Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Cơ quan Cảnh sát điều tra trong TTHS Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.07 KB, 24 trang )

1!

PHẦN MỞ ĐẦU
1.! Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (NQ49/TW) đã
chỉ rõ quan điểm về việc xây dựng thủ tục rút gọn: “… Xây
dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có
đủ một số điều kiện nhất định”. Hiến pháp 2013 (HP 2013) quy
định rõ về việc áp dụng TTRG để giải quyết một số loại vụ án.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành
(BLTTDS), các tranh chấp dân sự (TCDS) nói chung, cũng như
các tranh chấp kinh doanh, thương mại (TCKDTM) nói riêng
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án đều được giải quyết
bằng một trình tự thủ tục tố tụng thông thường, áp dụng chung
mà không phân biệt giá trị tranh chấp, tính phức tạp hoặc đơn
giản của tranh chấp, có sự thừa nhận nghĩa vụ của đương sự... là
không hợp lý và làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, môi trường kinh doanh và làm tăng chi
phí trong hoạt động kinh doanh.
Nhiều nước đã xây dựng thủ tục rút gọn (summary
procedure) hay còn gọi là thủ tục giản lược (simplified
procedure) để áp dụng xử lý những vi phạm pháp luật nhỏ, giải
quyết những tranh chấp, khiếu kiện có giá trị thấp, những vụ
việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng.
Do đó, đề tài: “Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”
thực sự là cần thiết và cấp thiết trong bối cảnh trên.
2.! Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1.!Mục đích nghiên cứu
Một là, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về TTRG trong TTDS; Hai


là, phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết
TCKDTM tại Tòa án Việt Nam làm cơ sở xây dựng TTRG giải
quyết TCKDTM; Ba là, làm rõ các yêu cầu và đưa ra các đề
xuất xây dựng TTRG giải quyết TCKDTM tại Tòa án Việt
Nam.
2.2.!Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về TTRG trong TTDS
và thực tiễn áp dụng TTRG ở một số quốc gia trên thế giới;
phân tích thực trạng pháp luật TTDS và thực tiễn giải quyết


2!

TCKDTM hiện nay làm cơ sở cho việc xây dựng TTRG giải
quyết TCKDTM tại Tòa án Việt Nam; xây dựng các tiêu chí xác
định các vụ án được giải quyết theo TTRG có tính đến đặc thù
áp dụng đối với TCKDTM; đề xuất xây dựng TTRG và các giải
pháp hoàn thiện pháp luật và cơ chế áp dụng TTRG giải quyết
một số vụ án về TCDS nói chung và TCKDTM nói riêng.
3.! Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
3.1.!Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận án không chỉ giới hạn nghiên
cứu TTRG giải quyết TCKDTM mà còn phải bao gồm TTRG
giải quyết TCDS nói chung vì TTRG giải quyết TCKDTM phải
dựa trên nền tảng TTRG giải quyết TCDS nói chung. Phạm vi
nghiên cứu của Luận án cũng chỉ giới hạn ở TTRG giải quyết
vụ án dân sự mà không bao gồm giải quyết việc dân sự tại Tòa
án chứ không bao gồm các cơ chế ngoài Tòa án như tại các tổ
chức trọng tài thương mại hoặc các cơ chế giải quyết tranh chấp
khác.

3.2.!Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm: Các Nghị quyết của Đảng, Hiến pháp, BLTTDS và
các văn bản pháp luật của Việt Nam liên quan đến TTDS và
TTRG; Thực trạng giải quyết TCKDTM tại Tòa án; TTRG
trong TTDS của một số quốc gia trên thế giới; Các quy định về
TTRG và các quy định liên quan trong Dự thảo BLTTDSSĐ.
4.!Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ cung cấp những nội dung,
thông tin quan trọng, tin cậy và có giá trị về cơ sở lý luận và cơ
sở thực tiễn cho việc xây dựng TTRG trong TTDS tại Việt
Nam, trong đó có tham khảo kinh nghiệm nước ngoài. Ngoài ra,
Luận án có giá trị tham khảo, phục vụ cho công việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập.
5.! Kết cấu của Luận án
Ngoài Phần mở đầu, Tổng quan nghiên cứu, Những công
trình liên quan đến Luận án đã được công bố, Danh mục tài liệu
tham khảo, Luận án bao gồm các chương sau đây: Chương 1:
Cơ sở lý luận về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự; Chương 2:
Cơ sở thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại; Chương 3: Kiến nghị về
xây dựng thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại.


3!

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.! Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.!Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Các tài liệu nước ngoài có thể chia ra làm ba nhóm sau: (i)

những vấn đề chung của TTRG; (ii) tính hiệu quả của TTRG; và
(iii) các tiêu chí xác định một vụ án được giải quyết theo TTRG;
trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết vụ án theo TTRG.
Thứ nhất, nhóm tài liệu liên quan đến một số vấn đề chung
của TTRG gồm một số bài viết phân tích về TTRG như là một
thủ tục đơn giản, gọn nhẹ hơn thủ tục thông thường.
Các tài liệu chính về nhóm vấn đề này bao gồm: bài viết “The
Pragmatic Court: Reinterpreting the Supreme Court of China”
(Tòa án thực dụng: Giải thích lại Tòa án tối cao của Trung
Quốc) của tác giả Taisu Zhang; bài viết “Simplified Procedure
for Court Determination of Disputes Under New York’s Civil
Practice Law and Rules” (Thủ tục đơn giản cho Tòa án xác định
tranh chấp theo Luật dân sự thực hành của New York) của tác
giả Jay C. Carlisle; bài viết “When Should a Case be
Dismissed? The Economics of Pleading and Summary Judgment
Standards” (Khi nào thì một vụ kiện bị đình chỉ? Tính kinh tế
của việc khởi kiện và tiêu chuẩn bản án giản lược) của tác giả
Keith N. Hylton; bài viết “Summary Judgment is
Constitutional” (Các bản án giản lược là hợp hiến) của tác giả
Edward Brunet.
Thứ hai, nhóm các tài liệu liên quan đến tính hiệu quả của
TTRG bao gồm nhóm tài liệu phân tích về trường phái kinh tế
luật và nhóm tài liệu lý giải về tính ưu việt của TTRG. Về kinh
tế luật, có hai công trình khoa học chính là cuốn sách của Thẩm
phán R. Posner về “Economic Analys of Law” (Phân tích kinh
tế của pháp luật) và bài viết “The Great Recession and the
Rhetorical Canons of Law and Economics” (Đại khủng hoảng và
các quy tắc hùng biện của pháp luật và kinh tế) của Giáo sư
Michael D. Murray. Về tính ưu việt của TTRG, có bài viết
“Consumer Dispute Resolution and Redress in the Global

Marketplace” (Giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng và
chế tài trong thị trường toàn cầu; và bài viết “Three American
Ventures in Summary Civil Procedure” (Ba mạo hiểm đối với
nước Mỹ trong thủ tục tố tụng dân sự giản lược).


4!

