Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

PHÂN TÍCH tác ĐỘNG của cơ cấu TUỔI của dân số tới TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 55 trang )

Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

-1

MỤC LỤC

Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

-2

PHỤ LỤC BẢNG BIỂU
CÁC CHỈ TIÊU CƠ BẢN 18
Năm 18

Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

-3

LỜI MỞ Đ
Ảnh hưởng của cơ cấu tuổi của dân số, và nhất là thời kỳ “Cơ cấu dân số
vàng” đến sự thay đổi và phát triển nền kinh tế xã hội là một vấn đề được nhiều nhà


kinh tế học cũng như nhà hoạch định chính sách quan tâm. Việc tính toán, dự báo
được những tác động này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đến các chính sách, chiến
lược mang tầm vĩ mô cũng như vi mô của nhà nước. Việt Nam là một nước có nền
kinh tế non trẻ, vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của các nguồn lực kinh tế đều có tác
động mạnh mẽ đến sự thay đổi cục diện của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là cơ cấu
dân số và nguồn lao động – một trong các yếu tố chính của nguồn lực kinh tế. Theo
kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2009 cho thấy Việt Nam đã chính thức bước
vào thời kỳ “Cơ cấu dân số vàng”, điều này đặt ra nhiều thuận lợi và thách thức đối
với nền kinh tế non trẻ của Việt Nam.
Chuyên đề “Phân tích tác động của cơ cấu tuổi của dân số tới tăng trưởng
kinh tế Việt Nam” nhằm mục tiêu phân tích một cách chi tiết ảnh hưởng của cơ cấu
tuổi dân số đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam và mô hình hóa, định lượng
mối quan hệ này.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của Chuyên đề được chia làm 3
chương bao gồm:
Chương 1 : Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa cơ cấu tuổi của dân số và
tăng trưởng kinh tế.
Chương 2 : Thực trạng về cơ cấu tuổi của dân số và tăng trưởng kinh tế Việt
Nam giai đoạn 2000 - 2007
Chương 3 : Mô hình đánh giá tác động của cơ cấu tuổi dân số đến tăng trưởng
kinh tế Việt Nam giai đoạn 2000 - 2006.
Để hoàn thành được chuyên đề này em xin chân thành cảm ơn Th.S Lê Đức
Hồng, T.S Nguyễn Thị Minh và giảng viên Nguyễn Thùy Trang đã tận tình chỉ bảo,
giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu lựa chọn đề tài, xác định hướng nghiên cứu,
sửa chữa và hoàn thiện bản báo cáo Chuyên đề. Em cũng xin cảm ơn các thầy, cô
giáo Khoa Toán kinh tế đã dạy dỗ và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập.
Sinh viên
Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế



Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

-4

Nguyễn Thị Ngà

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ CẤU
TUỔI CỦA DÂN SỐ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.1. Giới thiệu vấn đề
Trong khi các nước phát triển thường phải đương đầu với vấn đề về sự già đi
và sự sụt giảm của dân số thì các nước đang phát triển lại phải lo lắng đến tình trạng
dân số tăng nhanh. Một bài toán chung cho cả các nước phát triển và đang phát triển
đó là xem xét, đánh giá tác động của sự thay đổi trong nhân khẩu học đến nền kinh
tế. Bài toán này được nhiều nhà kinh tế trên thế giới quan tâm và nghiên cứu.
Quá trình chuyển đổi của nhân khẩu học Việt nam, cũng giống như của các
nước khác, là quá trình chuyển từ giai đoạn đặc trưng bởi tỷ suất sinh cao và tuổi
thọ ngắn sang giai đoạn đặc trưng bởi tỷ suất sinh giảm và tuổi thọ tăng. Tuy nhiên
sự chuyển đổi này diễn ra ở Việt Nam rất nhanh so với các nước khác do những
thành tựu của Việt Nam trong việc thực hiện thành công chương trình kế hoạch hóa
gia đình. Sự giảm sút trong tỷ suất sinh cũng như sự cải thiện về tuổi thọ dẫn đến sự
thay đổi trong cơ cấu dân số tính theo độ tuổi. Sự thay đổi này không chỉ tác động
ảnh hưởng trực tiếp tới cung lao động mà còn ảnh hưởng tới tỷ lệ tiết kiệm và do đó
ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Điều đặc biệt là ở chỗ, cơ cấu tuổi của dân số
không chỉ tác động tới tổng sản phẩm thông qua cung lao động mà còn tác động tới
năng suất tổng hợp của nền kinh tế (được đo bằng mức gia tăng trong sản lượng sau
khi đã loại trừ sự đóng góp từ sự gia tăng của các yếu tố đầu vào, thường phản ánh
mức hiệu quả của nền kinh tế trong việc sử dụng các yếu tố đầu vào).

Ngoài ra, sự thay đổi trong cơ cấu tuổi của dân số cũng làm thay đổi các nhu
cầu về hàng hóa bao gồm hàng tiêu dùng và các dịch vụ như giáo dục, y tế cũng
như các yêu cầu về an sinh xã hội khác. Một dân số có tỷ trọng người trong độ tuổi
lao động cao thường sẽ tạo tiềm năng cho tăng trưởng kinh tế; ngược lại, tỷ trọng
người già cao sẽ tạo ra sức ép về chi tiêu cho y tế và các vấn đề an sinh xã hội, và
cùng với nó là tỷ lệ tiết kiệm giảm. Số liệu điều tra cho thấy hai đặc điểm nổi bật
cần quan tâm của nhân khẩu học Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trước mắt.
- Một là: Tỷ trọng người trong độ tuổi lao động đang tăng nhanh và tiếp tục
Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

-5

tăng nhanh trong vòng năm năm tới.
- Hai là: Tỷ trọng người già sẽ tăng cao trong vòng 10 năm, và tỷ trọng dân số
dưới 15 tuổi đang giảm sẽ tiếp tục giảm mạnh.
Những sự thay đổi lớn này trong cơ cấu dân số sẽ có tác động quan trọng tới
các chỉ số phát triển kinh tế xã hội. Do đó một nghiên cứu định lượng nhằm đo
lường các tác động này là hết sức cần thiết trong việc xây dựng cơ sở khoa học cho
việc hoạch định các chính sách kinh tế xã hội phù hợp về việc làm, đầu tư cũng như
các chính sách về y tế và bảo hiểm y tế. Đề tài nghiên cứu này được lựa chọn thực
hiện từ những yêu cầu của lý thuyết và thực tiễn đó.
1.2. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa cơ cấu tuổi của dân số và tăng
trưởng kinh tế
1.2.1 . Một số quan điểm về ảnh hưởng của cơ cấu tuổi dân số tới tăng
trưởng kinh tế

