_do đó phải xây dựng định mức từ tình hình thực tế sản xuất ở xí nghiệp đã
được chấn chỉnh. Các mức lao động đang áp dụng

( nếu có ) phải kiểm tra

lại để kịp thời sửa đổi những mức bất hợp lí không sát thực tế sản xuất.
Công tác kiểm tra nghiệm thu sản phẩm:
Yêu cầu của chế độ lương sản phẩm là đảm bảo thu nhập tiền lương theo
đúng số lượng sản phẩm đã hoàn thành theo xác nhận của K.C.S do đó cần
phải kiểm tra nghiệm thu sản phẩm chặt chẽ nhằm đảm bảo sản xuất những
sản phẩm có chất lượng tốt, tránh khuynh hướng chạy theo sản lượng để tăng
thu nhập, làm ra những sản phẩm sai hỏng, không đúng quy cách và yêu cầu kỹ
thuật đồng thời đảm bảo việc trả lương cho công nhân đúng đắn, kịp thời.
Hình thức trả lương theo sản phẩm gồm nhiều chế độ trả lương như
Chế độ trả lương sản phẩm trực tiếp không hạn

chế:
Chế độ tiền lương này được trả theo từng đơn vị sản phẩm hoặc chi tiết
sản phẩm và theo đơn giá nhất định. Tiền lương của công nhân căn cứ vào số
lượng sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm do họ trực tiếp sản xuất được để trả
lương. Bất kì trường hợp nào công nhân sản xuất hụt mức, đạt mức hoặc vượt
mức bao nhiêu, cứ mỗi đơn vị sản phẩm làm ra đều được trả lương nhất định gọi
là đơn giá sản phẩm. Như vậy tiền lương của công nhân sẽ tăng theo số lượng sản
phẩm sản xuất ra. Nếu sản xuất được nhiều sản phẩm thì được trả nhiều lương và
ngược lại sản xuất được ít sản phẩm thì được trả ít lương.
Đơn giá sản phẩm là cơ sở của chế độ tiền lương tính theo sản phẩm trực tiếp
không hạn chế. Khi xác định đơn giá sản phẩm người ta căn cứ vào hai nhân tố:
định mức lao động và mức lương cấp bậc công việc
Công thức tính đơn giá sản phẩm như sau:


Đơn giá

Nếu công việc được định mức thời gian:

=

Mức lương cấp bậc công viên * mức thời gian




Nếu công việc định mức sản lượng:
Mức lương cấp bậc công việc + Phụ cấp

Đơn giá


=
Mức sản lượng


Tiền lương tính theo sản phẩm là tiền lương tính trả cho ngừơi lao động
theo kết quả lao động _ khối lượng sản phẩm công việc và lao vụ đã hoàn thành,
bảo đảm đúng tiêu chuẩn, kỹ thuật, chất lượng đã quy định và đơn giá tiền lương
tính cho một đơn vị sản phẩm, công việc lao vụ đó. Tiền lương theo sản phẩm
trực tiếp được tính cho từng người lao động hoặc một tập thể người
lao động thuộc bộ phận trực tiếp sản xuất.

Tiền lương được lĩnh

Số lượng ( khối lượng )

Đơn

giá

=

*

tiền lương

trong tháng

công việc hoàn thành


Khi tính đơn giá sản phẩm ta phải lấy mức lương cấp bậccông việc để
tính chú không lấy mức lương cấp bậc công nhân được giao làm công việc đó, vì
có những trường hợp lương cấp bậc công nhân cao hoặc thấp hơn cấp bậc công
việc được giao làm cho đơn giá sản phẩm thay đổi, sẽ phá vỡ tính thống nhất của
chế độ tiền lương trả theo sản phẩm và tính hợp lý của quy luật phân phối theo
lao động.
Về định mức lao động, khi tính đơn giá ta phải xác định định mức của công việc
đó là mức thời gian hay mức sản lượng để tính cho chính xác.
Chế độ tiền lương tính theo sản phẩm trực tiếp ( không hạn chế ) thích hợp
với những loại công việc có thể tiến hành định mức lao động, giao việc và
nghiệm thu từng đơn vị sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm riêng rẽ được. Tùy theo
đặc điểm về tổ chức kỹ thuật sản xuất. Nếu những công việc mà người công nhân
có thể tiến hành sản xuất độc lập thì có thể quy định mức lao động và tiến hành
thống kê nghiệm thu sản phẩm riêng cho từng công nhân và trả lương sản phẩm
GVHD:Nguyễn Tri Như Quỳnh_ SVTH:Đoàn Hà Hồng Nhung