Thứ ba, nhóm các tài liệu liên quan đến các tiêu chí xác định
một vụ án được giải quyết theo TTRG và trình tự, thủ tục, thời
hạn giải quyết tranh chấp theo TTRG, bao gồm hàng loạt các văn
bản pháp luật tố tụng của một số nước như: các Bộ luật tố tụng
dân sự của Pháp, Đức, Nhật v.v.
1.2.!Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, các tài liệu về TTRG trong TTDS có thể được
phâ theo các nhóm vấn đề sau đây: (i) yêu cầu về tính hiệu quả
của việc giải quyết TCKDTM; (ii) nhu cầu và quan điểm về việc
xây dựng TTRG ở Việt Nam; (iii) xác định cơ sở lý luận và thực
tiễn để xây dựng TTRG trong TTDS tại Việt Nam; và (iv) giới
thiệu kinh nghiệm nước ngoài về TTRG, bao gồm tiêu chí xác
định vụ án được giải quyết theo TTRG, trình tự, thủ tục và thời
hạn giải quyết vụ án theo TTRG.
Thứ nhất, có một số ít tài liệu liên quan đến yêu cầu về tính
hiệu quả của việc giải quyết TCKDTM đều chung quan điểm
giải quyết TCKDTM phải đảm bảo tính hiệu quả, ngắn, gọn…
như sau: cuốn sách “Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp
kinh tế ở nước ta hiện nay”; đề tài nghiên cứu khoa học về “Thực
tiễn tranh chấp kinh tế với việc hoàn thiện pháp luật kinh doanh”
do GS.TS.NGƯT. Mai Hồng Quỳ làm chủ nhiệm đề tài; cuốn
sách “Kinh tế luật” của TS. Lê Nết; và một số bài viết, kết quả

nghiên cứu phục vụ Hội thảo “Tham vấn hoàn thiện Bộ luật tố
tụng dân sự để cải thiện môi trường kinh doanh” do Cơ quan
Phát triển Quốc tế Hoa kỳ (USAID) tổ chức ngày 1-10-2015 tại
Hà Nội.
Thứ hai, nhóm tài liệu về nhu cầu và quan điểm về việc xây
dựng TTRG ở Việt Nam gồm một số bài viết được đăng trên tạp
chí đề cập đến các vấn đề khác nhau của TTRG như nhu cầu
xây dựng TTRG, phạm vi loại việc được áp dụng TTRG, mối
quan hệ giữa TTRG với một số nguyên tắc xét xử cơ bản, kinh
nghiệm từ một số quốc gia có quy định TTRG trong TTDS...
như sau: bài viết “Vấn đề áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử
và thành lập Tòa giản lược trong hệ thống Tòa án nhân dân”; bài
viết “Cần có quy định thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng dân
sự” của Đỗ Văn Chỉnh và Phạm Thị Hằng; “Báo cáo nghiên cứu
và đề xuất cơ chế, mô hình giải quyết tranh chấp dân sự theo thủ
tục rút gọn tại Tòa án Việt Nam” do nhóm chuyên gia của Dự
án Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền năm 2015.


5!

Thứ ba, nhóm tài liệu xác định cơ sở lý luận và thực tiễn để
xây dựng TTRG trong TTDS tại Việt Nam bao gồm: đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự” do Tòa án
nhân dân tối cao (TANDTC) thực hiện năm 1996; và đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng
dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay - Thực trạng và giải pháp” do TS. Trần Anh
Tuấn làm chủ nhiệm đề tài thực hiện năm 2014; đề tài nghiên

cứu khoa học cấp cơ sở: “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ
tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp”
do TS. Trần Anh Tuấn làm chủ nhiệm đề tài năm 2010; (ii) đề
tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở: “Giải quyết tranh chấp giữa
người tiêu dùng với tổ chức cá nhân kinh doanh bằng thủ tục rút
gọn trong tố tụng dân sự” do Thạc sỹ Đặng Thanh Hoa làm chủ
nhiệm đề tài năm 2013.
Thứ tư, nhóm tài liệu giới thiệu kinh nghiệm áp dụng TTRG
về tiêu chí xác định một vụ án có thể giải quyết theo TTRG,
trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết vụ án theo TTRG của một
số nước trên thế giới bằng tiếng Việt như sau cuốn sách
Japanese Law (Luật Nhật Bản); bài viết “Mô hình Tòa án đơn
giản ở Nhật Bản” của tác giả Ngô Cường; hai cuốn kỷ yếu: “Hội
thảo pháp luật về tố tụng dân sự ngày 9&10-11-2000” và “Hội
thảo pháp luật về tố tụng dân sự ngày 29&30-10-2001” của cùng
tác giả Jean-Marie Coulon.
1.3.!Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Nội dung sau đây của TTRG đã được các công trình khoa
học nghiên cứu: (i) nhu cầu, xu hướng áp dụng TTRG trong
việc giải quyết một số loại tranh chấp tại Tòa án; (i) mô tả kinh
nghiệm của một số nước về áp dụng TTRG giải quyết một số
loại tranh chấp tại Tòa án; (iii) các quan điểm và đề xuất xây
dựng TTRG ở Việt Nam.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trước đây còn chưa đề
cập: (i) phân tích tương đối cặn kẽ tính hiệu quả của TTRG
trong mối tương quan với yêu cầu bảo đảm công lý và các
nguyên tắc tư pháp cơ bản; (ii) giới thiệu TTRG của nước ngoài
kết hợp có sự lý giải về bối cảnh, cơ sở, lý do của các quy định
về TTRG hoặc đưa ra quan sát, đánh giá, lý giải và đúc rút về
những điểm tương đồng của kinh nghiệm quốc tế đó; (iii) phân



6!

tích một cách mạch lạc và làm rõ các tiêu chí lựa chọn một vụ
án được giải quyết theo TTRG; các nội dung của TTRG và việc
có nhất thiết phải rút gọn tất cả hay chỉ cần một hoặc một số nội
dung đó trong quá trình giải quyết vụ án theo TTRG; (iv) đánh
giá và phân tích thực tiễn Tòa án Việt Nam giải quyết
TCKDTM thông qua các vụ án cụ thể nhìn từ góc độ nhu cầu áp
dụng TTRG và khả năng có thể áp dụng TTRG qua thực tế giải
quyết TCKDTM để từ đó lý giải các đề xuất xây dựng TTRG
mang tính khoa học dựa trên cơ sở thực tiễn.
2.!Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1.!Cơ sở lý thuyết
Luận án được nghiên cứu dựa trên các cơ sở lý thuyết sau: (i)
các quan điểm của Đảng về yêu cầu cải cách tư pháp và hội
nhập kinh tế quốc tế và về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa; (ii) các nguyên tắc hiến định, các lý thuyết liên
quan đến pháp luật TTDS của Việt Nam và một số nước, ảnh
hưởng đến việc xây dựng TTRG giải quyết một số TCDS nói
chung và TCKDTM nói riêng; (iii) triết lý kinh tế luật trong
việc xây dựng pháp luật tố tụng; (iv) quan điểm lập pháp của
Việt Nam giải quyết TCKDTM tại Tòa án dựa trên nền tảng thủ
tục tố tụng chung nhưng thời hạn giải quyết ngắn hơn.
2.2.!Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu sau đã được sử dụng: phân tích
và tổng hợp; nghiên cứu tài liệu, các công trình đã được công bố
trước đây ở trong và ngoài nước; so sánh; nghiên cứu một số vụ
án cụ thể; điều tra xã hội học.

3.!Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
3.1.!Giả thuyết nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu dựa trên giả thuyết: giải quyết
TCKDTM theo thủ tục tố tụng hiện nay tại Tòa án là dài, phức
tạp, không hiệu quả và chưa đáp ứng được yêu cầu cần phải được
giải quyết nhanh, gọn và dứt điểm.
3.2.!Câu hỏi nghiên cứu
Hai câu hỏi nghiên cứu trọng tâm là: (i) các tiêu chí cần thiết
để xác định một TCDS, bao gồm TCKDTM, được giải quyết
theo TTRG là gì?; (ii) TTRG bao gồm những đặc điểm nào?


7!