Dân số luôn là vấn đề không chỉ có các nhà khoa học, các chuyên gia mà ngay
cả các Chính phủ, các tổ chức kinh tế - xã hội đều rất quan tâm. Không chỉ ngày nay
mà ngay cả trước kia, không chỉ với nước ta mà tất cả các nước trên thế giới đều
quan tâm. Sự quan tâm đó không chỉ vì sức ép của bùng nổ dân số, mà cả vì sức
mạnh của quốc gia, không chỉ quan tâm hạn chế mà cả khuyến khích phát triển dân
số. Dân số luôn luôn với hai tư cách vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu
dùng. Vì vậy quy mô, cơ cấu dân số có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển
kinh tế xã hội. Ảnh hưởng đó có thể là tích cực hoặc tiêu cực, tùy thuộc vào nhu
cầu, trình độ và khả năng phát triển của mỗi nước trong mỗi thời kỳ.
Trong những năm gần đõy, yâu cầu tìm hiểu và đánh giỏ cụ thể hơn mối quan
hệ giữa biến động dân số với tăng trưởng kinh tế ngày càng cấp thiết hơn. Đặc biệt
cỏc nước đang phát triển, đang trải nghiệm những biến động dân số mạnh mẽ do tỏc
động của các chính sách dân số thì nhu cầu này lại càng cấp thiết hơn bao giờ hết.
Cho đến nay, lịch sử dân số học đó trải qua ba quan điểm lý thuyết cơ bản về mối
quan hệ giữa dân số và tăng trưởng kinh tế với những lý luận và bằng chứng khác
nhau: (1) Lý thuyết dân số học “bi quan” với lập luận chủ yếu là tăng dân số tác
động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế; (2) Lý thuyết dân số học “lạc quan” lại cho
rằng tăng dân số cú tỏc động tích cực đến tăng trưởng kinh tế; và (3) Lý thuyết dân
số học “trung tính” cho rằng dân số tỏc động đến tăng trưởng kinh tế theo chiều
hướng tích cực hay tiêu cực còn tùy thuộc vào nhiều điều kiện khác.
Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

-6

Hình 1. Quan hệ tăng dân số và tăng trưởng kinh tế, 1975-2004

• Lý thuyết dân số học “bi quan”
Người khởi xướng lý thuyết này là Thomas Malthus với cuốn sách Thực
chứng về quy luật dân số của ông viết năm 1789. Ông cho rằng, trong bối cảnh
nguồn lực bị giới hạn, nhu cầu lương thực ngày càng tăng và tiến bộ công nghệ
chậm chạp sẽ làm trầm trọng hơn sức ép từ việc tăng dân số. Theo luận chứng của
ông thì sở dĩ quần chúng nhân dân sống nghèo đói và chịu đau khổ là do dân số tăng
theo cấp số nhõ, còn tự liệu sinh hoạt chỉ tăng theo cấp số cộng.
Đặc biệt từ cuối thập niên 1940 cho đến những năm 1970, hàng loạt nghiên
cứu với luận điểm “bi quan” cho rằng dân số ảnh hưởng hết sức tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế vì dân số tăng nhanh sẽ đe dọa đến nguồn cung lương thực và tài
nguyên tự nhiên. Các nhà hoạch định chính sách ủng hộ luận điểm này đó tiến hành
thực hiện hàng loạt chính sách dân số nghiêm ngặt nhằm giảm tỷ lệ sinh. Họ cho
rằng tốc độ tăng dân số chậm sẽ cải thiện tăng trưởng kinh tế vì nguồn lực sẽ được
tiết kiệm và sử dụng cho mục đích thúc đẩy tăng trưởng thay vì được sử dụng cho
mục đích sinh sản, cũng như góp phần giảm tải cho cơ sở hạ tầng và môi trường.
Một ví dụ được đưa ra là những cải tiến trong nông nghiệp ở Trung Quốc đó góp
phần cải thiện đời sống, nhưng vỡ tăng trưởng dân số quá nhanh nên mức cải thiện
đó hầu như không đáng kể.

Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

-7

• Lý thuyết dân số học “lạc quan”
Vào đầu những năm 1980, hàng loạt nghiên cứu thực chứng đó chỉ ra những

lập luận không thuyết phục của lý thuyết dân số học “bi quan”, trong đó quan trọng
nhất là lý thuyết này không tính đến tầm quan trọng của công nghệ và mức tích tụ
nhân lực trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các nghiên cứu thuộc
nhóm lý thuyết dân số học “lạc quan” cho rằng tăng dân số có thể tạo ra một nguồn
lực kinh tế quan trọng. Họ lập luận rằng dân số tăng lên cũng có thể làm tăng mức
tích tụ nhân lực và quốc gia có dân số lớn có thể tận dụng tính quy mô để hấp thụ
các tri thức, công nghệ cần thiết cho tăng trưởng.
Nghiên cứu của Simon (1981) [theo trích dẫn của Bloom và cộng sự, 2003]
chỉ ra rằng tăng dân số nhanh có thể có những tác động tích cực đến phát triển kinh
tế vì dân số tăng có thể tạo sức ép phải cải tiến công nghệ sản xuất - một nhân tố
quan trọng của tăng trưởng dài hạn. Một ví dụ khác là “Cách mạng xanh” từ những
năm 1950 đó làm tăng sản lượng nông nghiệp thế giới lên gần bốn lần dự chỉ sử
dụng thêm 1% đất đai, và nó đó giải quyết được nhu cầu cho một lượng lớn dân số.
• Lý thuyết dân số học “trung tính”
Vào đầu những năm 1990, một nhóm các nhà dân số học khác lại đánh giá tác
động của tăng dân số đến tăng trưởng kinh tế ở một góc độ rộng hơn và thận trọng
hơn. Họ đại diện cho những người theo lý thuyết dân số học “trung tính” với quan
điểm cho rằng tăng dân số tác động đến tăng trưởng kinh tế qua nhiều kênh khác
nhau mà những kênh này có thể lại tác động tích cực hoặc tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế. Ví dụ, Srinivan (1988) cho rằng tăng trưởng kinh tế là sản phẩm của hàng
loạt các chính sách và thể chế phù hợp chứ không chỉ đơn thuần là do nhân tố dân
số. Ba lĩnh vực quan trọng được tập trung nghiên cứu trong dòng lý thuyết này
nhằm đánh giá tác động của tăng dân số đến tăng trưởng kinh tế là tài nguyên tự
nhiên, tiết kiệm, và phương thức đa dạng hóa nguồn lực.
Trong thực tế, ba quan điểm lý thuyết trên đều đã ảnh hưởng một cách thực sự
đến chính sách ở cấp quốc gia cũng như toàn cầu. Chẳng hạn, trong những năm 80
của thế kỷ trước, do chấp nhận quan điểm thứ ba nên các nước phát triển và tổ chức
tài trợ đa phương đã cắt giảm ngân quỹ dành cho chương trình dân số.
Các nghiên cứu gần đây đã đưa ra những quan niệm đầy đủ hơn về mối liên hệ
giữa dân số và kinh tế: Sự phân bố của cơ cấu tuổi là một cơ chế tiềm tàng tác động

đến thành công kinh tế; nhưng điều này chỉ xảy ra khi một quốc gia có những thể

Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

-8

chế xã hội, kinh tế và chính trị cũng như những chính sách thích hợp, cho phép hiện
thực hoá tiềm năng tích cực của quá trình dân số. Điều này đã xảy ra ở một số nước
Đông Á và Đông Nam Á khi tận dụng được cơ hội dân số cho phát triển kinh tế kể
từ những năm 70 của thế kỷ trước cho đến nay. Cơ hội dân số đã đóng góp đến 1/3
mức tăng trưởng kinh tế của Đông Á trong thời kỳ tăng trưởng nhanh của thập niên
70 và 80 của thế kỷ trước.
Từ những tóm tắt nêu trên, chúng ta thấy có thể ủng hộ bất kỳ luận điểm nào
trong số ba luận điểm nêu trên khi phân tớch tỏc động của tăng dân số đến tăng trưởng
kinh tế nếu có thể xây dựng được các mô hình lý thuyết và thực chứng với những số
liệu cần thiết để bảo vệ luận điểm của mình. Tuy nhiên, điểm chung nhất có thể thấy là
các lý thuyết này đánh giỏ tỏc động của tăng dân số đến tăng trưởng và phát triển kinh
tế chủ yếu qua hai nhân tố chính là tốc độ tăng dân số và quy mô dân số, nhưng lại đó
bỏ qua một yếu tố cấu thành hết sức quan trọng là cơ cấu tuổi của dân số.
1.2.2 Ảnh hưởng của cơ cấu tuổi dân số tới tăng trưởng kinh tế
Cơ cấu dân số theo tuổi là tập hợp các nhóm người sắp xếp theo những lứa
tuổi nhất định, thể hiện sự phân bố tổng dân số theo các độ tuổi hay nhóm tuổi khác
nhau. Trong dân số học, cơ cấu theo tuổi có ý nghĩa quan trọng vì nó thể hiện tổng
hợp tình hình sinh tử, tuổi thọ, khả năng phát triển dân số và nguồn lao động của
một quốc gia. Có 2 loại cơ cấu dân số theo tuổi:

- Cơ cấu tuổi theo khoảng cách không đều nhau: với loại cơ cấu này, dân số
được phân chia thành 3 nhóm tuổi:
Nhóm dưới tuổi lao động: 0-14 tuổi.
Nhóm tuổi lao động: 15-64 tuổi.
Nhóm trên tuổi lao động: 65 tuổi trở lên.
Số người trong nhóm tuổi lao động là nguồn nhân lực quan trọng, là vốn quý
của quốc gia, cần phải sử dụng số người trong nhóm tuổi này một cách tối ưu để tạo
ra sức sản xuất cao nhất cho xã hội. Căn cứ vào 3 nhóm tuổi trên người ta phân biệt
một quốc gia có dân số già hay trẻ.
- Cơ cấu tuổi theo khoảng cách đều nhau: dân số được chia theo khoảng cách
đều nhau: 1 năm, 5 năm hoặc 10 năm.
Sự thay đổi của số lượng dân trong cùng nhóm tuổi của một quốc gia theo thời
gian cũng cho biết những thông tin về sự trẻ hóa hay già hóa dân số. Có một sự
khác biệt đáng kể về cơ cấu tuổi giữa các nước phát triển và các nước đang phát
triển. Các nước phát triển thường có dân số già hơn các nước đang phát triển, tuy
Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

-9

nhiên tốc độ già hóa dân số ở các nước đang phát triển sẽ diễn ra nhanh hơn các
nước phát triển do hậu quả của “bùng nổ dân số” giai đoạn trước. Sự khác biệt về
cơ cấu tuổi dân số giữa các vùng trong một quốc gia thường chịu ảnh hưởng lớn từ
các dòng di dân. Các dòng di dân lớn thường tập trung ở nhóm tuổi trưởng thành và
nam giới, vì vậy tạo nên sự già hóa dân số ở vùng đi, sự trẻ hóa dân số ở vùng đến,
và ảnh hưởng tới cả tỷ số giới tính của các vùng.

Do mỗi nhóm tuổi trong dân số có một đặc trưng khác nhau (ví dụ như lao
động, tiêu dùng…) nên chúng sẽ có những tác động khác nhau về mặt kinh tế. Ví
dụ, nhóm dân số trẻ cần được đầu tư nhiều cho sức khỏe và giáo dục để có thể tạo
ra một lực lượng lao động tốt, trong khi nhóm dân số cao tuổi cần được đầu tư một
hệ thống chăm sóc y tế tốt cùng với một hệ thống hưu trí và trợ cấp xã hội bền
vững. Khi quy mô của các nhóm tuổi này thay đổi cũng đồng nghĩa với sức ép và cơ
hội kinh tế sẽ thay đổi theo bởi chúng sẽ tác động đến mức tăng trưởng kinh tế và
thu nhập bình quân đầu người. Vì lý do này mà bên cạnh việc quan tâm đến quy mô
và tốc độ thay đổi dân số, các nhà hoạch định chính sách cần phải tính đến sự thay
đổi cơ cấu tuổi của dân số trong các chiến lược phát triển của mình. Nói cụ thể hơn,
họ phải tính toán xem khi nào dân số đạt được “cơ cấu vàng”, cơ cấu này sẽ kéo dài
trong bao lâu, và phải tận dụng cơ cấu này thế nào cho quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế, xã hội.
a. Cơ cấu tuổi của dân số và nguồn cung lao động
Quan hệ giữa dân số và phát triển được biểu hiện trên nhiều phương diện khác
nhau, nhưng nổi bật nhất là mối quan hệ dân số - lao động. Mối quan hệ này càng
có ý nghĩa hơn khi nhìn nhận nó trong điều kiện của các nước nghèo, chậm phát
triển, có mức gia tăng dân số nhanh, quy mô dân số đông, nguồn lao động lớn. Bởi
vì, nguồn lao động là lực lượng sản xuất chủ yếu, là chủ thể sáng tạo trong xã hội.
Tất cả nguồn của cải vật chất và giá trị tinh thần trong đời sống đều là sản phẩm của
lao động.
Từ góc độ phát triển thì vị thế và ý nghĩa của các lứa tuổi, các thời kỳ phát
triển khác nhau trong chu trình sống của con người là vô cùng quan trọng, vai trò
của chúng là hoàn toàn khác nhau. Chỉ có dân số trong tuổi lao động mới thực sự là
sự thống nhất giữa người sản xuất với người tiêu dùng, là bộ phận dân cư trực tiếp
đảm đương việc sản xuất ra toàn bộ của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Do vậy,
dân số trong độ tuổi lao động giữ vị thế vô cùng quan trọng trong tổng dân số nói
chung, là bộ phận dân cư đóng vai trị hạt nhân và chi phối, bộ phân dân số không
Nguyễn Thị Ngà


Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

- 10

thể thiếu được trong sự tồn tại và phát triển của xã hội. Sự biến đổi của bộ phận dân
số trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động đóng vai trị quan trọng và trở
thành vấn đề cốt lõi trong sự phát triển bền vững.
Dân số và nguồn lao động có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Dân số
là cơ sở tự nhiên hình thành nên nguồn lao động, lực lượng sản xuất chủ yếu của xã
hội. Nguồn lao động là bộ phận dân số trong tuổi lao động và có khả năng lao động
- bộ phận dân số chủ lực và năng động nhất trong dân số, nó quyết định và chi phối
toàn bộ hoạt động sản xuất của xã hội. Giữa cơ cấu tuổi của dân số và nguồn lao
động (cung lao động) có quan hệ qua lại biện chứng với nhau.
• Cơ cấu theo tuổi của dân số ảnh hưởng quy mô, cơ cấu, phân bố và chất
lượng nguồn lao động
Cơ cấu theo tuổi của dân số có ảnh hưởng nhất định tới quy mô, cơ cấu, phân
bố, chất lượng nguồn lao động. Một dân cư có số người trẻ dưới 15 tuổi đông và
chiếm tỷ trọng cao trọng dân số (thường do mức sinh cao), thông thường hàng năm
số người gia nhập lực lượng lao động nhiều hơn so với số người già ra khỏi lực
lượng lao động. Điều đó làm cho quy mô nguồn lao động không ngừng được tăng
lên, cơ cấu lực lượng lao động được trẻ hóa liên tục, dòng di chuyển của lao động
diễn ra nhiều và mạnh hơn, chất lượng nguồn nhân lực sẽ được cải thiện hơn so với
một dân cư già, với số người già chiếm đa phần trong dân số.
• Nguồn lao động ảnh hưởng tới cơ cấu tuổi của dân số
Dân số tác động đến nguồn lao động, nhưng đồng thời nguồn lao động cũng
tác động trở lại và ảnh hưởng đáng kể đối với sự biến đổi của các quá trình, các sự
kiện dân số. Quy mô nguồn lao động lớn và có xu hướng gia tăng, đồng nghĩa với

