Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.39 KB, 37 trang )

MỤC LỤC


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

sách giáo khoa
học sinh
tiểu học

SGK
HS
TH


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng, đó là

hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học sinh. Tập đọc là một
phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân môn có vị trí
đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ
năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc Tiểu học. Kỹ
năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý
thức (hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc
diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn
học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực
giao tiếp của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường
phải từng bước hình thành và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu
tiên. Nên việc dạy học phải có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5.


Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 - Lớp đầu cấp - việc dạy đọc cho các em
thật vô cùng quan trọng, bởi các em có đọc tốt được ở lớp 1 thì khi học các lớp
tiếp theo, các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng
Việt. Việc dạy đọc ở lớp 1 cũng quan trọng bởi từ chỗ các em còn phải đọc đánh
vần từng tiếng đến việc đọc thông thạo được một văn bản là việc tương đối khó
với các em, mà mục tiêu của giờ dạy Tiếng Việt là phải hướng đến giáo dục học
sinh yêu tiếng Việt, bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự
giàu đẹp của âm thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung.
Thế nhưng hiện nay, ở trường Tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt
ngữ điệu chưa được chú ý đúng mức. Đó là một trong những lý do cho học sinh
của chúng ta đọc và nói chưa tốt. Đó cũng là ý do khiến cho trong nhiều trường
hợp, học sinh không hiểu đúng văn bản được đọc. Cũng như nhiều giáo viên
lớp 1 khác, chúng tôi suy nghĩ rất nhiều về cách dạy tập đọc ở lớp 1. Đặc biệt
là rèn cho học sinh không những chỉ đọc thông được văn bản, mà còn phải đọc
đúng văn bản được đọc.Với lòng ham thích và mong muốn được tìm hiểu, học
3


hỏi thêm kinh nghiệm từ thực tế nhà trường nên chúng tôi đã chọn vấn đề “Một
số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc” làm sáng
kiến kinh nghiệm của mình để góp phần giáo dục nhỏ bé vào sự nghiệp giáo
dục chung của huyện nhà.
2.

Mục đích của đề tài
Tập đọc là một phân môn thực hành vì vậy nhiệm vụ của nó là hình thành

kỹ năng đọc cho học sinh. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh.
Dạy đọc giáo dục lòng ham đọc sách cho học sinh giúp cho các em thấy được
đây chính là con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ phát

triển. Tập đọc góp phần làm giài vốn ngôn ngữ, bồi dưỡng cho học sinh lòng
yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các cách tư duy có hình ảnh.
Đăc điểm của dạy tập đọc lớp 1 chính là ở chỗ: đây là bước chuyển tiếp từ
dạy “học vần” sang dạy “tập đọc”(ở lớp 2). Giờ tập đọc ở lớp 1 vận dụng cả
phương pháp học vần, cả phương pháp tập đọc. Yêu cầu của giờ tập đọc lớp 1 là
củng cố hệ thống âm vần đã học (nhất là các vần khó) đọc đúng tiếng, liền tiếng
trong từ, trong câu, đoạn, bài. Bước đầu biết cách ngắt hơi ở các dấu câu, biết
lên giọng và hạ giọng.
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về đọc đúng tiếng, đọc liền tiếng trong
từ, trong câu, đọc đúng ngữ điệu, biết cách ngắt nghỉ hơi trong văn bản thơ,
cũng như văn bản văn xuôi của học sinh Tiểu học Lưu Kiếm( xã Lưu Kiếm huyện Thủy Nguyên) và trường Tiều học Đặng Cương (Hồng Thái - An Dương).
Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đọc đúng cho học
sinh lớp 1.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng dạy đọc của lớp 1 ở trường tiểu học Lưu
Kiếm và trường tiểu học ...để có một số biện pháp khắc phục và rèn luyện kỹ
năng đọc cho học sinh tốt hơn.