NỘI DUNG, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC
RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và tính hiệu quả của thủ tục rút gọn
1.1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn
TTRG, thủ tục đơn giản hay thủ tục giản lược theo cách hiểu
của hai nước đại diện cho hai trường phái pháp luật phổ biến
trên thế giới, đều có nghĩa là một thủ tục tố tụng riêng biệt so
với thủ tục thông thường nhằm giải quyết một số loại vụ án
nhanh gọn hơn thủ tục thông thường nhưng vẫn bảo đảm công
lý.
Ở Việt Nam, TTRG là một khái niệm khá mới mẻ và được du
nhập từ bên ngoài. Tuy nhiên, một số nội dung của TTRG cũng
đã được thể hiện trong pháp luật của Việt Nam ngay từ trước
năm 1945 khi quy định về giải quyết một số loại vụ án có giá
ngạch thấp bởi Tòa án cấp sơ thẩm và không được phép kháng

cáo.
Trong khoa học TTDS, TTRG được đề cập đến trong một
công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ gần đây theo hướng
thiên về xác định loại việc được giải quyết theo TTRG. Gần đây
TTRG được chính thức đề cập trong HP 2013 tại Điều 103 về
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và sau đó
được quy định tương ứng tại Điều 8 và Điều 10 LTCTAND năm
2014 nhưng cũng chỉ sử dụng cụm từ “thủ tục rút gọn” chứ
không đưa ra khái niệm cụ thể của TTRG.
Khái niệm TTRG lần đầu tiên được diễn giải trong một dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam (Điều 311, Dự
thảo BLTTDSSĐ) là: “thủ tục tố tụng được áp dụng để giải
quyết các vụ án dân sự có đủ điều kiện theo quy định của Bộ
luật này với trình tự đơn giản so với thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự thông thường nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng
vẫn bảo đảm đúng pháp luật”.
Như vậy, với các tài liệu mà tác giả được tiếp cận nghiên cứu,
kể cả nước ngoài hay Việt Nam, dù là thủ tục giản lược, thủ tục
đơn giản hay TTRG được dẫn chiếu khi bàn về thủ tục giải
quyết các tranh chấp đơn giản hoặc có giá trị nhỏ đều được hiểu
là một thủ tục mang tính rút gọn hơn, giản đơn hơn so với thủ
tục thông thường từ hai khía cạnh: (i) thành phần giải quyết


8!

tranh chấp; và (ii) trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết. Nói
cách khác, TTRG có thể được hiểu là một thủ tục đơn giản, gọn
nhẹ hơn so với thủ tục TTDS thông thường về mặt thành phần,
trình tự, thủ tục và thời gian giải quyết tranh chấp, được áp dụng

đối với một số loại tranh chấp đơn giản hoặc có giá trị thấp.
1.1.2. Tính hiệu quả của thủ tục rút gọn
Xây dựng thủ tục tố tụng nói chung và thủ tục tố tụng đơn
giản, gọn nhẹ và nhanh chóng nói riêng, ngoài mục đích để bảo
đảm công lý còn phải được xem xét từ khía cạnh thời gian và
chi phí tố tụng.
Hiệu quả là một trong những mục tiêu cơ bản của kinh tế học.
Hiệu quả trong giải quyết tranh chấp là một trong những tiêu
điểm của kinh tế luật. Việc xây dựng TTRG trong TTDS giúp
tiết kiệm thời gian và chi phí tố tụng. Có một sự thừa nhận
chung rằng, nếu áp dụng một thủ tục tố tụng chung với tất cả
các TCDS nói chung và TCKDTM nói riêng mà không phân
biệt tính chất đơn giản, phức tạp, giá trị tranh chấp nhỏ hoặc
lớn, hay có hoặc không sự thừa nhận nghĩa vụ của các đương sự
sẽ gây lãng phí về thời gian và chi phí do quá trình giải quyết bị
kéo dài. Vì vậy, việc rút ngắn thời gian giải quyết các vụ án áp
dụng TTRG được xem là một đặc trưng quan trọng khi xây
dựng TTRG ở nhiều nước nhằm mục đích giúp cho đương sự,
Tòa án và xã hội tiết kiệm các chi phí phát sinh trong quá trình
giải quyết, hạn chế gián đoạn và tránh bỏ lỡ chi phí cơ hội trong
hoạt động kinh doanh của đương sự.
Như vậy, TTRG có ý nghĩa cơ bản là tiết kiệm thời gian và
chi phí tố tụng mà vẫn đảm bảo công lý và bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự.
1.2. Cơ sở pháp lý và định hướng xây dựng thủ tục rút gọn
1.2.1. Cơ sở pháp lý của việc xây dựng thủ tục rút gọn
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII về định hướng xây dựng TTRG và HP 2013 là
cơ sở chính trị và pháp lý của việc xây dựng TTRG.
1.2.2.!Định hướng xây dựng thủ tục rút gọn

Xây dựng TTRG giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn hiện
nay phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau đây: (i) chế độ hai
cấp xét xử mà Hiến pháp đã quy định; (ii) việc xét xử phải được
thực hiện trực tiếp thông qua phiên tòa; (iii) bảo đảm quyền và


9!

lợi ích của đương sự: (iv) có tính đến sự ổn định về pháp luật,
bảo đảm tính khả thi trong quá trình áp dụng và tính đồng bộ
trong hệ thống pháp luật.
Việc xây dựng TTRG trong TTDS nói chung và đối với việc
giải quyết các TCKDTM nói riêng được thực hiện theo các định
hướng sau đây: (i) TTRG cần phải được xây dựng trong
BLTTDSSĐ tại một chương riêng như là một thủ tục riêng biệt
so với các thủ tục tố tụng khác; (ii) cần thiết khi xây dựng các
quy định về TTRG một mặt nên đầy đủ và chi tiết nhưng mặt
khác các quy định cũng cần phải mang tính mở và tính nguyên
tắc; (iii) TTRG có tính đến đặc thù của các loại tranh chấp khác
nhau, trong đó bao gồm cả TCKDTM.!
1.2.3.!Mối quan hệ giữa thủ tục rút gọn với các nguyên tắc xét
xử cơ bản
TTRG được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản mà từng
quốc gia quy định trong hoạt động tư pháp. Ở Việt Nam, theo
tác giả, trước mắt các nguyên tắc cơ bản sau đây của Hiến pháp
phải được bảo đảm khi xây dựng TTRG: xét xử công khai và
bảo đảm tranh tụng, chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm và
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp. Về lâu dài,
sau một thời gian TTRG được kiểm chứng qua thực tiễn áp
dụng sẽ cân nhắc và đánh giá liệu có cần thiết tiếp tục áp dụng

các nguyên tắc hiến định nêu trên đối với việc giải quyết các vụ
án theo TTRG hay không để đề xuất sửa đổi Hiến pháp theo
hướng phù hợp làm cơ sở cho việc tiếp tục đơn giản và gọn nhẹ
TTRG. Đối với các nguyên tắc luật định sau đây, không nhất
thiết phải tuân thủ khi xây dựng TTRG: giám đốc việc xét xử,
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, hòa giải trong
TTDS.
1.3.!Đặc điểm của thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự
1.3.1. Thủ tục rút gọn chỉ áp dụng đối với một số vụ án nhất định

Có sự tương đồng giữa các nước về các tiêu chí xác định một
vụ án được giải quyết theo TTRG khi có một trong các yếu tố
sau: (i) giá ngạch thấp; (ii) chứng cứ rõ ràng; hoặc (iii) đương
sự thừa nhận nghĩa vụ.
1.3.1.1. Tranh chấp có giá ngạch thấp
Theo Paul Ranjard, sau khi phân tích và so sánh TTRG của


10!