nó là hàng năm số người mới gia nhập đội ngũ lao động nhiều hơn so với số ra khỏi
lực lượng lao động. Nguồn lao động được trẻ hóa, dân số trong độ tuổi sinh đẻ tăng
lên, số trẻ em mới được sinh ra hàng năm nhiều hơn, quy mô dân số đông, cơ cấu
dân số trẻ lại. Ngược lại, khi số lượng lao động giảm, có nghĩa là số người trẻ mới
gia nhập vào nguồn lao động ít hơn so với số người già ra khỏi đội ngũ lao động,
dân số trong độ tuổi lao động - tuổi sinh đẻ, được bổ sung ít, số trẻ em mới được
sinh ra hàng năm không nhiều, mức sinh gia tăng chậm, quy mô dân số tăng không
đáng kể, dân số có xu hướng già hóa.
b. Cơ cấu tuổi của dân số và hành vi tiêu dùng
Dân số vừa là yếu tố của sản xuất nhưng đồng thời nó còn đóng vai trị như là
yếu tố của tiêu dùng. Là yếu tố của sản xuất, dân số được xem xét như là chủ thể
Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

- 11

quyết định quy mô, phân bố, cơ cấu và chất lượng nguồn lao động. Là yếu tố của
tiêu dùng , quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số quy định quy mô, cơ cấu,
chất lượng và sự phân bố các ngành nghề, các lĩnh vực hoạt động sản xuất của xã
hội, chi phối nội dung, tính chất của việc làm trong toàn bộ nền kinh tế. Sản xuất
bao nhiều, cho ai, cái gì, khi nào, ở đâu, chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ
tiêu dùng ra sao...là do số lượng, cơ cấu, chất lượng dân số quy định.
Cơ cấu dân số sẽ quyết định cơ cấu tiêu dùng, trong đó có cơ cấu theo độ tuổi.
Mỗi độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, nơi cứ trú, dân tộc, tôn giáo...đều có tâm lý, sở
thích, mốt tiêu dùng khác nhau. Nhu cầu tiêu dùng lại rất đa dạng và phong phú;
thỏa mãn nhu cầu này là điều kiện, là phương tiện để nảy sinh nhu cầu mới. Nhu

cầu của trẻ em và người lớn, người già; của nam và nữ, của các dân tộc, tôn giáo,
các vùng miền khác nhau không giống nhau về số lượng, chủng loại hàng hóa và
dịch vụ tiêu dùng. Mỗi doanh nghiệp sản xuất cái gì, với khối lượng bao nhiêu,
đương nhiên phụ thuộc vào số dân và nhu cầu của họ, mà nhu cầu này thay đổi theo
độ tuổi, theo giới tính...Chẳng hạn khi sản xuất mũ, cần đặt câu hỏi là: sản xuất cho
bao nhiêu người? Mũ cho nam hay nữ? Mũ cho ông già hay mũ cho trẻ em.. Như
vậy, quy mô và cơ cấu dân số, trong đó có cơ cấu theo độ tuổi góp phần quan trọng
vào việc xác định cơ cấu, quy mô của sản xuất, vì nó quyết định hành vi tiêu dùng
của dân cư.
1.3. Thời kỳ “Cơ cấu dân số Vàng”, những ảnh hưởng đối với sự tăng
trưởng kinh tế
• Khái niệm “cơ cấu dân số vàng”
Khi bàn luận tác động của dân số đến phát triển kinh tế đặc biệt đối với các
chương trình, chính sách xã hội dài hạn, chúng ta thường đề cập đến khả năng
“gánh đỡ” của bộ phận dân số lao động đối với bộ phận dân số phụ thuộc. Nói cách
khác, chúng ta bàn luận về tỷ số phụ thuộc của dân số. Có ba tỷ số phụ thuộc, đó là
tỷ số phụ thuộc trẻ em (được tính bằng tỷ số giữa số trẻ em với 100 người trong độ
tuổi lao động); tỷ số phụ thuộc già (được tính bằng tỷ số giữa số người cao tuổi với
100 người trong độ tuổi lao động); và tỷ số phụ thuộc chung (được tính bằng tổng
hai tỷ số phụ thuộc trên). Tỷ số phụ thuộc chung cho biết trung bình 100 người
trong độ tuổi lao động phải “gánh đỡ” cho bao nhiêu người ngoài độ tuổi lao động.
Khi tỷ số phụ thuộc chung nhỏ hơn 50 thì “gánh nặng” thấp bởi trung bình một
người ngoài độ tuổi lao động được “hỗ trợ” bởi hơn hai người trong độ tuổi lao
động. Khi dân số đạt được tỷ số phụ thuộc chung như vậy, chúng ta coi dân số đó
Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN


- 12

đang đạt “cơ cấu vàng”. “Cơ cấu dân số vàng” sẽ kết thúc khi tỷ số phụ thuộc chung
bắt đầu tăng trở lại và vượt ngưỡng 50. Theo Ross (2004), khi dân số trong giai
đoạn “cơ cấu vàng”, nguồn lực đầu tư cho nhóm dân số trẻ sẽ cần ít hơn và có thể
được sử dụng vào phát triển kinh tế và phúc lợi hộ gia đỡnh. Những lợi ích kinh tế
có được từ sự thay đổi cơ cấu dân số được gọi là “lợi tức dân số” và vì thế “lợi tức
dân số vàng” là mục tiêu mà chính phủ các nước phải tận dụng triệt để khi dân số
đạt cơ cấu “vàng”.

Hình 2: Giai đoạn "Cơ cấu dân số Vàng" ở một số nước trờn thế giới
• Cơ cấu dân số vàng và tăng trưởng kinh tế ở một số nước trên thế giới
Hình 2 thể hiện thời gian diễn ra “cơ cấu dân số vàng” của một số nước trên
thế giới. Rõ ràng, mỗi nước sẽ có một giai đoạn dân số đạt “cơ cấu vàng” khác nhau
với thời điểm xuất phát và kết thúc khác nhau, phụ thuộc vào biến động dân số của
nước đó. Biến động dân số, cụ thể là mức sinh và mức chết, tác động đến phân bố
tuổi dân số và tạo ra “cơ cấu dân số vàng” - là một cơ chế tiềm tàng tác động đến
thành công kinh tế. Tuy vậy, điều đó sẽ chỉ xảy ra khi một nước có các thể chế xă
hội, kinh tế, chính trị cũng như các chiến lược, chính sách thích hợp cho phép hiện
thực hoá tiềm năng tích cực của quá tŕnh dân số. Điều này đă xảy ra với một số
nước trên thế giới, đặc biệt ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á, khi tận dụng được
cơ hội dân số cho phát triển kinh tế kể từ những năm 1960 đến nay.
Khu vực Đông Á
Quá độ dân số của khu vực Đông Á diễn ra nhanh hơn (chỉ khoảng 50 đến 75
năm) so với nhiều khu vực khác trên thế giới. Phân tích của nhiều nghiên cứu chỉ ra
một số nhân tố cơ bản đóng góp vào tăng trưởng của khu vực này, đó là nguồn nhân
Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế



Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

- 13

lực tốt, tăng trưởng việc làm cao, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao. Giai đoạn phát triển
“thần kỳ” chứng kiến tỷ lệ chi cho giáo dục và y tế tăng lên nhanh chóng và
gắn liền với chúng là sự tăng trưởng mạnh về việc làm và năng suất lao động trong
các ngành dịch vụ và sản xuất, cũng như năng suất lao động của khu vực nông
nghiệp (Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan). Kết quả đó nhờ một phần vào sự sụt
giảm nhẹ của tổng tỷ suất sinh bởi vì dân số trong độ tuổi đến trường giảm nên tăng
chi tiêu cho giáo dục có thể thực hiện được mà không cần phải tăng quá nhiều thuế,
và bản thân các hộ gia đỡnh có thu nhập cao hơn nên cũng có khả năng chi tiêu
nhiều hơn cho giáo dục và y tế. Kết quả là nguồn nhân lực của khu vực này được
cải thiện đáng kể. Một điểm nhấn khác cũng rất quan trọng là vấn đề bình đẳng giới
trong y tế, giáo dục và nhiều lĩnh vực xă hội đă được quan tâm trong chính sách
phát triển của các nước Đông Á, và kết quả là tỷ lệ lao động nữ ngày càng tăng và
điều này giúp cải thiện được vị thế và sức khỏe sinh sản của họ. Tiết kiệm và đầu tư
cũng có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế “thần kỳ” của khu vực này.
Bên cạnh các nhân tố quan trọng đó, kết luận về sự phát triển của khu vực Đông Á
là các nước này đă tạo được một môi trường kinh tế và chính trị thuận lợi có khả
năng khai thác tất cả các cơ hội từ lợi tức dân số. Nghiên cứu định lượng của Bloom
và Williamson (1998) cho thấy quá trình chuyển đổi dân số có đóng góp quan trọng
vào thành tựu tăng trưởng và phát triển “thần kỳ” của khu vực này từ những năm
1960. Tốc độ tăng thu nhập bb nh quân đầu người giai đoạn 1965-1990 là 6%/năm
được lý giải bằng thực tế là những người thuộc thế hệ dân số bùng nổ có tỷ lệ tham
gia thị trường lao động cao đă làm giảm mạnh tỷ lệ phụ thuộc dân số và gia tăng lực
lượng lao động với tốc độ trung bình năm là 2,4%.
Điển hình là Nhật Bản - nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, nhưng cũng là nước

già nhất trên thế giới với tỷ lệ người cao tuổi (từ 65 tuổi trở lên) vào khoảng 20%
tổng dân số và tuổi thọ trung bình là 82,3 vào năm 2007. Tuổi trung vị của dân số
Nhật Bản tăng nhanh, từ 22,3 vào năm 1950 lên 37,4 vào năm 1990 và 42,9 vào năm
2005 (United Nations, 2007). Cũng theo dữ liệu dân số này thì Nhật Bản đă kết thúc
“cơ cấu dân số vàng” diễn ra trong giai đoạn 1965-2000 - giai đoạn chứng kiến sự bùng
nổ kinh tế của Nhật Bản, đặc biệt từ giữa những năm 1950 đến cuối những năm 1980.
Trong giai đoạn này, đi lên từ một đống đổ nát để lại từ Chiến tranh Thế giới lần thứ II,
chính phủ Nhật Bản đă thực thi hàng loạt chính sách đồng bộ nhằm tận dụng dân số
của giai đoạn bùng nổ đang bước vào tuổi lao động. Về kinh tế, chính sách công
nghiệp hóa dựa trên nền tảng phát triển công nghệ được thực hiện đồng bộ với các chính sách
Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

- 14

kinh tế vĩ mô khác (tiền tệ, tài khóa, tỷ giá hối đoái…) nhằm thúc đẩy và hiện thực hóa tiềm
năng trong nước. Các ngành công nghiệp, đặc biệt là các ngành sản xuất, được đầu tư có trọng
điểm và phù hợp với nhu cầu, khả năng phát triển trong từng giai đoạn. Gắn liền chính sách
kinh tế là hàng loạt chính sách nhất quán và nhiều tham vọng để xây dựng một hệ thống giáo
dục tốt nhằm tạo một lực lượng lao động có giáo dục và kỹ năng - bộ phận dân số mà trong
những năm 1960 được gọi là “những quả trứng vàng” (Ohno, 2007). Chính sách y tế cũng
được đặc biệt coi trọng với việc hướng tới chăm sóc y tế toàn dân với mạng lưới cơ sở chăm
sóc y tế được xây dựng nhanh chóng và đáp ứng nhu cầu mang tính đặc trưng của từng vùng,
khu vực. Ngay từ đầu những năm 1950 chính phủ Nhật Bản đă xây dựng chiến lược an sinh
xă hội sâu rộng, đặc biệt là hưu trí và bảo trợ xă hội, nhằm đảm bảo và hỗ trợ đời sống của
hàng triệu người lao động. Hệ thống an sinh xă hội nhiều tầng do nhà nước xây dựng và quản

lý đă giải quyết được một lượng lớn nhu cầu của người Nhật Bản.
Một điển hình khác cho việc tận dụng các cơ hội do “cơ cấu dân số vàng”
mang lại để phát triển kinh tế trong khu vực Đông Á là Hàn Quốc. “Cơ cấu dân số
vàng” của Hàn Quốc diễn ra trong một khoảng thời gian dài hơn so với Nhật Bản trong vìng 49 năm (1965-2014). Đây cũng chính là giai đoạn Hàn Quốc trải nghiệm
tăng trưởng kinh tế cao, đặc biệt từ đầu những năm 1960 cho đến giữa những năm
1980. Từ một nước nghèo với thu nhập bình quân đầu người 60 USD/năm vào năm
1948, Hàn Quốc vươn lên trở thành quốc gia có nền kinh tế đứng thứ ba ở Châu Á
và thứ 13 trên thế giới hiện nay. Các chiến lược phát triển kinh tế 5 năm đều định
hướng vào công nghiệp hóa nhanh dựa trên xuất khẩu. Để làm được việc này, chính
phủ Hàn Quốc đă đưa ra hàng loạt gói chính sách hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế
tư nhân cho xuất khẩu như vay ngân hàng lăi suất thấp, ưu tiên nhập khẩu nguyên
liệu cho sản xuất, cho phép vay vốn nước ngoài và ưu đăi thuế. Bên cạnh việc thúc
đẩy nội lực công nghiệp, chính phủ Hàn Quốc cũng chủ động hướng đến sự trợ giúp
về kỹ thuật và tài chính cùng với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kết quả là
Hàn Quốc nhanh chóng trở thành một cường quốc kinh tế trong khu vực và là một
trong bốn nước công nghiệp mới (NICs) vào những năm 1980.
Khu vực Đông Nam Á
Quá tŕnh chuyển đổi dân số của các nước Đông Nam Á diễn ra chậm hơn so
với các nước Đông Á. Dữ liệu của United Nations (2007) cho thấy, các nước này mới
bắt đầu hưởng lợi từ “cơ cấu dân số vàng” gần đây mà sớm nhất là Singapo (năm
1980) và muộn nhất là Phi-lip-pin (năm 2030) với độ dài trung bb nh là 30 năm (Bảng 1).
Giai đoạn 1950-1990 chứng kiến mức tăng dân số rất cao ở một số nước Đông Nam Á
Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