-12 -


trực tiếp cho từng công nhân. Nếu công việc cần nhiều công nhân phối hợp, cộng
tác với nhau mới sản xuất ra một sản phẩm thì có thể tiến hành trả lương trực tiếp
cho nhóm hoặc tổ sản xuất đó.
Chế độ tiền lương tính theo sản phẩm gián tiếp:
Chế độ lương này không áp dụng đối với công nhân trực tiếp sản xuất mà
chỉ áp dụng cho công nhân phục vụ sản xuất. Công việc của họ có ảnh hưởng
trực tiếp đến việc đạt và vượt mức của công nhân chính hưởng lương theo sản
phẩm. Nhiệm vụ và thành tích của họ gắn liền với nhiệm vụ và thành tích của
công nhân đứng máy. tiền lương của công nhân phục vụ được tính căn cứ vào số
lượng sản phẩm của công nhân đứng máy sản xuất ra. Những công nhân sửa
chữa máy nếu áp dụng lương sản phẩm gián tiếp cần phải quy định và kiểm

tra chặt chẽ việc nghiệm thu trong định kì sửa chữa máy, đề phòng hiện tượng
tiêu cực đồng tình với công nhân đứng máy chạy theo sản lượng

GVHD:Nguyễn Tri Như Quỳnh_ SVTH:Đoàn Hà Hồng Nhung

-13 -


, cho máy chạy quá mức làm cho máy hỏng
Đơn giá sản phẩm gián tiếp được tính bằng cách lấy mức lương tháng
của công nhân phục vụ chia cho định mức sản xuất chung của công nhân đứng
máy do công nhân đó phục vụ
Mức lương tháng của công nhân phục vụ
Đơn giá
=

Định mức sản xuất chung

Như vậy nếu những công nhân đứng máy trực tiếp sản xuất sản phẩm càng nhiều,
tiền lương của số công nhân phục vụ ngày càng nhiều và ngược lại nếu những
công nhân đứng máy sản xuất được ít sản phẩm thì tiền lương của công nhân
phục vụ ngày càng ít.

tỷ lệ
Tiền lương được lĩnh trong

Tiền lương được lĩnh của

tháng


=

lương
*

gián tiếp

bộ phận trực tiếp

Tiền lương theo sản phẩm gián tiếp cũng được tính cho từng người lao động hay
cho một tập thể người lao động thuộc bộ phận gián tiếp phục vụ sản xuất hưởng
lương phụ thuộc vào kết quả lao động của bộ phận trực tiếp sản
xuất.
Khi thực hiện chế độ tiền lương này thường xảy ra hai trường hợp và cách
giải quyết như sau:


Nếu bản thân công nhân phục vụ có sai lầm làm cho công nhân chính

sản xuất ra sản phẩm hỏng, hàng xấu thì tiền lương của công nhân phục vụ hưởng
theo chế độ trả lương khi làm ra hàng hỏng, hàng xấu_xong vẫn đảm bảo ít nhất
bằng mức lương cấp bậc của người đó.




Nếu công nhân đứng máy không hoàn thành định mức sản lượng thì

tiền lương của công nhân phục vụ sẽ không tính theo đơn giá sản phẩm gián tiếp
mà theo lương cấp bậc của họ

Chế độ tiền lương tính theo sản phẩm gían tiếp có tác dụng làm cho công nhân
phục vụ quan tâm hơn đến việc nâng cao năng suất lao động của công nhân chính
mà họ phục vụ.
Chế độ tiền lương sản phẩm lũy tiến:
Chế độ tiền lương này được tính như sau:
Đối với số sản phẩm được sản xuất ra trong phạm vi định mức khởi điểm lũy tiến
thì được trả theo đơn giá bình thường, còn số sản phẩm sản xuất ra vượt mức
khởi điểm lũy tiến được trả theo đơn giá lũy tiến, nghĩa là có nhiều


đơn giá cho những sản phẩmvượt mức khởi điểm lũy tiến. Nếu vượt mức với tỷ
lệ cao thì được tính những sản phẩm vượt mức bằng đơn giá cao hơn.
Chế độ lương này áp dụng cho công nhân sản xuất ở những khâu quan trọng, lúc
sản xuất khẩn trương để bảo đảm tính đồng bộ ở những khâu mà năng suất tăng
có tính chất quyết định đối với việc hoàn thành chung kế hoạch của xí nghiệp.
Tiền lương của công nhân làm theo chế độ sản phẩm lũy tiến được tính theo
công thức:
L = [ Q 1 * P ] + [ Q 1 – Q0 ] * P * K
Trong đó:
L: tổng tiền lương công nhân được lĩnh
Q1: sản lượng thực tế của công nhân sản xuất ra
Q0: mức sản lượng
P: đơn giá lương sản phẩm
K: hệ số tăng đơn giá sản phẩm
Tiền lương tính theo sản phẩm lũy tiến là tiền lương tính theo sản phẩm trực tiếp
kết hợp với suất tiền thưởng lũy tiến theo mức độ hoàn thành vượt mức sản xuất
sản phẩm.
Suất tiền thưởng lũy tiến theo mức độ hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất
sản phẩmdo doanh nghiệp quy định. Ví dụ cứ vượt 10% định mức thì tiền thưởng
tăng thêm cho phần vượt là 20%, vượt từ 11%-20% định mức thì tiền thưởng tăng

