Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Đánh giá tài nguyên khí hậu phục vụ phát triển du lịch tỉnh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.6 KB, 59 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong q trình nghiên cứu, hồn thành đề tài “Đánh giá tài nguyên khí hậu
phục vụ phát triển du lịch tỉnh Quảng Ngãi” ngoài sự nỗ lực của bản thân, em nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình và chân thành của các thầy, cô giáo, các sở ban ngành tại
địa phương.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cơ giáo trong Khoa Địa Lí – Địa chính,
Trường Đại học Quy Nhơn. Đặc biệt là cô giáo hướng dẫn TS. Dương Thị Nguyên
Hà, người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình làm đề
tài.
Em xin chân thành cảm ơn các cô, chú, anh, chị, cơng tác tại Trạm Khí tượng
và Thủy văn tỉnh Quảng Ngãi, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi, Cục
Thống kê Quảng Ngãi. Đồng thời, xin cảm ơn tất cả các bạn bè đã nhiệt tình giúp
đỡ, đóng góp ý kiến giúp em hồn thành đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn!
Bình Định, tháng 05 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Lý Thị Kim Lan


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khí hậu là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, hết sức thiết yếu đối với sự
sống trên Trái Đất và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
mỗi khu vực. Việc khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên khí hậu phục vụ phát
triển du lịch là nhu cầu không thể thiếu đối với mỗi địa phương.
Du lịch từ lâu đã được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi
tích cực của con người. Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế - xã
hội phổ biến trên tồn thế giới, nó được xem như là một nhu cầu không thể thiếu
của con người và được coi là một tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng cuộc sống. Du
lịch - ngành cơng nghiệp khơng khói – ngày càng tác động mạnh mẽ đến đời sống


xã hội và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Chính vì thế, các nước trên thế giới rất chú
trọng đầu tư phát triển du lịch nhằm thúc đẩy kinh tế tiến lên.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của ngành du lịch trên thế giới,
ngành du lịch ở Việt Nam cũng đang phát triển khơng ngừng và có những đóng góp
đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và ngày càng khẳng định vị trí là
ngành kinh tế “mũi nhọn” trong nền kinh tế quốc dân.
Quảng Ngãi là một tỉnh nằm ở Duyên hải miền Trung, được xem như là cầu
nối giữa miền Bắc và miền Nam của nước ta. Những năm gần đây, kinh tế Quảng
Ngãi có sự tăng trưởng vượt bậc và mang tính đột phá. Trong đó phải kể đến sự
đóng góp của ngành cơng nghiệp và du lịch. Ngành du lịch của tỉnh được đánh giá là
đã khởi sắc và dần khẳng định vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. So với
nhiều địa phương trong vùng Duyên hải Nam Trung bộ, Quảng Ngãi có nhiều lợi thế
cho phát triển toàn diện ngành du lịch. Tuy nhiên, tỉnh vẫn chưa khai thác được những
lợi thế đó. Để thúc đẩy sự phát triển của hoạt động du lịch Quảng Ngãi, bên cạnh việc
đầu tư vào cơ sở hạ tầng, khai thác các nguồn tài nguyên du lịch, cần phải chú trọng vào
việc đánh giá ảnh hưởng của khí hậu đối với du lịch. Khí hậu Quảng Ngãi tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và du lịch nói riêng. Khí hậu chi phối
mạnh mẽ đến các hoạt động du lịch, nhất là du lịch ngồi trời, khí hậu cịn quyết định
tính mùa vụ trong hoạt động du lịch. Cũng như các địa phương khác, ở Quảng Ngãi, tài
nguyên khí hậu có vai trị rất quan trọng, phục vụ các hoạt động phát triển du lịch.
Là một người con của quê hương Quảng Ngãi, tôi nhận thấy tỉnh chưa khai
thác và sử dụng hết tiềm năng của tài nguyên khí hậu phục vụ phát triển du lịch. Vì
vậy, tơi quyết định lựa chọn “Đánh giá tài nguyên khí hậu phục vụ phát triển du
lịch tỉnh Quảng Ngãi” làm đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình.

1


2. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lí luận cho việc đánh giá ảnh hưởng của khí hậu đến phát

triển du lịch.
- Đánh giá tác động của khí hậu đến phát triển du lịch Quảng Ngãi và đề xuất
một số định hướng khai thác, sử dụng hợp lí tài nguyên khí hậu phục vụ phát triển
du lịch địa phương.
- Góp phần ứng dụng kiến thức lí thuyết vào thực tiễn và nâng cao năng lực
tự nghiên cứu của sinh viên.
3. Nội dung nghiên cứu
- Thu thập tài liệu, tư liệu, số liệu… xây dựng cơ sở khoa học cho việc thực
hiện nội dụng nghiên cứu của đề tài.
- Phân tích đặc điểm khí hậu tỉnh Quảng Ngãi và làm rõ .
- Đánh giá tác động của tài nguyên khí hậu đến du lịch tỉnh Quảng Ngãi và
đề xuất các định hướng khai thác tài nguyên khí hậu phục vụ phát triển du lịch địa
phương.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Tài nguyên khí hậu đối với phát triển du lịch tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài tập trung vào đánh giá ảnh hưởng của khí hậu đến phát
triển một số loại hình du lịch tỉnh Quảng Ngãi.
Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, phần đất liền (không xét phần
biển và hải đảo).
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm nghiên cứu
5.1.1. Quan điểm hệ thống
Cơ sở khoa học của quan điểm này là quan niệm về sự thống nhất và hoàn
chỉnh động lực bên trong của các đối tượng nghiên cứu. Điều này cho phép chúng
ta phân tích, đánh giá khách quan một cách toàn diện những đối tượng nghiên cứu
phục vụ khai thác và sử dụng lãnh thổ một cách tồn diện và lâu bền.
Khí hậu được hình thành từ nhiều yếu tố và là một thành phần nhỏ của hệ
thống điều kiện tự nhiên tỉnh Quảng Ngãi, nhưng có tác động mạnh mẽ đến q

trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Ngược lại, điều kiện tự nhiên này chịu tác
động không nhỏ của quá trình phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Vì vậy, khi
nghiên cứu nhằm tìm ra đặc điểm tài nguyên khí hậu, cần phải xem xét trong mối
quan hệ biện chứng với hệ thống tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh

2


Quảng Ngãi. Quan điểm hệ thống cũng là cơ sở cho tác giả đề xuất định hướng khai
thác và sử dụng hợp lí tài nguyên khí hậu phục vụ phát triển du lịch tỉnh nhà.
5.1.2. Quan điểm lãnh thổ
Mọi sự vật hiện tượng địa lí đều gắn với một phạm vi lãnh thổ nhất định,
đồng thời có mối quan hệ với các lãnh thổ khác tạo nên nét khác biệt mang tính bản
chất của vùng lãnh thổ nghiên cứu.
Tài nguyên khí hậu Quảng Ngãi có nhiều đặc trưng hết sức nổi bật nhưng
cũng có nhiều nét tương đồng với các địa phương xung quanh. Vì vậy, khi nghiên
cứu đánh giá tài nguyên khí hậu cần phải dựa trên quan điểm này. Quan điểm lãnh
thổ còn là cơ sở để đề xuất định hướng khai thác và sử dụng tài nguyên khí hậu phù
hợp với từng vùng khác nhau trên tồn tỉnh Quảng Ngãi.
5.1.3. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững là quan điểm chủ đạo trong
nghiên cứu bảo vệ môi trường. Đối với Địa lí học, quan điểm này là không thể thiếu
trong việc nghiên cứu tự nhiên phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Vận dụng quan điểm này vào nghiên cứu, đánh giá tài nguyên khí hậu phục
vụ phát triển du lịch, cho phép tác giả xác định được những yếu tố tác động mạnh
mẽ đến sinh khí hậu người, cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch
bền vững. Đồng thời, quan điểm này là cơ sở để xem xét tổng hợp các nhân tố điều
kiện tự nhiên – môi trường tác động đến hoạt động du lịch; cho phép xác định các
yếu tố cơ bản để đánh giá, giúp người nghiên cứu phát hiện và đề xuất các vấn đề
về môi trường trong phát triển du lịch, đề xuất các giải pháp khai thác và sử dụng

tài nguyên du lịch Quảng Ngãi dựa trên quan điểm giữ cân bằng sinh thái và phát
triển bền vững.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp thu thập, xử lý tài liệu
Dựa nội dung của đề tài, tôi đã tiến hành thu thập tài liệu từ nhiều nguồn
khác nhau: Sách, internet, trạm khí tượng thủy văn tỉnh Quảng Ngãi, Sở văn hóa,
thể thao và du lịch tỉnh Quảng Ngãi, giáo viên hướng dẫn,… Từ đó, sắp xếp theo hệ
thống và phân tích, đánh giá chung nhất về đặc điểm tài nguyên khí hậu phục vụ
phát triển du lịch.
5.2.2. Phương pháp bản đồ
Đây là phương pháp đặc trưng trong nghiên cứu địa lí. Q trình nghiên cứu
đề tài, tôi đã sử dụng và nghiên cứu một số bản đồ như: Bản đồ phân vùng khí hậu
tỉnh Quảng Ngãi, bản đồ phân loại khí hậu tỉnh Quảng Ngãi của nhiều tác giả. Đồng
thời, cũng tiến hành biên tập và thành lập các bản đồ hợp phần, bản đồ chuyên đề