- 15


như In-đô-nờ-sia và Việt Nam. Chính sách kế hoạch hóa gia đb nh và sự cải thiện đáng
kể của hệ thống y tế đă làm giảm cả tỷ suất sinh và tỷ suất chết ở các nước này.
Bảng 1. Tỷ số phụ thuộc chung khu vực Đông Nam Á, 1950-2050
Năm Singapore Thái Lan Indonesia Malaysia Philippines
1950
75
83
76
85
89
1955
77
82
74
88
93
1960
83
87
76
95
96
1965
86
92
81
98
97
1970

73
91
83
92
93
1975
59
85
82
85
90
1980
47
74
78
75
86
1985
42
59
72
74
83
1990
37
50
66
70
79
1995

40
46
59
66
75
2000
41
43
54
60
70
2005
39
42
51
56
67
2010
35
41
49
52
63
2015
36
43
46
50
59
2020

42
45
44
48
56
2025
54
49
43
48
52
2030
68
53
44
48
50
2035
77
52
47
48
48
2040
80
56
50
49
47
2045

79
59
53
50
47
2050
78
62
56
53
48
Chú thích: Tỷ số phụ thuộc chung được tính bằng tỷ số giữa tổng dân số trẻ
em (0-14) và dân số cao tuổi (65+) với 100 người độ tuổi lao động (15-65).
Nguồn: United Nations (2007).
Ước lượng của ADB (1997) cho thấy lợi tức dân số ở Đông Nam Á đóng
góp khoảng 0,7 điểm phần trăm vào mức tăng thu nhập đầu người hàng năm, trong
khi kết quả tính toán của Bloom và Williamson (1998) là khoảng 1,0 điểm phần
trăm. Rõ ràng, lợi tức dân số của khu vực Đông Nam Á hiện nay sẽ không lớn như
lợi tức dân số của khu vực Đông Á thời kỳ 1960-1990. Một trong những nguyên nhân
quan trọng lý giải cho vấn đề này là tỷ lệ tăng dân số hoạt động kinh tế với tỷ lệ tăng
dân số không hoạt động kinh tế không khác nhau nhiều như ở khu vực Đông Á nên lợi
tức dân số của khu vực này cũng thấp hơn so với khu vực Đông Á (Bloom và cộng sự,
2003).
Bên cạnh các gói chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng xuất
Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN


- 16

khẩu, một điểm nhấn chính sách quan trọng chung ở các nước khu vực này trong
việc lồng ghép dân số với tăng trưởng và phát triển kinh tế là chiến lược giáo dục và
y tế. Việc Singapo tận dụng dấu hiệu của chuyển đổi dân số từ cuối những năm
1970 cho tăng trưởng kinh tế thông qua việc tăng mức bao phủ và chất lượng của hệ
thống giáo dục là một minh chứng cụ thể, trong khi Phi-lip-pin có cùng chất lượng
nguồn nhân lực xét theo mức độ giáo dục và y tế nhưng lại tăng trưởng chậm do tỷ
lệ sinh quá cao và chất lượng thể chế chưa tốt (Navaneetham, 2002). Malaysia đầu
tư xây dựng các cụm trường đào tạo nhân công chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu
phát triển của các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế tạo, với vai trò là
nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở nước này trong hơn hai thập kỷ vừa qua.
Thái Lan cũng thể hiện các nỗ lực xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cho tăng
trưởng bằng các chính sách giáo dục, y tế mạnh mẽ gắn liền với chiến lược phát
triển của một số ngành sản xuất chủ lực. Tuy nhiên, phân tích của Ohno (2008)
cũng cho thấy hầu hết các nước đang phát triển ở Đông Nam Á, đặc biệt là các nước
đầu đàn như Malaysia và Thái Lan, đang gặp nhiều khó khăn để tiến đến một bước
phát triển kinh tế như Đài Loan hoặc Hàn Quốc. Nguồn nhân lực vẫn lệ thuộc vào
nước ngoài, đặc biệt là kỹ năng quản lý và sản xuất, là yếu tố cản trở lớn nhất đối
với hai nước này. Đây là bài học quan trọng cho Việt Nam trong việc sử dụng và
phát triển nguồn nhân lực trong tiến tŕnh công nghiệp hóa nói riêng và tăng trưởng
và phát triển kinh tế nói chung.
Bên cạnh các chính sách tận dụng cơ cấu “vàng” hiện có, các nước trong khu
vực này còn hoạch định các chính sách dài hạn khi cơ cấu “vàng” này không còn và
không lặp lại nữa - đó là khi người lao động thuộc thời kỳ dân số bùng nổ sẽ về hưu
và tỷ lệ phụ thuộc dân số lại tăng lên nhanh chóng do sự gia tăng của tỷ lệ phụ
thuộc người già. Sức ép đối với hệ thống chăm sóc y tế và hưu trí cho người cao

Nguyễn Thị Ngà


Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

- 17

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ CƠ CẤU TUỔI CỦA DÂN SỐ VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2007
2.1 Thực trạng về cơ cấu tuổi của dân số
2.1.1 Thực trạng chung của dân số
Theo Tổng cục Thống kê, ngày 1.4.2009, tổng dân số Việt Nam là 85.846.997
người, bao gồm 42.413.143 nam (chiếm 49,4%) và 43.433.854 nữ (chiếm 50,6%),
là nước đông dân thứ ba ở Ðông - Nam Á, và đứng thứ 13 trong số những nước
đông dân nhất thế giới. Trong mười năm gần đây, trung bình mỗi năm dân số Việt
nam gia tăng thêm 947 nghìn người. Nếu cứ tiếp tục với đà tăng này thì sau hai
mươi năm nữa dân số Việt nam sẽ đạt con số hơn 100 triệu người và rất có thể sẽ
thuộc vào nhóm mười nước có dân số lớn nhất thế giới.

Hình 2. Gia tăng dân số tại Việt Nam
Theo số liệu thống kê, tốc độ tăng dân số trung bình ở thành thị là 3,4% mỗi
năm, trong khi ở khu vực nông thôn chỉ là 0,4% mỗi năm. Kết quả điều tra cũng
phản ánh một thực tế, dân số thành thị đang tăng nhanh. Cụ thể, dân cư ở khu vực
thành thị là 25.436.896 người, chiếm 29,6% tổng dân số cả nước, trong khi dân số
nông thôn là 60.410.101 người, chiếm 70,4%.

Nguyễn Thị Ngà


Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

- 18

Bảng 1: Các chỉ tiêu cơ bản của nhân khẩu học Việt Nam đến năm 2009
CÁC CHỈ TIÊU CƠ BẢN
Tổng số dân (nghìn người)
+ Nam
+ Nữ
+ Thành thị
+ Nông thôn
Tỷ số giới tính lúc sinh (số nam/100 nữ)
Tỷ suất sinh thụ (‰)
Tỷ suất chết thụ (‰)
Tổng tỷ suất sinh
Tuổi thọ trung bình lúc sinh (năm):
+ Chung
+ Nam
+ Nữ
Tỷ suất chết trẻ em < 1 tuổi (‰)
Tuổi kết hôn trung bình lần đầu:
+ Nam
+ Nữ

Năm
2009
2009

2009
2009
2009
2009
2009
2009
2009

86024,6
42597,2
43427,4
25466,0
60558,6
110,5
17,6
6,8
2,03

2009
2009
2009
2009

72,8
70,2
75,6
16,0

2009
2009


26,2
22,8

Tỷ lệ dân số thành thị (%)
2009
29,6
Tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi (%)
2009
25,0
Tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên (%)
2009
6,6*
Tỷ lệ dân số >=15 tuổi biết chữ (%)
2009
93,5
Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị (%)
2009
4,6
Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo (%)
2009
12,3
(Nguồn: Tổng cục Thống kê (TCTK), Niên giám thống kê 2009; Điều tra biến
động DS-KHHGĐ 2009; *TCTK, Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009)
Mức sinh của Việt Nam tiếp tục giảm trong 10 năm qua. Tổng tỷ suất sinh duy
trì dưới mức sinh thay thế, đạt 2,03 con sinh ra sống trên một phụ nữ. Tỷ số giới
tính khi sinh của Việt Nam ở mức tương đối cao, đạt 111 bộ trai trên 100 bé gái. Tỷ
số này đặc biệt cao ở vùng đồng bằng Sông Hồng (115/100). Tỷ số giới tính khi
sinh cao nhất ở Hưng Yên với 131 bộ trai trên 100 bé gái, gây quan ngại về tình
trạng mất cân bằng giới tính ở Việt Nam.

