Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Nghiên Cứu Khả Năng Thích Ứng Của Một Số Giống Lúa Có Triển Vọng Thuộc Loài Phụ Japonica Tại Thành Phố Yên Bái, Tỉnh Yên Bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.61 KB, 110 trang )

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

PHẠM THU HÀ

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA MỘT SỐ
GIỐNG LÚA CÓ TRIỂN VỌNG THUỘC LOÀI PHỤ
JAPONICA TẠI THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI
Chuyên ngành: Trồng trọt
Mã số: 60.62.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Thái Nguyên, 2011


2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

PHẠM THU HÀ

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA MỘT SỐ
GIỐNG LÚA CÓ TRIỂN VỌNG THUỘC LOÀI PHỤ
JAPONICA TẠI THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI
Chuyên ngành: Trồng trọt
Mã số: 60.62.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. TRẦN NGỌC NGOẠN
TS. ĐẶNG QUÝ NHÂN

Thái Nguyên, 2011


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận
văn này là hoàn toàn trung thực, chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị
nào. Mọi sự giúp đỡ cho hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các
thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc tham
khảo.
Tác giả

Phạm Thu Hà


4

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự quan
tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu, Khoa đào tạo sau đại học trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên, Thành ủy, UBND thành phố Yên Bái, Ủy ban nhân
dân xã Tân Thịnh, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Yên Bái.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
GS.TS Trần Ngọc Ngoạn - phó Hiệu trưởng, TS Đặng Quý Nhân

Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên là những người Thầy đã tận tình giúp
đỡ tôi trong quá trình thực hiện nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Ban giám hiệu, Khoa đào tạo sau đại học trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, và các thầy cô giáo đã giảng dạy, truyền đạt kiến thức, tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Thành ủy, UBND thành phố Yên Bái, Ủy ban nhân dân xã Tân Thịnh,
Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Yên Bái, cùng bạn bè đồng
nghiệp và người thân đã quan tâm giúp đỡ và động viên tối trong quá trình
học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !

Tác giả

Phạm Thu Hà


5

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................7
1. Đặt vấn đề ...............................................................................................................8
2. Mục tiêu của đề tài ................................................................................................10
2.1 Mục tiêu tổng quát:……………………………………………………………...3
2.2 Mục tiêu cụ thể: ...................................................................................................11
3. Ý nghĩa của đề tài ..................................................................................................11
Chương 1 ...................................................................................................................12
TỔNG QUAN TÀI LIỆU .........................................................................................12
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài ..................................................................................12
1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa trên thế giới ............................................14
1.2.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới ................................................................14

1.2.2. Tình hình nghiên cứu lúa trên thế giới ............................................................19
1.2.3. Tình hình nghiên cứu giống lúa thuộc loài phụ Japonica trên thế giới..................26
1.3. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa ở Việt Nam ............................................28
1.3.1. Tình hình sản xuất lúa trong nước ..................................................................28
1.3.2. Tình hình nghiên cứu lúa trong nước ..............................................................32
1.3.3. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống lúa chất lượng ở Việt Nam..................35
1.3.4. Tình hình sản xuất lúa gạo chất lượng cao ở Việt Nam ..................................38
1.3.5. Tình hình nhập nội và sản xuất giống lúa thuộc loài phụ Japonica ......................39
Chương 2 ...................................................................................................................43
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .........................43
2.1. Đối tượng, nội dung và địa điểm nghiên cứu.....................................................43
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................43
2.1.2. Nội dung nghiên cứu .......................................................................................43
2.1.3.Thời gian, địa điểm tiến hành nghiên cứu........................................................44
2.2. Bố trí thí nghiệm ...............................................................................................44
2.3 Các chỉ tiêu cần theo dõi:……………………………………………
.38
2.3.1. Chỉ tiêu chất lượng mạ……………………………………………….

. .38

2.3.2. Chỉ tiêu về khả năng đẻ nhánh ........................................................................46
2.3.3. Chiều cao cây cuối cùng .................................................................................46
2.3.4. Các chỉ tiêu về sâu bệnh hại ............................................................................46
2.3.5. Tính chịu lạnh ở giai đoạn mạ.........................................................................49
2.3.6. Tính chống đổ .................................................................................................49
2.3.7. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất ..................................................49
2.3.8. Đánh giá phẩm chất, chất lượng các giống lúa ..............................................50
2.3.9. Đánh giá hiệu quả kinh tế................................................................................51



6

2.4. Phương pháp sử lý số liệu ..................................................................................51
Chương 3 ...................................................................................................................52
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ..................................................................................52
3.2. Kết quả thí nghiệm so sánh ở vụ Mùa 2010 và vụ Xuân 2011 ..........................54
3.2.1 Sinh trưởng và phát triển của mạ .....................................................................54
3.2.2. Các thời kỳ sinh trưởng, phát triển của các giống lúa thí nghiệm ...................56
3.2.3. Chiều cao cây của các giống lúa thí nghiệm ...................................................58
3.2.4. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm...........................................60
3.2.5. Khả năng chống chịu sâu bệnh chính hại lúa ..................................................62
3.2.6 Tính chống đổ ..................................................................................................64
3.2.7 Các yếu tố cấu thành năng suất lúa ..................................................................64
3.2.7.1. Chiều dài bông .............................................................................................65
3.2.7.2. Số bông/m2 ...................................................................................................66
3.2.7.3. Số hạt/bông...................................................................................................67
3.2.7.4. Số hạt chắc/bông .........................................................................................68
3.2.7.5. Khối lượng 1000 hạt ....................................................................................68
3.2.7.6. Năng suất lý thuyết......................................................................................69
3.2.7.7. Năng suất thực thu của các giống lúa thí nghiệm ........................................70
3.3. Phẩm chất và chất lượng các giống lúa ..............................................................71
3.3.1 Chất lượng xay xát ...........................................................................................73
3.3.2. Chất lượng thương trường ...............................................................................73
3.3.3. Chất lượng chế biến (chất lượng cơm)............................................................74
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .......................................................................................75
1.Kết luận ..................................................................................................................75
2. Đề nghị ..................................................................................................................76
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................77