3


của đề tài bằng phần mềm MapInfo. Ứng dụng công nghệ GIS để đánh giá mức độ
phân hóa khơng gian và biểu thị không gian lãnh thổ du lịch.
5.2.3. Phương pháp khảo sát, thực địa
Đây là phương pháp nghiên cứu truyền thống của Địa lí. Trong q trình đi
khảo sát thực địa tại một số địa điểm của tỉnh như Bình Sơn, Trà Bồng, Tây Trà…
tác giả đã quan sát, thu thập tư liệu, tìm hiểu một số loại tài nguyên du lịch được sử
dụng ở các địa phương đó cũng nhưng điều kiện khí hậu thích hợp cho từng loại
hình du lịch. Qua đó, giúp người nghiên cứu phần nào phát huy được tính độc lập,
kỹ năng quan sát của mình trong nghiên cứu và có cái nhìn thấu đáo, tồn diện hơn
từ thực tế.
Trong q trình thực hiện đề tài, tác giả đã tiến hành đi thực địa để thu thập
tài liệu, tham gia,quan sát, chụp ảnh một số địa điểm du lịch để đưa vào đề tài.

6. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trên Thế giới, việc nghiên cứu về đánh giá điều kiện khí hậu phục vụ phát
triển du lịch đã được quan tâm từ lâu. Những cơng trình đầu tiên nghiên cứu về địa
lí du lịch như: cơng trình của I.U.A Veđenhin (1971) đưa ra khái niệm hệ thống
nghỉ ngơi theo lãnh thổ, cơng trình khoa học của Kađaxkia (1972) và Sepfer (1971)
đã nghiên cứu về sức chứa và sự ổn định của các điểm du lịch; L.I.Mukhina (1973)
xây dựng quy hoạch các vùng nghỉ mát ven biển… Các tác giả khác như Slavikova
(1973) của Tiệp Khắc hay Vacdunxka của Ba Lan đã nghiên cứu xác định sức chứa
tối ưu dung lượng khách du lịch tại một số điểm du lịch… Các nhà địa lý Canada
như: Vôgơ (1966), Henanynơ (1972) hay các nhà địa lý Mỹ như: Booha, Dvit
(1971)… lại có những cơng trình đánh giá, sử dụng tài nguyên nhằm mục đích giải
trí…Hiện nay, trên Thế giới ngày càng có nhiều cơng trình nghiên cứu, đánh giá tài
nguyên khí hậu cho phát triển du lịch.
Ở Việt Nam, thời gian qua đã có nhiều chương trình, dự án cấp nhà nước, địa
phương nghiên cứu về khí hậu phục vụ phát triển du lịch: Đề tài khoa học cấp nhà
nước: “Luận chứng khoa học kỹ thuật xây dựng và phát triển hệ thống du lịch biển
Việt Nam” (1995) do PGS.TS Vũ Tuấn Cảnh làm chủ nhiệm; Dự án “Quy hoạch
tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 - 2010” do Viện Nghiên cứu Phát
triển du lịch thực hiện năm 1994. Ngồi ra, có thể kể đến những nghiên cứu của các
tác giả như: “Tài ngun khí hậu” của Mai Trọng Thơng, Hồng Xn Cơ (2002),
đã đi sâu phân tích đặc điểm khí hậu từ đó đánh giá tác động khí hậu đến Việt Nam;
Về hướng nghiên cứu sinh khí hậu có cơng trình “Cơ sở sinh khí hậu” của Nguyễn
Khanh Vân (2006). Trong cơng trình đã đi sâu phân tích khả năng thích nghi với khí
hậu của sinh vật và con người, từ đó xây dựng bản đồ sinh khí hậu; Bên cạnh đó

4


cịn có một số cơng trình nghiên cứu khí hậu phục vụ phát triển du lịch như: “Tài
nguyên và du lịch Việt Nam” (Phạm Trung Lương, 2000) và một số giáo trình

nghiên cứu về tài nguyên du lịch một cách cơ bản và có hệ thống: “Địa lí du lịch”
(Nguyễn Minh Tuệ, 1997)…
Ở Quảng Ngãi, có rất nhiều nghiên cứu tổng hợp về địa lí tự nhiên: cơng
trình có quy mô lớn và là sự tập trung công sức của các nhà khoa học, nhà nghiên
cứu như: “Địa chí Quảng Ngãi” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia). Trong tài liệu
này đã đề cập đến đặc điểm khí hậu – thủy văn của địa phương. Ngồi ra, cịn có tài
liệu đề cập đến phát triển du lịch địa phương như: “Quy hoạch tổng thể phát triển
du lịch tỉnh Quảng Ngãi thời kì 2001 – 2010 và định hướng đến 2020” (Sở Văn
hóa, thể thao, thơng tin và du lịch, 2001)… Thời gian gần đây có “Đánh giá tài
ngun sinh khí hậu tỉnh Quảng Ngãi phục vụ phát triển du lịch” của Dương Thị
Nguyên Hà, Nguyễn Khanh Vân, Đỗ Thị Vân Hương (2008). Trong đó, các tác giả đã
đi sâu phân loại đánh giá một số đặc trưng khí hậu riêng và đánh giá vai trị của sinh
khí hậu đối với du lịch bằng các chỉ tiêu sinh khí hậu tổng hợp. Tuy nhiên, cơng trình
này chưa phân vùng khí hậu phục vụ phát triển du lịch cho Quảng Ngãi.
Hiện nay, có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về du lịch Quảng Ngãi, nhưng
chủ yếu tập trung vào nghiên cứu từng loại hình du lịch, nghiên cứu ở từng điểm du
lịch cụ thể. Việc nghiên cứu và đánh giá ảnh hưởng của tài nguyên khí hậu phục vụ
phát triển du lịch tỉnh Quảng Ngãi là vấn đề rất cần thiết, nhằm góp phần khai thác
lợi thế của tự nhiên, tận dụng được thế mạnh của khí hậu phục vụ phát triển du lịch,
nhưng hiện chưa có cơng trình nào tiến hành.

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về khí hậu
1.1.1.1. Khí hậu
Thuật ngữ “khí hậu” ngày càng được sử dụng phổ biến trên thế giới và có rất

nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu về khí hậu. Chính vì vậy, có nhiều quan niệm
khác nhau về khí hậu được đưa ra:
- Theo Vơâycốp: “Khí hậu là trạng thái thời tiết trung bình”.
- Theo Phêđơrơp: “Khí hậu là tổng hợp của thời tiết”.
- Theo Becgơ: “Khí hậu là một bộ phận của các q trình địa lí".
- Theo quan điểm hiện đại: “Khí hậu là trạng thái vật lý tổng qt của hệ thống
khơng khí bao quanh trái đất, hình thành dưới tác dụng tương hỗ giữa bức xạ mặt
trời, hồn lưu khí quyển và điều kiện địa lí”.
Định nghĩa mang tình chất địa lí về khí hậu theo Sneider Karius như sau:
“Khí hậu là một cảnh quan điển hình của một nơi nào đó, hoặc là tập hợp các trạng
thái khí quyển và các q trình thời tiết của một khoảng khơng gian lớn quan sát
được gần mặt đất, có tác động đến bề mặt trái đất trong một khoảng thời gian dài.
Tập hợp này được biểu thị bằng sự phân bố các giá trị trung bình được lặp lại
thường xuyên và các giá trị cực trị”.
Hiện nay, người ta chủ yếu sử dụng quan niệm của Alixốp về khí hậu để làm
định nghĩa: “Khí hậu của một nơi nào đó là chế độ thời tiết đặc trưng nhiều năm,
được tạo nên bởi bức xạ mặt trời, đặc tính của mặt đệm và hồn lưu khí quyển”.
1.1.1.2. Tài nguyên khí hậu
a. Khái niệm về tài nguyên thiên nhiên
Trong thiên nhiên tồn tại một khối lượng dự trữ của một chất nào đó. Đó là
tổng lượng của chất đó có trong mơi trường, phần lớn chưa được khai thác hoặc
chưa thể gia công theo công nghệ hiện đại.
Phần của khối dự trữ có thể sử
dụng trong những điều kiện xã hội, kinh tế và công nghệ nhất định được gọi là tài
nguyên. Vậy, tài nguyên là một dạng thức có sẵn để cung cấp cho nhu cầu kinh tế,
xã hội của con người (ví dụ: đất đai, khống sản, khí hậu, nhân lực…).
Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về tài nguyên thiên nhiên, khái niệm
sau đây là phổ biến hơn cả: “Tài nguyên thiên nhiên là tồn bộ giá trị vật chất sẵn
có trong tự nhiên (nguyên liệu, vật liệu do tự nhiên tạo ra mà con người có thể khai
thác và sử dụng trong sản xuất và đời sống), là những điều kiện cần cho sự tồn tại

của xã hội loài người”