Bảng 2: Tỷ suất sinh của Việt Nam và một số nhóm nước
Thời kỳ

Thế giới

1970-1975

4.47

Nguyễn Thị Ngà

Các nước
phát triển
2.13

Các nước kém
phát triển
5.41

Châu Á

Việt nam

5.04

6.7

Khoa Toán Kinh Tế



Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

- 19

1975-1980

3.92

1.91

4.65

4.19

5.89

1980-1985

3.58

1.85

4.15

3.67

4.5

1985-1990


3.38

1.83

3.84

3.4

4.02

1990-1995

3.05

1.68

3.42

2.97

3.3

1995-2000

2.8

1.55

3.11


2.67

2.5

2000-2005

2.65

1.56

2.9

2.47

2.32

2005-2010

2.55

1.6

2.75

2.34

2.14

Nguồn: Population Division of the Department of Economic and Social Affairs
of the United Nations Secretariat.

2.1.2 Cơ cấu tuổi của dân số Việt Nam
Cùng với sự phát triển kinh tế và những tiến bộ trong y học và các chương
trình y tế cộng đồng là sự cải thiện trong tỷ suất chết của trẻ sơ sinh và mức gia tăng
trong tuổi thọ của người dân Việt nam trong hơn hai thập kỷ qua.
Hình dưới đây thể hiện sự cải thiện về tuổi thọ ở Việt nam và những dự báo
cho tương lai.

Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

- 20

Hình 3. Tuổi thọ bình quân người dân Việt nam theo thời kỳ, quá khứ và dự báo
Hình 3 cho thấy một sự cải thiện rõ rệt trong mức trung bình tuổi thọ: những năm
1980, mức tuổi thọ trung bình là 58 tuổi thì đến năm 2010 là đã gần đến 75 tuổi.
Những sự thay đổi này trong nhân khẩu học đã tích lũy theo thời gian và tạo
ra những thay đổi nhanh chóng trong cơ cấu tuổi của dân số Việt nam trong hơn hai
thập kỷ qua, điều này được thể hiện trong hình 2.1 dưới đây
70.000
60.000
50.000
Dưới 6 tuoi
40.000

6-15 tuổi


30.000

16-65 tuổi
trên 65 tuổi

20.000
10.000
0.000
2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

Hình 3: Cơ cấu tuổi của dân số

Nguyễn Thị Ngà


Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

- 21

Hình 3 cho thấy ba đặc trưng chính của sự chuyển dịch trong cơ cấu tuổi của
dân số Việt nam trong giai đoạn từ 1980 đến nay.
1. Kể từ năm 1980, dân số Việt nam ở trong giai đoạn cơ cấu vàng, và theo
như dự báo của Tổng cục Thống kê thì giai đoạn dân số vàng của Việt nam
còn kéo dài khoảng 30 đến 50 năm nữa.
2. Tỷ lệ người trong tuổi lao động (lấy theo thông lệ quốc tế là từ 15- 65 tuổi)
trên tổng dân số tiếp tục gia tăng đến khi đạt cực đại ở mức khoảng 70 % vào năm
2018, cao hơn rất nhiều so với mức yêu cầu để đạt dân số với cơ cấu vàng. Điều này
rõ ràng đem lại một cơ hội cho tăng trưởng kinh tế với một lực lượng lao động hùng
hậu, nhưng mặt khác cũng tạo ra thách thức cho chính quyền trong việc tạo công ăn
việc làm.
3. Tỷ lệ người già được dự báo là sẽ tăng từ 5.6 % năm 2006 lên khoảng
11% vào năm 2030. Sự gia tăng khá lớn này đòi hỏi một sự chuẩn bị tốt
trong việc xây dựng một hệ thống chăm sóc y tế và an sinh xã hội.
4. Tỷ lệ trẻ em dưới 14 tuổi đang giảm dần và mức giảm này ngang bằng
với mức tăng dân số. Nghĩa là số trẻ em sẽ gần như không thay đổi về trong
khoảng thời gian trước mắt.
Nếu xem xét chi tiết hơn cơ cấu tuổi của dân số trong độ tuổi lao động, chúng
ta có bảng sau
Bảng 3. Cơ cấu tuổi dân số trong độ tuổi lao động ở Việt Nam 1979 - 2007
Nhóm tuổi
1979
1989

1999
2007
(% tổng dân số)
15-19
11.40
10.50
10.77
10.71
20-24
9.26
9.50
8.86
8.69
25-29
7.05
8.08
8.48
7.66
30-34
4.72
7.30
7.86
7.71
35-39
4.04
5.10
7.27
7.66
40-44
3.80

3.40
5.91
7.51
45-49
4.00
3.10
4.07
6.44
50-54
3.27
2.90
2.80
5.23
55-59
2.95
3.00
2.36
3.43
Nguồn: Tổng điều tra dân số 1979, 1989, 1999 và Tổng cục thống kê (2008)
Bảng 3 cho thấy một xu hướng khá rõ nét: kể từ năm 1999 trở đi thì tỷ lệ lao
động các nhóm trẻ (tính từ 15-34) bắt đầu giảm dần, và tỷ lệ các nhóm lớn tuổi hơn
bắt đầu tăng dần. Chẳng hạn với nhóm 50-54 tuổi thì tỷ lệ này tăng từ 2.8% năm

Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN


- 22

1999 lên đến 5.23% năm 2007, và tương tự cho các nhóm “già” còn lại. Điều này cũng
mang lại những thách thức cho sự phát triển kinh tế cũng như việc thiết kế các chương
trình an sinh xã hội cho người già, vì trong tương lai không xa, mặc dù dân số Việt
nam vẫn ở giai đoạn cơ cấu vàng, nhưng tỷ lệ dân số già bắt đầu gia tăng và tạo áp lực
cho nền kinh tế trong tăng trưởng kinh tế cũng như hệ thống chăm sóc sức khỏe.
Với nhóm tuổi 0-15 tuổi cũng có nhưng thay đổi lớn, và sự thay đổi này
được thể hiện trong bảng dưới đây
Bảng 4. Cơ cấu của trẻ em Việt Nam 1979 - 2007
Nhóm tuổi
1979
1989
1999
2007
(% tổng dân số)
0-4
14.62
14.00
9.52
7.49
5-9
14.58
13.30
12.00
7.84
10-14
13.35
11.70
11.96