7

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của thế giới từ năm 1995 -2009 ...16
Bảng 1.2 Tình hình sản xuất lúa của 10 nước đứng đầu thế giới năm 2009............19
Bảng 1.3: Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Việt Nam giai đoạn từ năm
1961 đến năm 2009 ...................................................................................................31
Bảng 3.1:Tình hình sử dụng đất đai của Thành phố Yên Bái ...................................52
Biểu đồ 3.1: Tình hình sử dụng đất đai của thành phố Yên Bái ...............................52
Bảng 3.2. Diện tích, năng suất, sản lượng lúa giai đoạn 2005-2010 .......................53
Biểu đồ 3.2: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa giai đoạn 2005-2010 ....................53
Bảng 3.3. Sinh trưởng và phát triển của mạ vụ Mùa 2010 và vụ Xuân 2011 ...........55
Bảng 3.4. Các thời kỳ sinh trưởng, phát triển của các giống lúa ..............................57
Bảng 3.5. Chiều cao cây cuối cùng của các giống lúa thí nghiệm ............................59
Bảng 3.6. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm vụ mùa 2010 ..............60
Bảng 3.7. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm vụ Xuân 2011 ............61
Bảng 3.8 Tình hình sâu bệnh hại các giống lúa thí nghiệm ......................................63
Bảng 3.9: Các yếu tố cấu thành và năng suất của các giống lúa thí nghiệm vụ Mùa
2010 ...........................................................................................................................65
Bảng 3.10: Các yếu tố cấu thành và năng suất của các giống lúa thí nghiệm ..........66
vụ Xuân 2011 ............................................................................................................66
Biểu đồ 3.3: Năng suất lý thuyết và năng suất thực thu............................................71
Bảng 3.11. Chất lượng gạo của các giống lúa tham gia thí nghiệm .........................72


8

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề

Cây lúa (Oryza sativa . L) là cây trồng có từ lâu đời và gắn liền với quá
trình phát triển của loài người. Từ buổi ban đầu của nền văn minh, cây lúa là
cây được trồng gắn liền với quá trình phát triển của loài người và đã trở thành
cây lương thực chính của Châu Á nói chung, người Việt Nam ta nói riêng và
có vai trò quan trọng trong nét văn hoá ẩm thực của dân tộc ta.
Khi xã hội càng phát triển, nhu cầu ăn ngon của người dân ngày càng
tăng vì cây lúa đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày
của người dân trong và ngoài nước.
Diện tích trồng lúa trên thế giới không ngừng tăng, hiện có khoảng 154
triệu ha. Tổng sản lượng lúa gạo đạt trên 615 triệu tấn, cung cấp cho cả thế
giới [FAO STAT 2005].
Tại Việt Nam từ khi giành được độc lập (1945) đến nay, diện tích trồng
lúa gạo không ngừng được mở rộng, năng suất ngày càng tăng, nhân dân ta có
truyền thống cần cù trong lao động, thông minh sáng tạo trong thực hiện lao
động sản xuất, biết tận dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để
không ngừng nâng cao năng suất của lúa gạo. Từ những năm đầu thực hiện
công cuộc đổi mới của đất nước (1986) chúng ta vẫn nằm trong các nước
thiếu lương thực trầm trọng, song với đường lối đổi mới của Đảng ngành
nông nghiệp đã có bước khởi sắc, chúng ta từ một nước nhập khẩu lương thực
đã trở thành nước xuất khẩu lương thực đứng thứ 2 thế giới (sau Thái Lan).
Thành phố Yên Bái là đô thị loại 2, là trung tâm chính trị, kinh tế của
tỉnh Yên Bái. Thành phố Yên Bái có dân số 94.915 người, đời sống vật chất
không ngừng nâng cao, nhu cầu lương thực ngày càng tăng theo xu hướng sử
dụng gạo có chất lượng trong bữa ăn hàng ngày của người dân đô thị. Nhưng
hiện tại mới có vài nơi gieo trồng lúa có chất lượng cao với quy mô nhỏ hẹp với
tổng diện tích ước khoảng 80 ha, số lượng này chỉ đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu
dùng tại chỗ từ 5-10%, còn lại toàn bộ lượng thiếu hụt phải nhập từ các tỉnh lân


9


cận khác. Trong khi đó đất đai Yên Bái màu mỡ, lao động dư thừa, khí hậu ôn
hoà phù hợp cho mở rộng, phát triển diện tích lúa có triển vọng về năng suất
và chất lượng.
Sở dĩ chúng ta chưa khai thác lợi thế về tiềm năng và thị trường tiêu thụ
bởi những năm qua chúng ta chưa có đề tài nghiên cứu và ứng dụng đưa các
giống lúa có năng suất cao, chất lượng tốt vào sản suất và nâng cao hiệu quả
kinh tế trên đơn vị diện tích. Người dân chủ yếu trồng lúa bằng những giống
lúa thuần, theo tính chất tự phát, thiếu bộ giống tốt, thiếu kỹ thuật, thiếu định
hướng từ các cơ quan quản lý và các nhà chuyên môn, do đó diện tích lúa chất
lượng tại thành phố Yên Bái còn ít, năng suất thấp vì vậy hiệu quả kinh tế đem
lại không cao.
Cơ cấu giống lúa nhất là giống chất lượng có giá thành cao, có hiệu quả
kinh tế tại địa bàn Thành phố còn đơn điệu, chưa có nhiều giống có năng suất
cao, chất lượng tốt phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, ổn định và có thể
sản xuất bền vững, đảm bảo đáp ứng được mục tiêu chung của xã hội.
Thành phố Yên Bái có diện tích đất tự nhiên 10.815 ha, trong đó diện
tích đất nông nghiệp là 2.833 ha, đất 2 vụ lúa có 728 ha. Hàng năm diện tích
đất 2 vụ ở Thành phố Yên Bái thường được trồng 2 vụ lúa nước vào vụ Xuân
và vụ Mùa.
Việc khai thác và sử dụng đất 2 vụ trong vụ Xuân và vụ Mùa hiện nay
ở Thành phố Yên Bái đang được thúc đẩy theo hướng chuyển dịch cơ cấu sản
xuất, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế góp phần
không nhỏ trong công cuộc xoá đói giảm nghèo của Thành phố, giải quyết
vấn đề lương thực nhất là gạo có chất lượng cho người dân tại địa phương và
các vùng lân cận, tận dụng nguồn lao động nông nhàn sẵn có, ngoài ra khai
thác đất 2 vụ gieo trồng bằng các giống lúa triển vọng cũng góp phần làm
thay đổi tập quán, phương thức sản xuất tự cung, tự cấp, chuyển sang sản xuất
hàng hoá của một bộ phận nông dân nông thôn, đó là những mặt tích cực mà
việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nhất là chuyển dịch cơ cấu giống lúa trong

nông nghiệp đem lại cho nông dân.