thêm cho phần vượt là 40%…vượt từ 50% trở lên thì tiền thưởng tăng thêm cho
phần vượt là 100%…
Tiền lương theo sản phẩm lũy tiến cũng được tính cho từng người lao động hay
tập thể người lao động ở những bộ phận sản xuất cần thiết phải đẩy mạnh tốc độ
sản xuất. Nó khuyến khích người lao động phải luôn phát huy sáng tạo cải tiến
kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động đảm bảo cho đơn vị thực hiện kế
hoạch sản xuất sản phẩm một cách đồng bộ và toàn diện. Tuy nhiên, khi áp dụng
tính lương theo sản phẩm lũy tiến doanh nghiệp cần chú ý khi xây dựng tiền


thưởng lũy tiến nhằm hạn chế hai trường hợp có thể xảy ra đó là, người lao
động phải tăng cường độ lao động, không bảo đảm sức khỏe cho lao động sản
xuất lâu dài và tốc độ tăng tiền lương lớn hơn tốc độ tăng năng suất lao động.
Muốn thực hiện chế độ lương này cần phải chuẩn bị những điều kiện sau:


Định mức lao động có căn cứ kỹ thuật, đây là vấn đề quan trọng vì đơn

giá sản phẩm sẽ tăng lũy tiến theo tỉ lệ vượt mức sản lượng




Phải thống kê xác định rõ chất lượng và số lượng sản phẩm tiền lương

của công nhân, mức lũy tiến, mức hạ thấp giá thành và giá trị tiết kiệm được


Phải dự kiến được kết quả kinh tế của chế độ lương tính theo sản phẩm


lũy tiến nhằm xác định mức lũy tiến cao nhất của đơn giá sản phẩm. Vì khi thực
hiện chế độ tiền lương này lương của công nhân sẽ tăng nhanh hơn sản lượng làm
cho phần tiền lương trong đơn vị sản phẩm cũng tăng lên. Do đó giá thành sản
phẩm cũng tăng theo, bởi vậy khi áp dụng chế độ lương này phải tính toán kết
quả kinh tế, nâng cao năng suất lao động làm hạ giá thành sản phẩm.
Chế độ lương khoán sản phẩm:
Chế độ lương khoán sản phẩm là chế độ lương sản phẩm khi giao công việc đã
quy định rõ ràng số tiền để hoàn thành một khối lượng công việc cho một đơn vị
thời gian nhất định. Chế độ lương này áp dụng cho những công việc mà xét
thấy giao từng việc chi tiết không có lợi về mặt kinh tế, bởi vì trong sản xuất
có nhiều công việc mang tính chất tổng hợp không thể giao việc mà thống kê kinh
nghiệm thu kết quả lao động theo từng đơn vị sản phẩm từng phần riêng biệt của
từng công nhân hoặc từng tổ sản xuất. Như vậy ngay từ khi nhận việc, công
nhân đã biết ngay toàn bộ số tiền lương mà mình sẽ được lãnh sau khi hoàn thành
khối lượng công việc giao khoán thì tiền lương tính theo ngày làm việc của mỗi
người trong đơn vị sẽ được tăng lên. Ngược lại nếu kéo dài thời gian hoàn
thành công việc thì tiền lương tính theo ngày của mỗi người sẽ ít đi. Do đó chế độ
lương khoán có tác dụng khuyến khích công nhân nâng cao năng suất lao động,
phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn hoặc giảm bớt số người không cần
thiết.
Trong các doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất nông nghiệp, tiền lương khoán có
thể thực hiện theo cách khoán từng phần công việc hoặc khoán thu nhập ( khoán
gọn ) cho người lao động.
Trong các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng có thể thực hiện theo cách
khoán gọn quỹ lương theo hạn mục công trình cho đội sản xuất.
-15 -


Khi áp dụng chế độ lương khoán cần phải làm tốt công tác thống kê và định mức
lao động cho từng phần việc, tính đơn giá từng phần việc rồi tổng hợp lại thành

khối lượng công việc, thành đơn giá cho toàn bộ công việc. Cần phải xây dựng
chế độ kiểm tra chất lượng trong quá trình sản xuất, vì trong thực tế khi áp dụng
lương khoán công nhân không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ lao đông để xảy
ra hiện tượng công nhân tự ý làm thêm giờ để mau chóng hoàn thành công việc
chung nhưng không ghi vào phiếu giao khoán làm

