Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Thực trạng điều tra tội phạm giết người của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.5 KB, 57 trang )

1

Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong tuyên ngôn thế giới về nhân quyền được thông qua theo nghị quyết số
217A (UN) ngày 10/12/1948 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tại Điều 3 có ghi
nhận “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân”. Trong các
Hiến pháp của nhà nước ta kể từ năm 1946 đến nay, quyền được sống được ghi
nhận là quyền thiêng liêng và quan trọng nhất trong các quyền cơ bản của con
người. Nhân loại cho rằng, hành vi xâm phạm đến tính mạng con người, tước đi
của họ quyền được sống luôn bị coi là một tội ác cần phải được loại bỏ. Việt Nam
trong những năm gần đây, kinh tế - xã hội có bước phát triển bền vững, mạnh mẽ,
nhất là sau khi nước ta đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại
thế giới WTO, con người và quyền con người ngày càng được tôn trọng bảo đảm.
Tuy nhiên, tội phạm giết người ở Việt Nam tiếp tục có diễn biến phức tạp, cho dù
trong pháp luật hình sự của Nhà nước ta trước đây và trong Bộ luật hình sự hiện
nay, hành vi giết người luôn được coi là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng với mức
hình phạt cao nhất là tử hình.
Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, với điều kiện địa lý tự nhiên thuận
lợi, thiên nhiên ưu đãi, trong những năm qua Đảng bộ, chính quyền, nhân dân tỉnh
Quảng Ninh đã giành được nhiều thành quả đáng khích lệ trong việc xây dựng và
phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường, của hội nhập
quốc tế cũng đặt ra nhiều trở ngại, thách thức nhất là trong công tác bảo vệ an ninh
trật tự. Tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con
người có xu hướng không giảm mà diễn biến lại phức tạp, tinh vi hơn. Trong đó, tội
phạm giết người vẫn là nỗi nhức nhối, tước đi mạng sống của nhiều người và gây ra
những hậu quả kinh tế - xã hội khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã
hội trên địa bàn. Cho dù những kết quả của công tác xử lý các loại tội phạm nói
chung, tội phạm giết người nói riêng của các cơ quan bảo vệ pháp luật đã đạt được


thời gian qua là đáng ghi nhận, phát huy vai trò tích cực vào phát triển kinh tế, xã
hội trên địa bàn nhưng cũng còn nhiều vấn đề đặt ra mà bắt đầu từ hoạt động điều
§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

2

tra tội phạm. Với những lý do này, việc chọn đề tài “thực trạng điều tra tội phạm
giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” làm khoá luận tốt nghiệp là có tính cấp
thiết.
2. Mục đích nghiên cứu.
Đánh giá một cách sát hợp tình hình thực tế công tác điều tra tội phạm giết
người tỉnh Quảng Ninh trong năm năm gần đây.
Đề ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả điều tra loại tội phạm này trên
địa tỉnh của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Làm rõ tình hình tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Nghiên cứu tình hình thực tế công tác điều tra tội phạm giết người của Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh.
Chỉ ra các ưu điểm, nhược điểm và các nguyên nhân của các ưu, nhược điểm
trong hoạt động điều tra khám phá tội phạm giết người của Cơ quan Cảnh sát điều
tra Công an tỉnh Quảng Ninh.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác điều tra tội phạm
giết người của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng nghiên cứu.
Tình hình tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Tình hình hoạt động điều tra tội phạm giết người của lực lượng Cảnh sát điều
tra Công an tỉnh Quảng Ninh.

5. Phạm vi nghiên cứu.
Tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động điều tra tội phạm giết người trong
thời gian từ 2002-2006 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công An tỉnh Quảng Ninh.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và Pháp luật; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thống kê; phương pháp
điều tra xã hội học; phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh…

§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

3

7. Ý nghĩa đề tài.
Việc nghiên cứu đề tài sẽ đánh giá đúng mức độ tội phạm giết người, góp
phần nâng cao hiệu quả công tác điều tra khám phá tội phạm giết người trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh.
Từ việc nhận biết đầy đủ thực trạng điều tra cũng như những hạn chế, thiếu sót
còn tồn tại trong giai đoạn điều tra tội phạm giết người khoá luận đưa ra một số giải
pháp để hoạt động điều tra được tiến hành nhanh chóng, kịp thời và có hiệu quả.
8. Bố cục đề tài.
Khoá luận tốt nghiệp được cấu trúc thành 3 phần bao gồm: phần mở đầu, phần
nội dung và phần kết luận. Phần nội dung được chia thành 3 chương là:
+ Chương 1: Khái quát chung về tình hình và đặc điểm tội phạm giết người
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua.
+ Chương 2: Thực trạng điều tra tội phạm giết người của Cơ quan Cảnh sát

điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh.
+ Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều tra tội phạm giết
người của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh.

§µo Duy Thµnh


Trờng Đại học Luật Hà Nội

4

CHƯƠNG 1
KHáI QUáT CHUNG Về TìNH HìNH Và ĐặC ĐIểM TộI PHạM
GIếT NGời trên địa bàn tỉnh quảng ninh
trong thời gian qua
1.1. Mt s nột v c im a bn
Vi din tớch 8.239,234km2, trong ú din tớch t lin l 5938km2 cũn li l din
tớch mt nc bin, dõn s 1.081.363 ngi gm 21 dõn tc anh em cựng chung
sng, Qung Ninh l a bn cú c im a lý t nhiờn a dng, phong phỳ. Tnh
cú nhiu i nỳi (trong ú 4/5 din tớch tp trung phớa Bc v 1/5 din tớch phớa
ụng Nam thuc ng bng Sụng Hng) an xen ng bng; cú bin v hn 2
nghỡn o ln nh, trong ú cú 1030 o cú tờn (chim 2/3 o c nc) v cú
nhiu thng cnh p, thun li phỏt trin ngnh du lch. c bit trờn a bn cú
tr lng than rt ln v cht lng tt, thun li phỏt trin ngnh cụng nghip
than. Ton tỡnh cú 10 huyn, 3 th xó (Cm Ph, Uụng Bớ, Múng Cỏi) v thnh ph
H Long (ụ th loi 2); cú 132,8km ng biờn gii trờn b giỏp vi tnh Qung
Tõy - Trung Quc phớa Bc vi nhiu ca khu, trong ú cú ca khu quc t
Múng Cỏi v mt s ca khu tiu ngch (im thụng quan) nh: Lc Lm (Múng
Cỏi), Bc Phong Sinh (Hi H), ng Vn (Bỡnh Liờu). Vi khong 250km ng
biờn gii trờn bin phớa ụng v phớa Nam to iu kin thun li cho vic thụng

thng bng ng bin thụng qua 3 ca khu quc t l ca khu Cng Hũn Gai,
Cng Ca ễng v Cng Vn Gia; phớa Tõy giỏp vi Bc Giang, Lng Sn; phớa
ụng giỏp vi Vnh Bc b; phớa Tõy Nam giỏp vi Hi Dng, Hi Phũng 1.
Do c thiờn nhiờn u ói vi nhiu thng cnh p thun li phỏt trin
du lch, cú tr lng than ln vi cht lng tt tp trung Cm Ph, H Long,
Uụng Bớ, ụng Triu, cú iu kin phỏt trin kinh t cng bin, kinh t ca khu,
sau nhng nm i mi nn kinh t tnh ó cú nhiu s chuyn bin rừ rt. Hng
nm, tc tng trng bỡnh quõn 12,75%; giỏ tr sn xut cụng nghip c t
13.108 t ng; tng kim ngch xut khu trờn a bn c t 799 triu USD;
trong ú, tng doanh thu ngnh du lch c t 1.150 t ng; giỏ tr sn xut cụng
nghip khai thỏc l 8.039 t 735 triu ng; giỏ tr sn xut nụng, lõm nghip, thu
sn t 1886 t ng. S tng trng ca kinh t ó giỳp cho i sng nhõn dõn ca
1

http//: www. Viwikipedia. org

Đào Duy Thành


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

5

các dân tộc trong tỉnh được cải thiện đáng kể, tỉ lệ hộ đói nghèo giảm còn 4% (tính
đến hết năm 2005). Đặc biệt các hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa được Nhà nước ưu
tiên cho vay vốn, giúp họ có điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao mức sống. Tuy
vậy, mức sống cao tương đối ổn định chỉ tập trung ở các đô thị, dọc các đường quốc
lộ, tỉnh lộ còn ở vùng sâu, vùng xa nền kinh tế còn phát triển manh mún, tản mạn nên
thu nhập người dân còn thấp. Thời gian qua, mặc dù có sự phát triển mạnh mẽ về
kinh tế nhưng xem xét trên địa bàn toàn tỉnh, chúng tôi nhận thấy mức thu nhập bình