10

Tuy nhiên do bước đầu triển khai thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu cây
trồng nhất là giống lúa có triển vọng còn gặp phải khó khăn đó là thay đổi tập
quán lâu đời của người dân khi họ chỉ biết sản xuất ra các sản phẩm tự cung,
tự cấp, họ ít quan tâm đến sản xuất hàng hoá. Vì vậy người dân còn đang lúng
túng chưa tìm ra được giống lúa có triển vọng về năng suất và chất lượng, có
giá trị kinh tế vào sản xuất.
Mục tiêu phấn đấu trong thời gian tới là góp phần nâng cao thu nhập cho
nông dân trên đơn vị diện tích, thực hiện thành công chủ trương chuyển dịch cơ
cấu cây trồng trong vụ Xuân và vụ Mùa tiến tới khai thác các cây trồng vụ
đông. Xây dựng thành công mô hình những cánh đồng đạt và vượt 50 triệu
đồng trên 1 ha theo phong trào thi đua mà ngành nông nghiệp phát động.
Để thực hiện chủ trương của Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân Thành phố
Yên Bái về thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng
mở rộng diện tích gieo cây lúa có triển vọng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế
trên đơn vị diện tích, góp phần cung cấp lương thực lúa gạo chất lượng phục
vụ cho tiêu dùng tại chỗ, theo hướng đó Thành phố Yên Bái cũng cần có vùng
chuyên canh gieo cấy lúa triển vọng về năng suất khá và chất lượng tốt, có
hiệu quả kinh tế, để thoả mãn cho nhu cầu tiêu dùng tại chỗ và cung cấp cho 1
số tỉnh bạn, Hà Nội và có thể tham gia vào chương trình xuất khẩu chung của
toàn ngành. Tuy nhiên muốn làm được điều đó, trước hết cần phải có nghiên
cứu thử nghiệm ban đầu để làm mô hình khuyến cáo mở rộng.
Xuất phát từ tình hình trên chúng tôi thực hiện đề tài:"Nghiên cứu khả
năng thích ứng của một số giống lúa thuộc loài phụ Japonica tại Thành
phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái"
2. Mục tiêu của đề tài

2.1 Mục tiêu tổng quát:
- Đánh giá khả năng thích ứng của một số giống lúa thuần thuộc loài
phụ Japonica trong vụ mùa và vụ xuân nhằm bước đầu xác định được giống
có khả năng đạt năng suất cao và phù hợp với điều kiện của tỉnh Yên Bái để
khuyến cáo phát triển bổ sung cơ cấu giống lúa của địa phương.


11

2.2 Mục tiêu cụ thể:
- Đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của một số giống lúa
thuần thuộc loài phụ Japonica trong vụ mùa 2010 và vụ xuân 2011
- Đánh giá khả năng chống chịu sâu, bệnh của các giống lúa thuần
thuộc loài phụ Japonica trong vụ mùa 2010 và vụ xuân 2011.
- Đánh giá khả năng cho năng suất của các giống lúa thí nghiệm trong
vụ mùa 2010 và vụ xuân 2011.
- Đánh giá chất lượng gạo bằng phương pháp phân tích hoá học và kết
hợp với đánh giá cảm quan.
3. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa khoa học
- Nghiên cứu xác định được thời gian sinh trưởng, phát triển, khả năng
thích ứng của các giống lúa thuần thuộc loài phụ Japonica.
- Là cơ sở cho việc đề xuất chuyển dịch cơ cấu giống cây trồng theo
hướng sản xuất hàng hoá.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Lựa chọn được một vài giống lúa có chất lượng, có hiệu quả kinh tế
cao, khuyến cáo nhân rộng mô hình với quy mô hợp lý.
- Góp phần định hướng cho nông dân chuyển từ sản xuất tự cung, tự
cấp, sang sản xuất hàng hoá.
- Đa dạng hoá thêm các giống lúa chất lượng tại địa phương.

- Đề tài mang tính ứng dụng cao, được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất,
góp phần làm thay đổi tập quán sản xuất tự cung, tự cấp, chuyển sang sản
xuất hàng hoá của nông dân.


12

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Trong điều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng cần có những giống
cây trồng tốt phù hợp với điều kiện canh tác. Vì vậy một trong những biện
pháp kinh tế kỹ thuật nhằm tận dụng các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, là
bố trí cơ cấu cây trồng phù hợp với một vùng hay một đơn vị sản xuất nông
nghiệp. Trong việc xác định giống cây trồng hợp lý đạt hiệu quả kinh tế cao,
đất đai là một trong những căn cứ quan trọng sau điều kiện khí hậu, cho nên
cần phải nắm vững mối quan hệ giữa một nhóm cây trồng với đặc điểm đất
đai thì mới xác định được cơ cấu cây trồng hợp lý, đạt hiệu quả kinh tế cao.
Giống là tư liệu sản xuất vô cùng quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp, cũng như đất đai, phân bón và công cụ sản xuất.Nếu không có giống
thì không thể sản xuất ra một loại nông sản nào. Ngày nay, quan niệm
“nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” đã không còn phù hợp nữa.
Nếu xếp giống vào hệ thống các khâu kỹ thuật canh tác thì giống tốt phải
được xếp vào vị trí trung tâm. Trong những năm gần đây, sản lượng lương
thực ở một số nước tăng lên khá nhanh, chủ yếu nhờ áp dụng trên quy mô
lớn các biện pháp kỹ thuật nông nghiệp thích hợp mà chủ yếu là cải tiến
giống. Vì giống lúa là một trong những điều kiện quyết định đến năng suất
và phẩm chất của sản phẩm thu hoạch.
Theo Thanh Tri-1987 [20] giống lúa là một trong những biện pháp
quan trọng trong việc tăng năng suất sản lượng lương thực, trong thực tiễn sản

xuất ở nhiều địa phương nếu có cơ cấu giống phù hợp với điều kiện tự nhiên
và sử dụng loại giống có độ thuần cao, phẩm chất giống tốt thì có thể nâng
cao được năng suất lúa lên từ 15-20% trở lên .
Các giống lúa khác nhau có khả năng thích ứng với điều kiện sinh thái,
thổ nhưỡng ở mỗi vùng khác nhau. Để xác định được giống tốt cho một vùng