một số nước trên thế giới, nhận thấy giá ngạch của tranh chấp là
một căn cứ để Tòa án khi thụ lý quyết định tranh chấp đó được
giải quyết bởi Tòa án cấp thấp hơn theo thủ tục giản lược, ví dụ:
Ở Pháp những tranh chấp có giá trị nhỏ không vượt quá 4.000
Euro (EUR); Đức: dưới 6.000 EUR; Anh: 10.000 Bảng Anh
(GBP) trở xuống; Mỹ: từ 2.500 đô la Mỹ (USD) đến 25.000
USD: Nhật Bản: dưới 900.000 đồng yên Nhật (JPY); Thái Lan:
dưới 50.000 bạt Thái Lan (THB); Hàn Quốc: dưới 5.000.000
won Hàn Quốc (KRW) v.v.
Như vậy, kinh nghiệm nước ngoài cho thấy chỉ cần một tiêu

chí giá ngạch thấp là đủ để vụ án được giải quyết theo thủ tục
giản lược hoặc TTRG. Giá ngạch bao nhiêu được coi là thấp để
áp dụng TTRG phụ thuộc vào quy định của từng nước và xác
định giá ngạch thấp cũng phải dựa trên tính khả thi của quy định
về TTRG.
1.3.1.2. Tranh chấp có chứng cứ rõ ràng
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, ngoài tiêu chí giá
ngạch thấp. Các nước theo hệ thống Dân luật (Pháp, Đức, Nhật
v.v.) cho phép áp dụng TTRG giải quyết các yêu cầu về thanh
toán nợ, thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Các tranh chấp nợ hoặc
về nghĩa vụ thanh toán thông thường là tranh chấp đơn giản xét
từ hai góc độ pháp luật áp dụng và xác định sự thật khách quan
của tranh chấp. Các yêu cầu về thực hiện các trái vụ nhỏ, theo
tác giả, cũng có bản chất đơn giản và chứng cứ rõ ràng như các
tranh chấp về vay nợ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh
toán. Anh và Hoa Kỳ - đại diện cho hệ thống Thông luật cũng
quy định áp dụng TTRG để giải quyết các tranh chấp về đòi nợ,
các vụ tranh chấp mà chứng cứ rõ ràng chứng tỏ rằng các tranh
chấp đó, tương tự như các nước theo hệ thống Dân luật, là các
tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng.
1.3.2. Rút gọn về thành phần tham gia giải quyết tranh chấp
Về thành phần tham gia giải quyết tranh chấp theo TTRG có
sự thừa nhận chung theo hướng: việc giải quyết và xét xử chỉ do
một Thẩm phán tiến hành từ khi thụ lý cho đến khi xét xử sơ
thẩm. Về sự tham gia của Viện kiểm sát, dường như đại đa số
các nước trên thế giới đều quy định cơ quan công tố không có
vai trò trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Về sự tham gia
của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Luật
sư) trong quá trình giải quyết tranh chấp theo TTRG, về cơ bản



11!

quan điểm của phần lớn các nước cho rằng đây là quyền của
đương sự nhờ người khác bảo vệ quyền lợi của mình nên pháp
luật không can thiệp miễn là sự tham gia của họ không làm trì
hoãn hoặc cản trở đến việc áp dụng TTRG.
1.3.3. Rút gọn về trình tự và các bước tố tụng
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy,
TTRG giảm thiểu một hoặc một số trình tự, thủ tục và giai đoạn
tố tụng, phụ thuộc vào bản chất của tranh chấp được xét xử theo
TTRG. Cụ thể: (i) Đối với vụ án đương sự thừa nhận toàn bộ
nghĩa vụ, các trình tự thu thập chứng cứ, lấy lời khai, hòa giải là
không cần thiết và có thể được bỏ qua; (ii) Đối với vụ án đơn
giản, giá ngạch thấp và chứng cứ rõ ràng, các trình tự lấy lời
khai, hòa giải, thu thập, xác minh chứng cứ là không cần thiết
và có thể được bỏ qua toàn bộ hoặc một phần; (iii) Đối với vụ
án giá ngạch thấp, nhưng phức tạp hoặc chứng cứ chưa rõ ràng,
có mâu thuẫn... việc lấy lời khai, thu thập hoặc xác minh chứng
cứ là cần thiết và không được bỏ qua; (iv) Đối với vụ án mặc dù
giá ngạch lớn nhưng đơn giản và chứng cứ rõ ràng, các trình tự
lấy lời khai, hòa giải, thu thập xác minh chứng cứ là không cần
thiết và cũng có thể được bỏ qua.
1.3.4. Rút gọn về cấp xét xử
Đối với các phán quyết giải quyết theo TTRG ở nhiều quốc
gia, pháp luật tố tụng không cho phép kháng cáo hoặc cho phép
kháng cáo phúc thẩm nhưng nội dung kháng cáo bị hạn chế ở
việc chỉ cho phép kháng cáo về áp dụng pháp luật.
1.3.5. Rút gọn về thời gian giải quyết tranh chấp
Pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế giới khi quy định về

TTRG trong TTDS đều có ghi nhận về thời gian giải quyết vụ
án ngắn hơn so với thủ tục TTDS thông thường. Trung Quốc
thời hạn giải quyết tranh chấp theo TTRG là không quá ba
tháng; Hàn Quốc là hai tháng rưỡi so với thủ tục thông thường
là sáu tháng. Thời gian trung bình giải quyết xong một vụ kiện
có giá trị nhỏ ở Anh là ba mươi mốt tuần. Đặc biệt có một số
nước khi áp dụng TTRG giải quyết đối với việc ra lệnh thanh
toán chỉ vài tuần kể từ thời điểm thụ lý yêu cầu như tại các nước
Nga, Đức, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc… Thời gian giải
quyết vụ việc nhỏ tại Hoa Kỳ là hai đến ba tháng (ví dụ: đối với
bang California, từ năm 2004 đến năm 2013, 70-80 % các vụ
kiện nhỏ được giải quyết xong trong vòng 90 ngày).


12!

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận về TTRG trong TTDS, tác giả
đi đến một số kết luận sau đây:
Thứ nhất, về khái niệm TTRG: TTRG có thể được hiểu là
một thủ tục đơn giản, gọn nhẹ hơn so với thủ tục tố tụng dân sự
thông thường về thành phần giải quyết, trình tự, thủ tục và thời
gian giải quyết tranh chấp, được áp dụng đối với một số loại
tranh chấp nhỏ, đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc đương sự thừa
nhận nghĩa vụ.
Thứ hai, về tính hiệu quả của TTRG: TTRG nhằm tiết kiệm
thời gian và chi phí tố tụng cho đương sự, Tòa án và xã hội mà
vẫn bảo đảm công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ ba, Hiến pháp 2013 là cơ sở pháp lý để xây dựng TTRG.
Về mối quan hệ giữa TTRG và các nguyên tắc tư pháp cơ bản:

xây dựng TTRG ở Việt Nam phải tuân thủ hai nguyên tắc hiến
định: xét xử công khai, bảo đảm tranh tụng và bảo đảm chế độ
hai cấp xét xử.
Thứ tư, về tiêu chí xác định một vụ án giải quyết theo TTRG:
nhiều nước trên thế giới quy định một vụ án có thể được giải
quyết theo thủ tục đơn giản hoặc rút gọn khi có một trong các
yếu tố: giá ngạch thấp, đơn giản và chứng cứ rõ ràng hoặc
đương sự thừa nhận nghĩa vụ.
Thứ năm, TTRG ngoài đặc điểm chỉ áp dụng đối với một số
vụ án đáp ứng tiêu chí nhất định, TTRG có những đặc điểm sau:
rút gọn thành phần giải quyết vụ án; rút gọn trình tự, thủ tục
hoặc giai đoạn tố tụng; và rút gọn thời hạn giải quyết tranh
chấp.
Thứ sáu, về TTRG đối với các TCKDTM: các nước không có
TTRG riêng áp dụng đối với việc giải quyết các TCKDTM.
Từ các kết luận trên đây, trong Chương 2 tiếp theo, tác giả sẽ
đánh giá các quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng các quy
định đó trong quá trình giải quyết TCKDTM và đánh giá việc
giải quyết TCKDTM tại Tòa án Việt Nam thông qua các vụ án
cụ thể làm cơ sở để tác giả đưa ra các đề xuất xây dựng TTRG
tại Việt Nam trong Chương 3 của Luận án.