4


3.2. Khách thể nghiên cứu



Nghiên cứu trên giáo viên trực tiếp giảng dạy
Học sinh lớp 1 ở hai trường tiểu học Lưu Kiếm (xã Lưu kiếm - huyện Thủy
Nguyên) và trường tiểu học Đặng Cương (xã Hồng Thái - huyện An Dương)


4. Giả thuyết khoa học
Nếu giáo viên chú trọng cải biến phương pháp dạy học ở tiểu học thì hiệu
quả của việc dạy và học sẽ được nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của vấn đề
5.1.1. Cơ sở tâm sinh lý của trẻ
Từ những đổi mới của chương trình tiểu học, đòi hỏi phải đổi mới chương
trình môn Tiếng Việt. Chương trình Tiểu học thực hiện đổi mới đồng bộ về:
- Mục tiêu giáo dục.
- Nội dung và phương pháp dạy học.
- Cách thức đánh giá học tập của học sinh.
Theo đặc trưng của môn Tiếng Việt tập trung vào sự hình thành và phát
triển kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết, góp phần vào quá trình hình thành các giá
trị mới như: Năng lực tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh
kiến thức và thực hành vận dụng kiến thức đó theo năng lực bản thân.
Như chúng ta đã biết môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ hình
thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ
đó được thể hiện qua 4 kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết. Tập đọc là một phân
môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc
biệt quan trọng trong chương trình, vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát
triển cho kĩ năng “đọc” nói chung và “đọc đúng” nói riêng. Một kĩ năng quan
trọng hàng đầu của bậc Tiểu học. Tập đọc là môn học công cụ, là chìa khoá, là
phương tiện để học sinh tiếp nhận tri thức loài người.
Tập đọc giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp tinh tế của nghệ thuật ngôn từ.
5


Tập đọc, đặc biệt là đọc đúng giúp các em học được cách nói, cách viết một
cách chính xác, trong sáng có nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào việc rèn
luyện kĩ năng đọc mà còn phát triển cho học sinh vốn từ ngữ Tiếng Việt phong

phú. Từ đó, các em sẽ học tốt các môn học khác, bởi đọc đúng được chính xác
nội dung một vấn đề nào đó. Từ đó, các em sẽ làm Toán đúng, viết đúng và nói
đúng, ...
Với tư cách, nhiệm vụ là một phân môn thực hành Tiếng Việt, đọc đúng
góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển năng lực cho học sinh.
Những bài tập đọc trong chương trình sách giáo khoa lớp 1 là những bài văn, bài
thơ hay trong kho tàng văn học trong nước và nước ngoài. Chính vì thế mà các
em có vốn văn học dân tộc.
Cũng như các môn học khác ở các cấp học, môn Tập đọc đòi hỏi giáo viên
phải đổi mới phương pháp: Lấy học sinh làm trung tâm., học sinh giữ vai trò chủ
đạo trong quá trình học tập. Tự tìm tòi để hiểu nội dung, phát hiện kiến thức
dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của người thầy. Với những yêu cầu quan trọng như
vậy thì người thầy phải là người tổ chức linh hoạt chuẩn bị được nhiều tình
huống phong phú cho học sinh.
Trong chương trình tiểu học, các bài tập đọc của lớp 1 đã được chọn lọc kĩ
càng. Được sắp xếp theo từng chủ đề, nội dung các bài tập đọc cung cấp, bồi
dưỡng cho các em lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu người lao đông, yêu
người thân, ... ở xung quanh các em.
5.2. Thực trạng dạy và học
Tập đọc là một phân môn thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ
năng nghe, đọc, nói và đọc thầm. Nhưng việc dạy đọc hiện nay chưa được giáo
viên quan tâm rèn đọc theo đúng qui trình đưa ra. Vì giáo viên chưa hiểu hết ý
nghĩa của phân môn tập đọc.vì vậy chúng tôi xin đưa ra ví dụ: đọc đúng là tiền
đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại,
nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm được.
6


Nhiều khi khó mà nói được rạch ròi. Việc dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc

sách, hình thành thói quen làm việc với văn bản, với sách cho học sinh. Nói cách
khác thông qua việc dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng khả
năng đọc là có lợi ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy
đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ
đầy đủ và phát triển.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về nội dung
Nghiên cứu về việc rèn luyện kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 1
6.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu trên 50 giáo viên lớp 1 ở 2 trường tiểu học Lưu Kiếm và
trường tiểu hoc Đặng Cương.
Nghiên cứu trên 100 học sinh ở 2 trường tiểu học Lưu Kiếm và trường tiểu
học Đặng Cương.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp phân tích
Phương pháp tổng hợp
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
-

Phương pháp thu thập tài liệu
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
Phương pháp trắc nghiệm
Phương pháp thống kê toán học