quân tính theo đầu người còn thấp, sự phát triển của ngành nghề chưa tương xứng
với tiềm năng sẵn có.
Cùng với sự phát triển về kinh tế, trong những năm gần đây trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh vấn đề văn hoá xã hội cũng không ngừng được nâng cao. Hệ thống
trường học được nâng cấp và đầu tư xây dựng với đội ngũ giáo viên đã, đang và sẽ
ngày càng kiện toàn cả về số lượng và chất lượng nhất là ở vùng sâu vùng xa, vùng
dân tộc thiểu số.2
Mặc dù đã thu được những thành quả quan trọng về kinh tế xã hội; chính trị
được ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững nhưng còn nhiều thách thức đặt ra
cho cấp uỷ, chính quyền và nhân dân. Công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự
nói chung, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói riêng trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh cũng như công tác điều tra tội phạm nói chung còn rất phức tạp.
1.2. Tình hình tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
1.2.1. Tình hình hoạt động của tội phạm nói chung
Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, trái pháp luật hình sự,
mang tính giai cấp và thay đổi theo quá trình lịch sử; được thể hiện một tổng hợp các
tội phạm cụ thể đã xảy ra trong xã hội và trong một khoảng thời gian nhất định.3
Qua ghi nhận của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh, trong
khoảng thời gian từ năm 2002 đến nay, tình hình hoạt động của tội phạm hình sự
nói chung trên địa bàn tỉnh tiếp tục có những diễn biến hết sức phức tạp. Hàng năm
trung bình có 747 vụ án xâm phạm trật tự xã hội xảy ra. Diễn biến của tội phạm
theo từng năm còn rất phức tạp, không đồng đều nhất là với những tội phạm như
giết người vì nguyên nhân xã hội, giết người cướp tài sản, cố ý gây thương tích,
trộm cắp tài sản.
2
3

Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh năm 2005, NXB Thống kê, năm 2006
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tội phạm học, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2007, tr.91


§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

6

Cũng theo thống kê của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng
Ninh, kể từ năm 2002 đến hết năm 2006 trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 708 vụ
trọng án hình sự. Phân tích số vụ trọng án hình sự đã xảy ra cho thấy, năm ít nhất
xảy ra 124 vụ (năm 2002), năm nhiều nhất xảy ra 188 vụ, trung bình hằng năm xảy
ra 141,6 vụ (xem bảng phụ lục 1). Nếu so sánh theo tỷ lệ với tổng số vụ án xâm
phạm trật tự xã hội đã được khởi tố, điều tra, số vụ trọng án hình sự chiếm tỷ lệ
19% (708/3734). Đây là một tỷ lệ cao, với những vụ án rất phức tạp việc điều tra
vụ án thường rất khó khăn, tốn kém về nhân lực, vật lực, gây ra hậu quả tiêu cực về
nhiều mặt với đời sống xã hội.

Bảng 1: So sánh vụ trọng án với vụ án xâm phạm trật tự xã hội.
Trật tự xã hội
Trọng án
Tỷ lệ
(1)
(2)
(2/1)
2002
788
124
15,74 %
2003
637

130
20,4 %
2004
589
124
21 %
2005
738
142
19,24 %
2006
982
188
19,14 %
Tổng số
3734
708
19 %
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm các năm 2002, 2003 của Phòng Cảnh sát điều
tra Công an tỉnh Quảng Ninh và báo cáo tổng kết các năm 2004, 2005, 2006 của Phòng
Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Quảng Ninh)
Năm

1.2.2. Tình hình của tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Bảng 2: So sánh tỉ lệ các vụ án hình sự giết người với các vụ án xâm
phạm trật tự xã hội; các vụ trọng án hình sự.

2002

Số vụ án giết

người
31

2003
2004
2005
2006
Tổng số

31
24
33
29
148

Năm

So sánh với các loại tội phạm khác
Trật tự xã hội
Trọng án hình sự
3,93%
25%
4,8%
23,8%
4%
19,35%
4,47%
23,23%
2,95%
15,4%

3,96%
20,9%

(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm các năm 2002, 2003 của Phòng Cảnh sát điều tra
Công an tỉnh Quảng Ninh và báo cáo tổng kết các năm 2004, 2005, 2006 của Phòng Cảnh sát
điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Quảng Ninh; báo cáo tổng kết công tác điều tra
trọng án hình sự của Công an tỉnh Quảng Ninh các năm 2002, 2003, 2004, 2005, 2006)

Từ bảng số liệu nêu trên cho thấy, trong thời gian khảo sát đã có 148 vụ án hình
sự giết người được khởi tố, điều tra trong tổng số các vụ trọng án hình sự. Như vậy,
trung bình hàng năm số vụ án giết người xảy ra chiếm tỷ lệ 3,96% của các vụ án xâm
§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

7

phạm trật tự xã hội; chiếm tỷ lệ 20,9% của các vụ trọng án hình sự nói chung. Qua
những chỉ số này có nhận xét, đây là tỷ lệ cao thứ hai trong các vụ trọng án hình sự đã
xảy ra trên địa bàn tỉnh, vì tỷ lệ cao nhất là các vụ án cướp tài sản với 287 vụ trong 05
năm chiếm tỷ lệ trung bình tương ứng là 7,6% và 40,5%. Tỷ lệ trung bình tương ứng
của trọng án hình sự nói chung là 2,1% và 11%.
So với số vụ án xâm phạm trật tự xã hội thì số vụ án giết người chiếm tỷ lệ
nhỏ. Trung bình mỗi năm số vụ án giết người chiếm 3,96% trên tổng số vụ án xâm
phạm trật tự xã hội. Như vậy, so với diễn biến của các loại tội phạm khác, tình hình
tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong phạm vi khảo sát hàng năm
ít biến động hơn so với diễn biến của tình hình tội phạm xâm phạm trật tự xã hội.
Nếu so sánh tình hình tội phạm năm 2002 với tình hình tội phạm năm 2006 thì sau
05 năm số vụ án xâm phạm trật tự xã hội tăng 24,61% trong khi đó số vụ án giết

người giảm 6,45%. Qua bảng thống kê trên, từ năm 2002- 2003 số vụ án xâm phạm
trật tự xã hội giảm 151 vụ trong khi đó số vụ án giết người không giảm. Sang năm
2003- 2005 số vụ án giết người tỷ lệ với số vụ án xâm phạm trật tự xã hội, trong đó
năm 2003- 2004 giảm 48 (giảm 7,5%) vụ án xâm phạm trật tự xã hội và số vụ án
giết người giảm 7 (giảm 22,6%) vụ (mức giảm của số vụ án giết người nhiều hơn
so với số vụ án xâm phạm trật tự xã hội); năm 2004- 2005 tăng 149 (tăng 25,3%)
vụ án xâm phạm trật tự xã hội và tăng 9 (tăng 37,5%) vụ án giết người. Năm 20052006 tăng 244 (tăng 33%) vụ án xâm phạm trật tự xã hội nhưng số vụ án giết người
giảm 4 (giảm 12,12%) vụ. Qua đó ta thấy số vụ án xâm phạm trật tự xã hội tăng
nhanh (2004- 2005 tăng 91 vụ, 2005- 2006 tăng 302 vụ) còn số vụ án giết người
diễn biến phức tạp. Mặc dù vậy, đây là những vụ án gây tâm lý hoang mang, lo lắng
cũng như thu hút sự quan tâm của nhân dân đối với quá trình điều tra vụ án. Bên
cạnh đó, trong nhiều vụ án giết người, đối tượng gây án đã đồng thời phạm vào nhiều
tội khác đặc biệt nghiêm trọng.

