Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC VIỆT NAM VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở HUYỆN AN LÃO, TỈNH BÌNH ĐỊNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.15 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ VÀ QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC

TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT
CÁC DÂN TỘC TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC
VIỆT NAM VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG
KHỐI ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở HUYỆN AN LÃO, TỈNH BÌNH ĐỊNH

NGÀNH SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

Sinh viên thực hiện
Giảng viên hướng dẫn

: Nguyễn Văn Giới
: Th.S Lê Văn Lợi

BÌNH ĐỊNH – 2016


1

1.Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời Hồ Chí Minh đã khẳng định “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Đại đoàn kết là một
nội dung lớn xuyên suốt trong tư tưởng cũng như hoạt động thực tiễn
của Hồ Chí Minh. Theo Người, lực lượng và phương diện đoàn kết gồm
một hệ thống rộng lớn: đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp, các đảng
phái, các tôn giáo trong xã hội, với cả kiều bào nước ngoài và đoàn kết


quốc tế...Trong đó, đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam là một trong những vấn đề được Người quan tâm hàng đầu. Và
bản thân Người là hiện thân của tinh thần đoàn kết ấy.
Hồ Chí Minh là người đã dày công xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc và ra sức chăm lo cho cuộc sống đồng bào các dân tộc trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám
(1945) thành công, Hồ Chí Minh đã cho tổ chức Hội nghị đại biểu các
dân tộc thiểu số để đồng bào thực hiện quyền bình đẳng về chính trị và
các quyền lợi khác cũng như trách nhiệm đối với đất nước. Tại Hội này,
Người đã nhấn mạnh rằng, các dân tộc được tự do bày tỏ nguyện vọng
và phải cố gắng để cùng giành cho bằng được độc lập hoàn toàn, tự do
và hòa bình.
Chính nhận thức rõ vai trò, vị trí và tầm quan trọng của các
dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam đối với sự nghiệp chung
của đất nước mà Hồ Chí Minh đã rất quan tâm, chăm lo xây dựng,
củng cố và phát triển khối đoàn kết giữa các dân tộc. Người thường
biểu dương truyền thống tốt đẹp và những đóng góp to lớn của các
dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam không chỉ trong công
cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm mà cả trong xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc.
Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng và Nhà nước
không thể không phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng miền
núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Do vậy, Đảng ta rất quan tâm


2

đến vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về đoàn kết các dân tộc trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam vào việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn

dân tộc nói chung và các dân tộc thiểu số nói riêng. Tiếp nối tư tưởng
của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, Đảng ta xem đoàn kết các
dân tộc thiểu số là vấn đề quan trọng trong quá trình xây dựng và phát
triển đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã
nêu: “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng
xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy
bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất quán của Đảng và
Nhà nước ta”[7, tr. 17].
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu thực hiện
chính sách dân tộc trong thời kì đổi mới là: Thực hiện chính sách bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi
điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát
triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư
tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải
phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc
thiểu số.
Như vậy, trong quá trình đổi mới Đảng ta luôn xác định xây dựng
khối đoàn kết dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam là đường lối
chiến lược, là nguồn sức mạnh, là động lực quan trọng nhằm phát huy
sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, giữ vững độc lập, chủ quyền thống
nhất Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Huyện An Lão là một huyện miền núi của tỉnh Bình Định, có
nhiều dân tộc thiểu số. Việc phát triển của huyện không thể tách rời sự
phát triển của cộng đồng dân cư này. Trong đó, xây dựng khối đoàn kết
các dân tộc thiểu số có thể nói là vấn đề mang tầm chiến lược. Vì vậy,
nghiên cứu “Quan điểm Hồ Chí Minh về đoàn kết các dân tộc trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam và vận dụng vào việc xây dựng khối



