Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Mẫu hình nhà Nho hành đạo Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.63 KB, 71 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử văn học dân tộc, chủ đề yêu nước là chủ đề lớn, xuyên suốt
hàng nghìn năm, từ văn học dân gian sang văn học thành văn. Với văn học thành
văn thì lịch sử của nó có độ dài hàng nghìn năm. Với các thời kỳ khác nhau của lịch
sử, cảm hứng yêu nước được biểu hiện ở nhiều góc độ riêng biệt. Do những đặc thù
và phẩm chất đó nên việc nhận diện và khảo sát nó luôn là cần thiết và cũng chưa
bao giờ là kết thúc.
Nhà Nho hành đạo nửa cuối thế kỷ XIX là loại hình nhà Nho tiêu biểu của
văn học yêu nước cuối mùa trung đại. Đặc biệt, ở giai đoạn giao thời, loại hình nhà
Nho này có sự chuyển biến về mô hình nhân cách và phương thức biểu hiện nhân
cách trong văn chương. Sự thay đổi này đánh dấu những rạn vỡ cơ bản của ý thức
hệ tư tưởng chính thống cùng với sự lụi tàn của giai cấp phong kiến. Thời kì này nổi
bật lên một số tác giả với nhiều đóng góp đáng kể cho văn hóa dân tộc trong lĩnh
vực thơ văn như Nguyễn Đình Chiểu với hai truyện thơ nôm nổi tiếng là Lục Vân
Tiên và Dương Từ - Hà Mậu, ngoài ra còn nhiều bài thơ và văn tế khác thể hiện tư
tưởng nhân nghĩa, yêu nước yêu dân của ông; thơ văn Nguyễn Thông thể hiện tấm
lòng ưu ái đối với những người xấu số, sự quan tâm đến nghề làm ruộng và gắn bó
với đời sống của nông dân. Ông ca ngợi và xót thương những người hy sinh trong
cuộc chiến đấu chống Pháp, mà nổi bật và bao trùm là tấm lòng yêu mến quê hương
mà ông phải lìa bỏ vì không chịu sống trên đất kẻ thù đã chiếm đóng như trong Việt
sử thông giám cương mục khảo lược, Ngọa du sào tập… ngoài ra Phan Văn Trị,
Đào Tấn cũng đều là những nhà Nho yêu nước có đóng góp rất nhiều cho thơ văn
thời bấy giờ.
Kiểu tác giả nhà Nho hành đạo ở giai đoạn chuyển tiếp này biểu hiện độc
đáo trong văn chương. Đến nay, vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu và khai thác
trên bình diện rộng, vì vậy cần có những công trình nghiên cứu, khảo sát, xác định
một cách cụ thể, hệ thống trên nhiều phương diện. Đặc biệt, nghiên cứu về mẫu
hình nhà Nho hành đạo nửa cuối thế kỉ XIX sẽ đóng góp rất nhiều cho việc nghiên


cứu về văn học trung đại Việt Nam. Góp phần làm sáng rõ sự đổi thay của thời đại,


2

xã hội, tư tưởng và quan niệm thẩm mỹ của nhà Nho về những giá trị truyền thống
vốn tồn tại hàng ngàn năm cùng các triều đại phong kiến.
Với đề tài này đối tượng, mục tiêu nghiên cứu chủ yếu của tôi là khảo sát
“Mẫu hình nhà Nho hành đạo trong văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX”. Đặc biệt đi
sâu vào khảo sát một số nhà Nho hành đạo tiêu biểu như Nguyễn Đình Chiểu, Phan
Văn Trị, Nguyễn Thông, Đào Tấn… để thấy được nội dung, phương pháp sáng tác,
đề tài, nghệ thuật, tư tưởng mà tác giả thể hiện trong thơ văn của mình đồng thời để
hiểu sâu sắc hơn về nền văn học dân tộc. Loại hình nhà Nho hành đạo (giai đoạn
cuối thế kỷ XIX ) gồm những tác giả không chỉ giữ vị trí quan trọng trong lịch sử
văn học dân tộc, mà còn giữ vị trí quan trọng trong chương trình văn học ở phổ
thông. Do đó, nghiên cứu kiểu tác giả nhà Nho hành đạo trong văn học Việt Nam
nửa sau thế kỷ XIX là góp phần bổ sung vào quá trình nghiên cứu loại hình tác giả
văn học.
2. Lịch sử vấn đề
Qua quá trình nghiên cứu tài liệu để hỗ trợ cho việc thực hiện đề tài “Mẫu
hình nhà Nho hành đạo cuối thế kỉ XIX”, người viết đã tìm hiểu được một số công
trình có những đề cập liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu đáng lưu ý như sau:
Năm 1999, Nhà xuất bản Giáo Dục đã cho xuất bản tác phẩm Nho giáo và
văn học Việt Nam Trung cận đại do Trần Đình Hượu làm chủ biên, tác phẩm đưa ra
những cái nhìn khái quát về một thời kỳ lịch sử trong văn học nhìn theo quan điểm
cụ thể lịch sử từ một góc độ: ảnh hưởng Nho giáo và nhà Nho đối với văn học.
Công trình còn đề cập đến nhiều tên tuổi, nhiều tác phẩm, nhiều hiện tượng văn học
trung cận đại Việt Nam như:
-“Bàn về Nguyễn Đình Chiểu - người nghệ sĩ từ và trong truyện Nôm”, ở đây
ta thấy Trần Đình Hượu đã khai thác Nguyễn Đình Chiểu trên nhiều phương diện ta

dễ thấy cái nhìn của ông đối với một nhà Nho hành đạo như Nguyễn Đình Chiểu và
thơ văn của ông.
-“Vấn đề xuất xử của nhà Nho và sự phát triển trong thơ tam nguyên yên
đổ”. Bàn về vấn đề xuất xử trong thơ Nguyễn Khuyến, “Xuất xử - ra làm quan hay
không ra làm quan – vốn là vấn đề lớn thường làm các nhà Nho băn khoăn suy
nghĩ.” [4, 204].


3

Trong cuốn Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Trần Đình Sử
cũng điểm qua việc phân loại tác giả nhà Nho. Ông khẳng định nhà Nho sự tồn tại
của ba loại hình nhà Nho trong lịch sử văn học: “Việc phân chia nhà Nho thành các
kiểu nhà Nho hành đạo, nhà Nho ẩn dật, nhà Nho tài tử có ý nghĩa để nghiên cứu
loại hình tác giả văn học trung đại. Đặc biệt nhà Nho tài tử là một hiện tượng độc
đáo.” [8, 52]
Trong quá trình kế thừa và tiếp nối, phát triển các kiểu loại tác gia ở chặng
đường văn học thế kỷ XVIII – XIX, có thể nói trong ba loại hình nhà Nho thì nhà
Nho hành đạo có sức hấp dẫn riêng. Với công trình Loại hình học tác giả văn học:
Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam [12], Trần Ngọc Vương đã tiến sâu vào lãnh
địa khảo sát loại hình tác giả văn học trung đại Việt Nam. Thông qua việc xác lập
các phương diện cơ bản của loại hình nhà Nho tài tử, ông đã ít nhiều bàn đến những
tố chất của nhà Nho hành đạo trong tương quan với nhà Nho tài tử. Tuy nhiên, trong
công trình nghiên cứu ấy vẫn còn một số vấn đề còn bỏ ngỏ làm cơ sở đề các công
trình tiếp sau phát triển theo hướng nghiên cứu loại hình tác giả nhà Nho, đặc biệt là
nhà Nho hành đạo.
Năm 2014, Nguyễn Đình Thu, trong tạp chí Nghiên cứu văn học, số 12, tr.
92-100. Với bài viết Kiểu tác giả nhà Nho hành đạo Đào Tấn. Trên cơ sở những
vấn đề xoay quanh cuộc đời, sự hình thành hệ tư tưởng của Đào Tấn, tác giả đã đi
sâu hơn về đạo đức, phẩm chất của nhà Nho hành đạo Đào Tấn, một nhà Nho cuối

thế kỉ XIX. Tác giả cho rằng “Càng yêu nước thương dân bao nhiêu, Đào Tấn càng
phê phán, tố cáo lũ vua quan thối nát bấy nhiêu. Đó cũng là một biểu hiện khác
trong con người nhà nho hành đạo còn giữ được lương tâm trong cảnh “trời đất
nổi cơn gió bụi”” [10; 92 – 100]. Và đây cũng là một đặc điểm lớn của các nhà Nho
thời kì nửa cuối thế kỉ XIX.
Tuy nhiên vấn đề này hiện nay vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ và chưa
được giới nghiên cứu quan tâm một cách công phu, toàn diện. Vì vậy, chúng tôi
quyết định đi sâu nghiên cứu đề tài “Mẫu hình nhà Nho hành đạo Việt Nam nửa
cuối thế kỉ XIX” để có cái nhìn tổng quát hơn về mẫu hình những nhà Nho hành
đạo Việt Nam giai đoạn này.