§µo Duy Thµnh


8

Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

Bảng 3: Phân loại tội phạm giết người
Năm

Tổng số

2002
2003
2004
2005

2006
Tổng số

31
31
24
33
29
148

Giết người
26 (83,9%)
24 (77,4%)
19 (79,2%)
27 (81,8%)
24 (82,8%)
121 (81,7%)

Phân theo mục đích
Giết cướp
4 (12,9%)
7 (22,6%)
5 (20,8%)
6 (18,2%)
4 (13,8%)
26 (17,6%)

Giết hiếp
1 (3,2%)


1 (3,4%)
2 (1,35%)

(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm các năm 2002, 2003 của Phòng Cảnh sát điều
tra Công an tỉnh Quảng Ninh và báo cáo tổng kết các năm 2004, 2005, 2006 của Phòng Cảnh
sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Quảng Ninh; báo cáo tổng kết công tác điều
tra trọng án hình sự của Công an tỉnh Quảng Ninh các năm 2002, 2003, 2004, 2005, 2006)

Qua phân tích từ thống kê nêu trên thấy, cùng là hành vi xâm phạm tính mạng,
tước bỏ mạng sống của con người, song như nhận xét ở trên tội phạm giết người
được thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có những mục đích khác nhau khi gây
án. Có 121 vụ (81%) số vụ án xảy ra không có mục đích tài sản mà vì những
nguyên nhân xã hội như thù tức, tình ái, mâu thuẫn khác... Có 26 vụ (17,5%) giết
người nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản mà chủ yếu là các vụ giết người cướp xe
ôm, một số vụ giết hộ độc thân lục soát tài sản. Có 2 vụ (1,35%) hành vi giết người
của đối tượng gây án gắn liền với hành vi hiếp dâm. Đối với mỗi loại vụ án giết
người theo phân tích này có những đặc điểm khác nhau về đối tượng gây án, về địa
bàn gây án, về thủ đoạn gây án và nhiều vấn đề khác cũng như đòi hỏi cách thức
điều tra khác nhau.
1.3. Đặc điểm tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong
giai đoạn 2002-2006.
1.3.1. Dấu hiệu pháp lý đặc trưng
Trong Bộ luật hình sự 1999, tội giết người được quy định tại Điều 93 như sau:
“1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ mười hai năm đến hai mười năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết nhiều người;
b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
c) Giết trẻ em;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

§µo Duy Thµnh


Trờng Đại học Luật Hà Nội

9

e) Git ngi m lin trc ú hoc ngay sau ú li phm mt ti rt nghiờm
trng hoc ti c bit nghiờm trng;
g) thc hin hoc che giu ti phm khỏc;
h) ly b phn c th ca nn nhõn;
i) Thc hin ti phm mt cỏch man r;
k) Bng cỏch li dng ngh nghip;
l) Bng phng phỏp cú kh nng lm cht nhiu ngi;
m) Thuờ git ngi hoc git ngi thuờ;
n) Cú tớnh cht cụn ;
o) Cú t chc;
p) Tỏi phm nguy him;
q) Vỡ ng c ờ hốn.
2. Phm ti khụng thuc cỏc trng hp quy nh ti khon 1 iu ny, thỡ b
pht tự t by nm n mi lm nm.
3. Ngi phm ti cũn cú th b cm m nhim chc v, cm hnh ngh hoc
lm cụng vic nht nh t mt nm n nm nm, pht qun ch hoc cm c trỳ
t mt nm n nm nm.
Qua mô tả của điều luật, có thể nhận thấy tội phạm giết ngời nói chung có
dấu hiệu pháp lý đặc trng nh sau:
+ Tính nguy hiểm của hành vi do tội phạm git ngi thực hiện luôn ở mức độ
cao nht trong các tội thuộc nhóm xâm phạm trật tự xã hội vì nó xâm phạm đến quyền
đợc sống, tác động đến con ngời và tớc đi sinh mạng của họ.
+ Tớnh cú li ca ti phm git ngi th hin ch khi gõy ỏn, i tng phm

ti u thc hin vi li c ý v phn ln l c ý trc tip. i tng gõy ỏn hon ton
nhn thc c v hnh vi ca mỡnh l nguy him, cú th dn n hoc dn n hu
qu cht ngi nhng vn quyt nh thc hin hnh vi gõy ỏn.
+ Hnh vi phm ti ca i tng gõy ra cỏc v ỏn git ngi th hin tớnh trỏi
phỏp lut rt nghiờm trng v c bit nghiờm trng.
+ V mc hỡnh pht: i vi hnh vi phm git ngi, i tng gõy ỏn tt
nhiờn s phi chu mc hỡnh pht rt nghiờm khc, cao nht l t hỡnh.

Đào Duy Thành


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

10

1.3.2. Đặc điểm sự hình thành, phát triển và hoạt động của tội phạm giết
người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh4
Những đặc điểm chung:
Thực tế cho thấy, tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có đặc
điểm chung của tội phạm giết người nói chung. Điều đó được thể hiện ở các dấu
hiệu sau đây:
Thứ nhất, đối tượng gây án thường là nam giới. Trong các vụ án giết người
vì mục đích tài sản, đối tượng thường có nhân thân xấu, gắn với các tệ nạn xã hội
như nghiện hút ma tuý, hay đánh cờ bạc, sống thực dụng, chơi bời, tiêu pha quá độ;
trong các vụ án giết người không vì mục đích tài sản, đối tượng thường có trình độ
dân trí, văn hoá thấp, những mâu thuẫn nảy sinh dẫn đến việc gây án xuất phát từ
đời sống kinh tế khó khăn, những bế tắc về tư tưởng... do đó, khi có tình huống
xung đột xảy ra đối tượng thường không kiểm soát được bản thân nên đã dẫn đến
gây án. Với những vụ án giết người hiếp dâm, khẳng định đối tượng có những
khiếm khuyết nhất định về thể chất, tâm lý dẫn đến hành động bản năng, thú tính.

Thứ hai, mục đích của đối tượng gây án. Thực ra việc xác định mục đích tài
sản hay không tài sản trong vụ án giết người như nêu ở phần trên không phải là
mục đích cuối cùng của tội phạm giết người dưới góc độ tội phạm học. Vì mục đích
thoả mãn những nhu cầu thực tế nào đó nảy sinh dẫn đến việc đối tượng giết người
để cướp tài sản, như: có tiền để sử dụng ma tuý thoả mãn cơn nghiện, chơi cờ bạc,
chơi đề, chơi điện tử, chơi bi- a. Hoặc các đối tượng có khiếm khuyết về mặt tâm
lý, thể chất đã có hành vi hiếp dâm khi nảy sinh những quá trình sinh học, tâm lý
mang tính bản năng mà bản thân đối tượng không tư kiểm soát được. Trong một số
vụ giết người vì nguyên nhân xã hội khác, việc tước bỏ sinh mạng của nạn nhân
nhằm thoả mãn những sự thù tức, căm giận của đối tượng với người bị hại... Tóm
lại, mục đích này rất phong phú. Tuy nhiên, trong một số vụ án, mục đích gây án
không xuất hiện đó là những trường hợp đối tượng gây án giết người mang tính
chất bột phát, tức thì hoặc đối tượng giết người với trạng thái lỗi cố ý gián tiếp.
Thứ ba, về thủ đoạn gây án. Các đối tượng nói chung thường có sự chuẩn bị
kỹ lưỡng khi gây án nếu mục đích gây án hướng đến việc chiếm đoạt tài sản, hay
Báo cáo tổng kết công tác năm các năm 2002, 2003 của Phòng Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh và
báo cáo tổng kết các năm 2004, 2005, 2006 của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh
Quảng Ninh; báo cáo tổng kết công tác điều tra trọng án hình sự của Công an tỉnh Quảng Ninh các năm 2002,
2003, 2004, 2005, 2006)
4

