Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Tìm hiểu nghiên cứu về truyền thống văn hóa – lịch sử của thành phố hải phòng và đền hạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.54 KB, 73 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thuở sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng sâu sắc, chứa đựng đầy
ý nghĩa, trách nhiệm của việc học, việc hiểu và tôn trọng lịch sử dân tộc đối
với mỗi con người Việt Nam ta. Trong dòng chảy lịch sử dân tộc, lịch sử địa
phương là một bộ phận không thể tách rời. Mỗi sự kiện đều gắn liền với tên
đất, tên người cụ thể gần gũi mà thân thương. Tất cả đều được đánh đổi bằng
máu, nước mắt, sự dũng cảm và hi sinh cao cả của ông cha ta. Lịch sử dân tộc
hình thành trên nền tảng lịch sử địa phương. Nó chứng minh sự phát triển hợp
quy luật của địa phương trong sự phát triển chung của dân tộc. Do đó sự hiểu
biết về lịch sử địa phương là rất cần thiết cho mỗi người dân Việt Nam nói
chung, người Hải Phòng nói riêng, đặc biệt là với học sinh Tiểu học. Những
kiến thức về lịch sử địa phương giúp học sinh góp phần bổ sung, làm phong
phú, cụ thể hóa bức tranh sinh động của lịch sử dân tộc và có tác dụng to lớn
trong việc giáo dục lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước, yêu
mảnh đất, con người nơi mình chôn rau cắt rốn, giáo dục học sinh nhận thức
sâu sắc về lịch sử dân tộc.
Vì vậy tôi đã chọn một di tích lịch sử của địa phương quận Hồng Bàng,
thành phố Hải Phòng – nơi tôi sinh ra, lớn lên và học tập tại mảnh đất này để
nghiên cứu đề tài: “Di tích và lễ hội đền Hạ với việc giáo dục văn hóa truyền
thống cho học sinh Tiểu học Quận Hồng Bàng, Thành Phố Hải Phòng” để
giúp học sinh nói chung và học sinh Tiểu học quận Hồng Bàng nói riêng nhận
rõ giá trị văn hóa, lịch sử, văn hóa truyền thống của di tích lịch sử đền Hạ, từ
đó nâng cao ý thức bảo tồn giữ gìn di tích lịch sử quan trọng này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1



Tìm hiểu các di tích lịch sử văn hóa ở quận Hồng Bàng không chỉ là sự
quan tâm của các sở, ban, ngành có liên quan mà từ lâu đã thu hút sự chú ý
của các nhà nghiên cứu khoa học. Vì thế, đã có nhiều công trình nghiên cứu,
nhiều luận văn, bài báo, tạp chí đề cập đến các di tích lịch sử văn hóa trên địa
bàn quận Hồng Bàng.
Trên trang báo Hải Phòng có bài viết: “Đền Hạ – nơi ghi dấu lịch sử
cách mạng” có giới thiệu và khái quát về đền Hạ, về các vị thần được thờ tại đền.
Trong hồ sơ: “Di tích lịch sử văn hóa đền Hạ” của Bảo tàng Hải Phòng
cũng đề cập tới giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật di tích thờ Mẫu Liễu Hạnh,
Thành Hoàng Nguyễn Trí Hòa tại Hải Phòng. Từ đó nêu ra một số đề xuất
trong việc bảo trọng giá trị của di tích, góp phần phát triển du lịch nhân văn
của thành phố Hải Phòng.
Ngoài ra, một số trang thông tin mạng cũng ít nhiều đề cập tới tiểu sử,
sự nghiệp của các vị thần và giới thiệu khái quát về đền Hạ.
Tuy nhiên, các công trình và bài viết trên vẫn chưa từng nghiên cứu về
cách giáo dục văn hóa truyền thống để giúp các em học sinh Tiểu học có cái
nhìn sâu sắc hơn về giá trị văn hóa truyền thống của đền Hạ. Vì vậy đề tài tìm
hiểu về “Di tích và lễ hội đền Hạ với việc giáo dục văn hóa truyền thống cho
học sinh Tiểu học Quận Hồng Bàng Thành phố Hải Phòng” là một đề tài mới
mẻ và đóng vai trò quan trọng với việc giáo dục những giá trị tốt đẹp của đền
Hạ đến học sinh các trường Tiểu học trên địa bàn quận trong thời điểm hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu khoa học hướng tới lịch sử
truyền thống: “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, việc giáo dục văn hóa
truyền thống cho học sinh các trường Tiểu học trên địa bàn quận Hồng Bàng
thông qua giá trị lịch sử, giá trị văn hóa truyền thống của lễ hội đền Hạ. Giúp
học sinh kế thừa, giữ gìn và phát huy những truyền thống quý báu của địa
phương nơi mình đang sinh sống.
2



Nhiệm vụ nghiên cứu là giải quyết các vấn đề sau:
- Sưu tầm những tài liệu, sách báo, tranh ảnh có liên quan đến khu di
tích, lễ hội và các vị thần được thờ trong đền Hạ.
- Tìm hiểu nghiên cứu về truyền thống văn hóa – lịch sử của thành phố
Hải Phòng và đền Hạ.
- Tìm hiểu nghiên cứu về lễ hội hằng năm của đền Hạ, nghiên cứu và
làm rõ giá trị văn hóa của lễ hội đền Hạ.
- Đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần bảo tồn di tích lịch sử và lễ hội
đền Hạ giáo dục truyền thống văn hóa cho học sinh các trường Tiểu học trên
địa bàn quận về những giá trị văn hóa, lịch sử của di tích lịch sử đền Hạ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu di tích đền Hạ. Trong hai cuộc kháng chiến
cứu nước, đền Hạ là nơi hội tụ cán bộ cách mạng kháng chiến, là nơi nuôi
giấu cán bộ chiến sĩ cách mạng, truyền tải tài liệu cách mạng.
Trong phạm vi của bài khóa luận, đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu
khái quát toàn cảnh về đền Hạ cũng như lễ hội đền Hạ được tổ chức hằng
năm, ý nghĩa, giá trị văn hóa và thực trạng, giải pháp nâng cao giá trị của nó
trong việc phát huy ý thức giữ gìn và bảo tồn giá trị văn hóa – lịch sử địa
phương cho học sinh Tiểu học.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp điều tra nghiên cứu thực địa: Là một phương pháp quan
trọng để nghiên cứu, điều tra du lịch đem lại kết quả một cách chính xác nhất,
hiệu quả nhất. Đi tìm hiểu trực tiếp đối tượng điều tra là để nhận thức, đánh
giá một cách thực tế nhất về giá trị, hiện trạng của đối tượng điều tra để từ đó
đề ra những giải pháp.
Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Thông tin không những đòi
hỏi phải chính xác mà còn phải đầy đủ mọi mặt như: lịch sử, địa lý, chính trị,
3