13

sản xuất nào đó cần phải tiến hành khảo nghiệm, gieo cấy thử nghiệm qua
một vài vụ sản xuất để đánh giá khả năng thích ứng của giống đó. Do đó việc
xác định tính thích nghi của giống nào đó trước khi đưa ra sản xuất trên diện
tích rộng phải tiến hành bố trí gieo trồng tại nhiều vùng có đặc điểm sinh thái
khác nhau nhằm đánh giá khả năng thích ứng, độ đồng đều, tính ổn định, khả
năng chống chịu sâu, bệnh, mức độ chịu đất chua mặn, khả năng cho năng
suất, hiệu quả kinh tế của giống đó so với các giống đang gieo trồng đại trà
hiện có tại một khu vực hoặc một địa phương nào đó.
Ở đề tài này với mục tiêu đánh giá khả năng thích ứng của một số
giống lúa có triển vọng thuộc loài phụ Japonica với mục đích chuyển dịch cơ
cấu cây trồng có giá trị, thay thế những cây trồng hiện có chưa đáp ứng được
nhu cầu thực tiễn, cải tiến để đưa giống lúa có năng suất cao, chất lượng tốt
vào sản xuất phù hợp với điều kiện của nông dân và vùng sinh thái.
Cần phải tạo ra các giống lúa triển vọng, tạo ra sản phẩm hàng hoá, sử
dụng hợp lý phân bón, thuốc trừ sâu, giống mới có triển vọng song vẫn đảm
bảo có năng suất khá, sử dụng nước tưới và các biện pháp kỹ thuật không
khác nhiều so với tập quán canh tác của địa phương.
Đối với lúa trong sản xuất hiện nay khi đưa giống mới vào sản xuất
người ta thường quan tâm đến thị hiếu người tiêu dùng và việc tiêu thụ sản
phẩm đó ra sao.
Trong thực tế sản xuất thì mỗi giống lúa đều có ưu, nhược điểm song

sự chuyển dịch cơ cấu giống lúa như thế nào để giải quyết được nhu cầu cấp
bách của người dân nghèo mà vẫn có lợi về mặt tài chính, đem lại hiệu quả
kinh tế cao và phù hợp với đặc điểm của vùng sản xuất, của một không gian,
thời gian nhất định và được người nông dân chấp nhận và mở rộng.
Cơ cấu các giống lúa đang được gieo trồng được chọn dựa trên lợi ích
cho đa số người dân, cơ cấu các giống lúa triển vọng phải được bố trí hợp lý,
có độ an toàn, xác suất gặp rủi ro thấp nhất, phù hợp với tập quán canh tác của
địa phương, đảm bảo an toàn hệ sinh thái trong vùng


14

1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa trên thế giới
Trải qua các thời kỳ cách mạng từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn
khẳng định tầm quan trọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong những năm qua
cũng lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu và là khâu đột phá. Chỉ thị 100
của ban Bí thư (khoá IV), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khoá VI) được
triển khai đã đưa đến những thành tựu to lớn trong nông nghiệp, nông thôn
nước ta. (Chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về tiếp tục đổi mới và
phát triển nông nghiệp - nông thôn) [Website: Faostat.fao.org]
Ngày nay trong cơ chế thị trường, Đảng và Nhà nước có chủ trương
phát triển kinh tế nông nghiệp bằng việc thâm canh tăng vụ, ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất trong đó vấn đề tiến bộ về giống được đặc biệt
quan tâm. Trong những năm gần đây thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu
cây trồng trong nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả
kinh tế, Nhà nước luôn khuyến khích và mong muốn sản phẩm của nông dân
phải trở thành hàng hoá và người nông dân phải có thu nhập ổn định. Chuyển
dịch cơ cấu cây trồng nhất là cơ cấu giống lúa cần khuyến khích sự phát triển
theo hướng nằm trong khuôn khổ của sự kết hợp của 4 nhà: Nhà nước, nhà

Doanh nghiệp, nhà Khoa học và nhà nông. Sản phẩm làm ra phục vụ cho thị
trường hay nói cách khác sản xuất ra sản phẩm theo tiếng gọi của thị trường,
đảm bảo thu nhập cho người nông dân.
1.2.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới
Dân số thế giới không ngừng tăng cao. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao về lương thực, sản xuất lúa gạo trong vài thập kỷ gần đây đã có mức tăng
trưởng đáng kể, nhưng phân bố không đều do các trở ngại về tiếp cận lương
thực, thu nhập quốc gia và thu nhập của hộ gia đình không đủ để mua lương
thực, sự bất ổn giữa cung cầu, thiệt hại do thiên tai mang lại là những nhân tố
khiến cho vấn đề lương thực trở nên cấp thiết hơn lúc nào hết. Tuy tổng sản
lượng lúa không ngừng được gia tăng, năm sau cao hơn năm trước nhưng dân


15

số tăng nhanh hơn, nhất là ở các nước đang phát triển, nên lương thực vẫn là
vấn đề cấp bách phải quan tâm trong những năm trước mắt cũng như lâu dài.
Cây lúa là một loại cây ngũ cốc có lịch sử lâu đời, trải qua một quá
trình biến đổi và chọn lọc từ cây lúa dại thành cây lúa ngày nay. Cây lúa có
nguồn gốc ở vùng nhiệt đới, có khả năng thích nghi rộng nên cây lúa có thể
trồng ở nhiều vùng khí hậu khác nhau và được trồng ở nhiều nơi trên thế giới.
Cây lúa trên thế giới được trồng ở 5 vùng đất chính là: Vùng chủ động
tưới tiêu, vùng đất thấp chịu nước trời, vùng đất cao, vùng ngập nước, vùng
đất ngập do thủy triều. Có khoảng 80 triệu ha hoặc 55% diện tích đất trồng
lúa của thế giới được tưới tiêu chủ động trong suốt vụ gieo trồng. Người ta
ước tính khoảng 75% sản lượng lúa của thế giới thu từ các vùng được tưới
tiêu này. Diện tích lúa của thế giới vào khoảng 150 triệu ha hàng năm (chiếm
11% đất gieo trồng của thế giới) [19]. Trên thế giới có khoảng trên 100 nước
đang trồng lúa thì đa số nằm ở Châu Á. Cây lúa gắn bó mật thiết với các quốc
gia thuộc Đông Nam Á và Nam Á, trải rộng từ Pakistan đến Nhật Bản. Trong

số 25 nước sản xuất lúa chính của thế giới có 17 nước nằm trong vùng này và
8 nước nằm ngoài vùng (Jay Maclean, 1985). Trên 85% sản lượng lúa trên thế
giới phụ thuộc 8 nước mà những nước này đều tập trung ở Châu Á (gồm
Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, Banladesh, Việt Nam, Thái Lan, Myanmar và
Nhật Bản) [4].
Từ năm 1995 đến nay diện tích, năng suất và sản lượng lúa trên thế giới
có tăng nhưng với mức độ chậm, thậm chí sản lượng năm 2003 thấp hơn năm
1999. Bởi vì giai đoạn này trình độ sản xuất lúa của nhiều nước trên thế giới
đã phát triển tương đối cao, một số nước năng suất đã vượt trần, diện tích khai
hoang đã hết, tốc độ chuyển đổi cơ cấu cây trồng tăng, đô thị hoá diễn ra
nhanh chóng. Chúng ta thấy được điều này qua bảng 1.1.
Cây lúa còn được trồng ở nhiều nước khác trên thế giới. Riêng khối châu
Âu có 10 nước trồng lúa, với sản lượng của tất cả các vùng là 3,2 triệu tấn
(1992), chiếm 0,6% sản lượng lúa thế giới, ở Châu Phi người ta cũng đã tự túc