7


CHƯƠNG I:
NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP LUYỆN

ĐỌC ĐÚNG CHO HỌC SINH LỚP 1 TRONG CÁC TIẾT TẬP ĐỌC
1.1

Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trước đó, cũng đã có một số giáo viên nghiên cứu về vấn đề này:
- Cô Nguyễn Thị Liên - TH Vạn Thạnh
- Cô Lê Thị Nhớ - TH B Vĩnh Phú

1.2. Một sốkhái niệm và kiến thức liên quan đến đề tài
1.2.1. Một số khái niệm
a. Khái niệm đọc
Môn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho
học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện bốn dạng hoạt động, tương
ứng với chúng là bốn kỹ năng nghe, nói, đọc , viết. Đọc là một dạng hoạt động
ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng từ chữ viết sang lới nói có âm thanh và thông
hiểu nó( ứng với hình thức độc thành tiếng) , là quá trình chuyển trực tiếp từ hình
thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm).
Đọc không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm 2 phần chữ viết và phát
âm, nghĩa là nó không phải là sự “ đánh vần” lên thành tiếng theo đúng như
cácký hiệu mà còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì
được đọc. Trên thực tế, nhiều khi người ta đã không hiểu khái niệm “đọc” một
cách đầy đủ. Nhiều chỗ người ta chỉ nói đến đọc như nói đến việc sử dụng bộ mã
ngữ âm còn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã không được chú ý đúng mức.
b. Phương pháp
Là hệ thống những hành động tự giác, tuần tự nhằm đạt được những kết
quả phù hợp với mục đích đã định.

c. Phương pháp dạy học
8



Là những cách thức làm việc giữa thầy giáo và học sinh, nhờ đó mà học
sinh nắm vững được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, hình thành được thế giới quan và
năng lực.
Phương pháp dạy – học tiếng Việt là môn học chuyên nghiên cứu quá
trình dạy – học tiếng Việt bao gồm việc nghiên cứu đối tượng, nhiệm vụ, mục
tiêu, các cơ sở khoa học, các nguyên tắc xây dựng của chương trình và những
cách thức thiết kế, tổ chức quá trình dạy học các đơn vị kiến thức tiếng Việt của
chương trình
d.Cải biến phương pháp dạy học
Là thay đổi cách thức tác động của giáo viên đến học sinh để giúp học
sinh tiếp thu tri thức một cách có hiệu quả nhất, nắm bắt được đầy đủ kiến thức
mà giáo viên truyền đạt.
1.2.2 Kiến thức liên quan
a. Ý nghĩa của việc đọc
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hóa, khoa học, tư
tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và tình cảm của ngững gười đương thời
phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu khonng biết đọc thì con người
không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống
bình thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Biết
đọc, con người đã nâng khả năng tiếp nhận nên nhiều lần, từ đây sẽ biết tìm
hiểu, đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội , tư duy.
Biết đọc con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hóa cơ bản
giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu tư
tưởng tình cảm của người khác, đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con
người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động về tình cảm,
nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hành động sức mạnh
sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn, không biết đọc con người sẽ không
có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành
được một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin thì biết

9


đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin,
đọc chính là học, học nữa học mãi, đọc để tự học, học cả đời. vì những lí lẽ trên
dạy đọc có ý nghĩa to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên
đối với mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ phải học độc, sau đó trẻ phải đọc để học.
Đọc giúp trẻ em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học
tập. Nó là công cụ để học tập cho các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động
cơ học tập. Nó tạo điều kiện cho học sinh có khả năng tự học và tinh thần học
tập cả đời. Nó là một khả năng không thể thiếu được của con người văn minh.
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngông ngữ
cũng như tư duy của người đọc, việc dạy đọc cũng giúp học sinh hiểu biết hơn,
bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ
một cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có một ý nghĩa to
lớn còn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
b. Nhiệm vụ của dạy học ở tiểu học
Từ ý nghĩa của việc đọc đã khẳng định sự cần thiết của việc hình thành và
phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh, Tập
đọc với tư cách là một phân môn của Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ đáp ứng
yêu cầu này-hình thành và phát triển năng lưch đọc cho học sinh.
Phân môn học vần cũng thực hiện nhiệm vụ dạy đọc nhưng mới dạy đọc ở
mức độ sơ bộ nhằm giúp học sinh sử dụng bộ mã chữ âm. Việc thông hiểu văn bản
chỉ đặt ra ở mức độ thấp và chưa có hình thức chuyển thẳng từ chữ sang nghĩa (đọc
thầm). Như vậy, tập đọc với tư cách là một phân môn tiếng Việt tiếp tục những
thành tựu mà học cần đạt được, nâng lên một mức đầy đủ hoàn chỉnh hơn.
Tập đọc là một phân môn thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên tờ bốn kỹ
năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, độc nhanh(đọc lưu
loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc

hay còn gọi là đọc hiểu) vá đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được hình thành
trong hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện
10


đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thện một trong ngững kỹ năng này sẽ có
tác đọng tích cực đến những kỹ năng khác. Ví dụ, đọc đúng một tiền đề của đọc
nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không
hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và đoch diễn cảm được. nhiều
khi khó mà nói được rạch ròi kỹ năng nào làm cơ cỏ cho kỹ năng nào, nhờ đọc
đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy việc dạy
đọc không thể xem nhẹ yếu tố nào.
Nhiệm vụ thứ 2 của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành thói
quen làm việc với văn bản, với sách cho học sinh. Nói cách khcas thông qua việc
dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có lợi ích
cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những
con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
Ngoài ra việc đọc còn có những nhiệm vụ khavs đó là làm giàu kiến thức
về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn hóa cho học sinh, phát triển ngôn ngữ và
tư duy, giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho các em.
c. Cơ sở của việc dạy đọc
Đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc tiếp nhận thông tin
bằng chỡ viết dựa vào các hoạt động của cơ quan thị giác. Chúng ta đi vào phân
tích đặc điểm của quá trình này.
Đọc được xem như một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau,
là việc sử dụng bộ mã gồm hai phương diện. Một mặt đó là quá trình vận động
của mắt, sử dụng bộ mã chữ-âm để phát ra một cách trung thành nhơng dòng
văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai đó là sự vận động của tư tưởng, tình
cảm, sử dụng bộ mã chữ - nghĩa tức là mối quan hệ giữa các con chữ và ý
tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ vá hiểu cho được nội dung

những gì được đọc.
Đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt, hoạt động cả các cơ
quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì đã đọc. Càng ngày
những yếu tố này càng gần nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn.
11


Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kỹ năng đọc là đạt đén sự tổng hợp
giữa những mặt riêng lẻ này của quá trình đọc, đó là điểm phân tích biết người
mới biết đọc và người đọc thành thạo. Càng có khả năng tổng hợp cấc mặt trên
bao nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện, càng chính xác, càng biểu cảm bấy nhiêu.
Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ “đọc” được sử dụng trong nhiều nghĩa:
theo nghĩa hẹp, việc hình thành kỹ năng đọc trùng với nắm kỹ năng đọc ( tức là
việc chuyển dạng thức chữ viết của câu thành âm thanh), theo nghĩa rộng, đọc
được hiểu là kỹ thuật đọc của những từ riêng lẻ mà cả câu, cả bài). Ý nghĩa hai
mặt của thuật ngữ đọc được ghi nhân trong các tài liệu lý luận học và phương
pháp dạy học. Từ đây chúng ta sẽ hiểu đọc với nghĩa thứ hai- đọc được xem như
là một hoạt động lời nói trong đó có các thành tố:
- Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ
- Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ theo
từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc thành từng tiếng tùy thuộc vào trình độ nắm
kỹ thuật đọc.
- Thông hiểu những gì được đọc ( từ, cụm từ, câu, bài ) kỹ năng độc là
một kỹ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện lâu dài, chia việc hình thành
kỹ năng này thành 3 giai đoạn: phân tích tổng hợp (còn gọi là giai đoạn phát
sinh, hình thành một cấu trúc chỉnh thể của hành động) và giai đoạn tự động
hóa. Giai đoạn dạy học vần là sự phân tích các chữ cái và đọc từng tiếng theo
các âm. Giai đoạn tổng hợp thì đọc thành các từ chọn vẹn, trong đó sự tiếp nhận
tờ bằng thị giác và phát ân hầu như trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo sự
thông hiểu ý nghĩa của “từ” trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là