4

3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tôi tập trung nghiên cứu mẫu hình nhà Nho hành đạo
nửa cuối thế kỉ XIX, cụ thể là về phương diện nội dung và phương diện nghệ thuật
trên cơ sở so sánh đối chiếu với văn học thế kỉ trước và những đánh giá, nhận xét
của các nhà nghiên cứu bàn về mẫu hình nhà Nho hành đạo thế kỉ này.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các sáng tác thơ văn yêu nước ở cuối thế kỷ XIX, đặc biệt là sáng tác của
các tác giả như Phan Văn Trị, Nguyễn Đình Chiểu, Đào Tấn, Nguyễn Xuân Ôn,
Nguyễn Quang Bích…
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp khảo sát, thống kê
Chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê các tác gia và tác phẩm thuộc khuôn
khổ nhà Nho hành đạo trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX để nêu bật những đặc
sắc về nội dung và hình thức nghệ thuật trong tác phẩm của họ.
4.2. Phương pháp hệ thống

Khóa luận sử dụng phương pháp hệ thống trong quá trình nghiên cứu để tạo
sự logic, chặc chẽ, khoa học.
4.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Để thực hiện đề tài này cùng với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu
trên, chúng tôi còn sử dụng phương pháp phân tích các vấn đề về tư tưởng, ngôn
ngữ, giọng điệu của các nhà Nho sử dụng trong các tác phẩm của mình. Từ đó khái
quát, tổng hợp những đặc điểm chung của họ để đưa ra mẫu hình chung của các nhà
Nho hành đạo ở nửa cuối thế kỉ XIX .
Trên cơ sở đã tìm đọc, sưu tầm các nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài và
qua quá trình tập trung nghiên cứu, khảo sát tổng thể vấn đề để lần lượt đi vào giải
quyết từng vấn đề đã đặt ra ở mục đích nghiên cứu.
5. Đóng góp của khóa luận
Đề tài nghiên cứu này góp thêm tiếng nói trong việc nghiên cứu mẫu hình
nhà Nho hành đạo trong lịch sử văn học dân tộc. Ở nửa cuối thế kỷ XIX, nhà Nho
hành đạo mang một dáng dấp riêng so với các nhà Nho hành đạo ở các giai đoạn


5

trước. Đề tài đi sâu chỉ ra những khác biệt này để thấy những đóng góp tích cực của
họ đối với tiến trình văn học dân tộc.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa
luận được kết cấu thành 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề tổng quan của đề tài
Chương 2: Mẫu hình nhà Nho hành đạo trong văn học Việt Nam nửa cuối thế
kỉ XIX - nhìn từ phương diện nội dung
Chương 3: Mẫu hình nhà Nho hành đạo trong văn học Việt Nam nửa cuối thế
kỉ XIX - nhìn từ phương diện hình thức nghệ thuật



6

CHƯƠNG 1
NHŨNG VẤN ĐỀ TỔNG QUAN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khuynh hướng nghiên cứu loại hình tác giả nhà Nho trong văn học
trung đại Việt Nam
1.1.1. Nghiên cứu văn học theo loại hình
Theo từ điển Tiếng Việt của Hồ Ngọc Đức “Loại hình là phần tử thuộc một
loại, trong đó các tính chất riêng đều bình thường nhưng các tính chất chung của
loại thể hiện rõ nét và thu hút sự chú ý tới mức có thể dùng làm cơ sở cho việc
nghiên cứu cả loại” Như vậy nói ngắn gọn loại hình nói chung là các sự vật, hiện
tượng có chung một tính chất hay đặc trưng nào đó thường xuất hiện trong các loại
hình nghệ thuật một cách đa dạng mà ở đây là trong văn học.
Theo Từ điển bách khoa Xô viết do A.M.Prokhorov chủ biên thì khái
niệm “loại hình” có 3 nét nghĩa cơ bản: “Thứ nhất là hình thái, dạng, loại của
một cái gì đó có những đặc điểm chung thuộc về bản chất, là kiểu mẫu, là mô
hình của một cái gì đó. Thứ hai là đơn vị phân chia từ hiện thực được nghiên cứu
theo phương pháp loại hình học. Thứ ba là con người có những đặc điểm tính cách
nào đó, là đại diện tiêu biểu của một nhóm người, ví như một tầng lớp, một giai
cấp, một dân tộc hay một thời đại”.[Tr.1324]. Trong tiếng Việt, nét nghĩa này
thường được biểu thị bằng khái niệm “điển hình”. Trong Mấy vấn đề thi pháp văn
học trung đại Việt Nam Trần Đình Sử đã xác định“Việc xác lập loại hình văn học
trung đại cho phép xác định được kiểu các mối quan hệ qua lại của các nên văn
học trung đại với nhau” [8; 71].
Nghiên cứu văn học là một chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn
mà đối tượng nghiên cứu là nghệ thuật ngôn từ. Ở thời điểm hiện tại, nghiên cứu
văn học là tên gọi chung cho nhiều bộ môn nghiên cứu tương đối độc lập, tiếp cận
cùng một đối tượng nghiên cứu ở những góc độ giống nhau. Nghiên cứu văn học,
theo truyền thống, bao gồm ba bộ môn chính đó là lý luận văn học, lịch sử văn

học, phê bình văn học. Tuy nhiên đến khoảng những năm 70 của thế kỷ 20 đã xuất
hiện bộ môn “Phương pháp luận nghiên cứu văn học”. Theo đó nghiên cứu văn học
theo phương pháp loại hình đã được giới nghiên cứu thế giới đề xuất và ứng dụng.
Ở nước ta, phương pháp nghiên cứu này cũng được nhiều học giả vận dụng và đạt


7

được thành tựu đáng kể như Trương Tửu với Nhà Nho tài tử Nguyễn Công Trứ,
Trần Đình Hượu với Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Trần Ngọc
Vương với Loại hình học tác giả văn học nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam…
Như vậy nghiên cứu văn học theo loại hình là tiếp cận, giải thích, đánh giá,
tìm hiểu về một loạt các sự vật, hiện tượng có bản chất, kiểu mẫu giống nhau từ đó
rút ra các đặc điểm riêng của loại hình văn học đó.
1.1.2. Khuynh hướng nghiên cứu loại hình tác giả văn học
Tác giả văn học là người làm ra tác phẩm nghệ thuật ngôn từ như các bài thơ,
bài báo, cuốn sách, vở kịch, các tác phẩm văn học... Tên tác giả được nêu cùng tên
tác phẩm, họ là chủ thể của hoạt động sáng tạo nghệ thuật, là phạm trù khó xác định
đối với người nghiên cứu. Có thể hình dung hai bình diện giới hạn của phạm trù này.
Ở bình diện xã hội học lịch sử, tác giả là một con người xã hội, thuộc một giới, một
nhóm xã hội nhất định, có vai trò văn hóa xã hội nhất định trong các giai đoạn lịch
sử. Ở bình diện thẩm mỹ - nghệ thuật tác giả là những dấu ấn văn hóa nhân cách hiện
diện ở sáng tác. Khảo sát tác giả ở bình diện kể trước là một đề tài lớn của sử học.
Khảo sát tác giả ở bình diện kể sau là đề tài của nghiên cứu văn học, nó đòi hỏi tập
trung chú ý vào tài liệu sáng tác hơn là phương diện con người ngoài sáng tác.
Khoa học nghiên cứu loại hình các vấn đề của văn học đã phát triển rất mạnh
mẽ và có được những thành tựu xuất sắc trên thế giới, đặc biệt là ở Liên Xô trước
đây và Liên bang Nga hiện nay. Trong đó, hướng nghiên cứu loại hình tác giả đã
cho thấy ưu thế rất lớn của nó trong việc khám phá các giá trị văn học, nhất là việc
khám phá loại hình tác giả thời trung đại nói chung, thời trung đại phương Đông nói

riêng. Trong nghiên cứu văn học, bên cạnh sự nghiên cứu riêng về từng tác giả văn
học, cũng thường thấy phạm trù “loại hình tác giả” được nhấn mạnh, như loại hình
nhà Nho hành đạo, loại hình nhà Nho tài tử trong văn học Trung đại Việt Nam, loại
hình nghệ sĩ ẩn dật trong văn học Nhật Bản v.v.. Những loại hình tác giả văn học đó
thường có dấu hiệu chung về cách nhìn và cách lựa chọn thái độ sống, tư thế ứng
xử, quan điểm thẩm mỹ, xu hướng nghệ thuật…
Như vậy khuynh hướng nghiên cứu loại hình tác giả là nghiên cứu theo chiều
biến chuyển, quá trình hoạt động, phát triển, thiên hướng của các loại hình tác giả
văn học theo thời gian.