13!

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG
THỦ TỤC RÚT GỌN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN VIỆT NAM
2.1. Xây dựng thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại từ thực trạng pháp luật tố tụng dân sự

2.1.1. Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm
2.1.1.1.!Nhận đơn khởi kiện và thụ lý vụ án
Quy định về thời hạn xem xét đơn khởi kiện theo Điều 167
BLTTDS trong vòng năm ngày làm việc trên thực tế không
được tuân thủ trong nhiều trường hợp. Nếu không giải quyết
được vấn đề này thì các quy định về TTRG sẽ không có ý nghĩa
trên thực tế vì thời gian giải quyết vụ án đã bị trì hoãn ngay từ
khâu “đầu vào” này.
2.2.1.1.!Chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Các quy định về tống đạt, thông báo chưa cho phép được thực
hiện thông qua các hình thức đơn giản và thuận lợi hơn nhiều
trong bối cảnh công nghệ thông tin hiện nay (như thông qua hệ
thống thư điện tử) khi mà dường như hầu hết các doanh nghiệp
đều sử dụng thư điện tử và các hình thức liên lạc điện tử khác.
Pháp luật tố tụng dân sự hoàn toàn có thể quy định cho phép hình
thức tống đạt, thông báo văn bản tố tụng này, bởi lẽ đương sự
thường chủ yếu là các doanh nghiệp, thương gia trong các
TCKDTM.
Điều 86 BLTTDS quy định: “Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời
khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung
bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng…” có thể hiểu và được áp dụng
phổ biến trên thực tế, theo hướng “Thẩm phán triệu tập đương sự
đến Tòa án để lấy lời khai khi đương sự chưa có bản khai.” Hơn
nữa, để có bản khai của đương sự thì Tòa án phải triệu tập đương
sự lên Tòa án để đề nghị họ viết bản khai. Do đó, việc triệu tập
đương sự để họ làm bản khai hoặc lấy lời khai dường như là một
thủ tục bắt buộc.
Về hòa giải bắt buộc, Tòa án cấp sơ thẩm phải tiến hành hòa
giải đối với hầu hết các vụ án về TCKDTM kể cả trong các vụ
án đơn giản, chứng cứ rõ ràng, giá ngạch thấp, đương sự thừa

nhận nghĩa vụ, hoặc đương sự cố tình không thực hiện nghĩa vụ
v.v. chỉ mang tính hình thức.
Về thời hạn chuẩn bị xét xử, Điều 179 BLTTDS quy định


14!

thời hạn chung là chưa hợp lý bởi lẽ rất nhiều trường hợp thời
hạn chuẩn bị xét xử bốn tháng (đã gia hạn tối đa) không đủ để
giải quyết với các TCKDTM phức tạp, cần thu thập, nghiên cứu,
đánh giá chứng cứ và phân tích các vấn đề pháp lý có liên quan,
tiến hành hòa giải v.v. Trong khi đó, những vụ án về TCKDTM
đơn giản, giá ngạch thấp, bị đơn đã thừa nhận nghĩa vụ của
mình, chứng cứ rõ ràng không cần phải tiến hành khá nhiều
trong số các hoạt động tố tụng và như vậy thời hạn chuẩn bị xét
xử có thể không cần nhiều như vậy.
2.1.1.3.!Mở và tiến hành phiên tòa sơ thẩm
Về việc hoãn phiên tòa, quy định hiện nay về việc hoãn phiên
tòa trong trường hợp có một trong các đương sự hoặc người đại
diện hợp pháp của họ vắng mặt lần thứ nhất mà không cần nêu
lý do; thành phần giải quyết vụ án có sự tham gia của Viện kiểm
sát trong một số phiên tòa là những bất cập dẫn đến hoãn phiên
tòa làm kéo dài việc giải quyết tranh chấp một cách không cần
thiết.
Về sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ
thẩm, theo theo quy định tại Điều 234 BLTTDS, tại phiên tòa sơ
thẩm Viện kiểm sát chỉ phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp
luật của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng
xét xử nghị án mà không phát biểu về quan điểm giải quyết vụ

án đặt ra sự nghi ngờ về tính thiết thực và sự cấn thiết quy định
về thực hiện quyền năng giám sát hoạt động xét xử thông qua
việc tham gia phiên tòa hay có thể thực hiện được quyền năng
đó thông qua thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm.
2.1.1.!Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm
2.1.2.1.!Quy định về việc kháng cáo, kháng nghị và phạm vi xét
xử phúc thẩm
Trong các vụ án về TCKDTM đơn giản và chứng cứ rõ ràng,
giá ngạch thấp hoặc đương sự đã thừa nhận hoàn toàn nghĩa
vụ… việc cho phép kháng cáo, kháng nghị đối với toàn bộ nội
dung bản án, quyết định sơ thẩm, bao gồm việc xác định sự thật
của vụ án cũng như việc áp dụng pháp luật bởi Tòa án cấp sơ
thẩm là không phù hợp. Bởi lẽ, các vụ án đó về bản chất là đơn
giản nên ít khi Tòa án cấp sơ thẩm có thể sai sót trong việc xác
định sự thật khách quan của vụ án.


15!

2.1.2.2.!Quy định về thủ tục chuẩn bị xét xử phúc thẩm
Quy định về thời hạn giải quyết vụ án về TCKDTM ở cấp
phúc thẩm như hiện nay là tương đối phù hợp đối với các vụ án
thông thường nhưng hơi dài đối với những vụ án đơn giản và có
chứng cứ rõ ràng, hoặc đơn giản và có giá ngạch thấp, hoặc
đương sự đã thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ.
2.1.2.3. Thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử phúc thẩm
Điều 266 BLTTDS về việc hoãn phiên tòa cũng áp dụng
tương tự như đối với phiên tòa sơ thẩm làm cho thời hạn chuẩn
bị xét xử bị kéo dài không cần thiết. Theo quy định hiện nay,

thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm bao gồm ba Thẩm phán
không phù hợp đối với những vụ án về TCKDTM có tiêu chí áp
dụng TTRG…
2.2.!Xây dựng thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại từ thực tiễn xét xử của Tòa án
2.2.1.!Đối với các tranh chấp mà đương sự thừa nhận toàn bộ
nghĩa vụ
Có khá nhiều vụ án đơn giản, bị đơn đã thừa nhận hoàn toàn
nghĩa vụ nhưng Tòa án vẫn phải tiến hành các thủ tục tố tụng
thông thường dẫn đến thời gian giải quyết tranh chấp kéo dài mà
kết quả giải quyết không có gì khác ngoài việc tuyên một phán
quyết chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa
án cấp phúc thẩm về cơ bản cuối cùng vẫn giữ nguyên bản án sơ
thẩm hoặc ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm (trong
trường hợp bị đơn rút kháng cáo) và không cần thiết để cần một
Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán thực hiện một công việc
không phức tạp như vậy.
Ví dụ: Vụ Ngân hàng Thương mại Kỹ thương Việt Nam kiện
Công ty TNHH Đầu tư Xây dựng Thương mại Xuân Định, Bị
đơn thừa nhận toàn bộ khoản vay gốc và khoản lãi chưa thanh
toán nêu trên nhưng cho rằng “nếu nguyên đơn giảm lãi thì bị
đơn tiếp tục thanh toán tiền gốc; nhưng nếu không giảm lãi thì
Tòa xử theo pháp luật.”
Vụ Ngân hàng Thương mại Cổ phần Petrolimex kiện Ông
Nguyễn Quốc Thanh – Chủ doanh nghiệp tư nhân thương mại
Vạn Phúc, Bị đơn thừa nhận toàn bộ các khoản tiền còn nợ nêu
trên và đồng ý trả toàn bộ tiền gốc nhưng xin giảm lãi...
Vụ Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Á kiện Công ty



16!