3

đoàn kết các dân tộc thiểu số ở huyện An Lão, tỉnh Bình Định” là
cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có những công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan đến đề
tài. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau:
Về sách đã xuất bản:
- PGS.Phùng Hữu Phú (chủ biên), GS.Vũ Dương Ninh, PGS.Lê
Mậu Hãn, PTS.Phạm Xanh (1995): “Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí
Minh”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác phẩm nghiên
cứu quá trình hình thành chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, chiến
lược đại đoàn kết trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong xây dựng
và bảo vệ xã hội chủ nghĩa (CNXH), những nội dung cơ bản của chiến
lược đại đoàn kết trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc thống nhất.
- Nguyễn Khánh Bật, Bùi Đình Phong, Hoàng Trang (đồng chủ
biên): “Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản Nghệ An.
Tác phẩm đã trình bày cơ sở hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ mới.
- Lê Văn Yên (1998): “Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết
quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc”, Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân, Hà Nội. Tác phẩm đã phân tích và chứng minh quá trình hoạt
động của Hồ Chí Minh trong xây dựng mối quan hệ đoàn kết giữa
phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cách mạng vô sản quốc tế
nhằm mục tiêu độc lập, tự do cho nhân dân Việt Nam. Một số quan
điểm cơ bản và giá trị thực tiễn của chiến lược đoàn kết Hồ Chí Minh.

- Nguyễn Bích Hạnh, Nguyễn Văn Khoan, (1999): “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết và Mặt trận đoàn kết dân tộc”, Nhà xuất
bản Lao động, Hà Nội. Tác phẩm đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết và Mặt trận đoàn kết dân tộc. Phần phụ lục giới thiệu biên


4

niên hoạt động xây dựng Mặt trận đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
- Tư tưởng đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc trong thời kỳ đổi mới (2004), Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Tác phẩm đã tuyển chọn những bài tham luận trong Hội
thảo Khoa học có chủ đề về tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh và
sự vận dụng tư tưởng ấy trong quá trình Cách mạng Việt Nam.
- Hoàng Trang (2005): “Toàn dân đoàn kết chống Mỹ, cứu nước
dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Trong tác phẩm này đã trình bày lý luận về tư tưởng đại đoàn
kết của Hồ Chí Minh sự vận dụng linh hoạt nhuần nhuyễn quan điểm cơ
bản, những giải pháp và nguyên tắc của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí
Minh một cách sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
- Đặng Nghiêm Vạn: “Quan hệ tộc người trong một quốc gia dân
tộc”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993. Tác phẩm nêu lên
mối quan hệ giữa cộng đồng tộc người và cộng đồng chính trị - xã hội
trong lịch sử, dân tộc Việt Nam và các dân tộc ở Việt Nam.
- Vũ Văn Hậu (2009): “Củng cố mối quan hệ dân tộc và tôn giáo
ở Việt Nam trong bối cảnh hôm nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tác
phẩm đã trình bày một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ
giữa dân tộc và tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh; quan hệ giữa dân
tộc và tôn giáo ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, củng cố quan hệ

giữa dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam và tác động toàn cầu hóa đối với
đời sống tôn giáo ở nước ta hiện nay.
Về đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án:
- Nguyễn Xuân Thông (1995): “Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ
Chí Minh và sự thể hiện trong cách mạng Việt Nam thời kỳ 1930 –
1954”, luận án tiến sĩ sử học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
1995. Ở luận án này, tác giả đã sử dụng phương pháp logic - lịch sử làm
phương pháp chủ đạo, để tìm hiểu và chứng minh tư tưởng đại đoàn kết
của Hồ Chí Minh được Người trực tiếp vận dụng vào thực tiễn cách


5

mạng Việt Nam, kể từ thời niên thiếu của Người (1930) đến khi cách
mạng thành công (1954). Đây là luận án có giá trị khoa học và có ý
nghĩa thực tiễn cao đối với việc xây dựng và củng cố khối trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
giai đoạn hiện nay.
- Khuất Thị Hoa: “Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh được
thể hiện trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 1954)”, Luận án tiến sĩ sử học, Học Đại đoàn kết toàn dân viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000. Luận án đã đi sâu tìm hiểu chiến lược
đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được thể hiện trong suốt cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược giai đoạn 1945-1954. Từ đó
rút ra ý nghĩa phương pháp luận về vấn đề Đại đoàn kết toàn dân và
những giải pháp có ý nghĩa chiến lược quan trọng nhằm chỉ đạo việc
củng cố, xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
- Vũ Thị Thuỷ (2006): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân
tộc và thực hiện bình đẳng dân tộc tỉnh Thái Nguyên trong sự nghiệp
đổi mới, luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí

Minh học”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trên cơ
sở nghiên cứu tình hình thực tiễn về việc thực hiện quyền bình đẳng
giữa các dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên, tác giả Vũ Thị Thuỷ đã đưa ra
những nhóm giải pháp hữu hiệu, có tính thuyết phục nhằm củng cố và
xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững mạnh ở tỉnh Thái
Nguyên, để tăng cường việc thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc ở
tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
- Ngô Minh Hoàng (2007): “Đại đoàn kết dân tộc thiểu số trong
tư tưởng Hồ Chí Minh với việc xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc
thiểu số Tây Nguyên hiện nay”, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị,
chuyên ngành Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh. Luận văn đã nghiên cứu tình hình thực tiễn ở địa phương Tây
Nguyên, đặc biệt sau sự kiện bạo động chính trị, gây chia rẽ khối đoàn


6

kết giữa đồng bào kinh với đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, từ
đó đưa ra những nhóm giải pháp hữu hiệu, có tính thuyết phục nhằm
củng cố và xây dựng khối Đại đoàn kết dân tộc thiểu số ở địa bàn Tây
Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
- Trần Phú Quý (2008): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc thiểu số và vận dụng vào giải quyết vấn đề dân tộc trên địa bàn tỉnh
Gia Lai”, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí
Minh học, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Tựu trung, các luận án, luận văn với những nội dung nghiên cứu
kể trên là nguồn tư liệu rất bổ ích cho tôi tham khảo trong quá trình thực
hiện luận văn của mình ở khía cạnh vận dụng tư tưởng đoàn kết các dân
tộc thiểu số của Hồ Chí Minh trong thực tiễn thời kỳ đổi mới đất nước.
Về báo và tạp chí:

- Nguyễn Thị Nga: “Phát huy tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của
Hồ Chí Minh trong điều kiện nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản số
105 - 2005.
- Lê Hoàng, Văn Nghiệp Chúc: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, báo Nhân dân, số ra ngày
15/5/2005.
- Phạm Thế Duyệt: “Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại đoàn kết dân
tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất”, báo Nhân dân ra ngày 16/5/2005.
Những đề tài khoa học, luận án, luận văn, các tác phẩm và một số
bài báo, tạp chí trên đã thể hiện kết quả nghiên cứu tổng thể toàn diện
và sâu sắc về tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Mặt khác,
những công trình này giúp làm sáng tỏ và phong phú tư tưởng ấy của
Người, đồng thời làm tiền đề cơ sở hết sức quan trọng cho việc nghiên
cứu về vấn đề xây dựng khối đoàn kết các dân tộc thiểu số ở huyện An
Lão, tỉnh Bình Định trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở tìm hiểu và hệ thống hoá những nội dung cơ bản của


7

tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết các dân tộc thiểu số và qua sự khảo
sát, nghiên cứu thực trạng khối đoàn kết các dân tộc thiểu số huyện An
Lão, tỉnh Bình Định hiện nay, đề xuất một số giải pháp chủ yếu tăng
cường xây dựng khối đoàn kết các dân tộc huyện An Lão, tỉnh Bình
Định.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hoá nội dung cơ bản quan điểm đoàn kết dân tộc thiểu
số của Hồ Chí Minh.