6


b. Tài nguyên khí hậu
Từ quan niệm về tài nguyên nêu trên, ta có thể coi các dạng thức của tài
nguyên khí hậu là nguồn lợi về ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, gió… của một vùng nào
đó có thể khai thác nhằm thúc đẩy sự sinh trưởng, phát triển, tăng năng suất cây
trồng, vật nuôi hoặc phục vụ những mục đích phát triển của ngành kinh tế - xã hội.
1.1.1.3. Đánh giá tài nguyên khí hậu
Để khai thác và sử dụng có hiệu quả tài ngun khí hậu thì cần phải đánh giá
tài nguyên này. Việc đánh giá tài nguyên khí hậu là nghiên cứu cơ sở khoa học của
tài nguyên khí hậu: các yếu tố khí hậu, các nhân tố ảnh hưởng đến khí hậu, đặc
điểm khí hậu, phân hóa khí hậu… Từ đó, đánh giá những tác động thuận lợi, bất lợi
của khí hậu cho các hoạt động phát triển cụ thể.
Yêu cầu của việc đánh giá này là phải đánh giá một cách tổng thể, toàn diện
tất cả các yếu tố. Tuy nhiên, phụ thuộc vào từng nhân tố mà chúng ta xác định
những yếu tố trội cho đánh giá, đó là những yếu tố có tính chất quyết định đến giá
trị của tài nguyên khí hậu đối với một loại hình sản xuất nào đó.
Dựa vào cơ sở trên, chúng tôi đã chọn ra được những chỉ tiêu (tiêu chí) để
đánh giá cho từng nhóm nhân tố của tài nguyên khí hậu như sau:
+ Các nhân tố ảnh hưởng đến khí hậu chúng tơi sẽ đánh giá các yếu tố: Vị trí
địa lí, bức xạ mặt trời, hồn lưu khí quyển, tính chất bề mặt đệm.
+ Đặc điểm của khí hậu chúng tơi sẽ đánh giá các yếu tố: Chế độ bức xạ,
nắng, nhiệt độ và chế độ nhiệt, mưa và chế độ mưa, chế độ ẩm và bốc hơi, gió và
khí áp, một số loại thời tiết đặc biệt.
1.1.1.4. Sinh khí hậu người
Nghiên cứu sinh khí hậu người là một trong những hướng nghiên cứu sinh
khí hậu ứng dụng mới phát triển mạnh ở Việt Nam trong hai chục năm trở lại đây.

Sinh khí hậu người là nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện khí hậu thời tiết lên cơ
thể con người (các cơ quan cảm thụ, sức khỏe con người nói chung) phục vụ dân
sinh, phát triển kinh tế, du lịch, điều dưỡng cũng như các hoạt động sản xuất khác
của con người.
1.1.2. Một số khái niệm cơ bản về du lịch
1.1.2.1. Du lịch
Xã hội càng phát triển, nhu cầu về nghỉ ngơi, giải trí của con người càng
được nâng cao, để phục vụ cho nhu cầu đó nhiều ngành dịch vụ đã ra đời trong đó
có ngành du lịch. Thuật ngữ du lịch cũng đã trở nên rất phổ biến trong các tầng lớp
nhân dân trên Thế giới.

7


Thuật ngữ “Du lịch” bắt nguồn từ tiếng Pháp “Tour” nghĩa là đi vòng
quanh, cuộc dạo chơi. Còn “Touriste” là người đi dạo chơi.
Từ khi Hiệp hội Quốc tế các tổ chức Du lịch – IOUTO (International of
union Official Travel Organization) được thành lập năm 1925 tại Hà Lan, bắt đầu có
định nghĩa về du lịch: “Du lịch được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một
nhóm người rời khỏi nơi ở của mình trong khoảng thời gian ngắn đến các vùng
xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh”. Sau đó, có rất nhiều quan niệm,
định nghĩa về du lịch được đưa ra, trong đó phải kể đến định nghĩa của I.I.
PirôGiơnic (1985), là định nghĩa được nhiều người chấp nhận nhất. Theo ông, “du
lịch là một dạng hoạt động của cư dân trong thời gian rỗi liên quan đến sự di
chuyển và lưu trú tạm thời bên ngoài nơi thường trú nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh,
phát triển thể chất, tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hóa hoặc thể thao
kèm theo việc tiêu thụ các giá trị về tự nhiên, kinh tế, văn hóa.”
Cịn ở Việt Nam, trong Luật Du lịch Việt Nam (2005) - điều 4, chương I có định
nghĩa: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư
trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ

ngơi, nghĩ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.
Như vậy, du lịch là hoạt động diễn ra ở ngồi nơi thường trú của con người
và nó nhằm thỏa mãn các nhu cầu về thể chất, tinh thần hoặc nhu cầu tìm hiểu và
mở rộng kiến thức của con người. Du lịch cũng không phải chỉ diễn ra trong phạm
vị lãnh thổ một quốc gia mà nó được diễn ra trên phạm vi tồn Thế giới, và với
khơng gian rộng lớn hơn thì những nhu cầu của con người cũng được đáp ứng đầy
đủ hơn, trọn vẹn hơn. Cũng thơng qua đó, con người sẽ có nhiều hiểu biết hơn về
các nền văn hóa khác nhau trên Thế giới, từ đó làm cho lồi người trên Thế giới
xích lại gần nhau hơn, đồn kết hơn.
1.1.2.2. Loại hình du lịch
Theo Phạm Trung Lương (2004) “Loại hình du lịch là các hình thức du lịch
được tổ chức nhằm thỏa mãn mục đích du lịch của khách du lịch”.
Loại hình du lịch là một tập hợp các sản phẩm du lịch có những đặc điểm giống
nhau, hoặc vì chúng thỏa mãn những nhu cầu, động cơ du lịch tương tự, hoặc được bán
cho cùng một nhóm khách hàng, hoặc vì chúng có cùng một cách phân phối, một cách tổ
chức như nhau, hoặc được xếp chung theo một mức giá bán nào đó.
Để có thể đưa ra các định hướng và chính sách phát triển đúng đắn về du
lịch, các nhà quản lí vĩ mơ về du lịch cũng như các nhà quản trị doanh nghiệp du
lịch cần phân du lịch thành các loại hình khác nhau. Có nhiều cách phân loại hoạt

8


động du lịch. Hiện nay, đa số các chuyên gia về du lịch Việt Nam căn cứ các tiêu
chí cơ bản và phân chia thành 9 nhóm loại hình du lịch (bảng 1.1):
Bảng 1.1: Các loại hình du lịch phân theo các tiêu chí khác nhau
STT