16

được 2/3 nhu cầu lương thực bằng lúa gạo, với năng suất chỉ bằng 40% năng
suất bình quân của thế giới, số còn lại phải nhập khẩu [12].
Diện tích, năng suất và sản lượng lúa ngày một tăng nhưng tốc độ tăng
diện tích chậm hơn nhiều so với tốc độ tăng sản lượng, như vậy sản lượng
tăng là do tăng năng suất là chủ yếu. Trong những năm gần đây, do việc sử
dụng các giống lúa mới cộng với việc áp dụng các biện pháp canh tác và bố
trí cơ cấu các trà lúa hợp lý, làm cho sản lượng lúa tăng một cách đáng kể ở
hầu hết các quốc gia trồng lúa.
Bảng 1.1: Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của thế giới từ năm 1995 -2009
Năm

Diện tích (triệu ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (triệu tấn)


1995

149,490

36,6

547,133

1996

150,171

37,8

567,646

1997

150,999

38,2

576,816

1998

151,678

38,2


579,409

1999

156,944

38,9

610,512

2000

154,106

38,8

597,931

2001

151,966

39,3

597,226

2002

147,700


39,1

577,507

2003

149,208

39,0

581,911

2004

151,027

40,2

607,128

2005

153,511

40,0

614,044

2006


156,300

41,2

644,100

2007

156,950

41,5

651,700

2008

158,955

43,1

685,013

2009

158,300

43,3

685,240

Nguồn: FAO STAT 2010

Tuy vậy, trong tương lai, sản lượng lúa của thế giới sẽ phải tăng ở mức
1,6%/năm giai đoạn 2000-2025 mới đáp ứng nhu cầu dân số ngày càng tăng


17

của thế giới. Đối với những nước đứng đầu về sản xuất lúa của Châu Á thì tỷ
lệ tăng này đòi hỏi ở mức 2,0%/năm. Đây là nhiệm vụ không dễ của các nhà
hoạch định chính sách và các nhà khoa học trong thời gian tới.
Sản lượng lúa gạo trong vài thập kỷ gần đây tăng đáng kể: Năm 1970,
sản lượng lúa chỉ là 308,8 triệu tấn. Năm 2001, diện tích lúa của thế giới là
151,966 triệu ha, năng suất 39,3 tạ/ha, sản lượng đạt 597,226 triệu tấn. Đến
năm 2002 đạt 577,507 triệu tấn. Năm 2003 đạt 581,911 triệu tấn, năm 2004
đạt 607,128 triệu tấn và đến năm 2005 đạt 614,044 triệu tấn. Năm 2006 đạt
644,100 triệu tấn. Năm 2007 tăng lên 651,7 triệu tấn. Sản lượng đạt 685,013
triệu tấn năm 2008. Năm 2009 tiếp tục tăng lên 685,240 triệu tấn.[14]
Ở Trung Quốc, trong các loại cây lương thực (gồm lúa, tiểu mạch, ngô,
đậu và khoai) thì cây lúa nước là loại cây lương thực chủ yếu, sản lượng
chiếm khoảng 40% tổng sản lượng lương thực trong cả nước. Diện tích trồng
lúa nước chủ yếu ở các vùng lưu vực sông Trường Giang, vùng Hoa Nam và
vùng cao nguyên Vân Quý. Năm 2003, Trung Quốc đã tích cực điều chỉnh cơ
cấu nông nghiệp và nông thôn mang tính chiến lược. Diện tích lúa mạch hè
thu đạt 100 triệu mẫu, tăng 15 triệu mẫu so với năm 2002, diện tích giống lúa
ngắn ngày chất lượng cao tăng 70%. Tuy nhiên, dự đoán trong năm 2004
lượng gạo trong nước của Trung Quốc vẫn không đủ cầu. Từ tháng 9 năm
2003 tới tháng 6 năm 2004, giá gạo bán liên tục tăng ở đất nước này. Để giảm
áp lực về thiếu lương thực, Trung Quốc đang có chính sách khuyến khích
thúc đẩy nông dân tích cực sản xuất mở rộng diện tích trồng lúa, gia tăng sản

lượng và quan tâm đến vấn đề chất lượng lúa gạo. Quốc vụ viện Trung Quốc
đã quyết định giao cho Tài chính Trung Ương hỗ trợ cung cấp giống lúa ngắn
ngày chất lượng cao cho 7 tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây, An Huy, Hắc
Long Giang, Cát Lâm và Liêu Ninh với trị giá 450 triệu NDT (đồng nhân dân
tệ) nhằm giúp nông dân có giống tốt để sản xuất. Trung Quốc đang có dự kiến
mở rộng phạm vi và qui mô thí điểm hỗ trợ lai tạo giống tốt và khởi động
chương trình lương thực chất lượng cao.


18

Năm 2009 diện tích trồng lúa ở Trung Quốc là 29,88 triệu ha, năng suất đạt
65,82 tạ/ha còn sản lượng đạt 196,68 triệu tấn[14]
Ở Thái Lan, lúa là cây lương thực quan trọng nhất. Lúa được trồng rải
rác ở các vùng và phân bố như sau: Gần 1/2 diện tích đất lúa ở vùng Đông
Bắc, khoảng 1/5 ở miền Trung, 1/5 ở miền Bắc và vùng núi phía Nam chỉ có
6%. Tổng diện tích đất lúa vào khoảng 10 triệu ha, trong đó 1/4 được tưới
tiêu. Sản lượng lúa bị hạn chế, dao động xung quanh 20 triệu tấn/năm kể từ
1985, đến năm 2009 sản lượng đạt 31,46 triệu tấn [14]
Indonesia là nước có diện tích trồng lúa khá lớn trong tốp 10 nước đứng
đầu thế giới. 70% đất trồng lúa được tưới tiêu với 2 vụ lúa/ năm. Việc sử dụng
các giống lúa cải tiến có năng suất cao ở đây được tăng cường đáng kể. Trên
85% diện tích lúa được trồng bằng các giống lúa mới. Tuy nhiên, đất trồng
lúa ở đây đang bị lấn dần do xây dựng nhà cửa và phát triển khu công nghiệp.
Trước kia, Indonesia là một nước thiếu lương thực, vào cuối những năm 1980
nước này đã xuất khẩu được lượng nhỏ sau đó lại trở lại tình trạng nhập khẩu
gạo. Tổng diện tích đất lúa vào khoảng 12 triệu ha, năm 2001 năng suất đạt
43,8 tạ/ha, đến năm 2009 năng suất đạt 49,98 tạ/ha và sản lượng 64,39 triệu
tấn diện tích đã tăng lên 12,88 triệu ha. [14]
Myanmar có 52% diện tích đất lúa là vùng đất thấp chịu nước trời, 18%