đọc được thực hiện trong sự đoán các nghĩa. Bước sang lớp 2, lớp 3 học sinh bắt
đầu đọc tổng hợp. Trong những năm học cuối cấp, đọc càng ngày càng tự động
hóa, nghĩa là người đọc ngày càng ít quan tâm đến chính quá trình đọc mà chú ý
nhiều đến sự chiếm lĩnh văn hóa (bài khó), nội dung sự việc, cấu trúc chủ đề,
các phương tiện biểu đạt của nó. Thời gian gần đây, người ta đã chú trọng hơn
đến những mối quan hệ quy định lẫn nhau của việc hình thành kỹ năng đọc vsf
12


hình thành kỹ năng làm việc với văn bản. Nghĩa là đòi hỏi giáo viên tổ chức giờ
học đoc sao cho việc phân tích nội dung của bài đọc đồng thời hướng dẫn đọc có
ý thức bài đọc. Việc đọc như thế nhằm vào sự nhận thức. Chỉ xem là đứa trẻ biết
đọc khi nó đọc mà hiểu được điều mình đọc. Đọc là hiểu nghĩa chữ viết. Nếu trẻ
không hiểu được những điều ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ không có hứng thú
học tập và không có khả năng thành công. Do đó hiểu những gì được đọc sẽ tạo
động cơ, hứng thú cho việc đọc.
Để có giờ đọc đạt kết quả tôt người giáo viên phải nắm được đặc điểm
tâm sinh lý học sinh, nắm được đặc điểm , yêu cầu , bản chất, kỹ năng ,cơ chế ,
mục đích cần đạt được của tiết dạy tập đọc. Trên cơ sở đó sở dụng phương pháp
cho phù hợp.
d. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc
Phương pháp dạy tập đọc phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ học.
Nó liên quan mật thiết đến một số vấn đề của ngôn ngữ học như vấn đề chính
âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học), vấn đề dấu câu, các kiểu
câu... Phương pháp dạy học tập đọc phải dựa trên những kết quả nghiên cứu của
ngôn ngữ học, việt ngữ học về những vấn đề nói trên để xây dựng, xác lập nội
dung và phương pháp dạy học. Bốn phẩm chất của đọc không thể tách rời những
cơ sỏ ngôn ngữ học . Không coi trọng đúng mức những cơ sở này, việc dạy học
sẽ mang tính tùy tiện và không đảm bảo hiệu quả dạy học.
- Vấn đề chính âm trong Tiếng Việt

Chính âm là các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ có giá trị và hiệu quả
về mặt xã hội. Vấn đề chuẩn mực về mặt phát âm tiếng Việt dang là vấn đề thời
sự, có nhiều ý kiến khác nhau. Nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau như
chuẩn hóa ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, mục đích của việc xây
dựng chính âm.
- Vấn đề ngữ điệu của Tiếng Việt

13


Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên
cao hay hạ thấp giọng đọc, giọng nói,. Ngữ điệu là một trong những thành phẩm
của ngôn điệu. Ngữ điệu là một yếu tố gắn chặt với lời nói.
Mỗi ngôn ngữ có một ngữ điệu riêng.. Ngữ điệu tiếng Việt, như các ngôn
ngữ có thanh điệu khác, chủ yếu được biểu hiện ở sự lên giọng và xuống giọng
(cao độ) , sự nhấn giọng (cường độ ), sự ngưng giọng (trường độ) và sự chuyển
giọng (phối hợp cả trường độ và cường độ ).
Ngữ điệu là một hiện tượng phức tạp có thể tách ra thành các yếu tố cơ
bản có mối quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng) trọng âm,
âm điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết làm
chủ những yếu tố này.
1.2.2 Cơ sở lý thuyết cơ bản, phong cách học và văn học của dạy học
Việc dạy học không thể dựa trên lý thuyết về văn bản những tiêu chuẩn để
phân tích, đánh giá một văn bản (ở đây nói đến những bài học ở tiểu học) nói
chung cũng như lý thuyết để phân tích , đánh giá các tác phẩm văn chương nói
riêng.Việc hình thành kỹ năng đọc đúng, đọc diễn cảm càm và đọc hiểu cho học
sinh phải dựa trên những tiêu chuẩn đánh giá một văn bản tốt: tính chính xác,
tính đúng đắn và tính thẩm mỹ, dựa trên những đặc điểm về các kiểu ngôn ngữ,
các phong cách chức năng, các thể loại văn bản, các đặc điểm về thể loại của tác
phẩm văn chương dùng làm ngữ điệu đọc ở tiểu học. Ví dụ, cách đọc và khai