-16 -


cho việc thống kê phân tích năng suất lao động của công nhân không chính
xác, làm ảnh hưởng đến chất lượng công việc, ảnh hưởng đến sức khỏe và các
mặt sinh hoạt của công nhân.
Chế độ tiền lương theo sản phẩm có thưởng và chế độ lương khoán có thưởng:


Chế độ lương khoán sản phẩm có thưởng là chế độ lương khoán kết

hợp với khen thưởng khi công nhân đạt những chỉ tiêu về số lượng, chất lượng
hay thời gian đã quy định. Nhưng nếu vượt được các chỉ tiêu đã quy định về chất
lượng sản phẩm, tiết kiệm được nguyên liệu bảo đảm an toàn hoặc nâng cao năng
suất máy móc, thiết bị,…thì được thêm tiền thưởng. Khoản tiền thưởng này chi
trả khi công nhân hoàn thành định mức sản lượng.
Thực hiện chế độ lương này phải xác định rõ những chỉ tiêu và điều kiện
thưởng. Tỷ lệ tiền thưởng cũng phải xác định đúng đắn.


Chế độ tiền lương tính theo sản phẩm có thưởng là tiền lương tính theo

sản phẩm trực tiếp hay gián tiếp kết hợp với chế độ khen thưởng do doanh nghiệp
quy định như thưởng chất lượng sản phẩm_tăng tỷ lệ chất lượng sản phẩm chất

lượng cao, thưởng tăng năng suất lao động, tiết kiệm nguyên liệu,…
Tiền lương theo sản phẩm có thưởng được tính cho từng người lao động hoặc cho
một tập thể người lao động.
Ví dụ: công ty may S quy định đơn giá tiền lương cho 1 sản phẩm là
2000 đồng, nhưng đơn giá có các sản phẩm thứ 11 sẽ là 2.200 đồng.
Tiền lương tính theo sản phẩm cuối cùng:
Theo cách tính lương này, tiền lương đối với các doanh nghiệp sản xuất có tính
chất khai thác sẽ dựa trên cơ sở giá trị sản lượng đạt được sau khi trừ đi các
khoản tiêu hao vật chất, nộp thuế, trích nộp các quỹ theo chế độ quy định và
tỷ lệ thích đáng phân phối cho người lao động: đối với các doanh nghiệp có tính
chất chế biến, doanh nghiệp cần tạo các điều kiện ổn định sản xuất, tổ chức lại
từng dây chuyền sản xuất và xác định rõ giai đoạn cuối cùng của từng nửa thành
phẩm hoặc thành phẩm. Trên cơ sở xác định giai đoạn cuối cùng của từng nửa
-17 -


thành phẩm hoặc thành phẩm để xác định tiền lương tính theo sản phẩm cuối
cùng cho từng người lao động hay một tập thể người lao động.
Cách tính lương này là tiến bộ nhất vì nó gắn trách nhiệm của cá nhân hoặc tập
thể người lao động với chính sản phẩm mà họ đã làm ra. Như vậy trong trường
hợp tính lương theo sản phẩm cuối cùng, tiền lương phải trả cho người lao động
không thuộc chi phí sản xuất mà nằm trong thu nhập còn lại

-18 -


sau khi trừ đi các khoản chi phí hợp lý và các khoản phân phối lợi nhuận theo
quy định.
Tiền lương tính theo sản phẩm nếu tính cho tập thể người lao động thì doanh
nghiệp cần vận dụng những phương án chia lương thích hợp để tính chia

lương cho từng người lao động trong tập thể, đảm bảo nguyên tắc phân phối theo
lao động và khuyến khích người lao động có trách nhiệm với tập thể cùng lao
động. Tính chia lương cho từng người lao động trong tập thể có thể được tiến
hành theo các phương án khác nhau:
- Chia lương theo cấp bậc tiền lương và thời gian lao động thực tế của từng
người lao động trong tập thể đó. Các bước tiến hành như sau:


Xác định hệ số chia lương:

Tổng tiền lương thực tế được lĩnh của tập thể
Hệ

số

chia =

lương


Tổng tiền lương theo cấp bậc và thời gian làm việc

của các công nhân trong tập thể
Tính tiền lương chia cho từng người:

Tiền lương theo cấp bậc
Tiền lương được lĩnh
Hệ số chia
= và thời gian làm việc của *
từng người


từng người

lương

- Chia lương theo cấp bậc công việc và thời gian làm việc thực tế của từng người
lao động kết hợp với việc bình công chấm điểm của từng người lao động
trong tập thể đó, các bước tiến hành như sau:
-19 -


×