văn hóa và các vấn đề liên quan. Các thông tin đó có từ rất nhiều nguồn như:
sách, báo, mạng internet, con người… Vì vậy cần phải chọn lọc, xử lý để có
được nội dung hợp lý nhất.
Phương pháp phân tích, đánh giá, so sánh: Từ các nguồn tài liệu đã thu
thập cần đưa ra các nhận xét, đánh giá về đối tượng điểu tra để thấy được giá
trị của di tích và lễ hội, nêu thực trạng. Từ đó đề ra những hạn chế, các biện
pháp khắc phục, những vấn đề bất cập, phát huy tiềm năng của di tích.
Phương pháp xã hội học: Là phương pháp tiếp cận trực tiếp với người
quản lý di tích, những người dân địa phương, những người tham gia lễ hội…
để biết thêm những thông tin nhanh nhạy về đối tượng điều tra.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu chúng ta đưa vào giảng dạy, lồng ghép các nội dung về di sản văn
hóa, di tích lịch sử hay tổ chức cho học sinh các trường Tiểu học trên địa bàn
quận Hồng Bàng tham quan, tham gia các tiết học ngoại khóa tại đền Hạ thì
sẽ giúp cho quá trình học tập của học sinh trở nên hấp dẫn hơn, học sinh hứng
thú học tập và hiểu bài sâu sắc hơn, phát triển tư duy độc lập sáng tạo, giáo
dục tư tưởng, nhân cách, văn hóa truyền thống và đạo đức cho học sinh.
7. Những đóng góp khoa học mới của đề tài
Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu về những giá trị văn hóa truyền
thống, giá trị lịch sử của đền Hạ, từ đó xây dựng được hệ thống tài liệu khoa
học về quá trình gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của đền. Là
cơ sở để giáo dục văn hóa truyền thống cho học sinh Tiểu học. Đây có thể là
những cứ liệu khoa học, tham khảo trong những công trình nghiên cứu lớn
hơn hoặc rộng hơn quy mô đề tài nghiên cứu này.
Trong các trường Tiểu học, các giáo viên có thể đan xen, lồng ghép, kết
hợp những kiến thức về lịch sử trong việc giảng dạy các môn như Lịch sử,
Đạo đức, Tiếng Việt, các phân môn như: tập đọc, kể chuyện, tập làm văn…
4



Kết hợp và đan xen qua các bài học có liên quan đến lịch sử địa phương, anh
hùng dân tộc, kể về nơi em đang sinh sống, kể về lễ hội địa phương… Trong
những tiết học đó người giáo viên có thể chuẩn bị thêm những tư liệu, hình
ảnh, những mẩu chuyện để kể cho học sinh tạo cho học sinh những tiết học
sôi nổi, thú vị, sinh động và khả năng ghi nhớ bài được lâu hơn.
8. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì
phần nội dung của đề tài gồm các chương sau:
Chương 1: Đền Hạ trong không gian văn hóa Quận Hồng Bàng,
Thành phố Hải Phòng
Chương 2: Di tích và lễ hội đền Hạ
Chương 3: Các giá trị văn hóa truyền thống của di tích và lễ hội
đền Hạ với việc giáo dục lối sống cho học sinh Tiểu học

CHƯƠNG 1: ĐỀN HẠ TRONG KHÔNG GIAN VĂN HÓA
QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
1.1 Khái quát về quận Hồng Bàng
5


1.1.1 Vị trí địa lý và dân cư
Hải Phòng là vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa – xã
hội lâu đời. Sự hình thành và phát triển của Hải Phòng gắn liền với các chứng
tích của người tiền sử ở di chỉ khảo cổ học Cái Bèo (Cát Bà) thuộc văn hóa
Hạ Long cách ngày nay khoảng 4000 đến 6000 năm, với sự hình thành của
nền văn minh sông Hồng thuộc văn hóa Đông Sơn với các chứng tích của con
người ở di chỉ khảo cổ học Tràng Kênh (Thủy Nguyên), Núi Voi (An Lão)
cách ngày nay từ 2000 năm đến hơn 3000 năm; với truyền thuyết về tên tuổi
của nữ tướng Lê Chân – người lập trang An Biên vào đầu Công Nguyên – cái

nôi hình thành nên đô thị Hải Phòng ngày nay. Là vùng đất đầu súng, ngọn
giáo, “phên dậu” phía Đông của đất nước, Hải Phòng có vị thế chiến lược
trong toàn bộ tiến trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Người Hải Phòng với tinh thần yêu nước nồng nàn, tính cách dũng cảm, kiên
cường, năng động, sáng tạo đó từng chứng kiến và tham gia vào nhiều trận
quyết chiến, chiến lược trong chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ
quốc. Hải Phòng là vùng đất in đậm dấu ấn trong lịch sử chống giặc ngoại
xâm phương Bắc với các chiến thắng trên sông Bạch Đằng: trận Bạch Đằng –
938 của Ngô Quyền, trận Bạch Đằng – 981 của Lê Hoàn và trận Bạch Đằng –
1288 của Trần Hưng Đạo.
Quận Hồng Bàng nằm ở trung tâm thành phố Hải Phòng, phía Bắc giáp
sông Cấm, bên kia sông là huyện Thuỷ Nguyên; phía Đông giáp quận Ngô
Quyền; phía Nam giáp quận Lê Chân; phía Tây và Tây Nam giáp huyện An
Dương. Địa hình quận không bằng phẳng, phía Tây sông Tam Bạc cao hơn
phía Đông; các khu vực trũng thấp tồn tại dưới dạng đầm lầy, do quá trình đô
thị hoá qua các thời kì nên đã được bồi đắp và tôn tạo. Đầu những năm 60 của
thế kỷ trước, Hồng Bàng mới chỉ là một khu phố gồm các phố cũ như Máy
nước, Thượng Lý, Hạ Lý và trên sông. Đến năm 1981, Hồng Bàng chính thức
được nâng cấp lên thành quận và vẫn giữ tên gọi đó cho đến ngày nay. Hồng
Bàng là cửa ngõ giao thông thuỷ, sắt, bộ của thành phố, nối liền với thủ đô Hà
6


Nội, tỉnh Quảng Ninh tạo thành khu tam giác phát triển kinh tế "Hà Nội – Hải
Phòng – Quảng Ninh" phía Bắc Việt Nam đã được Chính phủ quy hoạch.
Trên địa bàn quận có sông Cấm, sông đào Hạ Lý và sông Lấp (nay là hồ Tam
Bạc). Từ cảng Hải Phòng (vốn là bến Ninh Hải xưa), tàu biển có thể đi tới
khắp các cảng trong nước và quốc tế; có quốc lộ 5 và đường sắt đi Hà Nội và
các tỉnh; đường 10 đi Thái Bình, qua phà Bính là đường 10 đi Uông Bí, Đông
Triều, thành phố Hạ Long – tỉnh Quảng Ninh…

Do điều kiện lịch sử và địa lý thuận tiện, địa bàn quận Hồng Bàng ngày
nay là cái nôi đô thị của thành phố Hải Phòng, từ xưa đã có cư dân sinh sống,
với thành phần phức tạp và đa dạng, nhất là từ cuối thế kỷ XIX. Ngoài cư dân
các làng cổ: Gia Viên, An Biên, Hạ Lý, Thượng Lý, An Lạc, An Chân, An
Trì, còn có cư dân gốc ở các tỉnh và cả thương nhân nước ngoài, đặc biệt là
người Hoa. Quận Hồng Bàng có vị trí xung yếu trong quá trình hình thành và
phát triển thành phố công nghiệp và hải cảng lớn nhất miền Bắc Việt Nam,
nơi đầu tiên người Pháp xây dựng bộ máy chính quyền để cai trị, bình định và
khai thác thuộc địa ở miền Bắc.
Trải qua trên 50 năm xây dựng và phát triển, từ một khu đô thị cũ, quận
Hồng Bàng đã có nhiều đổi thay to lớn. Với diện tích 14,5 km2, dân số trên
11 vạn người, quận Hồng Bàng có 11 đơn vị hành chính cấp phường, gồm
216 tổ dân phố, được chia thành 3 vùng có đặc thù xã hội, dân cư và đô thị
khác nhau: Vùng 1 (khu trung tâm) là vùng đô thị ổn định, gồm 5 phường:
Hoàng Văn Thụ, Minh Khai, Quang Trung, Phan Bội Châu, Phạm Hồng Thái,
có thể gọi là khu đô thị cổ. Ở đây tập trung nhiều cơ quan quan trọng của
Trung ương, trụ sở của Thành uỷ – Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân
thành phố và Văn phòng đại diện nước ngoài; có chợ Tam Bạc, chợ Sắt hoạt
động buôn bán khá sầm uất; có dải trung tâm chạy dọc từ cổng Cảng chính
đến bến xe Tam Bạc. Đây là khu vực hội tụ nhiều lợi thế và tiềm năng về du
lịch – dịch vụ – thương mại. Vùng 2 (khu cận trung tâm) là vùng đô thị đang
xây dựng, gồm 3 phường: Hạ Lý, Thượng Lý, Trại Chuối; là nơi tập trung cư
7