đất thấp có tưới tiêu. Lúa ngập nước được trồng khoảng 24% và đất cao chỉ
chiếm 6%. Năm 2008 diện tích đất lúa 8,2 triệu ha, sản lượng 30,5 triệu tấn .
Năm 2009 diện tích đất lúa giảm xuống 8,0 triệu ha nhưng sản lượng lại tăng
32,68 triệu tấn. Hiện nay Myanmar đang tăng cường sản xuất lúa với các loại
giống cải tiến có năng suất cao. Các nhà khoa học ở đây đã tích cực thu nhập
nguồn vật liệu từ INGER và nguồn gen lúa cổ truyền địa phương để lai tạo,
chọn lọc ra các giống lúa tốt. Myanmar hiện đang đạt năng suất lúa ở mức
40,85 tấn/ha.
Philippines tăng cường sử dụng các giống lúa mới. Diện tích trồng các
giống mới tăng lên 87% vào năm 1991. Năng suất lúa bình quân đạt 3,0


19

tấn/ha năm 2000 và đến năm 2008 tăng lên 3,7 tấn/ha. Sản lượng lúa tăng từ
12,4 triệu tấn năm 2000 lên 16,8 triệu tấn năm 2008. Năng suất giảm xuống
3,55 tấn/ha và đồng thời sản lượng giảm xuống 16,2 triệu tấn vào năm
2009[14].
Ấn Độ, năm 2002 - 2003 sản lượng gạo là 72,7 triệu tấn, giảm 20,42
triệu tấn, tương đương 21,94% so với năm 2001 - 2002. Một trong những lý
do của sự giảm sụt sản lượng là do thời tiết xấu ở nhiều vùng như hạn, lụt, sâu
bệnh. Tuy nhiên đến năm 2003 - 2004, Ấn Độ được mùa và sản lượng gạo
của Ấn Độ đã đạt 87,94 triệu tấn, tăng 15,28 triệu tấn so với năm 2002 - 2003.
Đến năm 2008 sản lượng lúa của Ấn Độ đạt 148,26 triệu tấn. Nhưng đến 2009
thì sản lượng lúa của Ấn Độ chỉ đạt 133,7 triệu tấn[14].
Bảng 1.2 Tình hình sản xuất lúa của 10 nước đứng đầu thế giới năm 2009
Diện tích

Năng suất


Sản lượng

( triệu ha )

( tạ / ha )

( triệu tấn)

Trung Quốc

29,881

65,82

196,681

Ấn Độ

41,850

31,94

133,700

Indonexia

12,883

49,98


64,398

Băngladesh

11,354

42,03

47,72

Việt Nam

7,440

52,27

38,895

Thái Lan

10,963

28,69

31,462

Myanma

8,000


40,85

32,682

Philippin

4,532

35,88

16,266

Braxin

2,872

44,05

12,65

Tên nước

Nhật Bản

1,624

65,22

10,59


[14] ( Nguồn: FAOSTAT, 2010 )
1.2.2. Tình hình nghiên cứu lúa trên thế giới
Trên thế giới người ta quan tâm đến việc bảo tồn nguồn gen nói
chung, và nguồn gen cây lúa nói riêng. Ngay từ những năm 1924 Viện
nghiên cứu cây trồng Liên Xô (cũ) đã được thành lập, nhiệm vụ chính là thu


20

nhập và đánh giá bảo tồn nguồn gen cây trồng. Tổ chức Lương thực và
nông nghiệp Thế giới (FAO) đã tổng hợp các kết quả nghiên cứu và đề ra
phương hướng thúc đẩy việc xây dựng ngân hàng gen phục vụ cho việc giữ
gìn tài nguyên thiên nhiên nhằm phục vụ lợi ích lâu dài của nhân loại.
Trong vùng nhiệt đới và á nhiệt đới đã hình thành nhiều tổ chức quốc tế,
đảm nhận việc thu thập tập đoàn giống trên thế giới đồng thời cung cấp
nguồn gen để cải tạo giống lúa trồng [11]
Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế với tên tiếng Anh là
International Rice Research Institute (IRRI) ở Los Banos, Philippines đã
bắt đầu chương trình thu thập, bảo tồn và đánh giá các giống cổ truyền và
các cây lúa dại từ năm 1962. Từ khi thành lập IRRI đã tiến hành thu thập
nguồn gen cây lúa, năm 1977 chính thức khai trương ngân hàng gen, tại đây
đã thu thập tập đoàn cây lúa từ 110 quốc gia trên Thế giới trong bộ sưu tập
có hơn 80 nghìn mẫu, trong đó các giống lúa trồng ở châu Á (O. sativa)
chiếm đến 95% [32]. Khoảng 90.000 giống lúa trồng trên khắp thế giới đã
được tồn trữ ở IRRI và cùng một số lượng giống lúa này được IRRI gửi bảo
quản ở Phòng Khảo nghiệm tồn trữ hạt giống quốc gia Mỹ (US. National Seed
Storage Laboratory) tại Fort Collins thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ, Colorado - Mỹ
và ở Viện Quốc gia Tài nguyên Nông sinh (National Institute of Agrobiological
Resources) ở Nhật Bản. Nhưng sự bảo quản tại các phòng lạnh hiện nay có thể
làm ngăn trở sự tiến hóa của các giống lúa này với môi trường. Vì vậy, bảo quản

các giống lúa ngoài ruộng rất cần thiết nhưng tốn kém.
Trong hơn 40 năm tồn tại và phát triển IRRI đã lai tạo, chọn lọc
hàng trăm giống lúa tốt phổ biến khắp thế giới, tiêu biểu như các giống
IR, Jasmin. IR8 mở đầu cho cuộc cách mạng xanh ở các nước Nam Á và
Đông Nam Á. Tiếp theo là sự ra đời của các giống lúa, mà sự ra đời của
các giống này đã tạo ra sự nhảy vọt về năng suất, phẩm chất lúa như: IR5,
IR6, IR20, IR22, IR26, IR36,... Những năm 80 (thế kỷ XX) giống IR8
được trồng phổ biến ở Việt Nam đã đưa năng suất lúa tăng cao đáng kể.