§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

11

để giải quyết những mâu thuẫn thù tức âm ỷ kéo dài, gay gắt. Trong trường hợp bột
phát tức thì hoặc giết người hiếp dâm, đối tượng thường không có sự chuẩn bị

trước. Ví dụ, do cùng đi qua một chiếc cầu va chạm và ngã xuống suối, Trần Văn
Sự đã mâu thuẫn với chị Nguyễn Thị Mai. Sự đã dìm chị Mai xuống suối cho đến
chết sau đó tiếp tục thực hiện hành vi hiếp nạn nhân (vụ án xảy ra tháng 8 năm
2003, tại phường Bắc Sơn, thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh) 5. Cũng thuộc về thủ
đoạn gây án, sau khi thực hiện tội phạm đối tượng gây án thường có hành vi che
giấu tội phạm, trốn tránh cơ quan pháp luật, quay lưng lại với xã hội, cộng đồng.
Một số đối tượng có xu hướng ban đầu lo sợ, ăn năn nhưng nếu không được động
viên ra đầu thú hoặc bắt giữ kịp thời thì ngày càng lì lợm, manh động hơn.
Thứ tư, về phương tiện gây án và hành vi gây án. Trong các vụ án giết người
có mục đích trước đối tượng thường có sự chuẩn bị kỹ càng về phương tiện gây án.
Những phương tiện đó thường là dao, kiếm, búa, súng (rất ít). Khi tiếp cận nạn
nhân, đối tượng thường tấn công với cường độ mạnh mẽ, kiên quyết thực hiện tội
phạm đến cùng. Như trong vụ Phạm Xuân Thành giết vợ là Bùi Thị Hạnh: chiều
ngày 19 tháng 10 năm 2004 do mâu thuẫn vợ chồng sau khi ly hôn, Phạm Xuân
Thành đã đột nhập vào nhà của chị Bùi Thị Hạnh mang theo một dao phay dài
18cm đâm chém tới tấp vào người chị Hạnh hàng chục nhát dẫn đến việc nạn nhân
tử vong tại chỗ do sốc, mất máu đa chấn thương. Sau đó đối tượng Thành tự sát
nhưng không chết.6 Trong những vụ án giết người không có mục đích trước, công
cụ, phương tiện gây án là bất kể đồ vật gì mà khi thực hiện hành vi phạm tội đối
tượng gây án cho rằng có thể sử dụng làm vũ khí. Hành vi tấn công ở những vụ án
này thường cũng rất quyết liệt. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp nạn nhân chết
hay không đối tượng gây án không chú ý, hay trong vụ án Phạm Văn Cường và
đồng bọn giết anh Vũ Hữu Tình tối ngày 08 tháng 06 năm 2005 tại phường Cẩm
Trung thị xã Cầm Phả.7 Trong vụ án này lợi dụng tối trời đối tượng gây án đã sử
dụng kiếm chém nhiều nhát vào vùng đầu, cổ nạn nhân sau đó bỏ chạy, bỏ mặc nạn
nhân tại hiện trường. Do bị đứt động mạch, sốc, mất máu nạn nhân chết ngay sau đó.
Thứ năm, về thời gian và địa điểm gây án. Việc xác định trước về thời gian
và địa điểm gây án thường xảy ra trong vụ án giết người có mục đích định sẵn như
Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006
Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006

7 Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006
5
6

§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

12

nêu trên, nhiều khi đây là vấn đề được đối tượng gây án lựa chọn rất công phu.
Trong vụ án ông Nguyễn Văn Thắng, quản đốc phân xưởng công ty than Đèo Nai
Cẩm Phả bị giết, đối tượng gây án đã sử dụng một dao rựa sắc, phục sẵn tại cổng
nhà riêng của ông Thắng (Phường Cao Sơn thị xã Cẩm Phả). Khi nạn nhân vừa
bước ra khỏi cổng để đi làm ca 3 thì bị thủ phạm sát hại ngay. 8 Ở đây đối tượng vừa
lựa chọn địa điểm, vừa lựa chọn thời gian mà theo các Điều tra viên có nhiều kinh
nghiệm là khá kỹ lưỡng. Yếu tố thời gian, địa điểm không phải là yếu tố được định
sẵn trong các vụ án không có mục đích định trước, loại trừ các vụ án giết hiếp đối
tượng thường bột phát gây án ở các khu vực hẻo lánh, ít người.
Những đặc điểm riêng:
Bên cạnh những đặc điểm chung như nêu trên, tội phạm gây ra các vụ giết
người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh còn có các đặc điểm riêng, những đặc điểm này
hình thành từ các đặc điểm của địa bàn tỉnh như phân tích ở trên. Khảo sát thực tế
thấy có một số đặc điểm riêng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về đối tượng gây án:
+ Trong tất cả các vụ án giết người, cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh, đối tượng gây án đều vướng mắc vào các tệ nạn xã hội, hầu hết là nam giới;
ở lứa tuổi mới thành niên và gần thành niên, đa số đều xuất thân trong những gia
đình có vướng mắc ở quan hệ hôn nhân giữa cha và mẹ hoặc do cha mẹ mải làm ăn

bỏ mặc không giáo dục. Quá trình điều tra một loạt các vụ án giết người cướp xe
máy trong tháng 11 năm 2004 trên địa bàn Uông Bí cho thấy rõ điều này. 06 đối
tượng trong vụ án này đều vướng mắc đến tệ nạn xã hội ở những góc độ khác nhau,
03 trong số 06 đối tượng là xuất thân trong những gia đình không bình thường về
hôn nhân (không rõ cha là ai, cha mẹ bỏ nhau, cha chết). Chính vì vậy, các đối
tượng đã tụ tập với nhau rất nhanh chóng, manh động và liều lĩnh trong gây án. Hoặc
vụ Nguyễn Văn Linh giết bác ruột ở phường Cẩm Tây thị xã Cẩm Phả cướp tài sản
là một ví dụ khác. Trong vụ án này do thiếu tiền chơi Internet, Linh đã vào nhà bác
ruột ở độc thân định trộm cắp. Khi bị bác vô tình phát hiện được, Linh đã nảy sinh ý
định giết bác để che giấu hành vi ăn cắp. Kết quả nạn nhân đã bị sát hại rất dã man.9
+ Trong các vụ án giết người do mâu thuẫn thù tức từ trước giữa đối tượng
và nạn nhân thường có mối quan hệ trước đó là khá tốt như: làm ăn chung, bạn bè,
8
9

Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006
Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006

§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

13

đã từng là vợ chồng, là hàng xóm... Nhưng do các lý do khác nhau dẫn đến những
mối quan hệ này bị rạn vỡ và nảy sinh mâu thuẫn, từ đó dẫn tới vụ án. Vụ án Phạm
Xuân Thành giết vợ nêu trên là một dẫn chứng. Hoặc vụ án Nguyễn Văn Sơn và
Phạm Thị Hạnh giết người tại nhà hàng Thanh Phương phường Bãi Cháy- TP Hạ
Long tháng 08 năm 2005. Trong vụ án này, Phạm Thị Hạnh là nhân viên tiếp thị

của hãng rượu CHIVAS đã có quan hệ tình ái với anh Xuyên chủ nhà hàng này. Do
bị mọi người can ngăn, anh Xuyên đã ruồng rẫy và không cho Hạnh tiếp tục tiếp thị
ở đây. Vì căm tức Xuyên, Hạnh đã kể chuyện này với Nguyễn Văn Sơn người yêu
Hạnh và nhờ Sơn trả thù. Sau khi bàn bạc, cả hai đi mua 2kg đinh loại 5cm mang
về nhà Sơn. Cùng với thuốc mìn có sẵn, Sơn đã chế tạo một quả mìn, sau đó cả hai
thuê xe ôm đi đến bưu điện phường Giếng Đáy, tại đây lại thuê xe ôm không quen
biết nhờ đưa túi quà trong có quả mìn cho Xuyên. Khi xe ôm xuất phát cả hai đi
theo để quan sát. Đến khi mìn nổ lại thản nhiên đi về. 10 Ngoài những ví dụ nêu trên,
tội phạm giết người xảy ra tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao tỉnh
Quảng Ninh do lạc hậu, mê tín cũng có những đặc điểm như vậy.
+ Trong các vụ án giết người không có mục đích chiếm đoạt tài sản, thù tức
từ trước đối tượng gây án thường là người có trình độ văn hoá thấp, lao động phổ
thông, lệch chuẩn về tâm lý, nơi các đối tượng cư trú thường là ở vùng sâu, vùng xa
hoặc những vùng khó khăn về kinh tế (đặc biệt đối tượng giết người hiếp dâm). Vụ
án chị Nguyễn Thị Mai bị giết hiếp là một ví dụ. Trong vụ án này Trần Văn Sự là
lao động phổ thông tự do, mới học hết lớp 5, giữa Sự và vợ đang sống ly thân. Nơi
Sự ở là một đơn vị hành chính cấp phường nhưng kinh tế còn hết sức khó khăn
được xác định là khu vực vùng cao của địa phương.
+ Trong các vụ án giết, cướp đối tượng gây án hầu hết là người Quảng Ninh
với tỷ lệ 97%; ở các vụ án giết người do thù tức tình trạng cũng tương tự. Trong
các vụ án giết người do mâu thuẫn bột phát xuất hiện một số đối tượng là người lao
động tỉnh ngoài đến Quảng Ninh làm thuê thường tập trung ở hai khu vực Hòn Gai,
Cẩm Phả (làm than) và thị xã Móng Cái (làm bốc vác).
Thứ hai, mục đích gây án:
+ Trong các vụ giết người cướp tài sản vì bản thân là con nghiện nên mục
đích cuối cùng mà đối tượng gây án muốn đạt được là nhằm để sử dụng trái phép
10

Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006


§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

14

chất ma tuý thoả mãn cơn nghiện. Việc giết người, cướp tài sản được xác định là
cách thức kiếm tiền để thoả mãn mục đích đó. Không có trường hợp tội phạm giết
người chiếm đoạt tài sản nhằm mục đích khác như để làm giàu, để mua sắm các đồ
vật đắt tiền...
+ Trong các vụ án không hướng đến chiếm đoạt tài sản, số vụ án có mục
đích cụ thể, như vụ án Nguyễn Văn Sơn và Phạm Thị Hạnh giết người nêu trên
chiếm tỷ lệ không cao (khoảng 25%). Còn lại hầu hết các vụ án giết người xảy ra
do bột phát thì không có mục đích rõ ràng cụ thể.
+ Ở một số vụ án giết người xảy ra tại khu vực miền núi trong vùng đồng
bào dân tộc ít người do mê tín dị đoan, việc đối tượng gây án giết người nhằm mục
đích mà theo họ là để đem lại điều tốt đẹp hơn cho cộng đồng (để trừ ma tà). Vụ án
anh Chíu Văn Phương dân tộc Dao bị giết ngay tại nhà (Xã Hoành Mô, huyện Bình
Liêu) là một ví dụ điển hình. Các đối tượng gây án cho rằng anh Phương bị ma
nhập nên đã gây ra nhiều điều không tốt cho dân bản như gà chết, trâu chết, nhà
nào có đám cưới đang nấu cơm Phương đến thì cơm khê... Để “trừ hoạ”, việc giết
Phương được bàn bạc và thực hiện đến cùng. 11
Thứ ba, thủ đoạn gây án:
+ Trong các vụ án có mục đích trước như giết cướp, giết vì thù tức ở giai
đoạn chuẩn bị đối tượng thường lựa chọn trước thời gian địa điểm gây án; vạch kế
hoạch thực hiện khá tỉ mỉ, chuẩn bị các điều kiện về công cụ, phương tiện thực hiện
tội phạm. Điển hình như vụ án Nguyễn Văn Sơn và Phạm Thị Hạnh hoặc trong vụ
án ông Nguyễn Văn Thắng bị giết. Trong các vụ án này rõ ràng đối tượng gây án đã
chuẩn bị rất kỹ, vạch kế hoạch gây án chính xác đến những chi tiết nhỏ. Lựa chọn

thời điểm gây án rất phù hợp do điều tra kỹ về nạn nhân. Việc thực hiện hành vi
gây án trong các vụ án này cũng rất nhanh chóng, quyết liệt, bất ngờ do đã được
chuẩn bị kỹ. Vì thế, hầu hết các nạn nhân tử vong, cá biệt có trường hợp còn sống
sót nhờ những sự kiện ngẫu nhiên, hết sức may mắn. Ví dụ, anh Hoàng Công Sơn
làm nghề chạy xe ôm ở bến phà Bãi Cháy, ngày 08 tháng 10 năm 2005 đã được
một đối tượng thuê trở vào trong xã Lê Lợi huyện Hoành Bồ. Khi đến đoạn đường
đồi vắng, đối tượng lừa cho anh Sơn dừng xe, tiếp đó sử dụng dao bầu đâm anh Sơn
nhiều nhát vào người. Trong lúc anh Sơn đã tuyệt vọng thì hành vi của đối tượng bị
11

Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006

§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

15

ngăn lại bởi một người đi làm rừng vô tình nhìn thấy và tấn công đối tượng. 12 Trường
hợp này việc xuất hiện của người thứ ba là ngẫu nhiên, may mắn.
+ Sau khi gây án, kẻ thực hiện hành vi phạm tội thường nhanh chóng lẩn
trốn thay đổi tên tuổi, quê quán, tiêu huỷ chứng cứ, che giấu hành vi phạm tội của
mình. Địa bàn lẩn trốn của các đối tượng trong thực tế thường là vào các tỉnh phía
Nam hoặc đi theo các đoàn tàu đánh cá trên Vịnh Bắc Bộ. Địa bàn lẩn trốn thứ ba
là Trung Quốc. Trong vụ án Nguyễn Văn Linh giết bác ruột nêu trên, ngay trong
đêm gây án Linh đã bắt xe lẩn trốn vào thành phố Biên Hoà tỉnh Đồng Nai. Tại đây
Linh khai tên khác và tiếp tục làm lao động tự do cho đến khi bị bắt. Trong vụ án
Bùi Hải Âu cùng đồng bọn giết anh Nguyễn Văn Chiến tháng 10 năm 2002 tại xã
Vạn Ninh thị xã Móng Cái, sau khi gây án Âu bỏ trốn sang Trung Quốc, việc bắt

giữ Âu phải nhờ sự giúp đỡ của công an Trung Quốc. 13 Trong vụ án Trịnh Văn Tý
giết người, hiếp dâm tại xã Quảng Đức huyện Quảng Hà 14 và trong vụ án Trần Văn
Sự giết hiếp chị Nguyễn Thị Mai, sau khi gây án các đối tượng đều bỏ trốn rồi xin
đi làm thuê trên tàu đánh cá của ngư dân trên Vịnh Bắc Bộ.
Thứ tư, công cụ, phương tiện và cách thức gây án:
+ Trong các vụ án giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh khảo sát cho thấy
phương tiện mà đối tượng sử dụng trong quá trình gây án bao gồm loại sau vũ khí
quân dụng: súng, mìn, lê; các vũ khí tự tạo như kiếm, dao, các hung khí tự chế khác.
+ Cách thức gây án của đối tượng như phần nào đã đề cập ở trên là rất nhanh
chóng, bất ngờ, chính xác. Việc đó do ý trí gây án của đối tượng đã được xác định,
lựa chọn trước, kế hoạch gây án đã được chuẩn bị và điều rất quan trọng trong đó là
đã có chuẩn bị trước về công cụ gây án. Các dẫn chứng về những vụ án nêu trên đã
chỉ rõ điều này. Trong những vụ án do mâu thuẫn tức thì, bột phát, thường cách
thức gây án và công cụ phương tiện gây án có sự khác biệt nhất định. Vụ án Lê Văn
Nguyên giết người ngày 31 tháng 08 năm 2006 là một ví dụ. Sau khi ngồi uống
rượu cùng Thiện, Yên trong lán của xí nghiệp than Khe Sim thuộc thị xã Cẩm Phả,
Nguyên có việc đi ra khỏi lán. Khi quay trở về trong tình trạng vừa uống rượu, phát
hiện thấy mình bị mất một chiếc can nhựa 20lít, Nguyên đi tìm thấy chiếc can giấu
ngay sau lán. Nghi ngờ Thiện và Yên lấy can giấu đi, Nguyên lấy một chiếc cán
xẻng bằng gỗ vụt nhiều nhát vào người anh Thiện, anh Yên vào can cũng bị
Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006
Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006
14 Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006
12