trú chủ yếu của công nhân lao động. Có cơ sở sản xuất công nghiệp lớn và
mũi nhọn của thành phố nằm ở khu vực này: Xi măng Hải Phòng, đóng tàu
Bạch Đằng, đóng tàu sông Cấm, đóng tàu Tam Bạc.
Vùng 3 (khu vực xa trung tâm) là vùng đang trong quá trình đô thị hoá,
gồm 3 phường: Sở Dầu, Hùng Vương, Quán Toan. Các phường này nằm

trong vùng quy hoạch khu công nghiệp phía Bắc đường 5. Hiện nay, ở đây có
nhiều cơ sở liên doanh với nước ngoài về sản xuất thép. Với quỹ đất nông
nghiệp, đất chưa sử dụng còn khá lớn, lực lượng lao động trẻ, dồi dào, đây là
khu vực chứa đựng thế mạnh và tiềm năng phát triển sản xuất – dịch vụ…
Hồng Bàng là địa bàn đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế cũng như
an ninh – quốc phòng của thành phố Hải Phòng. Trong những năm tháng
kháng chiến chống Pháp, Hồng Bàng bừng lên tinh thần quyết tử bảo vệ thành
phố mà điểm sáng là cuộc chiến đấu 7 ngày đêm bảo vệ Nhà hát Lớn thành
phố, đốt phá kho xăng ở Sở Dầu.
Hồng Bàng là nơi nổ phát súng đầu tiên chống quân Pháp xâm lược ở
Hải Phòng, là nơi đánh cháy chiếc xe tăng địch, đánh chìm tàu chiến địch đầu
tiên... những tên sỹ quan và bọn lính lê dương mũ đỏ đã ngã gục trước mũi
súng của nhân dân Hồng Bàng. Những tháng ngày kiên cường ấy đã đi sâu
vào tâm thức của quân và dân Hồng Bàng, tạo niềm tin mãnh liệt vào cuộc
sống ngay trong những thời khắc nguy nan nhất.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hồng Bàng lại là mục
tiêu trọng yếu trong hai cuộc chiến tranh phá hoại, ngăn chặn, phong toả của
đế quốc Mỹ giai đoạn 1961 – 1972 . Với tinh thần bất khuất, quyết tử cho Tổ
quốc, lực lượng vũ trang do Khu đội Hồng Bàng chỉ huy đã tổ chức tốt hoạt
động của hệ thống phòng không nhân dân. Đặc biệt, tổ săn máy bay bằng
súng bộ binh phối hợp với bộ đội phòng không trên địa bàn đã bắn rơi nhiều
máy bay địch, bảo vệ thành phố. Quân và dân Hồng Bàng đã xây dựng hệ
thống phòng tránh với 34.000 hầm hào, hố cá nhân; hơn 14.000m hào giao
8


thông. Hơn 210.000 lượt dân quân tự vệ tham gia cứu sống hàng trăm người,
bảo vệ an toàn hàng ngàn tấn vật tư, nhiên liệu, hàng hoá, lương thực, san lấp
nhiều hố bom, rà phá 340 quả bom nổ chậm, đảm bảo cho cửa ngõ giao thông
được thông suốt, kịp thời chi viện cho chiến đấu. Bằng ý chí quyết tâm, ngoan

cường, Hồng Bàng là quận thực hiện xuất sắc hai nhiệm vụ chiến lược Xây
dựng, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.Với
những đóng góp to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
năm 1994, Quận Hồng Bàng vinh dự được Chủ tịch nước tặng danh hiệu cao
quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Phường Thượng Lý là vùng đô thị đang xây dựng nằm trong khu cận
trung tâm quận Hồng Bàng, có 3 tuyến chính: đường Hùng Vương, đường Hà
Nội, đường Cầu Bính; 27 tuyến đường nội bộ; 138 ngõ ngách. Có chợ Hoà
Bình, di tích lịch sử cấp quốc gia Đền Hạ nằm ở trung tâm phường và 12 cơ
quan doanh nghiệp của Trung ương và địa phương đóng trên địa bàn. Là địa
bàn trong chiến tranh phá hoại bị đế quốc Mỹ giải bom B52 san phẳng. Sau
chiến tranh nhân dân trở về xây dựng phục hồi lại nhà ở.
Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, Đền Hạ là nơi nuôi giấu cán bộ,
chiến sỹ cách mạng. Tháng 7 năm 1930 đồng chí Trần Phú Tổng Bí thư Ban
chấp hành Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ hải ngoại về nước đã đến
Đền Hạ gặp gỡ cán bộ Cách mạng và chỉ đạo phong trào cách mạng Hải
Phòng. Đền Hạ là nơi hội tụ cán bộ cách mạng kháng chiến, nơi nuôi giấu cán
bộ và truyền tải tài liệu cách mạng. Với lịch sử truyền thống của Đền, ngày 13
tháng 02 năm 1996, Đền Hạ đã được Bộ Văn hoá -Thông tin công nhận là Di
tích lịch sử cấp quốc gia. Đây là một vinh dự lớn lao của nhân dân, cán bộ
phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng.
1.1.2 Truyền thống văn hóa và truyền thống cách mạng
Quận Hồng Bàng nổi tiếng về truyền thống lao động cần cù, siêng năng
học hỏi, trung hiếu, dũng cảm. Truyền thống yêu nước được người dân thể
9


hiện qua các thời kì kháng chiến của dân tộc. Trong thời kì kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ cứu nước nhân dân Hồng Bàng cũng đã có rất nhiều
đóng góp to lớn.

Quận Hồng Bàng có đạo Thiên Chúa, có nhà thờ cũng như những rất
nhiều người theo đạo. Nhưng tín ngưỡng của người dân nơi đây vẫn mang
đậm nét truyền thống của con người Việt, các làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ.
Phật giáo ở đây chiếm vị trí quan trọng. Đạo Phật có trị trí quan trọng trong
đời sống tín ngưỡng của người dân nơi đây. Họ tin là có Đức Phật – là những
người luôn phù hô mang đến sự bình an cho cuộc sống. Tin vào các vị thánh,
thần có sức mạnh hay uy lực siêu nhiên. Họ luôn tôn thờ và cầu khẩn để phù
hộ cho mình và tất cả mọi người. Quận Hồng Bàng cũng như nhiều quận khác
ở Hải Phòng có truyền thống tín ngưỡng tương đối giống nhau, những người
có công đánh giặc, giữ nước hay các nhân vật lịch sử cũng được nhân dân
chọn để thờ phụng. Vào những ngày cuối năm, nhân dân thành phố Hải
Phòng cũng như nhân dân trong cả nước đều bớt chút thời gian sắp mâm lễ ở
bếp để cúng ông Công ông Táo. Đó là một vị thần quanh năm theo dõi thiện
ác của trần gian. Mỗi nhà lại có một ông giữ chức vụ bảo vệ cho ngôi nhà họ
đang trú ngụ ở đó. Cúng 23 tháng chạp chính là tiễn ông Táo về trời, để trình
báo những việc mà trong cả năm chủ nhà đó đã làm, và sau đó lại có một ông
Táo khác xuống quản lí.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, phong tục thờ cúng tổ tiên hay còn gọi
được gọi khái quát là Đạo Ông Bà là tục lệ thờ cúng những người đã chết, đặc
biệt là tổ tiên, của nhiều dân tộc Châu Á và đặc biệt phát triển trong văn hóa
Việt Nam. Đối với người Việt, phong tục thờ cúng tổ tiên gần như trở thành
một thứ tôn giáo, đa phần gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên trong nhà, ít
nhất là có treo di ảnh một cách trang trọng. Phong tục thờ cúng tổ tiên bắt
nguồn từ niềm tin cho rằng linh hồn của người đã khuất vẫn còn hiện hữu
trong thế giới này và ảnh hưởng đến đời sống của con cháu. Người Việt cho
rằng chết chưa phải là hết, tuy thể xác tiêu tan nhưng linh hồn bất diệt và
10