21

Cuộc “cách mạng xanh” từ giữa thập niên 60 (thế kỷ XX) đã có ảnh
hưởng tích cực đến sản lượng lúa của châu Á. Nhiều tiến bộ kỹ thuật đã
được tạo ra để nâng cao năng suất và sản lượng lúa gạo. Các nhà nghiên cứu
của viện lúa Quốc tế đã nhận thức rằng các giống lúa mới thấp cây, lá đứng,
tiềm năng năng suất cao cũng chỉ có thể giải quyết vấn đề lương thực trong
phạm vi hạn chế. Hiện nay Viện IRRI đang tập trung vào nghiên cứu chọn
tạo ra các giống lúa cao sản (siêu lúa) có thể đạt 13 tấn/ha/vụ, đồng thời
phát huy kết quả chọn tạo 2 giống là IR64 và Jasmin là giống có phẩm chất
gạo tốt, được trồng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới. Trên cơ sở một số
giống lúa chất lượng cao Viện IRRI đang tập trung vào nghiên cứu, chọn
tạo các giống lúa có hàm lượng Vitamin và Protein cao, có mùi thơm, cơm
dẻo...) vừa để giải quyết vấn đề an ninh lương thực, vừa đáp ứng được nhu
cầu đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng [27].
IRRI đã có quan hệ chính thức với Việt Nam từ năm 1975 trong
chương trình thí nghiệm giống quốc tế trước đây và hiện nay là chương
trình đánh giá nguồn gen cây lúa. Trong quá trình hợp tác, Việt Nam đã
nhập được 279 tập đoàn lúa gồm hàng ngàn mẫu giống, mang nhiều đặc
điểm sinh học tốt, chống chịu với sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất

thuận như nhiệt độ, nhiễm mặn, hạn hán, úng lụt vv.. [31].
Các nhà khoa học Ấn Độ và Nhật Bản là những người đầu tiên đề xuất mở
rộng sản xuất lúa lai thương phẩm [29]. Tại viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI các nhà khoa học đã xây dựng chương trình nghiên cứu về lúa lai làm
cơ sở cho phát triển sản xuất lúa lai thương phẩm. Song tất cả họ đều chưa
thành công vì chưa tìm ra phương pháp thích hợp để sản xuất hạt lai [30].
Nhưng việc nghiên cứu chọn tạo giống lúa không chỉ dừng lại ở đó, sự miệt
mài của các nhà khoa học ở Viện nghiên cứu lúa Quốc tế đã lai tạo chọn lọc
hàng trăm giống lúa tốt được gieo trồng phổ biến trên thế giới. Các giống
lúa IR5, IR6, IR8, IR30 và những giống lúa khác đã tạo ra sự nhảy vọt
về năng suất. Các viện khác như IRAT, EAT, ICRISAT cũng đã chọn lọc


22

ra nhiều những giống lúa tốt phục vụ sản xuất.
Hiện nay người ta ứng dụng ưu thế lai trong sản xuất lúa. Trong lịch
sử phát triển lúa lai, Trung Quốc là nước đầu tiên sử dụng thành công ưu thế
này. Năm 1974, các nhà khoa học Trung Quốc đã cho ra đời những tổ hợp
lai có ưu thế lai cao, đồng thời xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất hạt
lai hệ "3 dòng" được hoàn thiện và đưa vào sản xuất năm 1975. Năm
1996, Trung Quốc lại thành công với quy trình sản xuất lúa lai "2 dòng"
và đẩy mạnh nghiên cứu lúa lai 1 dòng và lúa lai siêu cao sản nhằm tăng
năng suất và sản lượng lúa gạo của đất nước [35]. Cụ thể như sau: năm
1973 Shiming Song phát hiện ra được dòng bất dục mẫn cảm với ánh
sáng ngày ngắn (PGMS) từ giống Nongken 58. Nhiều kết quả nghiên cứu
khác về lúa lai hai dòng cũng đã được công bố. Năm 1991 các nhà khoa học
Nhật Bản đã áp dụng phương pháp gây đột biến nhân tạo để tạo ra dòng bất
dục đực mẫn cảm với nhiệt độ [29]. Chương trình phát triển lúa lai giữa các
loài phụ indica và japonica được bắt đầu từ năm 1987 nhờ sự phát hiện và sử
dụng gen tương hợp rộng, mở ra tiềm năng về năng suất cao cho các giống lúa lai

hai dòng [34]. Những tổ hợp giữa các loài phụ như: Chen 232/26 Zhazao;
3037/02428 và 6154S/vaylava đưa ra ở Trung Quốc nhưng không được sử dụng
trong sản xuất đại trà, vì cây F1 quá to, bông quá lớn, số dảnh ít, dạng lá rộng.
Bởi thế, Yang Z và CS (1997) [37] đã đề xuất một lý thuyết chọn giống năng
suất siêu cao thông qua việc kết hợp hình dạng lý tưởng và ưu thế lai thích hợp.
Nhờ ưu thế hơn hẳn về năng suất nên diện tích lúa lai của Trung Quốc
không ngừng được mở rộng. Năm 1992 diện tích gieo trồng lúa lai của
Trung Quốc là 15.000 ha với năng suất 9 - 10 tấn/ha, năng suất cao nhất
đạt 17 tấn/ha [3]. Năm 1997 đã có 640.000 ha, năng suất trung bình cao
hơn lúa lai 3 giống từ 5 - 15% [37]. Đến năm 2001 diện tích lúa lai 2 dòng
đạt 2,5 triệu ha. Một số tổ hợp lai hai giống điển hình có năng suất đạt hơn
10,5 tấn/ha ở điểm trình diễn và năng suất trung bình trên diện rộng là 9,1
tấn/ha. Đã có những tổ hợp lúa lai 2 dòng đều mới đạt 12 - 14 tấn/ha trong ô


23

thí nghiệm [36]. Hầu hết các tổ hợp lai hai dòng đều cho năng suất cao và
phẩm chất tốt hơn so với tổ hợp lai ba dòng [3]. Gần đây hướng nghiên cứu
phát triển lúa lai một giống là muc tiêu cuối cùng và rất quan trọng của công
tác chọn tạo lúa lai của Trung Quốc. Ý tưởng của Yuan L.P là cố định ưu
thế lai và sản xuất lúa lai thuần đã trở thành đề tài lớn, quan trọng trong
các chương trình quốc gia về phát triển khoa học và công nghệ cao.
Như vậy xu thế phát triển tất yếu của lúa lai theo Yuan Long Ping
đã khởi xướng là phát triển từ hệ thống ba dòng đến hệ thống hai dòng và
sau đó là hệ lai một dòng hay cố định ưu thế lai ở F1 thành lúa lai thuần.
Sự phát triển thành công của công nghệ sản xuất lúa lai ở Trung
Quốc đã được ứng dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Hiện nay có
17 nước trên thế giới nghiên cứu và sản xuất lúa lai đã đưa tổng diện tích
lúa lai của thế giới lên tới khoảng 10% tổng diện tích trồng lúa và chiếm