8

1.1.3. Khuynh hướng nghiên cứu loại hình tác giả nhà Nho trong văn học
trung đại Việt Nam
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều đã đề cập đến Nho giáo, mối
quan hệ giữa nó với văn học và kiểu tác giả nhà Nho. Tuy nhiên, mức độ nông sâu
có khác nhau. Các loại hình tác giả nhà Nho đang còn là một hiện tượng văn học
chứa đựng nhiều vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu. Ở Việt Nam, hướng áp dụng
phương pháp nghiên cứu loại hình tác giả văn học thời trung đại đã được khởi
xướng khá sớm với những nghiên cứu của nhà Hán học Lê Thước, Trương Tửu…
nhưng thực sự bắt đầu với những công trình của PGS. Trần Đình Hượu và sau đó là
những nghiên cứu của Nguyễn Lộc, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn, Nguyễn
Hữu Sơn, Vũ Thanh, Nguyễn Kim Sơn,… Những nghiên cứu này đã mở ra một
hướng đi khá lí thú trong việc tìm hiểu sáng tác của tác giả nhà Nho từ phương diện
loại hình nhân cách đến văn chương.
Nếu như ở thế kỷ X – XIV, kiểu tác giả nhà Nho vẫn còn mờ nhạt trong các
sáng tác thì sang thế kỷ XIV – hết thế kỷ XIX, họ đã thực sự độc chiếm văn đàn.
Đây là một loại hình tác giả quan trọng nhất, giữ vai trò chủ lực trên văn đàn, chiếm
số lượng đông đảo cả về đội ngũ lẫn tác phẩm tiêu biểu. Kiểu tác giả nhà Nho ngoài

những nét chung còn có những nét riêng gắn liền với đặc điểm tác giả. Từ kiểu tác
giả nho gia, các nhà nghiên cứu đã phân chia nhà nho thành ba loại: nhà nho hành
đạo, nhà nho ẩn dật, nhà nho tài tử. Việc phân chia như vậy có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc nghiên cứu loại hình tác gia văn học trung đại. Đặc biệt là nhà nho
tài tử, một hiện tượng văn học độc đáo đang cần phải khám phá.
Đối với nhà nho, sau khi đỗ đạt sẽ thi hành đạo lý Nho gia. Ở đây, vấn đề xuất
và xử sẽ tương ứng với hai thái độ hành và tàng. Ở đó luôn có sự chuyển đổi, họ
không nhất định gắn cuộc đời mình vào chỉ một trong hai khả năng nói trên. Từ
đây, ta có thể khái quát hai loại hình nhà nho hành đạo và ẩn dật là hai loại hình nhà
nho chính thống và có thể luôn thay đổi cho nhau.
Thời kì văn học trung đại ở Việt Nam các tác giả nhà Nho đã chịu sự ảnh
hưởng sâu sắc của ý thức hệ Nho giáo. Trong văn học chủ yếu nổi lên ba vấn đề lớn
đó là văn học phải gắn bó với vận mệnh của đất nước và nhân dân, văn học phải là
phương tiện thể hiện chí, tâm, đạo của kẻ sĩ quân tử, đề cao hứng, thần và vẻ


9

đẹp cao, cổ, hùng, đạm, nhã, hậu. Đây là giai đoạn nở rộ các công trình sưu tập,
chỉnh lý thơ văn và các thi văn tập. Khuynh hướng nghiên cứu loại hình tác giả
cũng rẽ sang một hướng đi mới, bên cạnh những tác phẩm có lời bình ngắn đã xuất
hiện các tác phẩm nghiên cứu phê bình quy mô hơn. Với các tác giả như Trần Ngọc
Vương trong cuốn Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam xuất bản năm 1992 ; Phạm
Đan Quế với Truyện Kiều và các nhà Nho thế kỷ XIX tái bản 2001; Hoài Trân với
Cái kiêu của nhà Nho (Báo công an nhân dân) …
Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc và giữ vai trò độc tôn từ thế
kỷ XV đến XIX. Hơn hết, trong một thời gian dài ở Việt Nam, Nho giáo được xem
là là ý thưc hệ chính thống, một học thuyết đề cao con người về việc học tập, giáo
dục, sùng thượng văn hiến, lễ nhạc, thơ ca, âm nhạc. Nhà nước chuyên chế phong
kiến đề cao Nho giáo và dùng Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống, đồng thời

dùng khoa cử để chọn người có Nho học tổ chức bộ máy quan liêu. Nho giáo là hệ
tư tưởng chi phối tất cả những người có học thời phong kiến – họ cũng chính là chủ
thể của nền văn học trung đại. Cũng từ đây, một loại hình văn học, một loại hình tác
giả giữ vai trò chi phối gần suốt thời kỳ trung đại. Đó là kiểu tác giả Nho gia.
1.2. Những biến chuyển về chính trị, văn hóa, xã hội nửa cuối thế kỷ
XIX
1.2.1. Về chính trị
1.2.1.1. Sự xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta
Nửa cuối thế kỷ XIX, đất nước và dân tộc Việt Nam đã phải trải qua những
thử thách và khó khăn vô cùng to lớn, sự tồn vong của Tổ quốc đang bị đe dọa, giặc
ngoài từ phương Tây ập đến. Đế quốc thực dân Pháp nổ súng xâm lược, chúng đã
có ý đồ xâm chiếm nước ta từ lâu, ngay từ cuối thế kỉ XVIII nhưng âm mưu này
chưa thực hiện được. Mãi đến cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp lấy cớ triều đình nhà
Nguyễn đã bắn giết các giáo sĩ và ngăn chặn thông thương nên đã chính thức xâm
lược Việt Nam và thi hành chế độ chuyên chế, tước bỏ mọi quyền lực của chính
quyền phong kiến nhà Nguyễn, trực tiếp nắm mọi quyền hành và thực hiện chính
sách “chia để trị”, thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, thẳng tay đàn áp và khủng bố,
thực hiện nhiều chính sách bóc lột nước ta về kinh tế, văn hóa, chính trị…


10

Trong nông nghiệp chúng đẩy mạnh việc cướp đoạt ruộng đất để lập các đồn
điền. Trong công nghiệp Pháp tập trung đầu tư vốn để khai thác tài nguyên khoáng
sản than và kim loại, ngoài ra còn đầu tư vào một số nghành khác như xi măng,
điện, chế biến gỗ… Thực dân Pháp còn xây dựng hệ thống giao thông vận tải đường
bộ, đường sắt để tăng cường bóc lột kinh tế và phục vụ mục đích quân sự, chính
sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Về thương nghiệp, Pháp độc chiếm thị
trường Việt Nam, hàng hóa của Pháp nhập vào Việt Nam chỉ bị đánh thuế rất nhẹ
hoặc được miễn thuế, nhưng đánh thuế cao hàng hóa các nước khác. Thương nghiệp

nằm trong tay người Hoa, thuốc phiện được đưa vào ào ạt và gạo bị đưa đi góp phần
đẩy nông nghiệp vào đường hẻm.
Pháp còn tiến hành đề ra các thứ thuế mới bên cạnh các loại thuế cũ, nặng
nhất là thuế muối, thuế rượu, thuế thuốc phiện… Nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp đình trệ, tài chính kiệt quệ, đời sống nhân dân đói khổ, lương thực
thiếu trở thành yếu tố kích thích xã hội rối loạn. Nông dân đói kém bỏ đi, xiêu tán,
một bộ phận trở thành giặc cướp. Giặc cướp và khởi nghĩa không chỉ làm cho triều
đình và nhân dân tăng cường đối đầu, mà còn khiến nông dân không thể yên ổn làm
ăn. Hậu quả là nông nghiệp sút kém, nhân dân nổi loạn khắp nơi, mâu thuẫn xã hội
lên cao, bất ổn. Khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Mục đích các chính sách trên
của thực dân Pháp là nhằm vơ vét sức người, sức của của nhân dân Đông Dương.
Thực dân Pháp phải mất gần 40 năm mới đặt được ách thống trị trên đất nước ta và
non một thế kỷ nhân dân ta phải sống dưới sự cai trị của Pháp.
Trong điều kiện xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX thì sự kiện Pháp xâm lược
Việt Nam là sự kiện quan trọng, nổi bật, chi phối các sự kiện khác và có ảnh hưởng
rất lớn đến mọi lớp người trong xã hội. Nó đã gây ra những chấn động mạnh, tạo ra
nhiều sự mâu thuẫn căng thẳng giữa các giai cấp và sự phân hóa trong tầng lớp trí
thức phong kiến sâu sắc. Dưới tác động của chính sách cai trị, chính sách kinh tế,
văn hóa, giáo dục thực dân, làm cho xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa
ngày càng sâu sắc. Đây cũng chính là cơ sở, tiền đề để tạo nên các hệ tư tưởng khác
nhau trong tầng lớp trí thức phong kiến mà cụ thể là nhà Nho
1.2.1.2 Cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống Pháp