thường ngự trên bàn thờ để gần gũi, giúp đỡ con cháu, dõi theo những người

thân để phù hộ họ khi nguy khó, mừng khi họ gặp may mắn, khuyến khích họ
làm những điều lành và cũng quở phạt khi họ làm những điều tội lỗi, do đó
cũng ảnh hưởng đến hành động và cách cư xử của những người còn sống
trong gia đình, họ thường tránh làm những việc xấu vì sợ vong hồn cha mẹ
buồn, đôi khi muốn quyết định việc gì đó cũng phải cân nhắc xem liệu khi
còn sinh tiền thì cha mẹ có đồng ý như thế hay không. Họ cũng tin
rằng dương sao thì âm vậy, khi sống cần những gì thì chết cũng cần những
thứ ấy, cho nên dẫn đến tục thờ cúng,với quan niệm thế giới vô hình và hữu
hình luôn có sự quan hệ liên lạc với nhau và sự thờ cúng chính là môi trường
trung gian để 2 thế giới này gặp gỡ. Ngoài ra, hình thức thờ cúng tổ tiên còn
là biểu hiện của lòng hiếu thảo và nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của
tiền nhân, nhớ đến cội nguồn của mình, đồng thời cũng là nền tảng cơ sở cho
quan hệ gia đình.
Ngoài ra đi lễ chùa đầu năm là một hoạt động không thể thiếu của mỗi
người dân dịp Tết đến, xuân về. Phong tục này đã trở thành một truyền thống
văn hóa, một nét đẹp văn hóa tâm linh trong đời sống mỗi người Việt Nam.
Người Việt tin rằng, đi lễ chùa đầu năm không đơn giản chỉ là để ước nguyện,
mà đó còn là khoảnh khắc để con người hòa mình vào chốn tâm linh, bỏ lại
phía sau bao vất vả trong cuộc mưu sinh. Về nơi cửa Phật, giữa không gian
thanh tịnh, mùi khói nhang, sắc màu của đèn hoa, mỗi chúng ta sẽ cảm thấy
lòng mình trở nên nhẹ nhàng, thanh thản hơn. Tuy phong tục tập quán giữa
các nơi có khác nhau, nhưng lễ chùa đầu Xuân đã trở thành thói quen, thành
nét văn hóa tâm linh của tất cả người Việt. Tại đây, mọi ranh giới về tuổi tác,
địa vị đều bị xóa nhòa, tất cả gặp nhau ở miền tâm thức linh thiêng.
Giá trị tinh thần truyền thống văn hóa của người dân Việt Nam nói
chung cũng như nhân dân thành phố Hải Phòng, quận Hồng Bàng nói riêng là
những giá trị tốt đẹp tiêu biểu cho một nền văn hóa, tạo nên bản sắc văn hóa
của một dân tộc, được chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
11



trong suốt chiều dài phát triển của lịch sử. Các giá trị văn hóa tinh thần truyền
thống đó kết tinh lại trong quan niệm, tư tưởng, triết lý, trong đạo đức và cách
thức ứng xử muôn đời nay, phản ánh diện mạo tinh thần, tâm hồn và tình cảm
của nhân dân.
Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – quận huyện –Tổ quốc,
lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo
trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…
Đó là tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng dân tộc. Tinh thần đoàn kết
là nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân ta đánh thắng mọi thế lực ngoại xâm.
Lịch sử dân tộc đã cho thấy rằng bất cứ khi nào chúng ta không thực hiện
được đoàn kết toàn dân, trong nội bộ có sự chia rẽ thì sức mạnh đất nước bị
suy yếu, kẻ thù dễ dàng chiến thắng, còn đất nước bị đặt trước sự tồn
vong. Còn khi nào nhân dân ta trên dưới đoàn kết một lòng thì cho dù kẻ thù
có hùng mạnh đến đâu cũng bị nhân dân ta chặn bước tiến xâm lược. Những
trang sử hào hùng và vẻ vang của nhà Trần chống quân Nguyên Mông, của cả
dân tộc ta chống Thực dân Pháp, Đế quốc Mỹ là minh chứng hùng hồn cho
chân lý mà Hồ chí Minh đã tổng kết “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công”.
Lòng nhân ái cũng là một giá trị văn hóa tinh thần truyền thống rất nổi
bật của dân tộc ta. Nhân ái nghĩa là yêu thương con người. Lòng nhân ái được
nảy nở và phát triển trong nhân dân ta chính trong cuộc sống lam lũ, khó khăn
hàng ngày. Hàng nghìn năm dưới ách thống trị của bọn phong kiến, cuộc sống
của nhân dân lao động nước ta vô cùng cực khổ. Trong lúc khó khăn, hoạn
nạn ấy, chính tình yêu thương, đùm bọc, sẻ chia lẫn nhau đã giúp họ vượt qua
hoàn cảnh thực tại. Vì vậy, lòng yêu thương con người “thương người như thể
thương thân”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” từ lâu đã trở thành nếp nghĩ,
cách ứng xử, triết lý sống của con người Việt Nam, chi phối mối quan hệ giữa
12



người với người trong xã hội. Dân tộc ta cũng luôn tự hào về truyền thống
hiếu học của mình. Tinh thần hiếu học ấy thể hiện trước hết ở sự chịu đựng
gian khổ, khắc phục khó khăn vươn lên nắm bắt tri thức của thời đại, phục vụ
cuộc sống của bản thân, gia đình, đất nước. Ngay từ thuở lọt lòng, truyền
thống ấy đã thấm vào máu cùng dòng sữa ngọt ngào và lời ru của mẹ.
Hiếm có một dân tộc nào mà phần lớn thời gian lịch sử lại phải liên tục
chống lại những kẻ thù lớn mạnh hơn ta nhiều lần về mọi phương diện như
dân tộc Việt Nam. Chính hoàn cảnh đó đã tạo nên truyền thống anh dũng quật
cường, mưu trí sáng tạo và trong cuộc đấu tranh giữ nước ấy lòng yêu nước,
yêu độc lập dân tộc, ý thức tự tôn dân tộc và tinh thần tự lập, tự cường đã
được hun đúc tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn giúp nhân dân ta chiến thắng
được mọi kẻ thù. Trải qua những thăng trầm lịch sử, người dân Hải Phòng nói
chung và nhân dân quận Hồng Bàng luôn tự hào với truyền thống đấu tranh
chống giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng quê hương đất nước. Quận Hồng
Bàng tự hào là cái nôi của cách mạng, là địa điểm thành lập Chi bộ Đảng Cộng
sản Việt Nam đầu tiên của thành phố Hải Phòng.
1.2 Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của Di tích lịch sử văn hóa
đền Hạ
Trong rất nhiều di tích lịch sử văn hóa là những công trình tưởng niệm
những người có công với đất nước, đền Hạ hiện hữu giữa lòng quận Hồng
Bàng với mái ngói rêu phong, cổ kính và thiêng liêng, nơi ấp ủ truyền thống
văn hiến ngàn năm và thắm đượm tinh thần dân tộc. Trải qua bao thăng trầm
của lịch sử tự nhiên cũng như xã hội, nhiều năm qua, chính quyền thành phố
cũng như các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân đã dành cho Đền Hạ sự
quan tâm đặc biệt để giữ gìn, bảo vệ ngôi đền, đáp ứng nhu cầu tâm linh, tín
ngưỡng cổ truyền dân tộc.
Cũng chính tại mảnh đất giàu tài nguyên này là không gian làm sống lại
những giá trị lịch sử, là nơi để tưởng nhớ công lao của thế hệ trước, là địa