Nhóm loại hình du lịch


1

Theo hình thức tổ chức

2

Theo loại hình lưu trú

3

Theo mục đích chuyến đi

4

Theo phạm vi lãnh thổ

5
6

Theo phương thức hợp đồng
Theo tài ngun du lịch
Theo thời gian cuộc hành
trình

7
8

Theo vị trí địa lí

9


Theo việc sử dụng các
phương tiện giao thơng

Biểu hiện
Du lịch có tổ chức; Du lịch cá nhân; Du lịch
gia đình
Khách sạn; Nhà trọ; Làng du lịch; Camping (cắm
trại); Bungaloue (nhà gỗ 1 tầng); Home Stay
- Du lịch thuần túy: Du lịch tham quan,
giải trí; Du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh; Du
lịch thể thao, khám phá…
- Du lịch kết hợp: Du lịch công vụ (kết hợp
du lịch với công việc); Du lịch tôn giáo; Du
lịch thăm hỏi (kết hợp thăm viếng người
nhà); Du lịch MICE (Meeting Incentive
Conference Event: Hội nghị, hội thảo, triển
lãm, tổ chức sự kiện…)
Du lịch trong nước (du lịch nội địa);
Du lịch quốc tế
Du lịch trọn gói; Du lịch từng phần
Du lịch văn hóa; Du lịch sinh thái
Du lịch ngắn ngày (dưới 1 tuần);
Du lịch dài ngày (vài tuần trở lên)
Du lịch miền biển; Du lịch núi;
Du lịch thôn quê; Du lịch đô thị
Du lịch bằng xe đạp; Du lịch bằng xe máy;
Du lịch bằng xe ô tô; Du lịch bằng máy bay;
Du lịch bằng tàu hỏa; Du lịch bằng tàu thủy;
[Nguồn: Tổng cục du lịch]


9


Hiện nay, việc phân loại loại hình du lịch hồn chỉnh nhất là phân loại của tổ
chức Du lịch thế giới (UNWTO) [Hình 1.1].
Loại hình du lịch
Du lịch theo sở thích, ý muốn

Du lịch chung

Du lịch theo theo nghĩa vụ, trách
nhiệm

Du lịch theo sở thích đặc biệt

Tham quan

Du lịch sinh thái

Nghỉ dưỡng

Du lịch mạo hiểm

Du lịch chữa bệnh

Thương mại, công vụ

Hội nghị, hội thảo
Vui chơi, giải trí


Du lịch thể thao
Du lịch lễ hội

Du lịch mua sắm

Tìm hiểu cộng đồng

Hình 1.1. Phân loại du lịch của tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO)
1.1.2.3. Tài nguyên du lịch
Theo I.I. Pirojnik (1985), “Tài nguyên du lịch là những tổng thể tự nhiên,
văn hóa – lịch sử và những thành phần của chúng giúp cho việc phục hồi, phát
triển thể lực, tinh lực, khả năng lao động và sức khỏe của con người mà chúng
được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp để tạo ra dịch vụ du lịch gắn liền với nhu cầu
ở thời điểm hiện tại hay tương lai và trong điều kiện kinh tế - kỹ thuật cho phép”
Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005) quy định tại Điều 4, Chương I thì “Tài
nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa,
cơng trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể
được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các
khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch ”.
Như vậy, cách tiếp cận đối với tài nguyên du lịch giữa các nhà nghiên cứu có
sự khác nhau, nhưng cơ bản có điểm chung là đều đề cập đến các yếu tố tự nhiên và
các giá trị văn hóa do con người tạo ra có sức hấp dẫn với du khách.

10


Tài nguyên du lịch được xem như là tiền đề để phát triển du lịch. Tài nguyên
du lịch vô cùng phong phú và đa dạng, song có thể phân chia làm hai nhóm: tài
nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.

- Tài nguyên du lịch tự nhiên là các đối tượng và hiện tượng trong môi
trường tự nhiên bao quanh chúng ta bị lôi cuốn vào hoạt động du lịch. Theo Luật
Du lịch Việt Nam (2005), tại Chương II, Điều 13: “Tài nguyên du lịch tự nhiên
gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh
quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch”.
- Tài nguyên du lịch nhân văn do con người tạo ra nên có nhiều khác biệt so
với tài nguyên du lịch tự nhiên.
Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005), tại Chương II, Điều 13: “Tài nguyên du
lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách
mạng, khảo cổ, kiến trúc, các cơng trình lao động sáng tạo của con người và cacsdi
sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du
lịch”.[13]
1.1.2.4. Hoạt động du lịch
Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Hoạt động du lịch là hoạt động của
khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch”.
Như vậy, hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, của tổ chức, cá
nhân kinh doanh du lịch, và cộng đồng dân cư tại các trung tâm, các điểm du lịch có
giá trị tự nhiên và giá trị nhân văn được khai thác, đầu tư trong quá trình phát triển
du lịch.
Ở Quảng Ngãi hoạt động du lịch diễn ra khá sôi động. Du khách đến Quảng
Ngãi có thể thăm các di tích lịch sử như: Khu di tích Ba Tơ, Quần thể di tích theo
dịng nhật ký Đặng Thùy Trâm, Khu Chứng tích Sơn Mỹ, Khu lưu niệm cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng… Các thắng cảnh tự nhiên như: Thác Trắng, biển Khe Hai,
biển Mỹ Khê, biển Sa Huỳnh, với nhiều mục đích khác nhau như tham quan, nghỉ
dưỡng, tìm hiểu, nghiên cứu các giá trị tự nhiên, giá trị nhân văn,...
1.1.2.5. Tổ chức lãnh thổ du lịch
Tổ chức lãnh thổ du lịch là phân chia lãnh thổ quốc gia thành các vùng kinh
tế du lịch, dựa trên các tiêu chí phân vùng du lịch, nhằm phát huy lợi thế của mỗi
vùng và của cả nước, tổ chức và kinh doanh du lịch đạt hiệu quả. Theo Viện nghiên

cứu phát triển du lịch Việt Nam tổ chức du lịch được phân chia thành nhiều mức độ
khác nhau: Trung tâm du lịch, tiểu vùng du lịch, vùng du lịch, khu du lịch, tuyến du

11


lịch, điểm du lịch. Tổ chức lãnh thổ du lịch ở Quảng Ngãi đề cập đến các mức độ
như: điểm du lịch, khu du lịch và tuyến du lịch.
1.1.2.6. Sản phẩm du lịch
Theo Điều 4 chương I - Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 thì: “Sản phẩm du
lịch (tourist product) là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của
khách du lịch trong chuyến đi du lịch”.
Sản phẩm du lịch bao gồm:
- Dịch vụ lưu trú: Nhằm đảm bảo cho khách du lịch nơi ăn ở trong quá trình
thực hiện chuyến du lịch của họ.
- Dịch vụ vận chuyển: Nhằm đưa khách từ nơi cư trú đến các điểm du lịch
trong phạm vi một điềm du lịch.
- Dịch vụ giải trí: Đối với du lịch đây là bộ phận du lịch đặc trưng cho sản
phẩm du lịch và là một bộ phận không thể thiếu được. Chúng rất quan trọng vì thời
gian rãnh rỗi cịn lại trong ngày của khách du lịch thường rất nhiều vì vậy cho dù
hài lịng về bữa ăn ngon, về chỗ ở tiện nghi, du khách vẫn mau chán nản nếu họ
không được tham gia thưởng thức các tiết mục giải trí.
- Dịch vụ mua sắm: Đây cũng là một hình thức giải trí. Du lịch kết hợp mua
sắm đang là xu hướng được nhiều khách du lịch lựa chọn. Đó là sự hài lịng khi
khách du lịch mua một hàng hóa vật chất như các đồ lưu niệm để về trưng bày, hoặc
tặng người thân, các món ăn, đồ uống…
Theo cách phân loại trên thì sản phẩm du lịch ở Quảng Ngãi khá đa dạng như
các bãi biển (Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Khe Hai, Lệ Thủy, Minh Tân…), Khu Chứng tích
Sơn Mỹ, Thành cổ Châu Sa, Di tích chiến thắng Vạn Tường, Khu du lịch Cà Đam –
Nước Trong, Trường Lũy, Khu di tích Ba Tơ… Các sản phẩm này tạo nên nét đặc

trưng riêng cho Quảng Ngãi. Đây cũng chính là tiềm năng to lớn và thuận lợi cho
hoạt động du lịch Quảng Ngãi.
1.1.3. Cơ sở của việc đánh giá tài nguyên khí hậu đối với du lịch
Khí hậu là yếu tố tác động trực tiếp đến hoạt động du lịch. Vì vậy, để đánh
giá mức độ thuận lợi của khí hậu phục vụ phát triển du lịch, xác định thời gian có
khí hậu thuận lợi cho hoạt động du lịch, khóa luận dựa vào một số yếu tố khí hậu,
chính là các chỉ tiêu cụ thể của khí hậu, cụ thể như sau:
1.1.3.1. Nhiệt độ và chế độ nhiệt
Trong số các chỉ tiêu của khí hậu, đáng chú ý nhất là chỉ tiêu nhiệt độ. Bởi vì
nhiệt độ là yếu tố quan trọng để khách du lịch lựa chọn thời điểm, địa điểm du lịch.
Chế độ nhiệt cũng là chỉ tiêu quan trọng, tác động mạnh mẽ đến việc lựa
chọn địa điểm du lịch. Chế độ nhiệt điều hòa tạo điều kiện cho hoạt động du lịch