TNHH Sản xuất Thương mại Hoành Tráng, Bị đơn không có
phản đối nào với các yêu cầu khởi kiện nêu trên của Nguyên
đơn mà chỉ nêu quan điểm “đang gặp khó khăn không thể trả
được nợ và đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.”
Vụ Công ty Cổ phần Thép và Thương mại Hà Nội kiện Công
ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Sài Gòn, Bị đơn thừa nhận toàn bộ
khoản tiền mua cốt thép bê tông và một số vật liệu khác nhưng
“do khó khăn” nên chưa thanh toán được tiền mua hàng.
Vụ Công ty Cổ phần Đầu tư - Xây dựng Đông Dương kiện
Công ty TNHH Xây dựng - Thương mại Đình Nguyễn, Bị đơn
thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ nhưng không đưa ra bất kỳ lý do
nào về việc không thực hiện nghĩa vụ của mình.
2.2.2.!Đối với các tranh chấp đơn giản, giá ngạch thấp và
chứng cứ rõ ràng
Từ đánh giá thực tiễn xét xử thông qua một số vụ án cụ thể
nêu trên cho thấy ở nước ta không thể chỉ dựa vào giá ngạch
thấp để xác định vụ án đó đơn giản và có thể được giải quyết
theo TTRG mà còn phải dựa vào tính chất của từng vụ án, ví dụ:
liệu kết quả giải quyết có ảnh hưởng danh tiếng, uy tín kinh
doanh hoặc có hệ quả về tài sản, kinh tế, vật chất khác đối với
đương sự, mức độ phức tạp về mặt pháp lý liên quan đến tranh
chấp v.v.
Trong vụ Phạm Văn Quang kiện Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam ra TAND quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh,
Nguyên đơn đã yêu cầu Bị đơn trả lại số tiền rất nhỏ là 5.500
đồng phí ATM. Trong vụ án này, mặc dù giá trị tranh chấp thấp
nhưng có thể để lại hậu quả lớn (dẫn đến hàng loạt vụ kiện
tương tự hoặc ảnh hưởng đến uy tín, thương hiệu của doanh

nghiệp).
Cũng có những trường hợp mà giá trị tranh chấp không lớn
nhưng việc xác định tính chất vụ án không đơn giản. Trong vụ
Ngô Lê Anh Chi kiện Công ty TNHH MTV Kem và H.Hai.O,
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Bị đơn trả lại 3.000 USD tiền đặt
cọc. Trong vụ án này, việc đặt cọc bằng ngoại tệ có bị coi là vi
phạm hay không là vấn đề pháp lý còn có các quan điểm khác
nhau dẫn đến nhận định khác nhau giữa Tòa án cấp sơ thẩm và
Tòa án cấp phúc thẩm.
Về việc xác định chứng cứ rõ ràng, theo tác giả, đây là vấn đề


17!

phụ thuộc vào từng vụ án cụ thể và theo cách đánh giá chủ quan
của Thẩm phán dựa trên các tài liệu, chứng cứ của vụ án.
2.2.3. Đối với các tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng
nhưng giá ngạch lớn
Trên thực tế có khá nhiều tranh chấp giá trị lớn nhưng tính
chất của tranh chấp đơn giản về mặt áp dụng pháp luật và chứng
cứ rõ ràng để xác định sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên,
vì đây là các tranh chấp có giá trị lớn và việc quyết định áp dụng
thủ tục tố tụng nào sẽ có thể ảnh hưởng đến kết quả giải quyết
của vụ án và vì án phí của các vụ án cũng không nhỏ, cho nên,
tác giả thiết nghĩ, chỉ nên áp dụng TTRG để giảm thiểu chi phí tố
tụng khi có yêu cầu hoặc sự đồng ý của các đương sự của vụ án.
Trong vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 179/2012/TLSTKDTM ngày 27-11-2012, Nguyên đơn là Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Sài Gòn đã khởi kiện Bị đơn là Công ty TNHH Lắp
ráp điện tử Thương mại Kỹ thuật Sáng Tạo ra TAND quận 3
Thành phố Hồ Chí Minh để yêu cầu Bị đơn thanh toán số tiền lãi

2.628.614.536 đồng.
Trong vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 180/2013/TLSTKDTM ngày 27-11-2012, Nguyên đơn là Ngân hàng Thương
mại Cổ phần An Bình đã khởi kiện Bị đơn là Công ty cổ phần
Đầu tư - Xây dựng - Thiết bị dầu khí Chí Thép ra TAND quận
Tân Bình Thành phố Hồ Chí Minh để yêu cầu Bị đơn thanh toán
tổng số tiền là 16.867.003.737 đồng, Bị đơn đồng ý trả khoản
gốc nhưng phản đối yêu cầu thanh toán lãi quá hạn vì Bị Đơn
cho rằng Nguyên đơn đã tính lãi suất quá cao so với quy định.
Trong mỗi vụ án nêu trên, giữa Nguyên đơn và Bị đơn có hợp
đồng tín dụng cụ thể, rõ ràng và các khoản vay đã được giải
ngân. Do đó, Bị đơn khó có thể chối cãi trách nhiệm đối với các
khoản nợ của mình đối với Nguyên đơn. Vấn đề còn lại của tranh
chấp chỉ còn ở chỗ xác định lãi suất cho phù hợp theo quy định
của pháp luật. Vấn đề pháp lý trong những trường hợp này không
phức tạp. Tính chất của vụ án là đơn giản về mặt pháp lý và
chứng cứ rõ ràng.
Tuy nhiên, giá ngạch tranh chấp là lớn và việc giải quyết vụ án
có thể gây ảnh hưởng lớn về vật chất đối với các đương sự. Do
đó, việc áp dụng TTRG có thể theo hướng nếu các đương sự
đồng ý áp dụng TTRG.


18!

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Thông qua việc đánh giá thực trạng pháp luật TTDS và thực
tiễn giải quyết TCKDTM tại Tòa án làm cơ sở xây dựng TTRG,
tác giả đưa ra một số kết luận như sau.
Một là, các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành và việc
áp dụng các quy định đó cho thấy còn những hạn chế, bất cập về

việc nộp đơn khởi kiện và thụ lý vụ án; về cấp, tống đạt, thông
báo văn bản tố tụng; về lấy lời khai của đương sự; về tính hình
thưc của việc hòa giải bắt buộc trong nhiều trường hợp; về thời
hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm áp dụng chung cho các tranh chấp
mà không phân biệt tính phức tạp của tranh chấp, chứng cứ đã
rõ ràng…; về việc hoãn phiên tòa trong trường hợp đương sự,
người đại diện hợp pháp của đương sự được triệu tập hợp lệ lần
thứ nhất nhưng vắng mặt kể cả khi không có lý do chính đáng;
về thành phần tham gia giải quyết tranh chấp còn có những bất
cập theo hướng không cần thiết phải giải quyết các tranh chấp
đơn giản, chứng cứ rõ ràng, giá ngạch thấp bởi một hội đồng xét
xử tập thể và với sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát. Những
hạn chế này ảnh hưởng đến việc giải quyết nhanh chóng và đỡ
tốn kém các TCDS nói chung và TCKDTM nói riêng đơn giản,
chứng cứ rõ ràng hoặc đương sự thừa nhận nghĩa vụ…
Hai là, đánh giá về việc Tòa án giải quyết một số tranh chấp
đơn giản, đương sự thừa nhận nghĩa vụ, chứng cứ rõ ràng, giá
ngạch thấp cho thấy:
(i)!đối với các tranh chấp mà tất cả các đương sự thừa nhận
nghĩa vụ thì Tòa án chỉ cần kiểm tra tính hợp pháp của sự thừa
nhận nghĩa vụ của các đương sự để ra phán quyết công nhận sự
thừa nhận đó;
(ii)!đối với các tranh chấp mà Tòa án cho rằng đơn giản về
mặt áp dụng pháp luật, chứng cứ rõ ràng và giá ngạch thấp, Tòa
án có thể giải quyết đúng đắn các tranh chấp đó mà không cần
thiết phải tiến hành tất cả các trình tự, thủ tục tố tụng và cũng
không nhất thiết cần có sự tham gia của đại diện Viện Kiểm sát.
Tuy nhiên, đối với các loại tranh chấp nêu tại điểm (ii) nêu
trên nếu giá ngạch lớn thì kết quả giải quyết có tác động không
nhỏ đến lợi ích của đương sự, cho nên cần có sự đồng thuận