13


điểm sinh hoạt văn hóa của người dân Hải Phòng nói chung và người dân
quận Hồng Bàng nói riêng. Lễ hội truyền thống đền Hạ là nơi hội tụ những
yếu tố trên. Đây cũng chính là một tài nguyên du lịch nhân văn có giá trị cần
được bảo tồn và phát huy.
Đền Hạ, xưa thuộc làng Hạ Lý, huyện An Dương, tỉnh Hải Dương (đến
đầu thế kỷ XX, làng Hạ thuộc về Tứ hộ thành phố Hải Phòng). Nay đền Hạ
nằm trên con phố có tên là Hùng Duệ Vương, cách cầu Thượng Lý (Cầu Xi –
măng) khoảng 400m. Đền thuộc phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng, thành
phố Hải Phòng.
Di tích đền Hạ của phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng ngày nay,
mang theo truyền thống và dáng vóc của một làng Hạ cổ truyền trước đây.
Mặc dù đã chuyển sang nhịp sống đô thị từ đầu thế kỉ XX, đền Hạ vẫn là nơi
tụ họp sinh hoạt tín ngưỡng của lớp cư dân địa phương, tỏ lòng biết ơn người
có công che chở, chiêu tập cư dân phát triển từ ấp làng Hạ đến ngày nay.
Tìm hiểu về quá trình tồn tại của làng Hạ, nơi sản sinh ra ngôi đền di
tích mà chúng tôi đề cập trong đề tài, trước sự khai thác ồ ạt của người Pháp ở
Việt Nam, đặc biệt là khu vực Hải Phòng, đã có sự gia tăng về nhân khẩu, hội
nhập về tín ngưỡng quanh khu vực đền Hạ, do sự ra đời của nhà máy Xi
măng, vốn nằm trên diện tích của làng Hạ. Theo Trần Ngọc Hiển và Đinh Thị
Nga trong cuốn “Kỷ yếu khoa học 1985”, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX, xi
măng là vật liệu xây dựng mới đã trở thành mặt hàng được ưa chuộng trên thế
giới. Đồng thời với sự xâm lược của người Pháp, xi măng đã xuất hiện ở Việt
Nam. Ngày 10 tháng 7 năm 1899, công ty Xi măng Pooc-lăng nhân tạo Đông
Dương được thành lập. Ngày 25 tháng 12 năm 1899, PoonDuma toàn quyền
Đông Dương đã đặt viên đá đầu tiên trong ngày khởi công xây dựng nhà máy
xi măng Hải Phòng, ở địa phận làng Hạ Lý, phía Bắc giáp cửa sông Cấm. Mô
tả về phường phố của quận Hồng Bàng hiện nay, cuốn “ Lược khảo đường

phố Hải Phòng” xuất bản năm 1993, trang 116 cho biết như sau: Khu chợ Hạ
14


Lý hiện nay còn gọi là chợ Hòa bình, vốn là nền đình Hạ, đình này đã bị chiến
tranh tàn phá. Năm 1921 dân làng Hạ được Đốc Lý cho phép làm một ngôi
đền ở ngõ 18. Kiến trúc kiểu chữ đinh, tường gạch mái lợp ngói hài. Thực ra
chi tiết này chưa hoàn toàn chính xác ở chỗ, trước đó dân làng Hạ Lý thờ
Nguyễn tướng công ở đình, nên mới có tên là xóm đình Hạ. Còn ngôi đền ở
ngõ 18 nơi nhân dân địa phương có tục thờ tam tòa thánh Mẫu từ trước. Khi
ngôi đình bị tàn phá, dân làng mới chuyển toàn bộ đồ thờ về thờ cùng phối tại
ngôi đền như hiện nay. Điều này phù hợp với ghi chép trong tấm bìa thần đạo
ở đình chuyển về thờ ở đây.
Theo lời kể của ông Đoàn Nhâm – sinh năm 1936, cư trú tại phường
Thượng Lý, nay là Trưởng ban quản lý đền, tôi ghi lại được như sau:
Theo người xưa kể lại, ngôi đền này xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVI,
XVII. Khi đó đền chỉ là một ngôi miếu cổ được dân làng Hạ Cổ lập nên để
thờ mẫu thành hoàng – Mẫu Liễu Hạnh. Tương truyền, mẫu là con nuôi của
gia đình cụ Trần Công người làng Hạ Cổ. Hai ông bà Trần Công đã già nhưng
không có con, cụ có một người bạn họ Nguyễn ở làng Vân Cát, Thanh Hóa
sinh hạ được 2 cô con gái, thương bạn nên cho người bạn Trần Công mang cô
con gái lớn về làm con nuôi, cụ Trần Công đặt tên cho con gái nuôi là Quỳnh
Hoa công chúa. Đến năm 20 tuổi, người bạn họ Nguyễn ở Thanh Hóa xin cụ
Trần Công đưa con gái về làng để gả chồng. Đức lang quân của nàng Quỳnh
Hoa công chúa là con của một gia đình dòng dõi quan lại hiếm con, có tên là
Đào Lang. Mẫu Quỳnh Hoa xây dựng gia đình cùng Đào Lang và sinh hạ
được 3 người con. Bỗng nhiên, không ốm đau tự nhiên đi đâu mất tích, gia
đình tìm kiếm mà không thấy. Thế rồi, một hôm hai ông bà nằm mơ thấy con
gái về báo mộng cho cha mẹ: Con không phải là người trần, là con của Ngọc
Hoàng bị phạt đày xuống trần gian 23 năm, nay con phải trở về trời, hẹn 10

năm sau quay trở lại. Đúng 10 năm sau, Mẫu quay trở lại trần gian nhưng
không trở về gia đình mà Mẫu đi khắp nơi từ đồng bằng đến núi cao dạy dân
15