20% tổng sản lượng lúa gạo toàn thế giới, song phát triển mạnh nhất vẫn là
Việt Nam và Ấn Độ. Lúa lai đã thực sự mở ra hướng phát triển mới để nâng
cao năng suất, sản lượng lúa cho xã hội loài người.
Ấn Độ là một nước đi đầu trong cuộc “cách mạng xanh” và thành công
lớn trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhất là giống mới
vào sản xuất. Trong công tác nghiên cứu giống lúa, Viện nghiên cứu giống
lúa trung ương của Ấn Độ được thành lập vào năm 1946 tại Cuttuck bang
Orisa là nơi tập trung nghiên cứu, lai tạo các giống lúa mới phục vụ sản xuất.
Ngoài ra tại các bang của Ấn Độ đều có các cơ sở nghiên cứu, trong đó các
cơ sở quan trọng ở Madras heydrabat, Kerala, hoặc Viện Nghiên cứu cây
trồng cạn Á nhiệt đới (ICRISAT). Nhờ vậy Ấn Độ là nước có nhiều giống
lúa chất lượng cao nổi tiếng trên thế giới như: Basmati, Brimphun trong
đó giống lúa Basmati có giá trị trên thị trường tới 850 Đô la Mỹ/tấn, trong
khi giống gạo thơm Thái Lan nổi tiếng trên Thế giới cũng chỉ có giá trị 460
Đô la Mỹ /tấn [9].
Mặt khác, Ấn Độ cũng là nước nghiên cứu lúa lai khá sớm và đã


24

đạt được một số thành công nhất định, một số tổ hợp lai tốt được sử dụng
ở Ấn Độ như; IR58025A/IR9716, IR62829A/IR46, PMS8A/IR46, ORI 161,
ORI 136, 2RI 158, 3RI 160, 3RI 086, PA- 103... Một trong những giống
lúa chất lượng cao do các nhà khoa học chọn tạo thành công được nhập về
Việt Nam là giống BTE-1, giống này đã được Bộ Nông nghiệp & PTNT Việt
Nam công nhận năm 2007 [9].
Thái Lan là nước xuất khẩu lúa gạo đứng đầu thế giới. Với những
ưu đãi của thiên nhiên Thái Lan có vùng châu thổ trồng lúa phì nhiêu,
mặc dù năng suất và sản lượng lúa gạo của Thái Lan không cao song họ
chú trọng đến việc chọn tạo giống có chất lượng gạo cao. Các trung tâm

nghiên cứu lúa của Thái Lan được thành lập ở nhiều tỉnh và các khu vực.
Các trung tâm này có nhiệm vụ tiến hành chọn lọc, phục tráng, lai tạo,
nhân giống phục vụ cho nhu cầu sản xuất của người dân với mục tiêu phục
vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Các đặc điểm nổi bật của các giống
lúa mà các nhà khoa học tập trung nghiên cứu và lai tạo đó là hạt gạo dài
và trong, ít dập gãy khi xay sát, có hương thơm, coi trọng chất lượng hơn là
năng suất, điều này cho chúng ta thấy rằng giá lúa gạo xuất khẩu của Thái
Lan bao giờ cũng cao hơn của Việt Nam. Một số giống lúa chất lượng cao
nổi tiếng thế giới của Thái Lan là: Khaodomali, Jasmin (Hương nhài).
Đối với Nhật Bản, công tác giống lúa cũng được đặc biệt chú trọng
về giống chất lượng cao vì người Nhật giàu có, nên nhu cầu đòi hỏi lúa gạo
chất lượng cao. Để đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng, các Viện và các Trạm
nghiên cứu giống lúa được thành lập ở hầu hết các tỉnh thành của Nhật Bản,
trong đó có các trung tâm quan trọng nhất đặt ở Sendai, Niigata, Nagoya,
Fukuoka, Kochi, Miyazaki, Sags,... là những nơi diện tích trồng lúa lớn.
Trong công tác nghiên cứu giống lúa ở các Viện, các nhà khoa học Nhật
Bản đã tập trung lai tạo và đưa vào sản xuất các giống lúa vừa có năng
suất cao, chất lượng tốt như Koshihikari, Sasanisiki, Koenshu... đặc biệt ở
Nhật đã lai tạo được 2 giống lúa có mùi thơm đặc biệt, chất lượng gạo


25

ngon và năng suất cao như giống: Miyazaki1 và Miyazaki2. Cho đến giờ
các giống này vẫn giữ được vị trí hàng đầu về 2 chỉ tiêu quan trọng đó là
hàm lượng Protein cao tới 13%, hàm lượng Lysin cũng rất cao [Nguyễn
Hữu Hồng (1993) [8]. Ngoài ra, thành công trong công tác giống lúa của
Nhật Bản còn được đánh dấu bởi giống Tongil đã tạo ra bước nhảy vọt về
năng suất lúa.
Các nước Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên, Đài Loan chủ yếu nghiên cứu

và sử dụng giống lúa thuộc loại hình Japonica, hạt gạo tròn, cơm dẻo phù hợp
với thị hiếu tiêu dùng của người dân khu vực này. Các giống lúa nổi tiếng
của khu vực này là Tongil (Hàn Quốc), Tai chung 1, Tai chung 2, Gang
chan gi, Đee- Geo-Wô-Gen (Đài Loan)… đặc biệt giống Đee-Geo-Wô-Gen
là một vật liệu khởi đầu để tạo ra giống lúa IR8 nổi tiếng một thời [26].
Các chuyên gia nông nghiệp Đài Loan cho biết đã nghiên cứu phát
triển thành công các giống lúa mới giàu dinh dưỡng. Các giống này không
phải là biến đổi gen sẵn có nhiều màu sắc khác nhau như đen, đỏ và vàng mà
màu sắc phụ thuộc vào hàm lượng dinh dưỡng như Beta-carotene và
anthocyanins - một chất chống ôxy hoá. Đây là kết quả nghiên cứu gần 9
năm thí nghiệm để kết luận đột biến trên cây lúa với việc sử dụng các tác
nhân hoá học. Như trên ta thấy, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con
người các nhà chọn giống không những chọn tạo ra được những giống lúa có
năng suất cao mà còn chọn tạo ra những giống có chất lượng cao, hàm
lượng dinh dưỡng lớn. Đây cũng là một giải pháp để giảm áp lực cho y
học. Vì vậy, một số viện nghiên cứu quốc tế đang tập trung vào giống lúa
mới “gạo vàng 2” để chống lại nguy cơ bệnh mù do thiếu vitamin A đang
tăng lên trên thế giới. So với giống "gạo vàng" phát triển vào năm 2000,
“gạo vàng 2” này có hàm lượng beta-carotene cao gấp 23 lần.
Theo ông Jagadish Mittur - giám đốc Trung tâm nghiên cứu
Monsanto ở Bangalore (Ấn Độ), bộ gen của giống lúa mới được ghép thêm
gen của cây thủy tiên hoa vàng hoặc cây ngô. Giống lúa đang được nghiên


×