12


diễn ra đều đặn trong năm, chế độ nhiệt phân mùa sẽ quyết định tính mùa vụ cho
hoạt động du lịch. Trong mỗi mùa du lịch sẽ thuận lợi cho loại hình du lịch nào. Ví
dụ: mùa nhiệt cao, thuận lợi cho du lịch biển.
Quảng Ngãi có nền nhiệt độ cao và ít biến động trong năm, là điều kiện
thuận lợi cho phát triển hoạt động du lịch.
1.1.3.2. Mưa và chế độ mưa
Lượng mưa và chế độ mưa là chỉ tiêu rất quan trọng, giúp du khách quyết
định việc lựa chọn địa điểm du lịch. Nếu địa điểm đó có lượng mưa rất thấp, khí
hậu khơ hạn, ít thuận lợi cho hoạt động du lịch, trừ khi ở đó có tài nguyên du lịch
đặc biệt hấp dẫn. Quảng Ngãi có lượng mưa trung bình năm khá lớn, phân bố rõ rệt
theo khơng gian. Vùng núi có lượng mưa trung bình năm lớn nhất tỉnh (Trà Bồng:
3600mm/năm, Ba Tơ: 3200mm/năm), nơi có lượng mưa trung bình năm thấp nhất
là phía đơng nam của tỉnh (Sa Huỳnh – Đức Phổ) nhưng cũng đạt trên
1400mm/năm.

Thời gian mưa trong năm quyết định mùa du lịch, thời gian hoạt động du
lich. Chế độ mưa điều hịa hay phân mùa là nhân tố tạo nên tính mùa cho hoạt động
du lịch. Vào mùa mưa, hoạt động du lịch hạn chế hơn, nhất là loại hình du lịch
ngoài trời.
Số ngày mưa trong năm quyết định số ngày cho phép hoạt động ngồi trời
diễn ra bình thường. Nếu trong năm có số ngày mưa lớn, thì thời gian thuận lợi cho
hoạt động du lịch ít và ngược lại.
1.1.3.3. Các yếu tố khác
Ngoài yếu tố nhiệt độ và mưa ảnh hưởng đến du lịch thì cịn nhiều yếu tố
khác của khí hậu cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến du lịch như: Điều kiện bức xạ,
mây và nắng; Chế độ khí áp và gió; Chế độ ẩm và bốc hơi… Đặc biệt phải kể đến
các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lớn, dông…
Hoạt động du lịch có quan hệ mật thiết với đặc điểm khí hậu và diễn biến
thời tiết. Những ngày có thời tiết xấu (mưa, dông, bão…) thường gây trở ngại và
thậm chí phải ngừng hoạt động du lịch. Chúng ta dễ dàng nhận thấy với kiểu khí
hậu phân hóa theo mùa, hoạt động du lịch cũng theo mùa và chịu sự chi phối mạnh
mẽ của tự nhiên, đặc biệt là du lịch sinh thái loại hình du lịch gắn liền với thiên
nhiên.
1.1.4. Phương pháp đánh giá tài nguyên khí hậu phục vụ phát triển du
lịch
Để đánh giá tài nguyên khí hậu của tỉnh Quảng Ngãi cho các hoạt động du
lịch chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau:

13


- Thống kê khí hậu: Các số liệu khí hậu sử dụng trong đề tài này là các đặc
trưng khí hậu được thống kê từ các chuỗi số liệu đã được chỉnh lý, đáng tin cậy, là
số liệu thống kê nhiều năm của trạm Khí tượng – Thủy văn tỉnh Quảng Ngãi.
- Phân loại và đánh giá mức độ thích hợp của một số đặc trưng khí hậu

riêng:
Để đánh giá sự thích nghi của người Việt Nam với thời tiết và khí hậu người
ta dựa vào các tiêu chí như:
+ Điều kiện bức xạ, nắng và gió: Người ta dựa vào bảng phân loại khí hậu
tốt – xấu đối với sức khỏe người để phân chia ảnh hưởng của các điều kiện này.
Bảng 1.2. Bảng phân loại khí hậu tốt – xấu đối với sức khỏe
Tốc độ gió
Mức độ Số tháng có nhiệt Số tháng có độ Số giờ nắng Số ngày trời
trung bình
đánh giá
độ ≥27°C
ẩm ≥ 90°C
tồn năm
đầy mây
m/s
Rất xấu
5
4
1000
100
1
Bình
4-5
3
1200
80
1-1,5
thường
Tốt
2-3

2
1200
80
1,5
Rất tốt
0
0
1500
50
2-3
Nguồn: [15] trang 53
Nhìn chung, dựa vào bảng phân loại trên thì Quảng Ngãi có đầy đủ điểu
kiện cần thiết, thích hợp cho hoạt động du lịch phát triển.
+ Nhiệt độ và lượng mưa:
Để đánh giá mức độ thích nghi của con người với điều kiện nhiệt độ và
lượng mưa người ta dựa vào bảng chỉ tiêu sinh khí hậu đối với con người
Bảng 1.3: Chỉ tiêu sinh khí hậu học đối với con người
Nhiệt độ trung Nhiệt độ trung bình Biên độ nhiệt Lượng mưa
bình năm (°C) tháng nóng nhất (°C) độ năm (°C) năm (mm)
1
Thích nghi
18 - 24
24 - 27
<6
1250 - 1900
2 Khá thích nghi
24 - 27
27 - 29
6-8
1900 - 2550

3
Nóng
27 - 29
29 - 32
8 - 14
> 2550
4
Rất nóng
29 - 32
32 - 35
14 - 19
< 1250
Khơng thích
5
> 32
> 35
> 19
< 650
nghi
Nguồn: [15] trang 53
So sánh với đặc điểm sinh khí hậu Quảng Ngãi với các chỉ tiêu trên: nhiệt độ
trung bình năm của Quảng Ngãi là 23 – 27 0C, nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất

Hạng

Ý nghĩa

14



là 29 – 320C, biên độ nhiệt độ năm là 6 – 8 0C, lượng mưa năm từ 2000 – 2500mm,
có thể thấy các chỉ tiêu sinh khí hậu của Quảng Ngãi khá thích nghi đối với con
người, đây là điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch Quảng Ngãi.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Vị trí địa lí
Quảng Ngãi là tỉnh thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Tổng diện tích tự
nhiên là 5.152,69 km2, chiếm 1,7% diện tích tự nhiên cả nước. Tỉnh gồm 14 huyện
(vùng núi có 6 huyện, đồng bằng ven biển gồm 7 huyện và 1 huyện đảo - Lý Sơn).
Quảng Ngãi có tọa độ địa lí từ 14°32′B đến 15°25′ B, từ 108°06′Đ đến
109°04′Đ, tựa lưng vào dãy núi Trường Sơn và hướng ra Biển Đông rộng lớn với
chiều dài đường bờ biển là 144 km.
- Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam với chiều dài đường địa giới 98 km.
- Phía Nam giáp tỉnh Bình Định với chiều dài đường địa giới 83 km.
- Phía Tây giáp tỉnh Kon Tum với chiều dài đường địa giới 79 km.
- Phía Đơng giáp Biển Đơng.
Hình 1.2: Bản đồ hành chính tỉnh Quảng Ngãi
Nằm ở vị trí trên, Quảng Ngãi gần như trung tâm của cả nước. Quảng Ngãi
cách thủ đơ Hà Nội 890 km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 824 km
về phía Nam theo đường Quốc lộ 1A. Nhờ vậy, vị trí địa lí Quảng Ngãi tạo điều
kiện thu hút du khách đến từ miền Bắc và miền Nam của đất nước. Hơn nữa, Quảng
Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có hệ thống giao thơng thuận
lợi như: Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc – Nam chạy qua tỉnh, tuyến Quốc lộ 24 nối tỉnh
Quảng Ngãi với Kon Tum (Tây nguyên), Lào và Đông Bắc Thái Lan, cùng các
tuyến giao thông quan trọng khác đã giúp lưu thông hàng hóa và phát triển kinh tế,
giao lưu văn hóa giữa các vùng, miền trong nước và quốc tế… Đây là lợi thế thu hút
du khách đến với Quảng Ngãi.
1.2.2. Đặc điểm tự nhiên
1.2.2.1. Địa chất, địa hình
Địa hình tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông với các dạng địa
hình đồi núi, đồng bằng ven biển xen lẫn với nhau. Phía Tây của tỉnh là sườn Đơng

của dãy Trường Sơn, tiếp đến là địa hình núi thấp và đồi xen kẽ đồng bằng, có nơi
núi chạy sát biển, đồi núi chiếm phần lớn diện tích, đồng bằng ven biển nhỏ hẹp (trừ
đồng bằng thuộc hạ lưu sông Trà Khúc, sơng Vệ). Sự phân hóa của địa hình tác
động mạnh đến hoạt động du lịch giữa đồng bằng và miền núi.
1.2.2.2. Khí hậu