cách làm ăn chăn nuôi, trồng trọt… Để ghi nhớ công ơn của Mẫu, người dân
đã lập miếu mạo, đình chùa để thờ Mẫu ở khắp nơi.
Theo như Thần tích Thần sắc: Liễu Hạnh tiên chúa Húy Quỳnh sinh
ngày mồng 10 tháng 8 năm Đinh Tỵ (1577) đời vua Lê Anh Tông, là người
chuyên tâm cứu nhân độ thế, diệt ác trừ gian, quy y Phật, có công với nước
đánh đuổi giặc ngoại xâm nên được nhân dân lập đền thờ. Và cũng đã được 3
đời vua nhà Nguyễn là: Duy Tân, Thành Thái, Khải Định công nhận, sắc
phong: Thượng đẳng phúc thần, Dực bảo Trung Hưng. Và tài liệu của Viện
Thông tin, Khoa học và Xã hội do Đại học sỹ Nguyễn Bính biên soạn có ghi
Mẫu Liễu Hạnh được phong: Chế thần, Hoà Diệu Đại Vương và đạo sắc
phong khác: Liễu Hạnh thục nữ công chúa, Hoà Diệu Chế Thắng Đại Vương.
Vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhân dân Kiến Xương,
Tiền Hải, Thái Bình (nơi thân phụ, thân mẫu cụ Nguyễn Công Trứ đã làm
quan và sinh hạ cụ ở đấy) và người dân Thanh Hóa đi làm ăn xa ở Hải Phòng
đã có công trùng tu đình. Cho đến năm 1921, được sự công đức của một phụ
nữ Việt Nam lấy chồng là người Tây (nhân dân quen gọi là Bà Đồng Mỏ),
đóng góp 100 đồng tiền Đông Dương và 130 bao xi măng, nhân dân đã tập
trung trùng tu ngôi đền Mẫu để rước Thành Hoàng về thờ. Theo như bia đá
còn ghi lại trong Đền Hạ ngày nay và Thần phả, Sắc phong ghi lại, Đình Hạ
có thờ hai vị Thành Hoàng: Nguyễn Tướng công (Nguyễn Trí Hòa) và Trình
tướng công Nguyễn Công Trứ), đã được ba triều đại nhà Nguyễn là Thành
Thái, Duy Tân, Khải Định phong sắc: Dực bảo trung hưng, linh phù hiệp chấn
quan, tước Thọ Như Hầu (tước Hầu sau tước Vương). Sau khi 2 vị Thành
Hoàng rước về Đền Mẫu thờ, thì nơi đây được gọi là đền Hạ.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, đền

Hạ là nơi nuôi giấu cán bộ, chiến sỹ cách mạng. Tháng 7 năm 1930 đồng chí
Trần Phú Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam
sau khi từ hải ngoại về được trung ương giao cho về xây dựng các hoạt động
16


cách mạng tại Hải Phòng. Đồng chí đã được chi bộ Đảng cộng sản bố trí về
đình Hạ gặp gỡ cán bộ Cách mạng và chỉ đạo phong trào cách mạng Hải
Phòng. Cũng từ đây Đảng đã quyết định lấy nơi đây làm cơ sở hoạt động bí
mật của Đảng bộ Thượng Lý. Đình Hạ trở thành nơi hội tụ cán bộ cách mạng
kháng chiến, nơi nuôi giấu cán bộ và truyền tải tài liệu cách mạng. Hầm bí
mật được xây dựng để đảm bảo các hoạt động của Đảng. Đến năm 1980 thì
hầm bị phá, hiện giờ chỉ còn di tích. Cả một quá trình hơn 20 năm chống Pháp
(1930 – 1955), hoạt động cách mạng không bị lộ. Năm 1972, chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ, khu Thượng Lý nằm trong tọa độ hủy diệt, quanh khu vực này bị
bom đánh tiêu điều, tan hoang nhưng điều kì lạ, duy nhất đình Hạ không bị bom
phá hủy.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Quận Hồng Bàng là một quận được hình thành từ lâu đời, trải qua quá
trình phát triển liên tục đã tạo dựng nên truyền thống văn hóa quý báu của
người dân ở nơi đây. Trải qua các yếu tố về điều kiện tự nhiên, môi trường,
con người xã hội, quận Hồng Bàng vẫn tồn tại và phát triển cho đến ngày nay.
Qua mỗi thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, người dân ở
17


đây luôn là những người tiên phong đi đánh trận. Trong đó có rất nhiều người
con đã anh dũng hi sinh nằm lại nơi chiến trường. Điều đó đã đóng góp không
ít cho quê hương đất nước, mang lại cho đất nước những ngày độc lập, thống

nhất như hôm nay. Từ đó đã tạo nên những giá trị tốt đẹp từ ngàn đời xưa.
Những nét văn hóa của người dân quận Hồng Bàng đã được các thế hệ
duy trì và phát triển đến nay. Nó đã tạo nên một xã hội mới, xã hội của nền
văn hóa truyền thống mang đậm sắc thái dân tộc. Người dân ở đây hơn ai hết
hiểu được những giá trị văn hóa của truyền thống địa phương mình. Họ đã
biết kế thừa và loại bỏ những mặt còn tồn tại, yếu kém để phát huy những mặt
mạnh khiến cho nét văn hóa truyền thống ngày càng phát triển hơn. Những
giá trị văn hóa truyền thống của quận được lưu truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Trong đó, đặc biệt là thế hệ trẻ những người sẽ làm chủ đất nước,
biết giữ gìn, phát huy để tạo dựng nên một không gian văn hóa, xã hội điều
kiện để hình thành và phát triển lễ hội.
Bằng việc giới thiệu vị trí địa lý, lịch sử hình thành của đền Hạ chúng
ta hiểu được phần nào những nội dung cơ bản về di tích đền Hạ. Đây là cơ sở,
nền tảng để phục vụ cho việc đưa thông tin về di tích đền Hạ vào giảng dạy
cho học sinh tại các trường Tiểu học trên địa bàn quận Hồng Bàng, thành phố
Hải Phòng.
Sau đây đề tài nghiên cứu sẽ giới thiệu một vấn đề mang ý nghĩa nhân
văn sâu sắc. Đó là di tích và lễ hội đền Hạ, một trong những truyền thống
đang được người dân Hải Phòng bảo vệ, gìn giữ và phát huy. Trong chương
sau đề tài không chỉ nghiên cứu về lễ hội mà còn nghiên cứu thêm về cuộc
đời và một thời kì lịch sử hào hùng gắn liền với tên tuổi của các vị thần được
thờ ở đền Hạ. Qua đó, chúng ta sẽ thấy tầm quan trọng trong việc giáo dục
văn hóa truyền thống cho học sinh các trường Tiểu học trên địa bàn quận
Hồng Bàng về các giá trị lịch sử, giá trị văn hóa truyền thống mà di tích lịch
sử đền Hạ mang lại.
18


CHƯƠNG 2: DI TÍCH VÀ LỄ HỘI ĐỀN HẠ
2.1 Di tích đền Hạ

Có thể nói trên địa bàn quận Hồng Bàng, một trung tâm chính trị, kinh
tế và văn hóa của đô thị Cảng Hải Phòng không còn một di tích lịch sử văn
hóa nào cổ kính, to lớn và đậm nét văn hóa truyền thống hơn đền Hạ thuộc
phường Thượng Lý ngày nay.
19


Là người đất Cảng “Trung dũng quyết thắng”, mấy ai không biết cái
đêm 16 tháng 4 năm 1972 đầy oan nghiệt. Cái đêm không lực Hoa Kỳ với sức
mạnh của kĩ nghệ giết người hàng loạt được sản sinh từ một nền khoa học, kĩ
thuật, được mang tính chất hủy diệt, mở đầu cuộc leo thang bắn phá miền Bắc
lần thứ 2 của đế quốc Mỹ. Khu phố Thượng Lý ngày ấy tức phường Thượng
Lý bây giờ gồm 7 tiểu khu đông dân, hồi 2 giờ 15 phút ngày 16 tháng 4 năm
1972 đã bị máy bay chiến lực B52 ném bom rải thảm. Gần 500 quả bom các
loại trút xuống nơi đây, với diện tích không đầy 2km 2, giữa lúc mọi người
đang ngủ, đã giết và làm bị thương 146 người. Nhiều gia đình bị tàn phá thảm
khốc… Tưởng chừng sau những loạt bom hủy diệt khủng khiếp ấy, tất cả mọi
thứ đều đổ nát, đều biến thành tro bụi và con người trên mảnh đất này sẽ phải
quay về thời kì đồ đá như ước mong của kẻ thù. Không! Bom đạn của giặc
Mỹ đã không phá hủy được ngôi đền làng Hạ, không tiêu diệt được biểu
tượng về truyền thống lịch sử và văn hóa của một làng quê Việt Nam cổ
truyền. Dù bom Mỹ và đã làm biến dạng vẻ đẹp của ngôi đền, nhưng rồi sức
mạnh tình yêu quê hương đất nước của nhân dân đã khôi phục khá nguyên
vẹn di sản của cha ông.
2.1.1 Không gian cảnh quan và bố cục mặt bằng tổng thể
Đền Hạ nằm trong lòng khu dân cư tấp nập, không gian của cõi tâm
linh được tách khỏi chốn sinh hoạt đời thường lam lũ chỉ bằng những bức
tường xây mỏng manh và đang cố giữ lấy nét u tịch, thần bí của mình. Mở
đầu cho đền Hạ là một tam quan sừng sững mở ra con đường rải nhựa phẳng
phiu chạy dài khu dân cư và song song với quốc lộ số 5 nổi tiếng. Con đường