của các đương sự trong việc xác định các tranh chấp đó là đơn
giản và chứng cứ rõ ràng, để có thể áp dụng một thủ tục tố tụng
đơn giản, gọn nhẹ hơn so với thủ tục thông thường.


19!

CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC
RÚT GỌN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN VIỆT NAM
3.1. Giải pháp xây dựng thủ tục rút gọn giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại
3.1.1. Về tiêu chí xác định loại vụ án được giải quyết theo thủ
tục rút gọn
Dự thảo BLTTDSSĐ quy định cần phải đáp ứng hàng loạt
tiêu chí mới có thể áp dụng TTRG là thiếu khả thi. Ví dụ: đáp
ứng hai điều kiện “đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ” và “tài liệu,
chứng cứ rõ ràng, đủ cơ sở giải quyết Tòa án không cần thu thập
tài liệu, chứng cứ” là chưa hợp lý, vì đương sự đã thừa nhận
nghĩa vụ nên không cần phải đáp ứng điều kiện tài liệu, chứng
cứ rõ ràng.
Tương tự, việc quy định cần phải đáp ứng tiêu chí “các
đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng” và “không có
đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài”
cũng chưa hợp lý vì đương sự không có nơi cư trú rõ ràng hoặc
có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước
ngoài, mặc dù thời gian giải quyết tranh chấp có thể không được
“rút gọn” nhưng tranh chấp đó vẫn có thể giải quyết được theo
TTRG bằng một Thẩm phán.
Theo tác giả, một vụ án khi có một trong các tiêu chí sau đây

có thể được giải quyết theo TTRG: (i) Đương sự đã thừa nhận
hoàn toàn nghĩa vụ của mình; (ii) Vụ án đơn giản, có giá ngạch
thấp theo quy định của pháp luật, chứng cứ rõ ràng và không có
sự phản đối hợp lý của đương sự; hoặc (iii) Vụ án đơn giản,
chứng cứ rõ ràng (không phụ thuộc vào giá ngạch) mà các
đương sự đồng ý áp dụng TTRG.
3.1.2.!Về rút gọn thành phần tham gia giải quyết tranh chấp
Việc giải quyết vụ án theo TTRG chỉ cần một Thầm phán và
với sự tham gia hạn chế của đại diện Viện kiểm sát.
3.1.3.!Rút gọn về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án theo TTRG
Cần bổ sung thêm một thủ tục cấp, tống đạt hoặc thông báo
bằng phương tiện điện tử theo quy định của pháp luật giao dịch
điện tử. Không cần triệu tập đương sự đến Tòa án lấy lời khai
trong trường hợp vụ án được giải quyết theo TTRG. Không nên
quy định hòa giải là thủ tục bắt buộc đối với các vụ án được giải


20!

quyết theo TTRG. Cần mạnh dạn quy định phạm vi kháng cáo,
kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm theo TTRG chỉ
nên giới hạn ở việc kháng cáo, kháng nghị về việc áp dụng pháp
luật của Tòa án cấp sơ thẩm...
Về phiên tòa phúc thẩm, Dự thảo BLTTDSSĐ quy định
không cần mở phiên tòa phúc thẩm để giải quyết kháng cáo đối
với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng TTRG là chưa hợp
lý vì không phù hợp với nguyên tắc hiến định là việc xét xử phải
được tiến hành công khai, trực tiếp và bảo đảm việc tranh luận.
Do đó, việc giải quyết vụ án theo TTRG ở cấp phúc thẩm vẫn
phải được thông qua bởi phiên tòa.

3.1.4.!Rút gọn về thời gian giải quyết vụ án theo TTRG
(i)!Đối với thủ tục sơ thẩm
Thứ nhất, về thủ tục nhận đơn khởi kiện và thụ lý vụ án: (i)
về lâu dài cần quy định khi nộp đơn khởi kiện không đòi hỏi
đương sự phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp và đồng thời quy định khi nhận
đơn khởi kiện là thụ lý ngay; (ii) trước mắt cần phải bổ sung
quy định Tòa án có trách nhiệm cấp giấy xác nhận đã nhận đơn
khởi kiện.
Thứ hai, về thời điểm xác định vụ án có thể được áp dụng
TTRG, việc quyết định áp dụng TTRG nên quy định theo hướng
có thể thực hiện vào bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình giải
quyết vụ án khi xác định được tiêu chí áp dụng đã được đáp ứng
và trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng nếu căn cứ
cho việc áp dụng TTRG không còn nữa thì Tòa án hoàn toàn có
quyền quyết định không tiếp tục áp dụng TTRG.
Thứ ba, về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm: (i) trong trường
hợp bị đơn thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ của mình theo đơn khởi
kiện tại văn bản trả lời đơn khởi kiện (ý kiến về việc thụ lý vụ
án), Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử; (ii) trong trường
hợp vụ án được giải quyết theo TTRG do giá ngạch thấp, Tòa án
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử ngay sau khi nhận được sự
khẳng định của các bên đương sự về việc không phản đối việc
xét xử theo TTRG hoặc hết thời hạn dự kiến đương sự phải trả
lời nhưng đương sự không trả lời thông báo của Tòa án về việc
áp dụng TTRG; (iii) trong các trường hợp còn lại, Tòa án ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử khi xuất hiện điều kiện áp dụng
TTRG.



21!

Thứ tư, về việc hoãn phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa sơ thẩm
vẫn tiến hành nếu bị đơn hoặc người đại diện của họ đã được
triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt không có lý do chính
đáng. Trong trường hợp nguyên đơn hoặc người đại diện của họ
được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt không có lý do
chính đáng, Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án.
(ii) Đối với thủ tục phúc thẩm
Thứ nhất, về thời hạn kháng cáo, kháng nghị và kháng cáo
quá hạn, thời hạn kháng cáo của đương sự nên quy định rút
xuống còn năm ngày làm việc là phù hợp và thời hạn kháng
nghị của Viện kiểm sát cũng nên rút xuống còn mười ngày làm
việc là hợp lý.
Thứ hai, về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, thời hạn
chuẩn bị xét xử phúc thẩm nên rút xuống còn một tháng.
(iii) Về thủ tục cấp trích lục bản án, bản án
Nên rút ngắn xuống còn ba ngày đối với việc cấp trích lục
bản án và năm ngày đối với việc cấp bản án để Tòa án gửi cho
các đương sự và Viện kiểm sát.
3.2.!Giải pháp về hoàn thiện pháp luật về thủ tục rút gọn giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
3.2.2.!Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự
BLTTDS cần được sửa đổi, bổ sung những quy định như sau:
(i)! Bổ sung một Chương về việc giải quyết vụ án theo TTRG,
trong đó quy định về điều kiện áp dụng TTRG là các vụ án đáp
ứng được một trong những tiêu chí (như đã đề xuất ở trên) và
các thủ tục riêng biệt áp dụng cho vụ án được giải quyết theo
TTRG;
(ii)!Các điều 14, 86, Điều 87, 88, 181, khoản 3 Điều 179

khoản 2, khoản 3 Điều 21 và khoản 1 Điều 207 BLTTDS, khoản
1 Điều 245 BLTTDS theo hướng bổ sung “trừ trường hợp vụ án
được giải quyết theo TTRG”;
(iii)! Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 241 BLTTDS theo hướng
trong thời hạn năm ngày Tòa án phải giao hoặc gửi bản án cho
các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp trong trường hợp vụ án
được giải quyết theo TTRG;
(iv)! Sửa đổi, bổ sung Điều 243 BLTTDS và Điều 250


22!