15


Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình, Quảng Ngãi có nền nhiệt độ cao
và ít biến động. Chế độ ánh sáng, mưa ẩm phong phú, nhiệt độ trung bình năm trên
250C, khơng có mùa đơng lạnh. Lượng mưa trung bình năm trên 2.000 mm, mưa
phân mùa rõ rệt: mùa mưa tập trung từ tháng 9 đến tháng 12 (chiếm 70 – 80%
lượng mưa cả năm); Trung bình khoảng 4 năm có một cơn bão hoặc áp thấp nhiệt
đới ảnh hưởng trực tiếp đến Quảng Ngãi.
1.2.2.3. Thủy văn
Sơng ngịi Quảng Ngãi đều xuất phát từ phía tây của tỉnh (Đông Trường
Sơn) đổ ra biển Đông. Sông ngắn và độ dốc cao (10,5 0 – 330), lịng sơng cạn và hẹp
nên vào mùa mưa (có lượng mưa rất nhiều) dịng chảy có cường độ mạnh, thường
gây ra lũ lụt lớn, gây tác hại lớn cho sản xuất và đời sống, mặt khác sơng ngịi tạo
nên nhiều thác ghềnh và thắng cảnh đẹp, là tiềm năng cho phát triển du lịch. Với
mạng lưới sơng ngịi dày đặc, các phụ lưu của hệ thống sông Trà Bồng, Trà Khúc,
sông Vệ và Trà Câu đều bắt nguồn từ những vùng núi cao với lượng nước dồi dào.
Đây khơng chỉ có giá trị thủy năng mà còn là nguồn nước quan trọng cho hoạt động
sản xuất, phát triển du lịch.
1.2.2.4. Sinh vật
Với địa hình đa dạng và khí hậu nhiệt đới gió mùa, Quảng Ngãi có hệ động thực vật khá phong phú, là nguồn tài nguyên quan trọng cho hoạt động du lịch.
Quảng Ngãi có đa dạng sinh học cao, có nhiều hệ sinh thái đặc thù, có nhiều thắng
cảnh tự nhiên đẹp, là tiềm năng to lớn cho hoạt động du lịch phát triển.
Do địa hình nghiêng từ tây sang đơng, nhiều dãy núi trong tỉnh có độ cao

trên 900m hình thành nhiều đỉnh, với sườn núi hướng về các phía khác nhau, tạo
nên nhiều kiểu khí hậu. Do vậy, thảm thực vật cũng có những thành phần và số
lượng thay đổi, kéo theo sự phân bố đặc trưng của các loài động vật. Cấu tạo phức
tạp của các dãy núi ở Quảng Ngãi đã tạo nên nhiều khe suối, nên khu hệ động –
thực vật phân hóa khá đa dạng và phức tạp, tạo nên nhiều phong cảnh đặc trưng cho
mỗi địa phương: rừng phi lao xanh ngắt ven biển, rừng tre nứa trên núi cao Ba Tơ,
Sơn Tây, rừng quế bạt ngàn ở Trà Bồng, rừng cau xanh mướt ở Tây Trà…
1.2.3.5. Đất đai
Quảng Ngãi có 9 nhóm đất chính là: cồn cát và đất cát ven biển, đất mặn, đất
phù sa, đất glây, đất xám, đất đỏ vàng, đất đen, đất nứt nẻ, đất xói mịn trơ sỏi đá và
chủ yếu là thành phần cơ giới nhẹ, hơi chặt. Trong đó, nhóm đất xám chiếm diện
tích lớn nhất (74,7% diện tích đất tự nhiên) thích hợp với các loại cây công nghiệp
dài ngày, cây đặc sản, cây dược liệu, chăn nuôi đại gia súc phân bố khắp các huyện
trong tỉnh nhưng chủ yếu tập trung ở các huyện Ba Tơ, Minh Long, Sơn Hà, Trà

16


Bồng, Sơn Tây; nhóm đất phù sa thuộc hạ lưu các sơng (19,3% diện tích đất tự
nhiên) thích hợp trồng lúa, cây công nghiệp ngắn ngày, rau đậu… phân bố chủ yếu
ở vùng đồng bằng thuộc các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, thành phố Quảng Ngãi, Tư
Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ, Nghĩa Hành và ở ven các sông suối thuộc huyện Ba Tơ,
Sơn Hà, Trà Bồng. Còn lại là các nhóm đất khác. Trong đó đáng chú ý là đất cát và
dải cồn cát ven biển, tạo nên phong cảnh đặc trưng cho các bãi biển – bãi cát vàng
óng bên hàng phi lao xanh mát – địa điểm thu hút du khách đến với Quảng Ngãi.
Hiện trạng sử dụng đất Quảng Ngãi phân hóa như sau:
- Đất nơng nghiệp hiện có 416.766 ha (bằng 80,9% tổng diện tích tự nhiên).
Trong đó, đất sử dụng vào sản xuất nơng nghiệp có 140.734 ha, đất lâm nghiệp
274.654 ha, đất ni trồng thủy sản 1.149 ha, đất làm muối có 133 ha, đất nơng
nghiệp khác có 96 ha.

- Đất phi nơng nghiệp 53.470 ha (chiếm 10,4% tổng diện tích tự nhiên), đất
chưa sử dụng có 45.033 ha (chiếm 8,7% tổng diện tích tự nhiên).

Hình 1.4. Biểu đồ hiện trạng sử dụng đất của tỉnh Quảng Ngãi năm 2013
1.2.3. Khái quát điều kiện kinh tế - xã hội Quảng Ngãi
1.2.3.1. Đặc điểm dân cư và nguồn lao động
Dân số toàn tỉnh năm 2014 có 1.241.400 nguời. Dân số của tỉnh sống chủ
yếu ở trong khu vực đồng bằng. Mật độ dân số trung bình của tỉnh là 241
người/km2. Mật độ các huyện trong tỉnh có sự chênh lệch khá lớn, cao nhất là huyện
đảo Lý Sơn 1.846 nguời/km2, tiếp đến là thành phố Quảng Ngãi 1.553 người/km 2,
thấp nhất là huyện Ba Tơ 47 người/km 2. Dân cư phân bố tại các khu vực cũng khác
nhau. Cụ thể như sau:
- Khu vực đồng bằng có: 1.014.492 nguời, chiếm 81,7% dân số của tỉnh
- Khu vực miền núi có: 207.853 nguời, chiếm 16,8% dân số của tỉnh
- Khu vực hải đảo có: 19.055 người, chiếm 1,5% dân số của tỉnh

17


Bảng 1.4.Diện tích, dân số và mật độ dân số tỉnh Quảng Ngãi năm 2014
Khu vực

Diện tích
(Km2 )

Dân số
(người)

Khu vực đồng bằng


1.897,61

1.014.492

Mật độ dân
số
(người/km2 )
535

Khu vực miền núi

3.244,76

207.853

64

Khu vực hải đảo

10,32

19.055

1.846

Nguồn : [5]
Theo số liệu thống kê của tỉnh, năm 2014 dân số tồn tỉnh là 1.241.400
nguời. Trong đó, dân số thành thị là 182.791 người chiếm 14,7%, dân số nơng thơn
là 1.058.609 người chiếm 85,3% dân số tồn tỉnh. Đây là một yếu tố thuận lợi cho
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh bởi vấn đề lao động tại chỗ cơ bản được

giải quyết. Chất lượng lao động ngày càng được cải thiện. Năm 2014 số học sinh tốt
nghiệp trung học phổ thông đạt 96,3%, số học sinh học ở các trường trung cấp, cao
đẳng, đại học ngày càng đông. Tuy nhiên, chất lượng lao động cũng là vấn đề lớn
đặt ra với tỉnh.
Dân cư phân bố không đều trên các địa bàn lãnh thổ, trình độ dân trí cịn thấp
nhất là vùng sâu, vùng xa, trình độ chun mơn, kỹ thuật lành nghề cịn hạn chế,
thiếu đội ngũ lao động có chất lượng cao, thiếu chuyên gia giỏi... Do đó, vấn đề
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, phát huy yếu tố nội lực con người là
nhiệm vụ cấp bách trước mắt cũng như chiến lược lâu dài của tỉnh nhằm đáp ứng
kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Cùng với xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành, nên tỉ lệ lao động trong ngành du
lịch ngày càng tăng năm 2007 là 1650 người, đến năm 2014 là 8370 người, tăng lên
6720 người so với năm 2007. Tốc độ tăng bình quân là 22,5%. Đây là tốc độ tăng
nhanh so với mặt bằng chung.
Bảng 1.5: Số lao động trong ngành du lịch Quảng Ngãi, giai đoạn 2007- 2014
Đơn vị: Người
Năm
Tổng số
Lao động trực tiếp
Lao động gián tiếp