10.18
Nguồn: Tổng điều tra dân số 1979, 1989, 1999 và Tổng cục thống kê (2008)
Số liệu trong bảng 4 cho thấy có một sự thay đổi rõ rệt trong cơ cấu tuổi của
nhóm trẻ dưới 15 tuổi: tỷ lệ các nhóm này trong tổng dân số đều giảm mạnh. Trong
đó giảm mạnh nhất là nhóm trẻ từ 0 đến 4 tuổi: nhóm này chiếm 14.62 % tổng dân
số năm 1979, và tới năm 2007, con số này chỉ còn xấp xỉ một nửa. Tiếp đến, trẻ em
trong độ tuổi đến trường tiểu học (5- 9) cũng giảm mạnh trong cùng thời gian này,
từ 14,58% tổng dân số năm 1979 xuống 7,58% dân số năm 2007. Nhóm tuổi từ 1014 cũng có giảm nhưng với mức giảm chậm hơn so với các nhóm còn lại. từ
13,35% tổng dân số 1979 xuống 10,18% tổng dân số năm 2007. Điều này phản ánh
một thực tế là lứa những người sinh sau năm 1975 – khi đất nước hòa bình thống
nhất – đã nhận thức khá khác biệt với thế hệ đi trước về vấn đề sinh đẻ. Điều này có
thể là hệ quả tổng hợp của nhiều những sự đổi thay trong kinh tế - xã hội – văn hóa.
Những sự thay đổi chi tiết về cơ cấu tuổi như đã phân tích trên đây làm cho
động thái của cơ cấu tuổi của dân số Việt nam hết sức sinh động không chỉ trong
quá khứ mà còn kéo dài trong một tương lai dài hạn. Và dĩ nhiên nó sẽ có những
ảnh hưởng đáng kể đến các vấn đề kinh tế xã hội liên quan như vấn đề giáo dục, y
tế và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi.
Giai đoạn nhân khẩu học lợi thế và giai đoạn nhân khẩu học thách thức
Thuật ngữ “nhân khẩu học lợi thế” ngụ ý chỉ các đặc tính của nhân khẩu học
đem lại cơ hội cho tăng trưởng kinh tế, còn “nhân khẩu học thách thức” , ngược lại
ngụ ý các đặc tính làm chậm lại sự tăng trưởng kinh tế. Một cách thông dụng trên
Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

- 23


thế giới trong việc phân loại giai đoạn này là nhìn vào động thái của tỷ lệ hỗ trợ
(support ratio), được định nghĩa là tỷ số giữa số người trong độ tuổi lao động trên tổng
dân số, và tỷ lệ phụ thuộc (dependence ratio), được định nghĩa là tỷ số giữa số người
dưới 15 tuổi hoặc trên 65 tuổi và số người trong độ tuổi lao động. Một tỷ lệ lớn số
người trong độ tuổi lao động không chỉ ngụ ý một nguồn cung lao động lớn mà còn
một tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao. Điều này giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược
lại, một tỷ lệ phụ thuộc cao sẽ ngụ ý một tỷ lệ tiêu dùng cao và tiết kiệm thấp, do đó
hạn chế tăng trưởng. Hình 4 dưới đây thể hiện động thái của các tỷ lệ này.

Hình 4: Động thái của tỷ lệ hỗ trợ và tỷ lệ phụ thuộc
Bảng 5 mô tả biến động dân số Việt Nam theo cơ cấu tuổi trong giai đoạn
2010-2050. Trong hai thập kỷ tới, dân số trong tuổi lao động ở Việt Nam sẽ tăng lên
mạnh mẽ, đạt mức xấp xỉ 65% tổng dân số trong giai đoạn 2015-2025. Sau đó, tỷ lệ
dân số này giảm dần và đạt mức 57% vào năm 2050. Cùng lúc đó, tỷ lệ trẻ em sẽ
giảm từ gần 30% năm 2005 xuống khoảng 23% vào năm 2020 và 17% vào năm
2050. Ngược lại, tỷ lệ dân số cao tuổi sẽ bắt đầu tăng mạnh từ năm 2015 và đạt mức
26,1% tổng dân số năm 2050.

Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

- 24

Bảng 5. Dự báo cơ cấu tuổi dân số Việt Nam theo nhóm, 2010-2050
Age
0-4

5-9
10-14
15-19
20-24
25-29
30-34
35-39
40-44
45-49
50-54
55-59
60-64
65-69
70-74
75-79
80+

2010 2015 2020
8,07 7,66 7,26
8,27 7,64 7,30
8,73 7,84 7,28
10,16 8,25 7,45
9,27 9,59 7,83
7,81 8,74 9,09
7,79 7,35 8,28
7,84 7,33 6,96
7,48 7,37 6,93
6,73 7,02 6,95
5,34 6,27 6,58
3,77 4,93 5,82

2,39 3,43 4,52
2,02 2,11 3,06
1,65 1,70 1,80
1,39 1,27 1,34
1,29 1,51 1,58

2025
6,90
6,95
6,98
6,95
7,10
7,46
8,66
7,88
6,62
6,58
6,56
6,16
5,38
4,06
2,63
1,43
1,68

2030
6,39
6,66
6,71
6,73

6,68
6,82
7,16
8,32
7,56
6,33
6,26
6,20
5,74
4,89
3,54
2,14
1,85

2035
5,99
6,22
6,48
6,52
6,52
6,47
6,61
6,94
8,05
7,30
6,08
5,97
5,84
5,28
4,32

2,92
2,50

2040
5,75
5,87
6,10
6,34
6,36
6,37
6,32
6,45
6,76
7,83
7,07
5,85
5,67
5,42
4,71
3,60
3,51

2045
5,63
5,68
5,79
6,01
6,24
6,26
6,26

6,21
6,33
6,63
7,65
6,86
5,60
5,32
4,89
3,99
4,67

2050
5,54
5,59
5,64
5,74
5,95
6,17
6,19
6,19
6,13
6,25
6,51
7,47
6,62
5,30
4,85
4,19
5,69


Bảng 5 trình bày cụ thể hơn cơ cấu tuổi dân số Việt Nam theo dự báo của
United Nations (2007). Có thể thấy là, trong thời gian tới, dân số trẻ em, đặc biệt là
trẻ dưới 5 tuổi và trẻ trong độ tuổi đến trường tiểu học, sẽ giảm mạnh trong thời
gian tới. Cùng lúc đó, dân số trong độ tuổi lao động vẫn tiếp tục tăng, đặc biệt nhóm
tuổi lao động trẻ (15-30) chiếm tỷ trọng lớn. Dân số cao tuổi tiếp tục tăng nhanh,
nhất là các nhóm ở độ tuổi rất cao (từ 80 trở lên).

Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế


Ketnooi.com Diễn đàn học tập lớn nhất VN

- 25

Hình 5: Dự báo cơ cấu dân số vang tại Việt Nam
Kết quả là, dự báo của United Nations (2007) cho thấy tỷ số phụ thuộc chung
sẽ ở mức dưới 50% từ năm 2009 và kéo dài cho đến khoảng năm 2039 [Hỡnh 4,
bên trên]. Giai đoạn này đặc trưng bởi tỷ số phụ thuộc chung giảm xuống là do mức
giảm của tỷ số phụ thuộc trẻ em lớn hơn mức tăng tỷ số phụ thuộc người già. Nói
cách khác, dân số Việt Nam đạt cơ cấu “vàng” trong giai đoạn 2009-2039 (30 năm)
với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đạt ở mức cao nhất khoảng 65% tổng dân số
trong giai đoạn 2015-2025. Cơ cấu “vàng” sẽ kết thúc từ năm 2040 khi tỷ số phụ
thuộc chung tăng lên, cao hơn 50 và bị chi phối chủ yếu do tỷ số phụ thuộc người
già tăng nhanh.

Nguyễn Thị Ngà

Khoa Toán Kinh Tế



×