thác để hiểu nội dung một bài thơ, một đoạn tả cảnh, một câu tục ngữ, một
truyền thuyết, một bài sử, một bài có tính chất khoa học thưởng thức... là khác
nhau. Việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài đọc cũng phải dựa trên
những hiểu biết về đề tài, chủ đề, kết cấu nhân vật, quan hệ giữa nội dung và
hình thức, các biện pháp thể iện trong tác phẩm văn học, nhằm miêu tả, kể
chuyện và biểu hiện các phương tiện và biện pháp tu từ...Việc luyện đọc cho học
sinh phải dựa trên những hiều biết về đặc điểm ngôn ngữ văn học, tính hình
tượng, tính tổ chức cao và tính hàm xúc, đa nghĩa của nó. Tất cả những vấn đề
trên đều thuộc phạm vi nghiên cứu của lý thuyết văn học. Vì vậy ta dễ dàng
14


nhận thấy phương pháp dạy tập đọc không chỉ trên những thành tựu nghiên cứu
của lý thuyết văn bản nói chung và nghiên cứu văn chương nói riêng.
1.2.3 Tổ chức dạy học thành tiếng ở tiểu học
1.2.3.1 Chuẩn bị cho việc đọc
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc
cần phải ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nằm trong khoảng 30-35
cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi. Ở lớp, khi được cô
gió gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay.
Trước khi nói về việc rèn đọc đúng, cần phải nói về tiêu chí cường độ và
tư thế khi đọc, tức là đọc to, đọc đàng hoàng. Trong hoạt động giao tiếp, khi đọc
thành tiếng, người đọc một lúc đóng hai vai: một vai - và mặt này thường được
nhần mạnh- là người tiếp nhận thông tin bằng chữ viết; vai thứ hai là người
trung gian để truyền thông tin đưa văn bản viết đến người nghe. Khi giữ vai thứ
hai này , người đọc đã thực hiện việc tái văn bản. Vì vậy, khi đọc thành tiếng,
người đọc có thể đọc cho mình hoặc cho người khác hoặc cho cả hai. Đọc cùng
với phát biểu trong lớp là hình thức giao tiếp trước đám đông đầu tiên của trẻ em
nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để đảm bảo sự thành công, tạo cho
các em sự tự tin cần thiết. Khi đọc thành tiếng, các em phải tính đến ngưởi nghe.

Giáo viên cần cho các em hiểu rằng các em đọc không phải chỉ cho mình cô
giáo mà để cho các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn để cho tất cả những người
này nghe rõ. Nhưng nhứ thế không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào lên. Để
luyện cho học sinh đọc quá nhỏ “lí nhí”, giáo viên cần tập cho các em đọc to
chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi. Giáo viên nên cho học
sinh đứng trên bảng để đối diện với những người nghe. Tư thế đứng đọc phải
vừa đàng hoàng, vừa thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm bằng hai tay.
Giáo viên làm mẫu, đây là đối tượng học sinh vùng nông thôn, giáo viên cần
nắm bắt sự khéo léo, tâm lý của học sinh, giúp học sinh mạnh dạn tự tin trong
lúc đọc.
1.2.3.2

Luyện đọc đúng
15


Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,
không có lỗi. Đọc đúng là đọc không thừa, không sót từng âm, vần, tiếng. Đọc
đúng phải thể hiện đúng ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói cách
khác là không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm
việc đọc đúng các âm thanh( đúng các âm vị) ngắt nghỉ hơi đúng chỗ(đọc đúng
ngữ điệu).
Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị tiếng việt.
-

Đọc đúng các phụ âm đầu: Ví dụ: Có ý thức phân biệt để không đọc: “dảy dây”,
“ khỏe khắn” mà phải đọc là “ nhảy dây”, “ khỏe khoắn”, chú ý phân biệt giữa

-


âm d và âm nh, âm x và âm s như: “chim sẻ” thành “chim xẻ” .v.v..
Đọc đúng các âm chính: Ví dụ: Có ý thức phân biệt để không đọc “iu tin, quả

-

lịu”, “mợn”,… mà phải đọc “ưu tiên, quả lựu”, “mượn”...
Đọc đúng các âm cuối: Ví dụ: Có ý thức không đọc: “luông luông” mà phải đọc