2007
3400
950
2450

2008
2009
2010
2011

2012
2013
4200
4960
6045
6355
6820
7200
1200
1600
1950
2050
2200
2400
3000
3360
4095
4305
4620
48004
Nguồn: Sở Thể thao, Văn hóa và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi

So với những năm trước đây, chất lượng lao động trong ngành du lịch của
tỉnh đã có những cải thiện đáng kể. Năm 2001, tỷ lệ lao động lao động trong ngành

18

2014
8370
2700

5670


du lịch có trình độ đại học và cao đẳng là 23,5%, lao động đã qua đào tạo khác
chiếm gần 17%, còn lại là lao động chưa qua đào tạo chiếm tới 50%.
Năm 2010 và 2012, tỷ lệ lao động có trình độ đại học và trên đại học tăng lên
hơn 60% trong tổng số 6.820 lao động toàn ngành, lao động cao đẳng và trung cấp
chiếm 38,5%, khơng cịn lao động chưa qua đào tạo.
1.2.3.2. Hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội
Tỉnh Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, vị thế này
tạo cho tỉnh nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế - xã hội. Khi nhà máy lọc dầu
Dung Quất được xây dựng và đi vào hoạt động đã góp phần thúc đẩy mạnh tăng
trưởng kinh tế và chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng cơng nghiệp
hố, hiện đại hố.
Lĩnh vực nơng – lâm – thủy sản mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai,
lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh và tình hình biển Đơng diễn biến phức tạp nhưng giá trị
sản xuất vẫn đạt cao, ước khoảng 3.294 tỷ đồng, tăng 4,3% so với năm 2013 và
vượt kế hoạch; trong đó, giá trị sản xuất nơng nghiệp ước đạt 10,838 tỷ đồng, trồng
trọt ước đạt 6,161 tỷ đồng, chăn nuôi ước đạt 4,065 tỷ đồng. Về ngành đánh cá, tỉnh
có gần 5.500 tàu cá với 7 nghiệp đồn nghề cá gồm 2.350 đồn viên (2014). Trong
đó 405 tàu đánh bắt tại Hồng Sa, Trường Sa.
Lĩnh vực cơng nghiệp có bước chuyển tích cực, hầu hết các sản phẩm công
nghiệp chủ yếu sản xuất đạt và vượt kế hoạch, nâng tổng giá trị sản xuất công
nghiệp của năm ước đạt 11.528 tỷ đồng.
Lĩnh vực dịch vụ, thương mại tiếp tục đà phát triển tốt, tổng mức bán lẻ hàng
hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng 13,2%, vượt kế hoạch đề ra.
1.2.4. Tình hình phát triển du lịch Quảng Ngãi
Với những lợi thế nhất định về vị trí và đặc điểm tài nguyên du lịch, trong đó
nổi bật là tài nguyên du lịch biển - đảo, Quảng Ngãi được đánh giá là điểm đến
quan trọng của du khách, đặc biệt là trên tuyến du lịch xuyên Việt.

Trong những năm qua cùng với tiến trình phát triển du lịch cả nước lượng
khách du lịch đến Quảng Ngãi liên tục tăng với mức tăng trưởng tương đối cao.
a. Khách du lịch
Tổng lượng khách du lịch tăng đều qua các năm. Năm 2006, Quảng Ngãi
đón 195.000 lượt khách, trong đó 12.500 lượt khách quốc tế và 182.500 lượt khách
nội địa. Đến năm 2007 con số này tăng lên và những năm tiếp theo lượng khách du
lịch đến Quảng Ngãi cũng tăng lên không ngừng. Cụ thể như ở bảng 1….
Bảng 1.6. Số du khách đến Quảng Ngãi giai đoạn 2007 - 2015
Năm

Số lượng khách

19


2006
2010
2015

Khách nội địa
Khách quốc tế
182.500
12.500
305.000
25.000
550.000
50.000
Nguồn: Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Quảng Ngãi

Hình 1.4. Biểu đồ cơ cấu khách du lịch đến Quảng Ngãi, giai đoạn 2007-2015

Tốc độ tăng trưởng trung bình về khách du lịch cho cả giai đoạn là
13,3%/năm trong đó:
- Khách quốc tế đạt 16,5%/năm. Chủ yếu là các nước Hàn Quốc, Thái Lan,
Nhật Bản, Úc, Mỹ, Pháp. Khách du lịch quốc tế đến Quảng Ngãi chủ yếu là khách
du lịch công vụ, một lượng nhỏ là khách tham quan các di tích lịch sử - văn hóa,
nghiên cứu về chứng tích chiến tranh, tìm hiểu cơ hội đầu tư. Thời gian lưu trú
trung bình của khách quốc tế tăng từ 1,6 ngày lên 2,6 ngày. Ước tính đến năm 2016,
Quảng Ngãi đón 54,000 lượt. Phấn đấu đến năm 2020 đạt 70,000 lượt khách.
- Khách nội địa đạt 13%/năm, chủ yếu từ các tỉnh Đông Nam Bộ, Tây Nam
Bộ, miền Bắc và khách nội tỉnh đến tham quan, cùng với khách đến thăm dò để tìm
kiếm cơ hội đầu tư, tham quan di tích lịch sử – văn hóa, tìm hiểu về chứng tích
chiến tranh, nghỉ dưỡng biển, đi công vụ. Thời gian lưu trú từ 1,3 lên 2 ngày. Ước
tính đến năm 2016 đạt 646,000 lượt và phấn đấu đến năm 2020 đạt 880,000 lượt
khách.

20


So sánh lượng khách du lịch đến Quảng Ngãi với các tỉnh lân cận trong khu
vực Nam Trung Bộ và cả nước cho thấy lượng khách du lịch đến với Quảng Ngãi
thời gian qua nếu tính cả khách tham quan trong ngày đạt ở mức trung bình của cả
nước và mức thấp so với các tỉnh trong vùng (đứng thứ 7/8 tỉnh thành phố trong
vùng và thứ 36/63 tỉnh, thành trên cả nước).
b. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch và doanh thu
Cơ sở hạ tầng
Trong những năm gần đây, Quảng Ngãi đã thu hút được các thành phần kinh
tế đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng tạo nên tốc độ phát triển khá nhanh.
Về cơ sở lưu trú có 90 cơ sở lưu trú với 2200 buồng năm 2014, tồn tỉnh có 7
khách sạn được xếp hạng tiêu chuẩn từ 3 – 4 sao, 10 khách sạn đạt tiêu chuẩn 1 – 2 sao.
Về cơ sở ăn uống bao gồm restaurant, coffee-shop, bar, quán ăn nhanh v.v...

Ngồi ra, tồn tỉnh hiện có 3 khu du lịch cấp địa phương, và nhiều điểm tham
quan du lịch khác, 10 doanh nghiệp lữ hành, một số tiện nghi thể thao (1 sân vận động,
13 nhà tập và thi đầu, 7 bể bơi), vui chơi giải trí, hội nghị hội thảo. Đây là những cơng
trình và phương tiện dịch vụ góp phần hấp dẫn và tăng thời gian lưu trú của khách du
lịch.
Doanh thu
Tổng thu từ khách du lịch bao gồm tất cả các khoản thu do khách du lịch chi
trả gồm thu từ dịch vụ lưu trú, ăn uống, đi lại, mua sắm và từ các dịch vụ khác v.v...