- Xác định các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc xây dựng
khối đoàn kết các dân tộc thiểu số và phân tích làm rõ thực trạng khối
đoàn kết các dân tộc thiểu số ở huyện An Lão, tỉnh Bình Định trong giai
đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu tăng cường xây dựng khối
đoàn kết các dân tộc thiểu số ở huyện An Lão, tỉnh Bình Định hiện nay
dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận
4.1. Đối tượng
- Những quan điểm của Hồ Chí Minh về đoàn kết các dân tộc
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam thể hiện trong các tác phẩm, bài nói,
bài viết và hoạt động thực tiễn của Người.
- Thực tiễn xây dựng khối đoàn kết các dân tộc thiểu số và kết quả
thực hiện chính sách dân tộc của huyện An Lão, tỉnh Bình Định trong giai
đoạn 2010- 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết có nhiều nội dung, đối
tượng đoàn kết rất rộng, bao gồm các giai cấp, tầng lớp,….Khóa luận
này chỉ nghiên cứu quan điểm Hồ Chí Minh về đoàn kết các dân tộc
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
- Thực trạng công tác xây dựng khối đoàn kết các dân tộc ở
huyện An Lão, tỉnh Bình Định trong giai đoạn 2010 – 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của khóa luận


8

5.1. Cơ sở lý luận
Quán triệt những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đại đoàn kết dân tộc và xây dựng

khối đại đoàn kết dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận biện chứng duy vật: trên quan điểm duy vật
và phương pháp biện chứng, xem xét các quan điểm của Hồ Chí Minh
về đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
- Phương pháp logic-lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp,
khảo sát thực tiễn, so sánh, … để làm rõ nội dung của khóa luận.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận.
- Góp phần hệ thống hóa, làm đa dạng và phong phú thêm những
hiểu biết về vấn đề đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Góp phần đề xuất các biện pháp nhằm tăng cường xây dựng khối
đoàn kết các dân tộc thiểu số huyện An Lão.
- Khóa luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu và giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhà trường.
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1: Quan điểm Hồ Chí Minh về đoàn kết các dân tộc
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Chương 2: Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về đoàn kết các dân
tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam vào việc xây dựng khối đoàn kết
các dân tộc ở huyện An Lão, tỉnh Bình Định hiện nay.


9

CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC
TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC VIỆT NAM
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
Dân tộc là một cộng đồng vững chắc về mặt lịch sử của những

con người, là hình thức phát triển xã hội được hình thành trên cơ sở
cùng có chung đời sống kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ và những đặc điểm
về văn hóa, kinh tế, ý thức, tâm lý riêng của mình.
Dân tộc thiểu số là dân tộc có số dân ít trong một quốc gia đa dân
tộc, có nơi sinh sống và cư trú vùng núi, có những nét đặc trưng riêng
về kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán, tạo nên sự đa dạng cho
quốc gia dân tộc. Mỗi dân tộc có những đặc điểm riêng biệt nhưng đều
là thống nhất với nhau tạo nên một quốc gia đa dân tộc.
Đoàn kết là sự kết thành một khối, thống nhất ý chí, không mâu
thuẫn, chống đối nhau vì cùng mục đích chung nào đó và đồng thời
mang tính đa dạng phong phú giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn
giáo.
Đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết toàn
dân rộng rãi tất cả những người Việt Nam không phân biệt giai cấp, giới
tính, tôn giáo, thành phần xã hội, đa số hay thiểu số, ở trong nước hay
đang sinh sống ở nước ngoài, miễn là người đó có tinh thần yêu nước.
1.2. NỘI DUNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN
KẾT CÁC DÂN TỘC TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC VIỆT
NAM
Đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam là một
vấn đề xuyên suốt, nhất quán nổi bật lý luận cũng như hoạt động thực
tiễn của Hồ Chí Minh. Từ truyền thống đoàn kết của dân tộc, với nhãn
quan chính trị thiên tài, Hồ Chí Minh đã khơi dậy và phát huy cao độ
sức mạnh của cả dân tộc, từ lực lượng công – nông – trí thức cách
mạng, đến các tầng lớp trung gian, các dân tộc trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam, để tạo thành lực lượng tổng hợp trong cuộc kháng chiến