11

Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta đã đứng lên cùng nhau
đấu tranh chống Pháp quyết liệt, bảo vệ đất nước. Giai cấp phong kiến lúc đầu còn
chống đối nhưng ngày càng yếu ớt và cuối cùng thì nhượng bộ, thỏa hiệp, đầu hàng
thực dân Pháp. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa

của nông dân chống triều đình phong kiến đầu hàng và chống Pháp xâm lược.
Chẳng hạn như cuộc khởi nghĩa của Ba Cai Vàng, Đoàn Hữu Trưng, Trần Tấn…
Phong trào đấu tranh yêu nước của các sĩ phu, các lãnh binh đã lãnh đạo
nhân dân chống Pháp dưới ngọn cờ Cần vương cũng nổ ra rầm rộ kéo dài từ Bình
Định, Quãng Bình ra đến Hưng Yên, Thái Bình, Tây Bắc. Các cuộc khỡi nghĩa tiêu
biểu như Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Nguyễn Thiện Thuật,
Hoàng Hoa Thám… Nếu như cách đó nhiều thế kỉ, Trần Quốc Tuấn căm giận bọn
cướp nước “đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”, Nguyễn Trãi căm giận ở vị thế
của một người làm cha mẹ dân có tấm lòng bao dung, đau xót nhìn lũ giặc “nướng
dân đen trên ngọn lửa hung tàn. Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”, thì Nguyễn
Đình Chiểu tuy bị mù không ra trận được nhưng ngòi bút của ông vẫn luôn là một
vũ khí vô cùng sắc bén, giai đoạn này ông có một số bài như Văn tế nghĩa sĩ lục
tỉnh trận vong, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Thơ khóc Trương Định...thể hiện lòng yêu
nước, căm thù quân cướp nước ở chính tấm lòng của một người “dân ấp, dân lân”
bình thường nhất mà cũng sâu sắc nhất.
“Phạt cho đến người hèn, kẻ khó, thâu của quay treo; tội chẳng tha con nít,
đàn bà, đốt nhà bắt vật. Kể mười mấy năm trời khốn khó, bị khảo, bị tù, bị đày, bị
giết, trẻ già nghe nào xiết đếm tên; đem ba tấc lưỡi hơn mõn bỏ liều, hoặc sông,
hoặc biển, hoặc núi, hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt”
(Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh)
Phong trào chống Pháp tuy sôi nổi, đều khắp nhưng không có lực lượng hậu
thuẫn làm nòng cốt nên cuối cùng phong trào đấu tranh chống Pháp bị thất bại. Mất
nước là do nhà Nguyễn phản động, không làm tròn trọng trách mà lịch sử giao phó,
sợ dân hơn sợ giặc chứ đó không phải là hệ quả tất yếu. Vì thế cuối thế kỉ XIX,
nước ta trở thành thuộc địa của Pháp, dân ta phải làm thân phận nô lệ cho chúng.
Mặc dù thất bại nhưng cũng chứng tỏ được tinh thần yêu nước nồng nàn, tinh thần
dũng cảm của nhân dân, khẳng định phong trào đấu tranh mang tính dân tộc sâu sắc.


12


Có thể nói, đây là giai đoạn lịch sử đau thương mà hùng tráng, có nhiều hy sinh mất
mát nhưng lại vẻ vang và đáng tự hào nhất, giai đoạn khổ nhục nhưng vô cùng vĩ
đại của lịch sử dân tộc
1.2.2. Sự phân hóa tư tưởng của các tầng lớp trong xã hội
Sự kiện năm 1858 Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại bán đảo Sơn Trà –
Đà Nẵng đã đánh dấu một cột mốc hết sức quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt
Nam. Cột mốc này không chỉ kết thúc thời trung đại, mở đầu thời kì cận đại mà còn
đánh dấu một bước ngoặt của lịch sử Việt Nam. Trước những biến cố lớn lao, xã hội
có sự phân hóa tư tưởng sâu sắc giữa các tầng lớp. Mỗi lớp người trong xã hội
mang sắc thái tâm lý riêng, một thái độ chính trị riêng.
Trong hàng ngũ giai cấp phong kiến, giai cấp thống trị cũ của xã hội, thái độ
của họ không giống nhau nhưng tâm lý chủ yếu của tầng lớp này là đầu hàng, thỏa
hiệp. Triều đình Huế nhu nhược, đánh giặc mà không hề biết tình hình của giặc nên
dẫn đến lúng túng, một phần do có sẵn mâu thuẫn với nhân dân nên chỉ chống Pháp
một cách yếu ớt rồi tìm cách thỏa hiệp, cắt đất dâng cho giặc rồi từng bước đầu
hàng, bọn Việt gian nhân đó càng tung hoành. Văn thơ yêu nước chống Pháp lúc
này đã vạch trần bộ mặt của bọn Việt gian bán nước , những luận điệu hèn nhát của
triều đình, bọn vua quan vô trách nhiệm. Nguyễn Đình Chiểu nhiều lần phản ánh
điều này trong tác phẩm của mình:
“Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này”
(Chạy giặc - Nguyễn Đình Chiểu)
Bài thơ là lời trách cứ, đòi hỏi đối với vua quan triều đình. Hay là tỏ nỗi căm
giận đối với những viên quan đã phản bội, chạy trốn, đầu hàng giặc:
“Khi bình làm hại dân ta,
Túi tham vơ nhặt chẳng tha miếng gì.
Đến khi hoạn nạn gian nguy,
Mắt trông ngơ ngác, chơn đi gập ghềnh...”
(Hà Thành chính khí ca – Ba Giai)

Bên cạnh đó có một số sĩ phu, trí thức phong kiến thấy rõ quyền lợi của
phong kiến “cũng chỉ là quyền lợi làm tay sai cho đế quốc”, nên họ đã tiếp thu


13

truyền thống yêu nước của dân tộc, sống gần gũi với nhân dân, hăng hái cùng với
nhân dân chống giặc, cùng với đội ngũ trí thức Nho học họ đã nhanh chóng giương
cao ngọn cờ đấu tranh trên địa hạt văn hóa, tư tưởng. Và thậm chí một bộ phận
trong số họ đã trở thành những lãnh tụ của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp như
chúng ta đã thấy ở giai đoạn 1885-1896. Trong các bài văn tế như Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc, Văn tế nghĩa sĩ Lục Tỉnh (Nguyễn Đình Chiểu);…Các bài điếu như
Điếu Trương Định, Điếu Phan Công Tòng (Nguyễn Đình Chiểu), Điếu Nguyễn Tri
Phương (Nguyễn Thiện Thuật)...; Bài ca cậu Ấm Ninh, Truyện Hồ Huân Nghiệp
(Nguyễn Thông)… Là những bài ca mang âm hưởng vừa thống thiết vừa hào hùng,
dựng lên tượng đài của các vị anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì bảo vệ đất nước.
Số khác là những nhà thơ, nhà văn, nhà trí thức yêu nước đã dùng ngòi bút
để chiến đấu, để nói lên tâm tư, nguyện vọng của mình trước cảnh nước mất, nhà
tan. Như trong Ngọc Đường thi văn tập, Nguyễn Xuân Ôn bày tỏ nỗi lòng phẫn
uất khi đất nước bị rơi vào tay giặc cùng đám tay sai cúi đầu trước quân thù.
Nguyễn Đình Chiểu với hai tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp và Dương Từ - Hà
Mậu ra đời ngay sau khi Nam Kì thất thủ, dưới ngòi bút sắc xảo của mình, ông răng
đe cảnh cáo bọn Việt gian làm tay sai cho giặc và hy vọng một ngày nào đó thời thế
thay đổi, thì ta sẽ đuổi bọn giặc ngoại xâm đi mang lại yên bình cho nhân dân.
Tầng lớp trí thức lúc bấy giờ cũng bị phân hóa trên nhiều phương diện và họ
đã hết sức lúng túng khi đối diện với kẻ thù mới đến từ nền văn minh phương Tây.
Đó là do tầng lớp trí thức Nho học Việt Nam đã gắn bó chặt chẽ với chế độ phong
kiến, thu hẹp nhãn quan tư duy của họ và khiến họ phản ứng với mọi sinh hoạt văn
hóa phi Khổng giáo. Họ có thể kiên cường chống giặc (từ phương Bắc) nhưng trong
sinh hoạt văn hóa vẫn chưa tách rời khỏi văn minh phương Bắc. Sự đối diện với

thực dân Pháp đã khiến cho người trí thức Đại Nam đứng trước một “ngã tư đường”
với nhiều lựa chọn. Cũng một con người chúng ta có thể thấy họ có nhiều thái độ
khác nhau. Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn muốn đánh Pháp nhưng không chịu
canh tân đổi mới. Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ muốn hòa hoãn với Pháp
để có thời gian, sự ổn định để đổi mới đất nước. Điều này khiến việc phân loại trí
thức Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX gặp nhiều khó khăn.