chạy qua cửa đình, cửa đền và cửa phủ của làng Hạ ngày xưa, nay được mang
tên là đường đình Hạ. Tam quan chính là cổng của di tích, đồng thời cũng là
một công trình kiến trúc mang ý nghĩa tượng trưng cho một số quan niệm
dịch học truyền thống. Cổng giữa cao to, xây theo kiểu ngôi lầu 2 tầng 8 mái
với các đề tài rồng chầu, phượng múa, mặt nguyệt, dải mây. Đặc biệt các góc
mái tam quan được làm cong cong 2 bên như mái đình Việt Nam cổ truyền
20


trông như các cánh tay của cô thôn nữ làng Hạ xưa kia trong động tác múa
đèn ở ngày hội hoa đăng. Hai cổng bên được làm nhỏ hơn cổng giữa nhiều,
trông như ngôi nhà hai mái đơn giản, lối đi lại xây cong hình vòm cuốn.
Đằng sau cánh cổng sắt luôn luôn khóa trái, đề phòng sự mất mát và sự
nghịch ngợm của con trẻ là khu sân đền vuông vức, được chỉnh trang tôn tạo
khá cầu kì. Sân đồng thời cũng là vườn, là khu non bộ xanh tươi, kì vĩ của di
tích. Trong sân có các cây cổ thụ như muỗng, đại, mít… Có chậu hoa cây
cảnh, có hòn non bộ, có Động sơn trang, có bể cá vàng, có cây hương lộ
thiên… trông như một lầu viên trong các cung vua phủ chúa thu nhỏ.
Cảnh quan của đền Hạ nằm giữa khu vực dân cư phường Thượng Lý, là
một công trình kiến trúc bề thế với diện tích tổng thể khoảng gần 1000m 2 với
những nét trang trí chạm khắc tinh tế mang dấu ấn phong cách thời Nguyễn.
Đền là một công trình kiến trúc từ thời xa xưa được chia làm 3 gian chính:
Gian chính thất thờ 2 vị Thành Hoàng là Nguyễn Tướng công Nguyễn Trí
Hòa và Trình tướng công Nguyễn Công Trứ, đã được ba triều đại nhà Nguyễn
là Thành Thái, Duy Tân, Khải Định phong sắc: Dực bảo trung hưng, linh phù
hiệp chấn quan, tước Thọ Như Hầu (tước Hầu sau tước Vương) đồng thời
phối thờ một số vị như: Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Tứ Nghi là những nhân vật nổi tiếng trong lịch
sử Việt Nam. Gian trái thờ Mẫu Liễu Hạnh. Gian phải là cung chùa Hạ (Sau
khi chùa xuống cấp đã đưa về đền). Phía cổng chính tam quan vào đền còn

đôi câu đối cổ: Hạ giang thái ấp vọng hồng ân. Tứ hải khai điền hưng quốc
thổ. Trên cổng đền là gác chuông.
2.1.2 Kết cấu kiến trúc và nghệ thuật trang trí
Kiến trúc chính của đền Hạ quay hướng Nam trong tư cách “Thánh
nhân nam diện nhi thỉnh thiên hạ”, nghĩa là “Thánh nhân ngồi quay hướng
Nam mà nghe thiên hạ tâu bày”. Hướng Nam được coi là hợp cách theo quan
niệm tín ngưỡng của người Việt xưa như “Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam”.
21


Đền bố cục theo lối chữ đinh đơn giản gồm 5 gian tiền đường và 3 gian
hậu cung. Đêm 16 tháng 4 năm 1972, bom giặc Mỹ bắn phá làm hậu cung đền
hư hại nặng và tiền đường của đền cũng không còn nguyên vẹn, ngói vỡ,
tường đổ. Nhất là trên xà thượng của tòa tiền đường còn lưu lại cho đời sau
dấu vết của cái đêm hủy diệt ấy bằng một vết găm của mảnh bom Hoa Kỳ. Từ
đống tro tàn đổ nát của chiến tranh, nhân dân địa phương cùng nhau đóng góp
công của, tu sửa lại cửa đền, dù rằng phải cắt bỏ một cung sau. Mới đây người
ta dựng thêm một gian phía sau tòa hậu cung, trả lại cho nó quy mô vốn có và
biến cung cấm này thành phủ thờ “Tam tòa Thánh Mẫu”. Phải nói rằng cách
bày đặt ban thờ trong cung Mẫu khá cầu kỳ, tốn kém và có phần hiện đại bởi
các phương tiện và vật liệu kiến trúc mới. Nhưng kiến trúc của cung này được
làm quá ẩu, không theo hướng phục hồi di tích mà chỉ nặng về giá trị sử dụng
nên đã làm giảm hiệu quả thẩm mĩ của công trình, tính trang trọng của cõi
linh. Trong khi đó, bên trái tòa hậu cung đền, nhân dân địa phương đã khéo
léo dựng một nhà dọc 3 gian kiểu chuôi vồ song song với hậu cung và mặt
trước thông sang gian hồi của tiền đường, để lập nên một điện thờ Phật. Mặc
dù cũng chỉ là vật liệu kiến trúc mới xi măng, cốt thép làm giả gỗ nhưng do kĩ
thuật tổ và ý thức trách nhiệm cao nên đã khắc phục được phần nào khiếm
khuyết của tôn tạo đầy ngẫu hứng này. Có lẽ do điều kiện đất đai đô thị chật
hẹp, chúng ta có thể chấp nhận sự phối hợp “đa thần” này trong một bản thể

cõi linh, một di tích lịch sử văn hóa. Nhưng mong sao các đợt trùng tu tôn tạo
sau này của con người không được làm ảnh hưởng đến giá trị nguyên gốc của
công trình di tích.
Đền Hạ được xây theo lối bổ trụ giật tam cấp chắc khỏe nhưng lại mất
đi dáng vẻ uyển chuyển, nhẹ nhàng, thanh thoát của các mái đao cong truyền
thống. Bộ mái kiến trúc hầu như không sử dụng hình thức trang trí gì. Mái lợp
ngói vảy rắn xà, những “vảy rắn” này được làm xi măng cát, một phương
pháp phục chế ngói cổ hết sức sáng tạo của văn hóa dân gian.
22