10


chống giặc ngoại xâm và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ người dân tộc thiểu số và coi đây là nhân tố có tính quyết định để
thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc của Đảng ta, là yêu cầu khách
quan của cách mạng Việt Nam. Vấn đề cán bộ vốn đã có vị trí đặc biệt
quan trọng, đối với miền núi và vùng dân tộc thiểu số càng quan trọng
hơn nhiều vì ở vùng núi dân trí thấp; ít người biết tiếng phổ thông và
chữ phổ thông, việc tuyên truyền phổ biến chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước lại ít dùng tiếng dân tộc cho nên khả năng tiếp thu của
các đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế, ở miền núi và vùng dân tộc
thiểu số, vai trò của cán bộ địa phương có ý nghĩa quyết định trực tiếp.
Nhân dân các dân tộc hiểu biết, tin tưởng vào Đảng và Nhà nước thông
qua những cán bộ đảng viên, tận tâm, gắn bó với dân. Người coi cán bộ
là gốc của mọi công việc cho nên cần đặc biệt chú trọng đến đào tạo và
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, đồng thời tăng cường đoàn
kết giữa cán bộ tại chỗ và cán bộ ở nơi khác đến, làm động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Hồ
Chí Minh coi cán bộ là những người đem chính sách của Đảng và Nhà
nước giải thích cho quần chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình
hình của nhân dân báo cho Đảng và Nhà nước hiểu rõ đặt chính sách
cho phù hợp, đúng đắn.
1.3. NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT CÁC
DÂN TỘC TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC VIỆT NAM
Theo Hồ Chí Minh các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam phải bình đẳng cả quyền và nghĩa vụ trên tất cả các lĩnh vực:
kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội. Quyền bình đẳng đó còn phải được
hiện thực hóa, thể chế hóa trong mọi lĩnh vực hoạt động của Đảng và
Nhà nước.
Quan điểm Hồ Chí Minh về đoàn kết các dân tộc trong cộng
đồng dân tộc Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong di sản tư

tưởng của Người. Hồ Chí Minh luôn coi đoàn kết các dân tộc trong


11

cộng đồng dân tộc Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với
cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã xây dựng khối đoàn kết các
dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam dựa trên những giá trị
truyền thống dân tộc và văn hóa nhân loại, đặc biệt là những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là truyền thống yêu nước, nhân văn
được hun đúc qua lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm, đấu
tranh không mệt mỏi khắc phục thiên tai, chống giặc ngoại xâm của
một quốc gia nhỏ bé, đa dân tộc, đa tôn giáo.
Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về đoàn kết các dân tộc
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, Đảng ta xác định: Đoàn kết các
dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách
mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... Đó là quan
điểm đúng đắn, không chỉ là định hướng cho một giai đoạn cách
mạng mà đồng thời làm cho quan điểm đoàn kết các dân tộc trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam của Hồ Chí Minh trở thành sức mạnh
vật chất to lớn cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


12

CHƯƠNG 2

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT
CÁC DÂN TỘC TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC
VIỆT NAM VÀO VIỆC XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT CÁC
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở HUYỆN AN LÃO, TỈNH BÌNH ĐỊNH
2.1. HUYỆN AN LÃO VÀ TÌNH HÌNH DÂN TỘC THIỂU
SỐ Ở HUYỆN AN LÃO
Vài nét về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội
An Lão có diện tích khoảng 696,6 km2 với số dân khoảng 31.332
người, mật độ bình quân 49,9 người/1km 2 (năm 2015). An Lão là huyện
vùng cao của tỉnh Bình Định, trung tâm huyện lị cách thành phố Quy
Nhơn khoảng 130 km về hướng Đông – Nam. Ranh giới hành chính
phía Đông giáp huyện Hoài Nhơn, phía Tây giáp Vĩnh Thạnh, phía
Nam giáp huyện Hoài Ân thuộc tỉnh Bình Định, phía Bắc giáp huyện
Ba Tơ thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Bốn phía của huyện bao bọc bởi nhiều
dãy núi nên còn được gọi là thung lũng An Lão.
An Lão là huyện miền núi khó khăn, tương đối rộng, địa hình
phức tạp, dân cư sống chủ yếu bằng nghề nông, diện tích sản xuất nông
nghiệp không lớn, điều kiện canh tác phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên,
cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi …, còn nhiều khó khăn đã ảnh hưởng
đến phát triển kinh tế – xã hội của huyện, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, đặc biệt là khu vực các xã
vùng sâu, vùng xa.
2.2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT CÁC
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở HUYỆN AN LÃO
Thứ nhất, Quán triệt quan điểm của Đảng và của tỉnh về định
hướng chính sách chung nhằm tăng cường xây dựng khối đoàn kết các
dân tộc thiểu số, Huyện ủy, cấp ủy các cấp đã tăng cường lãnh đạo,
nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền thông