BLTTDS theo hướng chỉ cho phép kháng cáo, kháng nghị về
mặt áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm trong trường hợp
vụ án được giải quyết theo TTRG;
(v)! Sửa đổi, bổ sung Điều 263 BLTTDS Tòa án cấp phúc
thẩm chỉ xem xét lại về mặt áp dụng pháp luật của Tòa án cấp
sơ thẩm trong trường hợp vụ án được giải quyết theo TTRG;
(vi)! Sửa đổi, bổ sung Điều 21 và khoản 2 Điều 264 BLTTDS
theo hướng đại diện Viện kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa phúc
thẩm trong trường hợp có kháng nghị của Viện kiểm sát.
3.2.3.!Ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ luật tố tụng
dân sự sửa đổi
Cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn về các quy định
của TTRG.
3.3.! Giải pháp về thi hành các quy định về thủ tục rút gọn
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
3.3.2.!Quán triệt nhận thức về ý nghĩa và yêu cầu của thủ tục
rút gọn
Tòa án và cán bộ Tòa án cần phải nhận thức rõ về yêu cầu áp

dụng TTRG, nâng cao ý thức thực thi các quy định của pháp
luật tố tụng trong tất cả các khâu tố tụng, từ việc nhận đơn khởi
kiện của nguyên đơn, thụ lý đơn khởi kiện, ra các thông báo cần
thiết về thụ lý đơn khởi kiện, về áp dụng TTRG...
3.3.3.! Xây dựng cơ chế, tổ chức, nguồn lực và chế tài bảo đảm
thực hiện các quy định về thủ tục rút gọn
Cần xây dựng cơ chế và tổ chức thực hiện việc áp dụng
TTRG có sự phân công rõ ràng người chịu trách nhiệm “đầu
vào, đầu ra” và thời gian xử lý từng đầu việc, phân công Thẩm
phán chịu trách nhiệm xử lý các đơn khởi kiện có thể thuộc
trường hợp áp dụng TTRG, trách nhiệm của bộ phận nhận đơn
khởi kiện, mối quan hệ giữa Thẩm phán phụ trách và lãnh đạo
Tòa án trong việc cân nhắc có áp dụng TTRG, thẩm quyền xem
xét và quyết định về việc có chấp nhận sự phản đối của đương
sự đối với việc áp dụng TTRG, về việc chuyển vụ án đang giải
quyết theo TTRG sang thủ tục thông thường...
Ngoài ra, TANDTC cần xây dựng lộ trình sơ kết, kiểm tra,
tổng kết định kỳ, đột xuất việc thực hiện các quy định về TTRG,
đồng thời bảo đảm nguồn lực để sẵn sàng hướng dẫn kịp thời.


23!

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Việc xây dựng các tiêu chí để áp dụng TTRG phải mang tính
khả thi và phát huy từng nội dung của TTRG chứ không nhất
thiết phải bảo đảm tất cả các nội dung của TTRG. Có nghĩa
rằng, một vụ án có thể thuộc đối tượng rút gọn về thành phần
xét xử, hoặc trình tự, thủ tục tố tụng vẫn hoàn toàn có thể áp
dụng TTRG để giải quyết cho dù thời gian xét xử có thể không

được rút gọn. Quy định này nhằm có thể áp dụng được một hoặc
một số nội dung của TTRG (rút gọn về thời hạn tố tụng, giản
lược một số hoạt động tố tụng, hoặc rút gọn về thành phần xét
xử…) chứ không nhất thiết phải áp dụng rút gọn toàn bộ các nội
dung của TTRG.
Cần phải quy định về việc mở phiên tòa phúc thẩm là không
phù hợp với nguyên tắc hiến định về việc xét xử phải được tiến
hành công khai, trực tiếp và bảo đảm việc tranh luận. Cần quy
định về việc TTRG có thể được áp dụng vào bất kỳ thời điểm
nào trong quá trình giải quyết vụ án khi xuất hiện điều kiện để
áp dụng TTRG. Nên quy định cụ thể về việc đại diện Viện kiểm
sát chỉ tham gia phiên tòa phúc thẩm đối với vụ án được giải
quyết theo TTRG trong trường hợp có kháng nghị của Viện
kiểm sát cùng cấp.
Cần có những giải pháp tổng thể để quán triệt nhận thức về ý
nghĩa của TTRG, xây dựng cơ chế, tổ chức phù hợp, bảo đảm
nguồn lực để có thể thi hành có hiệu quả các quy định về
TTRG. TTRG được áp dụng chung cho việc giải quyết các vụ
án về TCDS, trong đó có TCKDTM.
Các giao dịch về kinh doanh, thương mại có những đặc thù
riêng (thường giá trị giao dịch lớn) nên khi xác định tiêu chí
tranh chấp có giá ngạch thấp của các TCKDTM thuộc đối tượng
áp dụng TTRG không thể đồng nhất với mức giá ngạch như của
các vụ án về TCDS khác.
Mặt khác, việc rút gọn về thời gian giải quyết các vụ án về
TCKDTM theo TTRG cũng cần phải được rút gọn nhiều hơn so
với thời gian giải quyết các vụ án về TCDS khác vì một nguyên
tắc của TTDS là giải quyết các vụ án về TCKDTM phải được
nhanh chóng hơn so với các vụ án về TCDS khác để đáp ứng kỳ
vọng của giới doanh nhân.



24!

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Việc xây dựng TTRG ở nước ta cần được dựa trên những
nguyên lý cơ bản về TTDS nói chung và TTRG nói riêng, có
tham khảo các kinh nghiệm tốt được đúc rút từ các nền pháp lý
đã có trải nghiệm áp dụng TTRG một cách linh hoạt phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Cách tiếp cận hiện nay của các nhà làm luật theo hướng chỉ
hướng tới rút gọn về thời gian xét xử dường như sẽ lại đi vào
vết mòn cũ khi chưa đưa ra được các giải pháp khắc phục những
nguyên nhân còn tồn tại của việc chưa tuân thủ được các thời
hạn chuẩn bị xét xử theo luật định hiện nay. Điều đó rất có khả
năng dẫn đến một thực tế là TTRG sẽ không phát huy được ý
nghĩa căn nguyên của nó.
Các tiêu chí áp dụng TTRG đang được các nhà làm luật đề
xuất có thể dẫn đến thực tế là sẽ có quá ít vụ án có thể được áp
dụng TTRG. Luận án đưa ra hai đề xuất hoàn toàn mới với cách
tiếp cận xây dựng tiêu chí áp dụng TTRG theo hướng linh hoạt
và nội dung của TTRG cũng mang tính linh hoạt sẽ bảo đảm
được tính khả thi và hiệu quả cao của việc áp dụng TTRG trên
thực tế… Đây là một trong những điểm mới và có tính đột phá
của Luận án./.



×