13

§µo Duy Thµnh



Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

16

Nguyên vụt hai nhát vào người. Sau khi gây án Nguyên đã bỏ đi. Kết quả anh
Thiện bị tử vong.15 Ở vụ án này, cách thức gây án cũng xuất phát từ suy nghĩ bột
phát trong tình trạng đã uống rượu nên khá đơn giản, công cụ gây án tuỳ nghi
nhưng hậu quả vụ án vẫn xảy ra. Trong nhiều vụ án khác tình trạng cũng tương tự.
Thứ năm, đặc điểm về người bị hại trong các vụ án giết người trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh:
+ Trong các vụ án giết người cướp tài sản người bị hại hầu hết là người hành
nghề xe ôm hoặc lái xe taxi hoặc là người sống độc thân (hộ độc thân). Điều đó
được chứng minh bằng việc các vụ giết người cướp tài sản xảy ra ngoài nơi ở của
công dân chỉ nhằm vào đối tượng chạy xe ôm chở khách và lái xe taxi. Các vụ giết
người cướp tài sản xảy ra tại nơi ở của công dân chỉ nhằm vào những người sống
một mình (độc thân) hoặc cá biệt gia đình ở một khu vực riêng biệt. Trong 26 vụ
giết người cướp tài sản đã xảy ra được khảo sát có 20 vụ xảy ra ngoài nơi ở của
công dân, 06 vụ xảy ra tại nhà riêng. Có 19 vụ người bị hại hành nghề xe ôm, 01 vụ
hành nghề lái xe taxi, 06 vụ là người sống độc thân.
+ Trong các vụ án giết người vì lý do thù tức từ trước hoặc vì mục đích khác
giữa người bị hại và nạn nhân thường có mối quan hệ thân thích, quen biết từ trước.
Ở một số vụ án, người bị hại trước đó cũng đã có những sai phạm nhất định, thậm
chí có lỗi đối với đối tượng gây án. Một số dẫn chứng về những vụ án này ở trên đã
làm rõ nhận xét này.
+ Trong các vụ án giết người do mâu thuẫn bột phát tức thì, người bị hại
thường cũng có lỗi và là nguyên nhân gây nên những mâu thuẫn bột phát này. Vụ
án Đặng Toàn Tâm giết anh Nguyễn Văn Bốn ngày 03 tháng 01 năm 2006 tại khu
vực chợ 3 phường Trần Phú thị xã Móng Cái là một ví dụ chứng minh cho nhận
định trên. Do mâu thuẫn trong việc đánh phỏm ăn tiền (đánh bạc) giữa Tâm và
Bốn, Bốn đã đấm vào mặt Tâm nhiều nhát, bị đau Tâm đã tìm dao bầu đâm anh

Bốn chết.16 Trong các vụ án giết người hiếp dâm, cùng với yếu tố địa bàn vắng vẻ,
hẻo lánh người bị hại thường không tự bảo vệ được mình do còn nhỏ tuổi hoặc quá
sợ hãi đối tượng. Vụ án Trịnh Văn Tý hiếp Trưởng Nhì Múi 11 tuổi hoặc Nguyễn

15
16

Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006
Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006

§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

17

Thị Huệ 17 tuổi bị giết hiếp trong rừng xã An Sinh huyện Đông Triều tháng 3 năm
2005 cho thấy rõ điều đó.17
1.4. Mối quan hệ của tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
với các loại tội phạm hình sự khác.
Trước hết tội phạm giết người thường có quan hệ với tội phạm cờ bạc, số đề,
tội phạm mua bán trái phép chất ma tuý và tuyên truyền văn hoá phẩm đồi truỵ.
Mối liên kết nêu trên nảy sinh từ khi tội phạm giết người có sự lệch chuẩn về đạo
đức, lối sống, giai đoạn tiền đề để trở thành tội phạm thực sự. Từ những ham thích
cờ bạc, số đề, sa ngã vào ma tuý hoặc tìm thấy cảm giác lạ qua phim ảnh đồi truỵ
đã khiến cho các đối tượng này tự bước chân đến với hành vi phạm tội. Như đã đề
cập, để thoả mãn các nhu cầu này, thoả mãn lối sống hưởng thụ, thực dụng, con
đường dẫn đến tội phạm khi điều kiện và tình huống xuất hiện dường như là một hệ
quả tất yếu.

Mặt khác, tội phạm giết người còn có quan hệ với các đối tượng có hành vi
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có: che giấu, không tố giác tội phạm…
Với đối tượng tiêu thụ, trong các vụ án hình sự có chiếm đoạt tài sản, khi thực hiện
xong vụ án đối tượng gây án phải tìm đến đối tượng tiêu thụ một cách nhanh chóng
nếu tài sản chiếm đoạt được không phải là tiền. Trong một phạm vi nào đó, dạng
đối tượng tiêu thụ cũng là điểm đỡ tinh thần cho đối tượng gây án. Sự xuất hiện của
đối tượng che giấu, không tố giác tội phạm và mối quan hệ với tội phạm gây ra vụ
án giết người có đặc điểm riêng biệt. Những đối tượng che giấu, không tố giác
thường có quan hệ từ trước với đối tượng gây án trong những trường hợp này. Vì
nhận thức pháp luật thấp, vì vị nể tình cảm hoặc vì một động cơ cá nhân nào đó, thay
cho việc phải cung cấp cho cơ quan có trách nhiệm biết về những gì mà mình đã nắm
được hoặc khuyên bảo đối tượng gây án ra đầu thú, tự thú để hưởng lượng khoan hồng
của pháp luật, những đối tượng này lại im lặng hay giúp đỡ tạo điều kiện cho đối
tượng gây án chạy trốn. Xuất phát từ đặc điểm tâm lý xã hội và ý thức truyền thống
của quần chúng nhân dân, xuất phát từ lý do nhân đạo và sự khoan hồng, không phải
với hành vi nào, với ai không tố giác tội phạm hoặc che giấu tội phạm đều phải bị xử
lý bằng pháp luật. Hai tội phạm này được quy định tại Điều 313 Bộ luật hình sự (Tội
che giấu tội phạm) và Điều 314 Bộ luật Hình sự (Tội không tố giác tội phạm). Hiện
17

Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006

§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

18

nay, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 diện đối tượng cần điều chỉnh bằng

các điều luật này đã có sự quy định hẹp hơn so với trước đây. Tại khoản 2 Điều 314
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Người không tố giác là ông, bà, cha mẹ, con,
cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
sự về việc không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội
đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1 điều này". Đây là những quy định mà
Bộ luật hình sự năm 1985 chưa có, việc quy định như vậy đã thể hiện tính nhân đạo
sâu sắc trong pháp luật hình sự của Nhà nước ta nhưng cũng đặt ra những khó khăn
với công tác điều tra loại tội phạm này.
Việc tìm hiểu và xác định mối quan hệ giữa tội phạm giết người với các loại
tội phạm hình sự khác có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác phòng ngừa
cũng như điều tra khám phá tội phạm này.

§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

19

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐIỀU TRA TỘI PHẠM GIẾT NGƯỜI CỦA
CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA CÔNG AN TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Kết quả công tác điều tra khám phá tội phạm giết người năm
2002-2006
Bảng 4: Kết quả điều tra làm rõ tội phạm giết người.
Năm

Số vụ

2002

2003
2004
2005
2006
Tổng số

31
31
24
33
29
148

Số vụ
30
29
23
30
27
139

Kết quả điều tra làm rõ
Đối tượng
33
38
36
39
43
189


Tỷ lệ
95,97%
93.85%
95,16%
90,24%
92,02%
93,91%

(Nguồn: Báo cáo tổng kết điều tra trọng án của Công an tỉnh Quảng Ninh các năm từ
2002 đến 2006.)

Từ bảng thống kê trên cho thấy, trong 05 năm khảo sát còn 09 vụ án giết
người chưa được làm rõ. Mặc dù không thể phủ nhận được những kết quả rất tích
cực mà công tác điều tra tội phạm giết người do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
tỉnh Quảng Ninh tiến hành cụ thể là tỷ lệ điều tra khám phá khá cao, nhiều đối
tượng gây án đã được làm rõ và phải chịu những hình phạt rất nghiêm khắc trước
pháp luật. Qua công tác điều tra tội phạm giết người đã rút được những vấn đề quan
trọng có ý nghĩa trong phòng ngừa đấu tranh với loại tội phạm này trong thời gian
tới cũng như với tội phạm nói chung. Kết quả đó góp phần quan trọng vào công tác
bảo vệ An ninh trật tự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội. Tuy nhiên, còn 09 vụ án giết người chưa được làm rõ, trong đó có
cả các vụ giết người cướp tài sản, giết người hiếp dâm là một thực tế cần được xem
xét. Vụ án cháu Nguyễn Thị Huệ bị hiếp giết qua nghiên cứu hồ sơ thấy được tiến
hành điều tra rất công phu, nhưng đến nay vẫn đang bế tắc. Vụ bà Nguyễn Thị Đàm
bị giết, cướp tài sản tại thị xã Móng Cái, tháng 03 năm 2005 18 hay trong vụ ông
Nguyễn Văn Thắng bị sát hại tại cổng nhà riêng ở Phường Cao Sơn thị xã Cẩm Phả
là những thực tế của tồn tại trong công tác điều tra tội phạm giết người của Công an
tỉnh Quảng Ninh. Nhiều Điều tra viên có kinh nghiệm cho rằng đây là những khó
18


Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006

§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

20

khăn thực tiễn do khách quan mang lại nhưng cũng một phần từ nguyên nhân chủ
quan.
Qua đó có thể đưa ra dự báo về tình hình tội phạm giết người trong thời gian
tới như sau:
- Số vụ án giết người xảy ra trên đia bàn tỉnh Quảng Ninh trong những năm
tới sẽ không giảm mà một số những yếu tố xã hội sẽ làm gia tăng cả về số lượng
các vụ án giết người cũng như tính nguy hiểm ngày càng lớn của nó. Số vụ án giết
người do nguyên nhân xã hội ngày càng tăng do sự gia tăng mâu thuẫn trong quần
chúng nhân dân, chủ yếu những mâu thuẫn nảy sinh trong sinh hoạt hàng ngày,
trong cách ứng xử giữa người dân với nhau…
- Đối tượng gây án: nổi lên số đối tượng chưa có tiền án tiền sự; số đối tượng
trong lứa tuổi vị thành niên, học sinh, sinh viên gia tăng.
- Phương tiện và cách thức thực hiện hành vi: vẫn chủ yếu sử dụng dao, mã
tấu, gậy, thuốc nổ với cách thức ngày càng tinh vi xảo quyệt và có thể dựng hiện
trường giả, tiêu huỷ xác nạn nhân để huỷ chứng cứ.
- Địa bàn phạm tội vẫn tập trung ở các đô thị, khu cửa khẩu thương mại, dịch
vụ, các đầu mối giao thông như thành phố Hạ Long, Cẩm Phả, Móng Cái, Đông
Triều.
2.2. Công tác tổ chức hoạt động điều tra
2.2.1 Cơ cấu lực lượng tham gia điều tra
Qua khảo sát thực tiễn cho thấy, cơ cấu lực lượng điều tra tội phạm giết

người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh tuân theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004, Pháp lệnh sửa đổi Điều 9
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004, các văn bản quy phạm pháp luật khác
hướng dẫn thi hành hai văn bản nêu trên. Trong giai đoạn từ tháng 10 năm 2004 trở
về năm 2002 công tác tổ chức điều tra tội phạm giết người được thực hiện theo quy
định của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 1989. Tuy hệ thống Cơ quan điều
tra trong lực lượng Công an nhân dân có thay đổi về mô hình tổ chức sau khi Pháp
lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 có hiệu lực nhưng về cơ bản, cơ cấu lực
lượng điều tra tội phạm giết người của Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an
tỉnh Quảng Ninh chỉ có sự dịch chuyển chứ không có sự xáo trộn, thay đổi lớn. Bên

§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

21

cạnh đó, hoạt động điều tra còn được tổ chức cho phù hợp với đặc điểm địa bàn
tỉnh Quảng Ninh.
Về lực lượng điều tra chuyên trách:
Hiện tại, lực lượng điều tra chuyên trách tội phạm giết người ở Cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh là Đội điều tra trọng án thuộc phòng
Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (theo pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự
năm 1989 đội này thuộc Phòng Cảnh sát điều tra) với biên chế 12 cán bộ, chiếm tỷ
lệ 23% (12/52). Nhìn chung, đây là bộ phận được lựa chọn trong Cơ quan điều tra
Công an tỉnh theo tiêu chí trẻ, khoẻ, có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt. Tổ chức
của đội điều tra trọng án gồm có Ban chỉ huy đội với một đội trưởng, hai đội phó;
các Điều tra viên. Về trình độ chuyên môn: Đội có 01 Thạc sĩ Luật, 11 Cử nhân
luật, Điều tra viên trung cấp 01, Điều tra viên sơ cấp 08, số chưa bổ nhiệm Điều tra

viên 03; độ tuổi bình quân là 31. Khi có vụ án giết người xảy ra, về nguyên tắc Đội
sẽ chủ trì công tác điều tra bắt đầu từ hiện trường vì trong vụ án giết người, ở giai
đoạn điều tra, nhất là điều tra ban đầu, rất khó xác định thẩm quyền tiến hành tố
tụng với vụ án.
Các chủ thể khác tham gia hoạt động điều tra:
Bên cạnh lực lượng điều tra chuyên trách nêu trên, trong hoạt động điều tra
tội phạm giết người tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh còn có các chủ thể khác tham gia
như:
Lực lượng điều tra (hệ trật tự xã hội) thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công
an 13 huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Quảng Ninh, các lực lượng Công an khác
thuộc các địa phương này. Đây là lực lượng tại chỗ, mặc dù không phải là chủ thể
chính của công tác điều tra nhưng có vai trò và những đóng góp rất quan trọng đến
hoạt động điều tra.
Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ninh là một chủ thể tham gia một số hoạt
động điều tra khi vụ án xảy ra tại địa bàn biên giới, biển đảo. Trên toàn tỉnh Quảng
Ninh có 18 đồn biên phòng, trong đó 08 đồn trên biển (đồn 4, 6, 10, 16, 20, 24, đồn
cảng cửa khẩu Hòn Gai, đồn cảng cửa khẩu Cửa Ông) và 10 đồn trên đất liền (đồn
3, 5, 7, 11, 15, 19, 23…)
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Kiểm sát viên tham gia điều tra với vai trò
kiểm sát tư pháp, thực hành quyền công tố. Thực tiễn cho thấy, những đóng góp
§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

22

với hoạt động điều tra tội phạm nói chung, tội phạm giết người nói riêng của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh và các kiểm sát viên là rất quan trọng. Nó giúp
cho quá trình điều tra vụ án đảm bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật.
Các chủ thể khác hỗ trợ hoạt động điều tra
Đây là các cơ quan và những người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 gồm có các cơ quan giám định tư pháp và giám định
viên, cơ quan giám định pháp y và các giám định viên pháp y. Thực tế cho thấy,
các cơ quan giám định và các giám định viên thuộc các cơ quan này đã có những
đóng góp rất quan trọng vào việc phát hiện thu thập những chứng cứ chứng minh
tội phạm giết người và người thực hiện hành vi phạm tội. Hoạt động của những chủ
thể nêu trên luôn tuân theo quy định của pháp luật, dưới sự chủ trì của Cơ quan
điều tra, Điều tra viên. Các kết luận của cơ quan giám định và giám định viên đảm
bảo tính khách quan, độc lập. Trong hệ thống chủ thể này thường xuyên tham gia
vào hoạt động điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh,
trong điều tra án giết người có nhóm kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và
trung tâm giám định pháp y tỉnh…
Mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra chuyên trách và các chủ thể
khác tham gia điều tra.
Đây cũng là một trong những trọng tâm của công tác tổ chức hoạt động điều
tra. Việc khảo sát thực tế cho thấy về cơ bản mối quan hệ này đảm bảo cả về hình
thức và nội dung, nên đã có những đóng góp tích cực góp phần nâng cao tỷ lệ điều
tra tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Sự phối hợp bao gồm giữa
lực lượng điều tra chuyên trách với các lực lượng khác trong ngành Công an tham
gia hoạt động này. Bên cạnh đó, một mối quan hệ phối hợp khác là quan hệ giữa
lực lượng điều tra chuyên trách với lực lượng khác ngoài ngành Công an như nêu
trên gồm có Bộ đội biên phòng, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh. Trong một số vụ án
cụ thể còn nảy sinh cả yêu cầu thực hiện hợp tác quốc tế giữa Công an tỉnh Quảng
Ninh với Công an tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc.
Có thể đưa ra một nhận xét chung về cơ bản công tác tổ chức hoạt động điều
tra với các nội dung cụ thể nêu trên trong điều tra tội phạm giết người của Cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh đã được thực hiện khá tốt. Tuy nhiên,
§µo Duy Thµnh



Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

23

trong một số trường hợp, ở một số vụ án vấn đề tổ chức hoạt động điều tra đã bộc
lộ những thiếu sót, tạo ra các vướng mắc. Kết quả dẫn đến nhiều vụ án còn tồn
đọng không được giải quyết triệt để gây nhức nhối trong dư luận. Mới đây nhất như
vụ án chị Nguyễn Thị Duân và con bị sát hại tại huyện Vân Đồn vào tháng 9 năm
2006.19 Quá trình điều tra vụ án đã xác định được đối tượng nghi vấn. Tuy nhiên,
do công tác tổ chức điều tra lỏng lẻo, bị lôi cuốn vào những vụ việc khác đã dẫn
đến việc đối tượng nghi vấn không được tập trung đấu tranh, đã gây ra một vụ án
mạng khác cũng đặc biệt nghiêm trọng và bị quần chúng nhân dân bắt giữ, sau đó
mới làm rõ được thủ phạm sát hại mẹ con chị Nguyễn Thị Duân.
2.2.2. Trang thiết bị, kinh phí phục vụ hoạt động điều tra
Điều tra tội phạm giết người không chỉ đòi hỏi sự đầu tư về nhân lực mà còn
đòi hỏi sự đầu tư rất lớn về vật lực. Đặc biệt với một địa bàn rộng, hiểm trở ở nhiều
vùng như tỉnh Quảng Ninh, đòi hỏi sự đầu tư về vật chất, trang thiết bị phục vụ
công tác điều tra tội phạm nói chung, điều tra tội phạm giết người nói riêng còn bức
xúc hơn. Qua khảo sát thực tế thấy vấn đề đầu tư trang thiết bị, phương tiện cho
công tác điều tra, đặc biệt là hoạt động điều tra trọng án trong đó có tội phạm giết
người luôn nhận được sự quan tâm kịp thời của lãnh đạo Công an tỉnh Quảng Ninh,
của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Ghi nhận thực tế thấy hiện tại Công an tỉnh đã đầu tư 03
xe chuyên dụng phục vụ công tác khám nghiệm hiện trường, 03 xe chuyên dụng
phục vụ công tác chuyên chở đối tượng bị bắt giữ (ở cấp tỉnh). Một số các thiết bị
kỹ thuật hình sự mới đã được đầu tư, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động kỹ
thuật hình sự, khám nghiệm tử thi và giám định pháp y tử thi.
Tuy nhiên, so với những yêu cầu của hoạt động điều tra tội phạm nói chung,
tội phạm giết người nói riêng, trang thiết bị và kinh phí phục vụ điều tra vẫn chưa

đáp ứng được một cách đầy đủ yêu cầu thực tế, điều đó vượt khỏi khả năng của địa
phương. Đơn cử hàng năm có hàng trăm vụ cần phải giám định hoá sinh nhằm xác
định độc tố để kết luận nguyên nhân chết. Với yêu cầu giám định này, các cơ quan
giám định của tỉnh Quảng Ninh không thể trả lời được, do vậy việc giám định lại
phải phụ thuộc vào cơ quan giám định Trung ương. Vấn đề đặt ra là không phải
những khó khăn về yếu tố con người mà khó khăn về thiết bị. Nếu được quan tâm
hơn, các cơ quan giám định tỉnh Quảng Ninh hoàn toàn có thể giải quyết được
19

Hồ sơ vụ án giết người từ 2002 đến 2006

§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

24

những yêu cầu giám định tương tự, từ đó góp phần chủ động trong phát hiện thu
thập chứng cứ, chứng minh tội phạm. Mặt khác, hoạt động điều tra tội phạm giết
người rất phức tạp, khó khăn, những cán bộ trực tiếp tham gia hoạt động này luôn
phải đối mặt với những gian khổ, nhọc nhằn, nguy hiểm. Cho dù như vậy nhưng họ
không được phụ thêm một khoản chi phí nào ngoài số tiền bồi dưỡng Điều tra viên
120.000 đồng/tháng, đây cũng là thực tế cần được xem xét, giải quyết, bởi lẽ số tiền
bồi dưỡng của kiểm sát viên, thẩm phán thường cao gấp đôi hoặc hơn thế với tiền
bồi dưỡng của Điều tra viên.
2.3. Quy trình điều tra tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
2.3.1. Hoạt động điều tra ban đầu
- Công tác tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác về tội phạm
Thực tiễn cho thấy việc tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm giết người của

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh thường diễn ra theo trình tự
như sau: công dân, các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội sau khi phát hiện có người
chết không rõ nguyên nhân thường báo tin tới Công an cơ sở cấp xã, phường. Tiếp
nhận tin báo này, qua kiểm tra xác minh sơ bộ Công an cấp xã, phường báo tin về
Công an cấp huyện. Công an cấp huyện tiếp tục báo tin về trực ban hình sự của Cơ
quan điều tra. Cá biệt cũng có trường hợp ngay sau khi phát hiện ra vụ việc chết
người, người phát hiện đã báo tin ngay về Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh.
Khảo sát việc xử lý tin báo, tố giác về tội phạm của Cơ quan Cảnh sát điều
tra Công an tỉnh Quảng Ninh thấy nó cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát huy vai trò
ý nghĩa và công tác điều tra. Trong rất nhiều vụ án do tin báo, tố giác đến cơ quan
có thẩm quyền nhanh chóng, chính xác, việc xử lý thông tin kịp thời đã giúp cho
công tác điều tra, khám phá được thực hiện thuận lợi, phát hiện, bắt giữ chính xác
đối tượng. Trong một số vụ án mặc dù những thông tin ban đầu đến Cơ quan điều
tra rất muộn so với thời điểm vụ án xảy ra, nhưng do việc xử lý thông tin thận
trọng, tỉ mỉ và chính xác nên chỉ sau một thời gian ngắn chủ thể điều tra đã ra được
các quyết định tố tụng quan trọng, có ý nghĩa định hướng rõ ràng với công tác điều
tra vụ án đối tượng. Tuy vậy, không có nghĩa là vấn đề tiếp nhận tin báo, tố giác về
tội phạm giết người của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh không còn
những thiếu sót, vướng mắc tồn tại, những biểu hiện cụ thể của nó là:
§µo Duy Thµnh


Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi

25

Tin báo, tố giác về tội phạm đến được cơ quan có trách nhiệm xử lý không
kịp thời, thiếu chính xác.
Việc xử lý tin báo, tố giác về tội phạm của cơ quan có thẩm quyền không dứt
điểm, kéo dài, vi phạm thủ tục tố tụng do hết thời hạn sở hữu tin báo nhưng không

ra được các quyết định tố tụng cần thiết.
Một bộ phận cán bộ, chiến sĩ, nhận thức về vai trò ý nghĩa của công tác tiếp
nhận xử lý tin báo, tố giác về tội phạm không đầy đủ dẫn đến quá trình thực hiện
công tác này đã sai sót, gây ra các khó khăn cho cấp lãnh đạo, chỉ huy trong việc xử
lý thông tin. Ngay việc ghi tin báo tố giác về tội phạm vào sổ nhận tin thấy không
được đầy đủ, người tiếp nhận tin cũng chưa đưa ra được những câu hỏi cần thiết
cho người cung cấp tin v.v...
- Công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và hoạt động điều
tra tại hiện trường
Hoạt động khám nghiệm hiện trường, tử thi và điều tra tại hiện trường vụ án
giết người của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh được tiến hành
trên cơ sở các quy định pháp luật, nghiệp vụ gắn với những đặc điểm về yếu tố địa
bàn. Thành phần cứng của lực lượng tham gia hoạt động này là Phòng Cảnh sát
điều tra tội phạm về trật tự xã hội (đội điều tra trọng án), Phòng kỹ thuật hình sự;
Tổ chức giám định pháp y tỉnh Quảng Ninh; Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Ninh; Công an địa phương nơi có vụ án xảy ra. Trường hợp vụ án xảy ra ở
vùng biển hay biên giới, cửa khẩu, thành phần tham gia điều tra tại hiện trường còn
có thêm lực lượng Bộ đội biên phòng nếu thấy cần thiết. Trong rất nhiều vụ án giết
người được điều tra làm rõ cho thấy hoạt động khám nghiệm hiện trường, tử thi và
điều tra hiện trường đã làm rõ ngay vụ án. Trở lại vụ án Trưởng Nhì Múi, 11 tuổi bị
hiếp, giết ngày 14 tháng 05 năm 2002 tại xã Quảng Đức, huyện Hải Hà. Sau 03
ngày kể từ khi vụ án xảy ra, Cơ quan điều tra mới tiếp nhận được tin báo về vụ việc
để tiếp cận hiện trường, nạn nhân lúc này đã được chôn cất. Sau khi nắm tình hình
từ thân nhân người bị hại và các nhân chứng, Cơ quan điều tra đã quyết định cho
khai quật tử thi, việc khám nghiệm tử thi xác định nạn nhân bị hiếp, giết. Với sự tỉ
mỉ và thận trọng cùng chuyên môn cao, giám định viên pháp y đã thu được mẫu
tinh trùng của thủ phạm trong ổ bụng nạn nhân. Việc khám nghiệm tại nơi vụ án
§µo Duy Thµnh



×