13

qua vai trò Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân. Trong lãnh đạo triển
khai thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước của huyện, các cấp chính quyền từ huyện đến cơ sở thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh; chủ
động xây dựng các chương trình, đề án, kế hoạch cụ thể và phát triển
kinh tế - xã hội theo hướng đẩy mạnh cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp,
nông thôn theo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với tình hình
đặc điểm của mỗi xã khác nhau.
Thứ hai, Thực hiện sự mong mỏi của Người, Đảng và Nhà nước
ta đã quan tâm, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân
tộc thiểu số và miền núi, nhằm từng bước đưa miền núi tiến kịp miền
xuôi, xóa bỏ dần sự chênh lệnh giữa các dân tộc, các vùng miền hướng
tới mục tiêu đoàn kết, bình đẳng dân tộc, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội. Các quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về
phát triển kinh tế - xã hội cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi được
Huyện ủy và Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân An Lão triển khai
kịp thời, đúng đối tượng và phát huy được hiệu quả, góp phần phát triển
kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ ba, Thực hiện Nghị quyết Đại hội XVIII Đảng bộ huyện An
Lão, trong những năm qua được sự chỉ đạo, giúp đỡ của các ngành, các
cấp, Ủy ban nhân dân huyện An Lão đã xây dựng thành những kế hoạch
cụ thể để chủ động triển khai thực hiện công tác bảo tồn, phát huy bản
sắc văn hóa các dân tộc, giá trị các di tích lịch sử và phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
Huyện đã chú trọng giữ gìn và phát huy những giá trị truyền
thống mang đậm bản sắc của các dân tộc thiểu số, tiêu biểu là kho tàng
văn hóa đồng bào H’rê, Bana ở miền núi và khu vực đồng bào Kinh.

Trong đó, có rất nhiều loại hình văn hóa đặc sắc như Nhạc cụ, cồng
chiêng, những bài dân ca cổ, những làn điệu dân ca bài chòi, những điệu
lý, hò, vè…được sáng tác, lưu truyền và thể hiện trong sinh hoạt hằng


14

ngày, trong những dịp lễ, tết…
Về những tồn tại trong việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc
thiểu số ở huyện An Lão
Thứ nhất, sự phối hợp của huyện ủy với Ủy ban nhân dân huyện
trong việc ban hành, triển khai thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị nhằm
tăng cường xây dựng đại đoàn kết toàn dân nói chung và khối đoàn kết
các dân tộc thiểu số nói riêng chưa có sự thống nhất, áp dụng còn chậm,
và đôi khi còn chồng chéo. Ngoài ra, các chính sách phát triển kinh tế xã hội đối với vùng miền núi chưa đạt hiệu quả tối đa, nhiều chính sách
chưa chưa phù hợp với thực tế của huyện.
Thứ hai, nhìn chung kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số của
huyện còn chậm phát triển, chưa đồng đều giữa các xã trong huyện, nhiều
nơi lúng túng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tốc độ chuyển dịch cơ cấu
kinh tế chậm. Đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc thiểu số có sự
chênh lệch giữa các vùng, các xã chính vì thế dẫn đến tâm lý tự ti dân tộc,
giao lưu về kinh tế, văn hóa, giáo dục, chính trị giữa các dân tộc còn hạn
chế. Ảnh hưởng đến tình đoàn kết giữa các dân tộc thiểu số trên địa bàn
huyện An Lão..
Thứ ba, một số bản sắc tốt đẹp trong văn hóa của các dân tộc thiểu
số bị mai một dần. Việc lưu giữ những di sản phi vật thể của đồng bào
H’rê và Ba na trên địa bàn huyện còn nhiều hạn chế, kết quả chưa cao bởi
vì những di sản văn hóa đó thường chỉ nằm trong trí nhớ của những già
làng, trưởng bản cao tuổi nên trí nhớ cũng nhớ không minh mẫn nên việc
ghi chép, sưu tầm rất trở ngại. Bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc có