Hình 1.5. Biểu đồ doanh thu du lịch Quảng Ngãi, giai đoạn 2007-2014
Qua biểu đồ có thể thấy, doanh thu du lịch vẫn tăng qua các năm đạt mức chung
của cả nước, nhưng vì lượng khách cịn ít đặc biệt là khách quốc tế nên tổng thu từ khách

21


du lịch của tỉnh không cao. So với mặt bằng chung của du lịch Việt Nam, tổng thu từ du
lịch Quảng Ngãi đứng 7/8 tỉnh, thành phố trong vùng và 30/63 tỉnh, thành cả nước.
Theo thống kế của ngành du lịch địa phương, giá trị gia tăng (GDP) du lịch
Quảng Ngãi năm 2001 đạt 2,6 tỷ đồng, năm 2005 đạt 50,5 tỷ đồng và năm 2010 là
140 tỷ đồng, đến năm 2012 gần 200 tỷ đồng. Tỷ trọng GDP du lịch trong tổng GDP
tồn tỉnh cịn thấp.

22


CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM THỜI TIẾT VÀ KHÍ HẬU TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến khí hậu tỉnh Quảng Ngãi
2.1.1. Vị trí địa lí
Với đặc điểm vị trí địa lí đã trình bày ở trên cho thấy tỉnh Quảng Ngãi nằm ở

vị trí thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy, đây cũng là điều kiện thuận lợi
cho hoạt động du lịch phát triển.
Về phương diện khí hậu, do ở vĩ độ thấp nên hàng năm Quảng Ngãi nhận
được lượng bức xạ lớn, nền nhiệt cao, quyết định thiên nhiên Quảng Ngãi là thiên
nhiên nhiệt đới điển hình. Bức xạ mặt trời là một nhân tố quan trọng chi phối đến
các đặc trưng khí hậu. Quảng Ngãi là địa phương nằm ở vĩ độ thấp nên góc nhập xạ
rất lớn, thời gian chiếu sáng dài, hàng năm Quảng Ngãi có hai lần mặt trời đi qua
thiên đỉnh (lần 1: khoảng cuối tháng 4 đầu tháng 5, lần 2: khoảng giữa tháng 8). Vì
vậy, chế độ nhiệt của Quảng Ngãi mang đặc trưng của chế độ nhiệt vùng nội tuyến
(có 2 cực đại và 2 cực tiểu), với nền nhiệt cao quanh năm. Nền nhiệt cao và ít biến
động là điều kiện thuận lợi cho hoạt động du lịch diễn ra quanh năm. Quảng Ngãi
nằm ở vị trí thuộc miền khí hậu nhiệt đới gió mùa Đơng Trường Sơn, nên khơng có
mùa đơng lạnh, mùa mưa lệch pha với mùa mưa chung của cả nước (từ tháng 9 đến
tháng 1 năm sau).
Cũng như các tỉnh miền Trung, do nằm ở vị trí này nên Quảng Ngãi chịu ảnh
hưởng mạnh của bão và áp thấp nhiệt đới, vào những ngày thời tiết xấu, hoạt động
du lịch gặp nhiều khó khăn, thậm chí khơng thực hiện được.
Nhìn chung vị trí địa lý của tỉnh Quảng Ngãi có nhiều thuận lợi cho việc khai
thác những thế mạnh về tài nguyên khí hậu phục vụ triển du lịch.
2.1.2. Địa hình
Quảng Ngãi nằm ở vị trí chuyển tiếp từ Đơng Trường Sơn xuống biển Đơng,
nên độ cao địa hình thấp dần từ tây sang đơng. Vùng núi phía tây của tỉnh là phần
cuối của sườn Đông dãy Trường Sơn. Địa hình đồi núi chiếm đến 3/4 diện tích tự
nhiên, đồng bằng nhỏ hẹp kẹp giữa bởi dải cồn cát dọc bờ biển. Địa hình có sự
chuyển tiếp khơng liên tục và phân hoá thành các dạng như sau:
- Vùng núi có độ cao từ 300 – 1500m, nằm ở phía tây của tỉnh. Quảng Ngãi
có nhiều đỉnh cao trên 1400, như Tà Cum (1.442m), Cà Đam (1.415m) thuộc Trà
Bồng; Núi Roong (1.459m), Na Zin (1.408m) thuộc Sơn Tây. Độ dốc sườn lớn (25350), độ cao giảm dần từ Tây sang Đơng. Theo độ cao, địa hình phân hóa thành núi
trung bình và núi thấp, đan xen với các thung lũng sông (sông Trà Bồng, Trà Khúc,
Sông Vệ…), nên mức độ chia cắt ngang và chia cắt thẳng đứng mạnh. Địa hình góp

phần phân hóa nhiệt theo đai cao và phân hóa lại lượng mưa trên tồn tỉnh. Địa hình

23


đã tăng cường sự phân hóa khí hậu địa phương cho Quảng Ngãi. Ở vùng núi - xuất
hiện đai khí hậu mát mẻ trên núi với trạng thái ẩm ướt quanh năm. Đây là điều kiện
thuận lợi cho các hoạt động du lịch nghỉ dưỡng.
- Vùng đồi có độ cao từ 25 - 30 m đến 300m, là phần chuyển tiếp từ vùng
núi xuống đồng bằng, gồm 3 bộ phận: Đồi sót, thấp thoải, cao 25 - 75m, rải rác
trong đồng bằng (Bình Sơn, Sơn Tịnh); Đồi thấp, có độ cao 75 - 100m, ở rìa đồng
bằng thuộc huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Nghĩa Hành,Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ.
Đồi cao, có độ cao 100 - 200, 300m, chuyển tiếp từ đồi lên núi thấp, điển hình ở
Đơng - Nam huyện Đức Phổ. Các dải đồi thấp lan ra sát biển tạo thành bức chắn địa
hình ngăn cản ảnh hưởng của biển vào, vì vậy, phân Đơng nam của tỉnh là nơi có
lượng mưa thấp nhất.
- Vùng đồng bằng khá bằng phẳng ở phía đơng, độ cao dưới 30m. Gồm 3
đồng bằng lớn: đồng bằng sông Trà Bồng, đồng bằng phù sa sông Trà Khúc và
đồng bằng đồi sông Vệ và sông Trà Câu. Dải đồng bằng bị chia cắt bởi nhiều dãy
núi lấn ra biển và những dải cồn cát cao (10 - 15m) lấn sâu vào đồng bằng. Do độ
cao thấp hơn miền núi nên ở đồng bằng có nền nhiệt chung cao hơn nhưng lượng
mưa thấp hơn vùng núi phía tây. Ven bờ biển, địa hình phân hóa khá mạnh, có
nhiều dạng địa hình: mũi Ba Làng An, cửa sơng, bờ biển tích tụ, bờ có đầm, phá
nước mặn... Nhiều bãi biển đẹp với khí hậu thống gió, trở thành điểm thu hút du
khách (bãi biển Dung Quất, Khe Hai, Mỹ Khê, Sa Huỳnh...).
2.1.3. Hồn lưu khí quyển
Việt Nam nói chung, Quảng Ngãi nói riêng nằm ở trung tâm khu vực "Châu
Á gió mùa", là nơi chịu ảnh hưởng ln phiên của nhiều luồng khơng khí có nguồn
gốc khác nhau tràn tới, vào mùa đơng có trung tâm áp cao Xibia mang theo khơng
khí lạnh và khơ tràn xuống phía bắc của nước ta đến miền trung bị dãy núi Bạch Mã

chặn lại nhưng cũng chịu ảnh hưởng của khơng khí lạnh ở phía bắc nhưng ít khắc
nghiệt hơn ở phía bắc, vào mùa hạ chịu ảnh hưởng của gió mùa tây nam mang theo
khối khí xích đạo nóng ẩm từ Ấn Độ Dương tới, gây mưa lớn, nhất là tại các sườn
đón gió phía tây khi đến sườn phía đơng của nước ta trong đó có Quảng Ngãi gây ra
hiệu ứng Phơn làm cho thời tiết khơ nóng, khó chịu . Do vị trí địa lý và điều kiện
địa hình khác nhau nên mỗi địa phương ở Quảng Ngãi hệ quả tác động của hồn lưu
khí quyển khác nhau rõ rệt. Hệ thống khí áp chính chi phối thời tiết Quảng Ngãi bao
gồm các trung tâm khí áp vĩnh cửu và các trung tâm khí áp hoạt động theo mùa
2.1.4. Tính chất bề mặt đệm
Quảng Ngãi là tỉnh có địa hình tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang
Đông, đồi núi thấp chiếm phần lớn diện tích, đất đai ở đây chủ yếu là đất xám thích

24


×