14

Nhìn chung, giai đoạn này tầng lớp trí thức Việt Nam bị phân hóa sâu sắc.
Từ phương diện đối phó với thực dân Pháp các nhà Nho có sự băn khoăn giữa
“xuất” hay “xử”, nghĩa là “xử thế” cứu đời hay “xuất thế” ẩn dật sống đời thanh
thản, mà đại diện cho khuynh hướng “xuất” này là Nguyễn Thông, Phan Văn Trị,
đặc biệt là Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu có thời gian theo nghĩa quân
Trương Định nhưng sau do mù lòa nên về Bến Tre sinh sống. Dù cuộc sống nghèo
khó, bệnh tật nhưng ông kiên quyết giữ đạo Thánh hiền, không nhận lấy sự hỗ trợ
nào từ chính quyền Pháp. Đối lập với khuynh hướng “xuất thế”, bất hợp tác với
Pháp là khuynh hướng hợp tác với Pháp. Tuy nhiên chính trong khuynh hướng này
lại có những nhóm khác nhau: nhóm muốn dung hòa văn minh Đông - Tây để tiến
bộ và nhóm thực tâm làm tay sai của Pháp. Trương Vĩnh Kí, Huỳnh Tịnh Của,
Trương Minh Kí là những đại diện cho khuynh hướng muốn dung hòa Đông-Tây.
Sĩ Tải tiên sinh Trương Vĩnh Ký là một học giả lớn, một trong thập bát văn hào thế
kỷ XVIII của thế giới. Sở dĩ ông muốn hợp tác với Pháp là vì ông nhận ra cái thế
không thắng được họ thì sống chung với họ, tay nắm tay, dựa vào sự dìu dắt của họ
cho đến lúc đủ sức sánh vai cùng họ hòa nhập vào thế giới, cả cuộc đời ông hoạt
động vì học thuật, mong muốn xóa bỏ khoảng cách giữa hai nền văn minh PhápViệt mặc cho miệng lưỡi thế gian đàm tiếu. Nguyễn Đình Chiểu và Trương Vĩnh Kí
là hai con người cùng thế hệ, cùng một tâm tư (với dân tộc) nhưng lại đại diện cho
hai con đường, hai khuynh hướng và đứng ở hai vị thế khác nhau. Trong khi đó,
một bộ phận khác lại sẵn sàng làm tay sai cho Pháp như trường hợp của Tôn Thọ

Tường, Trần Bá Lộc, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân,… Điều đó phản ánh sự lúng
túng của tầng lớp trí thức Việt Nam khi đối diện với một kẻ thù mới đến từ một nền
văn minh xa lạ với trình độ sản xuất cao hơn một bậc, khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Sự phân hóa này mang tính chất lịch sử cụ thể. Đồng thời cũng thể hiện trong xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ, vai trò của người trí thức rất được xem trọng
Như vậy tầng lớp trí thức phong kiến đã có sự phân hóa từng bước thành ba
loại hình nhà Nho đó là nhà Nho hành đạo, nhà Nho ẩn dật và nhà Nho tài tử. Trong
cuốn Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại Trần Đình Hượu có sự phân biệt
giữa ba loại hình nhà Nho, sự phân hóa của ba loại hình “ Xét về mặt tác giả văn
học, hình như có một sự khác biệt rõ rệt giữa ba mẫu nhà Nho: người hành đạo,


15

người ẩn dật, và người tài tử. Người hành đạo và người ẩn dật là con sinh đôi, thay
thế nhau xuất hiện trong những tình thế khác nhau của xã hội nông thôn - cung
đình cố hữu. Còn người tài tử ra đời chậm, gắn với sự phát triển eo hẹp của đô thị
[5;53]. Vậy có thể hiểu, ba loại hình, ba mẫu nhà Nho, ba hình tượng văn học này
thực là ba phương thức sống, ba kiểu sáng tác, ba con người trong một con người,
ba khả năng hành xử trong một cuộc đời mỗi nhà Nho ở từng giai đoạn khác nhau
tuỳ theo khí chất từng người và điều kiện cho phép của môi trường xã hội.
Trong văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930, Lê Chí Dũng cho
rằng“ nhà Nho có ba cách sống: hành đạo là những người thi đỗ ra làm quan hay
dạy học là những nhà Nho ẩn dật và tài tử là những nhà Nho có cuộc sống phóng
túng” đúng theo mô hình tiến vi quan - đạt vi sư, và không cho rằng chỉ làm quan
mới là hành đạo.
Bên cạnh lực lượng Nho sĩ , nhiều tầng lớp mới xuất hiện như tư sản, tiểu tư
sản và vô sản, quyền lợi đối lập nhau. Giai cấp nông dân, số lượng đông đảo, bị áp
bức bóc lột nặng nề nhất, họ sẵn sàng hưởng ứng, tham gia cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc. Một bộ phận nhỏ mất ruộng đất vào làm việc trong các hầm mỏ,

đồn điền. Tầng lớp tư sản đã xuất hiện, có nguồn gốc từ các nhà thầu khoán, chủ xí
nghiệp, xưởng thủ công, chủ hãng buôn… bị chính quyền thực dân kìm hãm, tư bản
Pháp chèn ép. Giai cấp tư sản mới hình thành nên chưa đủ mạnh để chống lại tư sản
chính quốc, cũng chưa đủ sức để vươn cao ngọn cờ yêu nước. Tiểu tư sản thành thị,
bao gồm chủ các xưởng thủ công nhỏ, cơ sở buôn bán nhỏ, viên chức cấp thấp và
những người làm nghề tự do. Công nhân phần lớn xuất thân từ nông dân, làm việc
trong các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, lương thấp nên đời sống khố cực,
có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống giới chủ nhằm cải thiện đời sống. Giai cấp
vô sản hầu hết xuất thân từ giai cấp nông dân, giai cấp này lớn mạnh nhanh chóng
nhất là sau chiến tranh thế giới thứ I.
Như vậy trong xã hội Việt Nam lúc này có sự phân hóa giai cấp và phân hóa
tư tưởng rõ nét. Xã hội xuất hiện tầng lớp mới là tư sản và tiểu tư sản, đặc biệt là sự
phân hóa của tầng lớp Nho sĩ thành ba loại hình cơ bản nhà Nho hành đạo, nhà Nho
ẩn dật và nhà Nho tài tử.


16

1.2.3. Tình hình văn hóa, giáo dục
Triều đình tôn sùng Nho học, xem Nho giáo là quốc giáo, lợi dụng Nho giáo
là công cụ để thống trị xã hội. Các nhà tư tưởng Khổng, Mạnh, Trình…được xem là
những vị thánh. Và đó cũng là những vị thánh trong lòng các nhà Nho hành đạo thời
bấy giờ. Hệ thống tư tưởng Khổng - Mạnh thể hiện trên bốn mặt là triết học, đạo
đức, chính trị và giáo dục. Về triết học, Khổng Tử và Mạnh Tử ít quan tâm tới
nguồn gốc vũ trụ và đều tin vào thiên mệnh. Về đạo đức, Khổng Tử hết sức coi
trọng đạo đức vì đó là những chuẩn mực để duy trì trật tự xã hội theo đường lối đức
trị mà chính ông đề ra. Nội dung quan điểm đạo đức của Khổng Tử bao gồm nhiều
mặt như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng… Về chính trị, Khổng Tử chủ trương đường
lối trị nước phải dựa vào đạo đức, tức là đức trị. Về giáo dục chú trọng phương
châm giáo dục là học lễ trước học văn sau, học đi đôi với hành, học để vận dụng

vào thực tế.
Sách vở của họ là “thiên kinh địa nghĩa”. Học trò đi thi chỉ học thuộc lòng
một số câu, đoạn trong sách vở. Điều này làm hạn chế óc sáng tạo của con người,
chỉ tôn sùng một hệ tư tưởng duy nhất. Chính vì thế các tác phẩm văn học lúc này
chỉ xoay quanh những hệ tư tưởng đương thời, chưa có sự vượt thoát, đột phá về
mặt nội dung mà luôn mang nặng hệ ý thức Nho gia. Tuy nhiên cũng có một số ít
nhà Nho có có quan niệm tích cực hơn về thời đại, về con người, không tin tưởng
mù quáng nữa mà đã có thay đổi cho phù hợp. Như Nguyễn Đình Chiểu, tuy vẫn
mang hệ tư tưởng Nho gia nhưng ông lại không bị trói buộc trong sợi dây vô hình
đó. Trong thơ văn của mình, ông đã nói lên được nhiều điều về đạo lý có tính chất
muôn thuở như tình nghĩa giữa người với người, tình cha con, mẹ con, tình nghĩa vợ
chồng, bè bạn, tình yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người gặp khó khăn,
hoạn nạn…Tiêu biểu trong một số tác phẩm như Lục vân Tiên, Văn tế Trương Công
Định…
Ngoài Nho giáo thì Đạo giáo, Phật giáo và các tín ngưỡng khác cũng rất phát
triển. Binh tướng đều xem bổn mạng trước khi ra trận, trời hạn hán lâu ngày, các
triều thần lập đàn cầu đảo để được mưa… Điều đó lộ rõ được sự bảo thủ nặng nề
trong mọi hoạt động. Con người tin vào mệnh trời. Họ tin vào lực lượng siêu