Tòa tiền đường 5 gian, khung chịu lực chính của ngôi nhà hoàn toàn sử
dụng vật liệu xây dựng là gỗ lim giống như bao công trình kiến trúc nghệ
thuật cổ khác. Tòa nhà đứng vững trên 4 bộ vì kèo gỗ và hai tường hồi đốc.
Các vì kèo được làm tương tự nhau theo kiểu “chồng rường, ghía chiêng”.
Mỗi vì kèo gồm 4 hàng chân cột (2 cột cái và 2 cột quân) và các cột đều được
kê trên các chân tảng bằng đá vôi. Chân tảng được làm theo lối tròn trên
vuông dưới. Cột gỗ đứng trên chân tảng đá, đã từ lâu trở thành nét độc đáo
trong nền nghệ thuật kiến trúc cổ Việt Nam. Nó không những là biểu tượng
của sự kết hợp âm dương, để cầu mong sự trường tồn mà chân tảng còn có tác
dụng chống lún, chống mối mọt cho công trình.
Chúng tôi xin giới thiệu sơ bộ về cấu trúc của bộ vì kèo đền Hạ: Đội
“thượng lương xà nóc” là một dép gỗ hình thang ngửa, mặt ngoài khắc chìm
chữ thọ. Dép gỗ này khắc trên một dấu sen chữ nhật nằm trên lưng “rường
bụng lợn”. “Rường bụng lợn” uốn vòng lên, chắc khỏe, mặt ngoài chạm nổi
hoa lá cách điệu. Rường bụng lợn được kê trên đầu 2 cột trốn tròn nhô lên từ
lưng câu đầu. Hai đầu cột trốn đều được đắp dấu son vuông. Câu đầu là một
thân gỗ lớn, bào soi hình vỏ măng, nối hai đầu cột cái trong một bộ vì lại với
nhau qua mộng én khít chặt ở đầu vuông thót đáy đỉnh cột. Kiểu thức khớp
mộng qua đầu vuông thót đáy là một kĩ thuật kiến trúc, xây dựng tiến bộ được

sử dụng nhiều ở các công trình kiến trúc ra đời ở thế kỉ XVI và thế kỉ XVII và
được kế thừa ở một vài công trình xây dựng sau này. Trong đó đền Hạ là một
minh chứng chân xác. Bụng câu đầu cũng có hình thức tạo ô trang trí hình
chữ nhật như nhiều kiến trúc đình làng khác.
Rường bụng lợn đội đôi hoành thứ nhất. Từ thân cột chốn lao ra một
rường ngắn, rường này làm nhiệm vụ đội đôi hoành thứ hai. Đồng thời rường
ngắn được kê trên lưng một đấu kép nằm trên lưng câu đầu. Dấu kép đội đôi
hoành thứ ba. Đôi hoành thứ tư nằm trên đầu cột cái qua thân sau đầu. Dưới
bụng câu đầu không thấy xuất hiện đầu dư hình rồng truyền thống, thay vào
đó là “nghé” được tạo bởi đuôi của thanh rường trên vùng ở khu vực cốn.
23


Từ thân cột cái lần lượt nhô ra hai thanh rường kế tiếp nhau, một đầu
của rường khớp mộng trong thân cột, đầu kia đội các đôi hoành thứ năm và
thứ sáu. Hai rường này kê chồng lên nhau, qua dấu sen vuông và chúng được
một thanh rường kép nằm trên lưng xà nách đỡ, giữ. Rường kép đội đôi hoành
thứ bảy, đôi hoàng thứ tám nằm trên đỉnh cột quân. Xà nách là một đoạn gỗ
lớn nối giữa thân cột cái với đầu cột quân tạo thành liên kết chịu lực ngang
của công trình.
Từ đầu cột quân lao ra một bẩy hiên ngắn, đuôi bẩy khớp mộng dưới
bụng xà nách, đầu bẩy đỡ tàu đao của mái đua, dựa theo quy luật của lực
tương hỗ để giữ cho mái ngói phẳng và cân. Trên lưng bẩy hiên có lắp lá dong
bằng ván gỗ dày và khoét lõm để đôi, đôi hoành thứ tám. Hoành mái thẳng,
vuông thành sắc cạnh, các khoang hoành được bố trí theo lối “thượng tứ hạ
ngũ” nên mái ngói cao và dốc.
Liên kết dọc của tòa nhà vẫn sử dụng hệ thống xà thượng (xà nối các
cột cái vào với nhau), xà hạ (xà nối các cột quân) và xà ngưỡng (xà dùng để
lắp hệ thống cửa gỗ) tạo thành các khung chịu lực hình chữ nhật cân.
Ba gian trung tâm mở hệ thống cửa gỗ theo kiểu “cửa tù cung khách”.

Bộ cánh cửa, phía trên trổ hàng chấn song con tiện để đón ánh sáng mặt trời,
tạo nên vẻ hư ảo, lung linh của không gian thờ tự huyền bí, nhất là trong các
ngày hội lễ, kị nhất với khói hương nghi ngút. Liền tòa tiền đường phân bố
cao thấp khác nhau, tùy thuộc vào từng chức năng của từng khu vực. Thấp
nhất là gian trung tâm như một lòng thuyền của ngôi đền cổ. Tiếp đó là nền
của gian sát hồi nhà được tôn cao 20cm so với nền gian giữa, mô phỏng dánh
dấp của sàn đền. Cao nhất là “bộ lễ” ngay dưới ban thờ tả gian và hữu gian
(50cm). Việc làm sạch đẹp cho nền tòa tiền đường cũng như tòa hậu cung của
đền Hạ bằng gạch bông, màu sắc rực rỡ là một khuyết tật cần sớm rút kinh
nghiệm trong công tác tôn tạo di tích hiện nay. Đưa vật liệu của thời hiện đại
vào sử dụng trong các công trình kiến trúc nghệ thuật cổ, nó không chỉ xâm
24


phạm nguyên gốc mà làm lạc điệu bản nhạc văn hóa cha ông, quan niệm tín
ngưỡng của người xưa.
Hậu cung đền Hạ là dãy nhà dọc ba gian phía sau tiền đường mà dân
gian quen gọi là ba gian chuôi vồ. Lòng nhà hậu cung bằng chiều rộng của
gian trung tâm và một phần hai tả gian, hữu gian của toàn tiền đường. Xét về
mặt kiến trúc thì tòa hậu cung có cùng một chất liệu và kĩ thuật xây dựng
tương tự tòa tiền đường. Nét dị biệt của tòa này so với tiền đường ở chỗ: kết
cấu vì kèo chồng rường giá chiêng được thay bằng vì kèo ván mô bằng các
tấm gỗ dày. Ngăn cách với gian cung cấm, đồng thời là cung Mẫu là bức
tường vốn là hồi đốc của hai gian hậu cung trong lần tu sửa sau chiến tranh
phá hoại của giặc Mỹ. Bức tượng này là giới hạn tạo thành cung để lập bàn
thờ chư vị thành hoàng. Hai bên trổ hai cửa đi lại nhỏ dần sang cung Mẫu
phía sau. Hậu cung là nơi người xưa xây cất, tạo lập các ban thờ đồ sộ uy
nghi, nơi an vị thần tượng chư vị thành hoàng. Trong một trật tự thờ cúng
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Sẽ là sai sót khi nói đến kiến trúc đền Hạ mà lại quên hai ngôi nhà bia

nho nhỏ xinh xinh kèm bên tiền đường ở vị trí thường dành cho các nhà giải
vũ. Nhà bia mang dáng dấp của một lầu điện bốn mái, với đao cong bai bai.
Mái được làm hoàn toàn bằng vôi vữa, nhưng khéo léo trong cách giả ngói âm
dương. Mỗi nhà bia làm nhiệm vụ bảo tồn một tấm bia đá lớn cao chừng 1m,
rộng 0,6m, dày 0,2m.
Đền Hạ là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ mà ở đó nghệ thuật
trang trí được sử dụng không nhiều, nếu không muốn nói là ít. Trang trí trên
kiến trúc đền Hạ chỉ vừa đủ làm đẹp cho công trình và vừa đủ để khẳng định
tính chất tôn nghiêm, linh thiêng của một nơi thờ tự. Dường như nghệ thuật
trang trí kiến trúc của đền Hạ chủ yếu tập trung ở các vị trí có điều kiện phô
diễn vẻ đẹp như các thanh rường, đầu hoa sen, xà nách, bẩy hiên… Đề tài

25


×