hiện tượng xói mòn bởi sự lan truyền của văn hóa hiện đại đã và đang
xâm nhập vào đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số. Đặc biệt, thanh
niên hiểu biết về phong tục, tập quán, văn hóa của dân tộc mình chưa
nhiều làm giảm lòng tự hào dân tộc.


15

2.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN
KẾT CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở HUYỆN AN LÃO
Thứ nhất, chú trọng xây dựng củng cố hệ thống chính trị và
công tác đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở miền núi
Đảng và Nhà nước cần quan tâm tăng cường xây dựng khối
đại đoàn kết các dân tộc thiểu số
Đảng bộ và Ủy ban nhân dân huyện cần phải xây dựng và quán
triệt các chính sách dân tộc một cách sâu rộng để tăng cường, củng cố
khối đoàn kết đến các dân tộc thiểu số. Nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của hệ thống chính trị về vị trí, nhiệm vụ của công tác xây
dựng khối đoàn kết các dân tộc thiểu số. Xem việc quán triệt và
thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng là nhiệm vụ thường
xuyên và quan trọng của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền,
Mặt trận, đoàn thể.
Phát huy vai trò của cán bộ dân tộc thiểu số
Một trong những chính sách quan trọng giúp cho xây dựng
khối đoàn kết các dân tộc thiểu số của huyện An Lão là chú trọng
phát huy vai trò của cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở miền
núi. Đây là khâu rất quan trọng quá trình xây dựng khối đoàn kết
các dân tộc.
Tăng cường sức mạnh của các tổ chức đoàn thể và người có uy
tín trong đồng bào dân tộc thiểu số

Khuyến khích, động viên lực lượng cán bộ có đủ năng lực, phẩm
chất tốt đến công tác ở vùng dân tộc, nhất là các địa bàn xung yếu về
chính trị, an ninh, quốc phòng. Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo để bổ sung
cán bộ từ các đối tượng là thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân
sự làm nguồn cán bộ bổ sung cho cơ sở, nghiên cứu sửa đổi tiêu chuẩn
tuyển dụng, bổ nhiệm và các cơ chế, chính sách đãi ngộ cán bộ công tác
ở vùng dân tộc và miền núi, nhất là những cán bộ công tác lâu năm xã
miền núi, xã vùng cao của huyện. Có thể khẳng định, phát huy công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người đồng bào dân tộc thiểu số là một nhân


16

tố quan trọng trong việc xây dựng đoàn kết các dân tộc thiểu số ở huyện
An Lão.
Thứ hai, tăng cường khai thác mọi nguồn lực phát triển kinh
tế và xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số ở huyện An Lão.
Tập trung sức đầu tư phát triển chăm lo đời sống vật chất cho
đồng bào dân tộc thiếu số là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân, các cấp, các ngành. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần ban hành những
chính sách phù với đặc điểm của từng dân tộc, từng địa bàn xã cư trú.
Đồng bào các dân tộc thiểu số là người thực hiện chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ngay trên địa bàn cư trú
của mình. Có thể thấy rằng đầu tư phát triển kinh tế và xã hội vùng các
dân tộc là nhiệm vụ có ý nghĩa rất quan trọng trong xây dựng khối đoàn
kết các dân tộc thiểu số.
Thứ ba, Nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ và xây dựng đời
sống văn hoá tinh thần phong phú, lành mạnh cho đồng bào dân tộc
thiểu số ở huyện An Lão.
Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới công tác giáo dục nâng cao dân