17

hình có khả năng giải quyết mọi thành bại ở trên đời. Điều đó làm hạn chế sự cố
gắng của con người.
Đến năm 1919, Pháp vẫn duy trì chế độ giáo dục của thời phong kiến. Tư
tưởng con người quay về với nề nếp Nho gia, cổ hủ, có ảnh hưởng làm hạn chế sự
phát triển của văn học đương thời. Về sau, Pháp bắt đầu mở trường học mới nhằm
đào tạo lớp người bản sứ phục vụ công việc cai trị, cùng với đó Pháp mở một số cơ
sở văn hóa, y tế.
Nửa sau thế kỷ XIX nước ta chuyển sang một bước ngoặc mới vô cùng quan

trọng, thực dân Pháp xâm chiếm được nước ta, biến nước ta thành thuộc địa, lúc này
vấn đề giết giặc cứu nước trở thành nghĩa vụ thiêng liêng nhất, tất cả dồn sức vào
công cuộc kháng chiến. Hoàng Hữu Yên trong Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập 6)
đã xác định văn học giai đoạn này có sự biến đổi “ Xu thế phát triển của văn học
Trung đại phải chuyển hướng. Mục tiêu văn học là chống xâm lăng, bảo vệ Tổ
Quốc. Đối tượng đấu tranh của văn học là bọn đế quốc thực dân cướp nước và bọn
phong kiến tay sai. Do đó văn học thế kỷ XIX mang tính chất phức tạp và đa
dạng”[13;14]. Thơ văn lúc này cũng có nhiệm vụ hết sức quan trọng, ngòi bút trở
thành thứ vũ khí sắc bén chống lại kẻ thù, cổ vũ cho tinh thần kháng chiến của dân
tộc, không những thế mà ngôn ngữ, thể loại cũng vô cùng phong phú “Thơ văn yêu
nước tựa như nước tuôn ra từ những dòng suối nhỏ hợp lưu vào sông lớn, hàm
chứa đủ các lối văn, các thể loại, từ dân gian đến bác học, vừa bằng chữ Hán, vừa
bằng quốc âm hết sức đa dạng và phong phú” [13;28]
Lực lượng sáng tác cũng rất đông đảo, từ các trí thức ở ẩn đến tầng lớp Nho
gia hành đạo, từ dân thường đến nghĩa quân, sĩ phu yêu nước, chí sĩ, thủ lĩnh …và
nhiều tác phẩm vô danh không có tên tác giả. Tất cả đều nêu cao tinh thần dân tộc,
tố cáo tội ác của bọn cướp nước, thà hy sinh chứ không khuất phục kẻ thù, không
chịu làm tay sai, làm nô lệ cho thực dân Pháp.
Kho tàng thơ văn yêu nước tập hợp hàng trăm áng thơ văn gồm nhiều thể
loại, như Ngọc Đường thi văn tập của Nguyễn Xuân Ôn, Ngư Phong thi tập của
Nguyễn Quang Bích, Ngọa du sào thi văn tập của Nguyễn Thông, không thể không
kể đến là hai tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp và Dương Từ - Hà Mậu của


18

Nguyễn Đình Chiểu ra đời sau khi Nam Kỳ thất thủ, thơ văn trào phúng của
Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương…
Hoàng Hữu Yên cũng nhấn mạnh vai trò của thơ văn trong cuộc kháng chiến
“Dòng thơ văn yêu nước trở thành chủ lưu rất đa dạng và dồi dào, là nguồn sức

mạnh tinh thần của cả dân tộc. Với sự đóng góp của thơ văn hiện thực trào phúng,
thơ văn yêu nước là tiếng nói khảng khái hào hùng, đĩnh đạc, chinh phục lòng
người, đã xua tan mọi giọng điệu giả trá hoặc ẻo lả đang ngập ngừng cất lên trong
buổi đầu của chế độ thực dân vào cuối thế kỷ XIX” [13;35].
Như vậy tình hình tư tưởng văn hóa giáo dục nước ta thời bấy giờ đã có tác
động mạnh mẽ tới ý thức hệ tư tưởng của tầng lớp trí thức Nho học. Làm nền tảng
cho sự hình thành và phát triển của các loại hình nhà Nho sau này.
1.3. Các giai đoạn phát triển của loại hình nhà Nho hành đạo trong văn
học trung đại Việt Nam
Đã có một số bằng chứng cho thấy Nho giáo được truyền vào thế kỷ 1 TCN
khi ở Trung Quốc nhà Tây Hán đã đánh bại tập đoàn phong kiến họ Triệu và giành
lấy quyền thống trị và cho lập 3 quận tại Bắc Bộ, tuy nhiên tầm ảnh hưởng Nho
giáo còn rất hạn chế. Đến thế kỷ IX, sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền,
khi người Việt bước sang kỷ nguyên độc lập, tự chủ và bắt đầu xây dựng nền văn
minh Đại Việt trong khuôn khổ của một nhà nước quân chủ tập quyền, thì xã
hội Việt Nam lúc này mới đặt ra những yêu cầu đối với sự tồn tại và phát triển
của Nho giáo ở Việt Nam, đầu tiên phải kể đến là muốn xây dựng nhà nước quân
chủ tập quyền thì phải truyền bá Nho giáo đến người dân, nhằm củng cố quyền lực
trung ương, duy trì trật tự xã hội. Tuy nhiên, ở các triều đại quân chủ đầu tiên sau
khi Việt Nam giành độc lập, Nho giáo vẫn chưa có vai trò đáng kể trong đời sống
chính trị, tinh thần của xã hội Việt Nam. Cho đến thời nhà Lý Nho giáo với tư cách
một học thuyết chính trị - đạo đức từng bước thâm nhập vào lĩnh vực tư tưởng văn
hóa trong đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để tiếp tục phát triển mạnh
mẽ dưới thời Trần và các thế kỷ sau. Các văn bản còn lưu giữ được từ thời này cho
thấy các bậc vua quan và Nho sĩ dưới thời Lý sử dụng các điển tích và khuôn mẫu
theo quan niệm của Nho giáo, coi đó như là những bài học kinh nghiệm, những mực
thước trong việc trị nước, yên dân để xây dựng một xã hội thái bình, thịnh trị. Thời
Trần thì ứng dụng vào việc trị nước và tuyển lựa nhân tài cho quốc gia. Từ đây các



19

phạm trù đạo đức của Nho giáo, như trung, hiếu, nhân, nghĩa... đã được vận dụng
vào lĩnh vực chính trị và ngày càng trở thành chuẩn mực đạo đức cho hành vi của
con người trong xã hội. Như vậy nhà Nho hành đạo trong văn học trung đại Việt
Nam đã sớm được hình thành và phát triển qua 3 giai đoạn chính:
Giai đoạn 1: Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV
Giai đoạn này ta giành được nhiều thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống giặc
ngoại xâm từ phương Bắc. Các nhà Nho yêu nước dám dũng cảm đứng ra chống lại
kẻ thù đã xuất hiện, nhà Nho hành đạo giai đoạn này mang những đặc điểm chung
thể hiện trong thơ văn đó là hào khí Đông A, lòng yêu nước nồng nàn, mang tư
tưởng lạc quan tích cực, tinh thần quật khởi chống quân xâm lược, tiêu biểu như
Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Các nhà
Nho hành đạo giai đoạn này đã sớm hình thành trong mình một tình yêu đất nước
mãnh liệt, đến nỗi họ ngày đêm lo nghĩ cho đất nước, căm thù giặc sâu sắc, lúc nào
cũng canh cánh trong lòng một nỗi thẹn với đời, với chính mình vì cái nợ công
danh, thù nhà nợ nước chưa trả. Tinh thần này không chỉ tràn đầy trong những văn
kiện chính trị quan trọng mà còn trong những tác phẩm văn học tiêu biểu của các
nhà Nho yêu nước, như Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, Tỏ lòng của
Phạm Ngũ Lão và Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn… Cách
nghĩ, cách sống của họ rất tích cực, họ muốn sống sao cho xứng đáng với dân tộc
anh hùng của mình.
Giai đoạn 2: Từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII
Vương triều Lê lựa chọn hệ tư tưởng Nho gia làm hệ tư tưởng chính thống
góp phần đưa văn học phát triển lên một bước mới, các nhà Nho hành đạo thời bấy
giờ cũng mang tư tưởng yêu nước nhưng đồng thời với nó là một nỗi lo cho cuộc
sống nhân dân, muốn giết trừ bạo ngược cho dân yên ổn làm ăn, đời sống được no
ấm khi triều đình nhà Lê suy thoái không còn quan tâm đến cuộc sống của dân nữa.
Họ đem hết nỗi lòng của mình mà tâm sự qua những áng thơ văn, đem hết tài năng
của mình ra mà phục vụ cho đất nước, gánh trên vai mình một trách nhiệm nặng nề

hơn. Tiêu biểu như Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi…
Ngoài ra các nhà Nho hành đạo thời buổi này cũng mang trong mình một tấm lòng
rất thanh bạch và yêu thiên nhiên, yêu đời.
Giai đoạn 3: Nhà Nho hành đạo giai đoạn thế kỉ XVIII đến cuối thế kỉ XIX


20

Giai đoạn này trước biến cố Pháp nổ súng chiếm đóng nước ta các nhà Nho
tỏ ra vô cùng đau đớn, xót xa , ban đầu nhà Nho hành đạo Việt Nam vẫn còn mang
trong mình tư tưởng “trung quân ái quốc” nhưng từ khi thực dân Pháp chiếm đóng
khắp nơi, nhà tan nước mất thì trải dài trong những trang văn của họ là sự ấm ức,
trách móc triều đình bỏ mặc dân chúng lầm than, những tâm thư còn chứa đựng một
nỗi chờ mong khắc khoải một trang nam nhi đứng ra cứu nước giúp đời, tiêu biểu là
Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông…Cho đến giai đoạn cuối thế kỉ
XIX đối với họ trung quân và ái quốc không còn đi chung với nhau nữa, mà thay
bằng đạo lí của họ là đạo lí vì nhân dân.Trước sự phát triển và thâm nhập của chủ
nghĩa tư bản vào các nước châu Á lạc hậu, cùng sự lan toả trên phạm vi toàn thế
giới của nền văn minh phương Tây, chế độ phong kiến Việt Nam thời Nguyễn và hệ
tư tưởng của nó là Nho giáo trở nên lỗi thời. Do đó, nhà nước phong kiến triều
Nguyễn đã trở thành lực cản sự phát triển của xã hội Việt Nam. Nó đẩy xã hội Việt
Nam vào cảnh nghèo nàn, lạc hậu, không đủ sức chống lại sự xâm lăng của chủ
nghĩa đế quốc. Còn Nho giáo, do là hệ tư tưởng nhằm bảo vệ cái chế độ phong kiến
suy tàn ấy nên tất nhiên nó có tính phản động, đi ngược lại xu thế phát triển của lịch
sử. Lúc này, Nho giáo đã bộc lộ rõ rệt những nhược điểm và yếu kém của nó. Cho
nên nó dần đi vào lạc hậu, suy tàn và đổ vỡ.
Tiểu kết Chương 1
Vào giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, nước ta phải đối mặt với nhiều thử thách
và khó khăn to lớn. Tình hình chính trị, văn hóa, xã hội có nhiều biến chuyển, thực
dân Pháp đã thực hiện bóc lột ta trên mọi phương diện. Trước sự cai trị khắc khe

của thực dân Pháp nhân dân ta đã nhiều lần đứng lên chống Pháp quyết liệt nhưng
đều không thành công, tuy nhiên điều đó ít nhiều đã khẳng định được lòng yêu nước
nồng nàn, tinh thần dân tộc sâu sắc. Xã hội đã có sự phân hóa trong tầng lớp trí thức
đặc biệt là nhà Nho, xuất hiện thêm tầng lớp tư sản và tiểu tư sản. Tạo tiền đề cho
sự thay đổi trong hệ ý thức hệ tư tưởng của nhà Nho sau này và sự ra đời của một
loạt những áng văn thơ đầy tính chất đạo lí.

Chương 2
MẪU HÌNH NHÀ NHO HÀNH ĐẠO TRONG VĂN HỌC
VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX – NHÌN TỪ


21

PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Các dạng thức nhà Nho hành đạo trong văn học Việt Nam nửa cuối
thế kỷ XIX
2.1.1. Các nhà Nho chiến sĩ vua chúa, quý tộc cung đình
Nửa cuối thế kỉ XIX, vận mệnh dân tộc ta đứng trước một thử thách hiểm
nghèo, thực dân Pháp tiến công xâm lược nước ta. Vua chúa triều Nguyễn bấy giờ
hầu hết là nhu nhược, chống đỡ một cách yếu ớt rồi đầu hàng giặc, làm cho nhân
dân rơi vào điêu linh. Trước thực trạng mới của đất nước, bên cạnh những ông vua
hèn nhát thì vẫn có những vị vua tốt, là những nhà vua và đồng thời cũng là những
người chiến sĩ Nho giáo đi tiên phong trong phong trào chống giặc cứu nước. Họ đã
sớm hình thành tư tưởng yêu nước, chống giặc ngoại xâm.
Mặc dù lên ngôi khi mới 13 tuổi nhưng vua Hàm Nghi đã thể hiện rõ tinh
thần yêu nước của mình khi kiên quyết không hợp tác với thực dân Pháp, nhà vua
cho rằng sống kham khổ thế nào ông cũng chịu được, đi đến đâu ông cũng đi, chỉ
cần đuổi được thực dân Pháp ra khỏi đất nước. Trong những năm tháng sống lưu
vong, vua Hàm Nghi vẫn luôn thể hiện tinh thần dân tộc của mình, từ những điều

rất nhỏ trong cuộc sống thường ngày đến việc truyền dạy tinh thần ấy cho những
người con. Có thể nói rằng, ngoài những bức tranh thì một tài sản lớn khác mà vua
Hàm Nghi đã để lại chính là tinh thần dân tộc không bao giờ mai một của một vị
vua yêu nước phải sống cuộc đời lưu vong đến lúc cuối đời. Hay vị vua yêu nước
Duy Tân, tuy ở trên ngai vàng, song lòng ông luôn thao thức với vận nước, muốn
đem hoài bão ra tay cứu nước cứu dân, từ khi còn nhỏ ông đã có những việc làm và
lời nói cương nghị chống Pháp rất quyết liệt, ông hỏi tên quan thị vệ “Nước dơ lấy
gì mà rửa?” tên thị vệ không dám trả lời, ông bèn đáp lời mình: “nước dơ, phải lấy
máu mà rửa”. ông có ý chí rằng phải vượt gian khổ mà tiến lên thì mới sống có ý
nghĩa.
Trước con mắt của thực dân Pháp và thế lực lớn mạnh của chúng, càng
không thể rút dây động rừng, các vua chúa theo con đường hành đạo lúc này tuy ở
trong cung nhưng tâm trí thì ở ngoài cung, họ tìm cách liên lạc với các nghĩa quân
và chiến sĩ đang âm thầm hoạt động kháng Pháp ở bên ngoài để tìm cách nổi dậy.
Binh biến năm Ất Dậu xảy ra, vua Hàm Nghi cùng quần thần ra Tân Sở, phát hịch


22

Cần Vương, phát động phong trào kháng Pháp trên toàn quốc. Chiếu Cần Vương,
tên chính thức là Lệnh dụ thiên hạ cần vương, là lệnh dụ của vua Hàm Nghi nhà
Nguyễn, tuyên bố ngày 13 tháng 7 năm 1885 tại căn cứ Tân Sở thuộc Cam Lộ, tỉnh
Quảng Trị. Đây là lời dụ kêu gọi sĩ phu và dân chúng toàn quốc nổi dậy chống lại
sự đô hộ của người Pháp lên đất nước Đại Nam sau Hiệp ước Giáp Thân. Dân
chúng nổi dậy rất đông, nhưng vì rải rác các nơi nên lực lượng không mạnh. Nhà
vua đã hai lần xuống dụ Cần vương. Rất nhiều chỉ dụ tới các quan lại, lãnh tụ của
phong trào chống Pháp. Tên của ông đã trở thành ngọn cờ của nền độc lập quốc
gia... Từ Bắc chí Nam, đâu đâu dân chúng cũng nổi lên theo lời gọi của vị vua xuất
hạnh. Phong trào này kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt. Cũng có khi tinh
thần yêu nước này lại phát triển theo khuynh hướng kế thừa, tiêu biểu là vua Duy