trí cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở huyện An Lão, xây dựng mạng
lưới y tế cơ sở, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các
dân tộc.
Một là, cần khắc phục những mặc cảm, tự ti với vốn văn hóa,
trình độ xã hội của dân tộc mình địa phương mình, dẫn đến tâm lý
hướng ngoại. Một số người chỉ coi những giá trị văn hóa, nếp sống và tổ
chức xã hội của người Kinh, người phương Tây mới coi là hiện đại, tiên
tiến. Để xóa dần khoảng cách giữa các dân tộc giúp phát huy sức mạnh
khối đoàn kết các dân tộc trên địa bàn huyện An Lão.
Hai là, cần được thông tin về thời sự, chính sách, những thành
tựu văn hóa tiên tiến đến đồng bào các dân tộc thiểu số. Trên địa bàn
huyện, chủ yếu là đồng bào dân tộc H’rê và Ba na vì vậy cần bảo tồn và
phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng
ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào


17

dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thông thạo tiếng nói, chữ
viết của dân tộc mình.
Ba là, việc dạy và tiếng nói, chữ viết của đồng bào dân tộc thiểu
số trong nhà trường phải thực hiện tốt theo quy định của Chính phủ.
Phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu ở các xã và
địa phương. Thực hiện các chính sách để bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa, lập quy hoạch dự án, dự án tôn tạo, bảo tồn những di tích lịch
sử - văn hóa đặc biệt quan trọng. Có thể nói đến như Di tích vụ thảm sát
làng Đá Bàn, Di tích trận chiến đấu chống càn ở gộp đá An Quang gắn
với Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Đinh Ruối.
Bốn là, gìn giữ và phát huy các di sản phi vật thể của đồng bào
H’rê và Ba na như hát Mon, Ta lêu, các bài chòi, các phong tục tập

quán, các bài chiêng. Huyện cũng tăng cường có hoạt động sinh hoạt
văn hóa, văn nghệ thể dục thể thao, lễ hội văn hóa cấp huyện và cấp xã
để giúp cho đồng bào dân tộc thiểu số được tham gia và hưởng ứng.
Năm là, thực hiện có hiệu quả các hoạt động văn hóa thông tin,
tuyên truyền ở cơ sở, tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các
chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số. Bên
cạnh đó có chính sách đầu tư thích đáng cho các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, cho những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật dân
tộc. Xây dựng làng văn hóa, thực hiện nếp sống văn minh trong việc
cưới, việc tang và lễ hội.


18

KẾT LUẬN
Quan điểm Hồ Chí Minh về đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam là một trong những bộ phận cấu thành tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đây là vấn đề mà Người đặc biệt quan tâm, dày công xây
dựng và củng cố trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình.
Người là tấm gương tiêu biểu cho tinh thần đoàn kết ấy. Quan điểm
đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam của Hồ Chí
Minh trở thành cơ sở lý luận vững chắc cho việc hoạch định đường lối,
chính sách dân tộc của Đảng. Khối đoàn kết các dân tộc trong cộng
đồng dân tộc Việt Nam được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là
hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay.
An Lão là một huyện miền núi của tỉnh Bình Định có nhiều dân
tộc thiểu số cùng chung sống. Xây dựng khối đoàn kết các dân tộc thiểu
số trên địa bàn huyện là vấn đề quan trọng hàng đầu trong công cuộc
phát triển kinh tế-xã hội của huyện. Nhiều năm qua, công tác xây dựng
khối đoàn kết này có nhiều thành tựu đáng phấn khởi, tác động tích cực

đến việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều hạn chế. Quan điểm đoàn kết các dân
tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam của Hồ Chí Minh là cơ sở lý
luận, là phương châm để Đảng bộ huyện An Lão tiếp tục phát huy
thành quả, khắc phục hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng khối
đoàn kết các dân tộc thiểu số, hướng tới mục tiêu cải thiện và nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần đem lại “cơm ăn, áo mặc, học hành”
cho đồng bào dân tộc trên toàn huyện.
Khóa luận này, đã nêu một số giải pháp, hy vọng sẽ đóng góp
được phần nào trong việc xây dựng khối đoàn kết các dân tộc thiểu số ở
An Lão, góp phần xây dựng huyện An Lão ổn định và phát triển toàn
diện, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu chung “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ công bằng, văn minh” mà Đảng đã đề ra ./.



×