Tân, cha của ông là vua Thành Thái cũng là một nhà Nho yêu nước, sớm được nung
đúc lòng yêu nước nên sớm có tinh thần chống thực dân Pháp giành độc lập, vua có
thầy dạy chữ Hán tên là Mai Khắc Đôn, chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần yêu nước
sâu đậm của cụ, một lòng một dạ đặt niềm tin vào cụ, nhà vua đã có một thời gian
dài liên lạc với hội Việt Nam Quang Phục hội. Ngày 05/05/1915 vua Duy Tân đã tự
tay viết 1 bức chiếu khởi nghĩa để kêu gọi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, thể hiện
tinh thần yêu nước của mình, trong bức chiếu này ông đã phong những vị tướng để
lãnh đạo các cánh quân để khi khởi nghĩa sẽ thực hiện theo chỉ đạo của ông. Có thể
nói với việc tự tay mình viết bản chiếu kêu gọi khởi nghĩa vua Duy Tân đã thể hiện
khí phách can trường chấp nhận rời bỏ ngôi báu để đứng vào hàng ngủ những
người chiến đấu cho độc lập, tự do.
Trong suốt thời gian kháng chiến, họ vừa lãnh đạo cuộc chiến vừa sáng tác
thơ văn. Nội dung thơ văn chủ yếu nói về lòng quyết tâm chiến thắng kẻ thù, căm
thù giặc sâu sắc, mong ước một ngày đất nước độc lập:
“Ôi việc trên đời nghĩ cũng hay,
Sơn hà xã tắc nắm trong tay
Hai hàng mũ áo mong mong trước
Bốn phía cày bừa nhớ nhớ nay
Tôn tổ vun trồng đà có tớ,


23

Đất trời ngang dọc ngẫm từ đây
Xoay vần con tạo xem chăng tá?
Quét sạch tanh hôi có mặt này ”
(Bài thơ nằm trong tập “Ngự bút tự trào quốc âm nhị thư ban Bắc kỳ chư thứ” Hàm Nghi)
Đa phần các hoàng đế nước Việt xưa giỏi chữ Hán, biết thơ văn. Triều Lý,
Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các
tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn

đạt cảm xúc về tư tưởng của mình. Riêng vua Duy Tân ở gần cuối triều Nguyễn đã
vượt ra khỏi khuôn khổ Đông phương để vươn tới chân trời mới phương Tây. Ngoài
những sáng tác văn học, vua Duy Tân còn có những bài viết về chính trị có giá trị
văn học. Cho đến nay người ta đã được đọc những bài viết sau đây của Duy Tân
như Thư gửi cho báo Nhân Đạo (1920), Thư gửi cho bộ trưởng thuộc địa (1936),
Bài đọc trên đài phát thanh Brazzaville (6-1945), Di chúc chính trị (1945)... Những
bài viết này đều chứa đựng bầu nhiệt huyết đối với quốc gia, dân tộc, thể hiện tinh
thần xung kích của một nhà Nho chiến sĩ. Sau đây là một đoạn trích trong bài đọc
trên đài phát thanh Brazzaville đã được Thái Văn Kiểm chuyển qua Việt ngữ:
"Các ngươi hãy nhận rằng trước khi mặt trời lặn, một con chim đen, ai cũng
biết là con chim khách, đến kêu trước song cửa sổ nhà các ngươi ở, rồi các ngươi
tự hỏi không biết khách nào sẽ đến vậy. Thì đây chính là ta đó, người lão thành này
đã từng suy nghĩ giúp các người. Từ lâu, từ lâu lắm nay là lần đầu tiên ta mới lại
nói chuyện cùng các người, nếu cái giọng ta không được trong lắm, chính vì nó đã
đượm tình thân ái sắc son của chúng ta đối với nhau”.
(Bài đọc trên đài phát thanh Brazzaville)
Hầu hết các vua quan triều Nguyễn đều nhu nhược, hèn nhát bán nước cho
giặc chỉ cho đến giai đoạn cuối thế kỉ XIX mới xuất hiện những vị vua mà đồng
thời cũng là những chiến sĩ sát cánh cùng với nhân dân trên con đường chống Pháp.
Với số lượng những thơ văn còn lại ít ỏi tuy không đủ để lịch sử văn học xem các
ông là một cây bút nổi tiếng trên thi đàn nhưng với những vần thơ câu văn trào ra từ
một tâm hồn nóng bỏng ấy, cộng với cuộc đời không cam chịu làm nô lệ và hành


24

động khởi nghĩa chống Pháp của các ông, cho phép chúng ta xem các ông là những
vị vua sáng nhất của vương triều Nguyễn thời bấy giờ.
2.1.2. Các nhà Nho chiến sĩ quan lại triều đình
Bộ máy triều đình mục ruỗng, đứng trước nạn ngoại xâm bọn quan lại chỉ

biết xu nịnh, ức hiếp bòn rút của dân lại còn đàn áp nhân dân đứng lên đấu tranh.
Những nhà Nho yêu nước đang làm quan dưới triều đình nhà Nguyễn không cam
tâm nhìn cảnh đó, một số đã cáo quan về quê, số còn lại thì tranh thủ sức ảnh hưởng
của mình tìm cách đứng sau làm hậu thuẫn cho nhân dân, mặc dù vẫn làm quan
trong bộ máy chính quyền nhà Nguyễn nhưng họ kiên quyết chống Pháp chứ không
theo Pháp. Trong số đó có nhiều vị quan đã từng giữ các chức quan to trong triều
như Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Thông,…
Họ yêu nước và chống giặc theo nhiều con đường khác nhau. Như Tôn Thất
Thuyết thì cùng với vua Hàm Nghi phát động phong trào Cần Vương, Nguyễn
Xuân Ôn phất cờ khởi nghĩa giữa lúc cuộc đấu tranh của nhân dân tộc gặp nhiều tổn
thất, chính ông đã lao vào cuộc kháng chiến đó. Có người lại dành hết cả cuộc đời
mình để đứng ra ghánh vác trách nhiệm đối với nhân dân tiêu biểu là Nguyễn
Thông… Tuy những cuộc khởi nghĩa mà các ông phát động đều không thành công
nhưng điều đó đã là bằng chứng hùng hồn chứng minh cho một thời kỳ lịch sử đầy
biến động của dân tộc. Những vần thơ của họ đã lên án một cách gay gắt bọn quan
lại bù nhìn tham sống sợ chết, vô trách nhiệm, sống sung sướng trên xương máu của
nhân dân:
“Thành trì phó mặc mấy thằng Tây,
Thế cũng cân đai với mũ giầy.”
(Cảm tác – Nguyễn Xuân Ôn)
Hay:
“Những nắm xương tuy nay yên chỗ
Còn kiếp người đau khổ ai thương?
Tham quan, ô lại một phường
Nuôi thân bằng máu, bằng xương dân lành”
(Phú nghĩa địa làm phúc – Nguyễn Thông)


25


Đồng thời thơ ca còn thể hiện tấm lòng thương tiếc, sự ngợi ca đối với người
anh hùng chiến sĩ có tài đã hy sinh vì đất nước:
“Trí mưu đầy đất chôn vùi
Ba quân sùi sụt khóc người cựu ân
Nhận dấu áo mà chôn tướng lĩnh
Thịt xương tan khí chính còn đây”
(Điếu Nguyễn Duy – Nguyễn Thông)
Hay
“Từ mười năm trước đã từng biết ông là bậc hào kiệt
Điều mà bình sinh ông tự hẹn với mình ấy là khí tiết
Theo tôi, đem hết sức ra rong ruổi đánh giặc ở vùng Bắc Giang
Tiếng tăm dũng cảm của ông hơn hết các người cùng hàng
Rất mong ông lập được nhiều công lạ để đền ơn nước
Ngờ đâu giữa lúc này ông đã thành người trung liệt
Như ông coi cái chết nhẹ như đi chơi”
(Vãn Nguyễn Cao – Tôn Thất Thuyết)
Những hoạt động yêu nước của Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Xuân Ôn,
Nguyễn Thông cùng các vị quan yêu nước khác gặp nhiều tổn thất, nhưng ít nhiều
đã làm cho thực dân Pháp lúc ấy lao đao. Những đóng góp của các ông trong những
năm cuối thế kỷ XIX càng khẳng định lý tưởng và con đường mà họ chọn là đúng
đắn, phù hợp với quy luật lịch sử, họ là những nhà Nho chiến sĩ dũng cảm, là biểu
tượng của lòng yêu nước, của ý chí kiên cường độc lập tự chủ, là tấm gương sáng
ngời, xứng đáng là tấm gương cho thế hệ sau noi theo.
2.1.3. Các nhà Nho chiến sĩ đại diện cho nhân dân
Như ta đã biết, dưới triều đại phong kiến nông dân là lực lượng sản xuất
chính, là tầng lớp chịu nhiều cực khổ và bất công nhất trong xã hội, đời sống của họ
phụ thuộc vào ruộng đất, nhưng đa số ruộng đất nằm trong tay địa chủ phong kiến.
Họ phải nhận ruộng đất của địa chủ để cày cấy, và phải nộp tô, thuế hết sức nặng
nề, ngoài ra họ còn phải đi phu, lao dịch rất khổ cực. Vào nửa cuối thế kỉ XIX mâu
thuẫn trong xã hội ngày càng trở nên sâu sắc, kẻ thù khủng bố liên tục, những cuộc

binh đao đầy máu lửa, cộng với sự bỏ mặc dân chúng của triều đình nhà Nguyễn


×