-

“luôn luôn” ...
Đọc đúng bao gồm cả đọc tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu câu. Ngữ điệu là
hiện tượng phức tạp, có thể tách ra thành các yếu tố cơ bản có quan hệ với nhau :
chỗ nghỉ( ngưng giọng hay ngắt hơi), trọng âm, âm điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy
đọc đúng ngữ điệu là dạy cho học sinh làm chủ những yếu tố này. Đọc đúng ngữ
điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng vừa là mục đích hay dạy đọc thành
tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài đọc.
Khi dạy đọc đúng giáo viên cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ
pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một từ ra
làm hai. Ví dụ không ngắt hơi.
“Con/ cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành/ mềm lôn/ cổ xuống ao”
- Ông già bẻ gãy từng chiếc đũa một/ cách dễ dàng.
Không tách giới từ với danh từ đi sau nó.
Ví dụ không đọc:
“Như con chim chích
16


Nhảy trên /đường vàng”

Không tách động từ, hệ từ “ là ” với danh từ đi sau nó.
Ví dụ không đọc
Cá heo là/ tay bơi giỏi nhất của biển
Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu
hơn ở dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu: lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng
ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu
cảm. Với câu cầu khiến cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ giọng khi đọc bộ
phận giải thích của câu.
Như vậy đọc đúng đã bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm.
1.2.3.3 Luyện đọc nhanh
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu cho
học sinh theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài.
Giáo vên điều chỉnh tốc độ bằng cách giữ nhịp đọc. Ngoài ra, còn có biện pháp
đọc nối tiếp trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của thầy, của bạn để điều chỉnh
tốc độ. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng cho trước và
dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Định tốc độ như thế nào còn phụ thuộc vào
độ khó của bài đọc. Bên cạnh đó, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu bài để nhớ và
nắm chắc kiến thức từ đó học sinh đọc nhanh hơn.

17


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ
BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC ĐÚNG CHO HỌC SINH LỚP 1
2.1 Thực trạng vấn đề nghiên cứu
2.1.1 Đối với giáo viên
Nhìn chung giáo viên tiểu học đều rất coi trọng giờ tập đọc. Giáo viên ở
các lớp đầu cấp cho rằng phần luyện đọc từ, đọc câu là quan trọng hơn còn ở các
lớp cuối cấp thì cho rằng phần luyện đọc và phần tìm hiểu bài quan trong như
nhau. Nhưng nhìn chung 70% giáo viên khẳng định việc luyện đọc quan trọng

hơn còn về thời gian phân bố trong giờ luyện đọc thì 80% số giáo viên cho rằng
thời gian luyện đọc là nhiều hơn còn 20% cho rằng thời gian của 2 phần này như
nhau. Được dự các tiết tập đọc, chúng tôi nhận thấy phần lớn giáo viên đều chú
ý sửa lỗi phát âm cho học sinh, song do thời gian bị hạn chế nên việc sửa lỗi do
chỉ được thực hiện lướt qua khi luyện đọc từ hoặc câu giáo viên thường chỉ cho
học sinh luyện những từ và câu mà sách giáo khoa yêu cầu chứ chưa chọn lọc ra
những từ hoặc câu mà học sinh của mình hay nhầm lẫn
2.1.2 Thực trạng rèn đọc ở lớp 1
Giờ tập đọc được tiến hành theo trình tự sau:
Tiết 1:
1. Kiểm tra bài cũ
Học sinh đọc lại bài của tiết trước và trả lời một số câu hỏi ứng với nội
dung bài học.
2. Bài mới:
a. Giới thiệu bài
-

Giáo viên chép sẵn bài đọc lên bảng lớp
Giáo viên đọc mẫu học sinh theo dõi
b. Hướng dẫn học sinh luyện đọc

-

Luyện đọc tiếng, từ

18


Giáo viên kẻ chân những từ mà sách giáo khoa yêu cầu và gọi cá nhân học
sinh đọc

-

Luyện đọc câu
Giáo viên đưa ra những câu thơ, văn ngắt nhịp, ngắt giọng sẵn và đọc mẫu
sau đó học sinh đọc theo cô. Khi cá nhân học sinh độc các em khác nghe và
nhận xét bạn.

-

Luyện đọc cả bài
Cá nhân học sinh đọc sau đó các em khác nhận xét
3. Ôn vần

-

Dựa vào các câu hỏi và bài tập của Sgk
+ Tìm tiếng có chứa vần cần ôn
+ Nói câu chứa tiếng có vần cần ôn
4. Củng cố: ghép từ thành câu
Tiết 2:
5. Tìm hiểu bài và luyện nói
a. tìm hiểu bài

-

Học sinh đọc trong Sgk
+ Cá nhân học sinh đọc từng đoạn và gióa viên nêu câu hỏi ứng với nội
dung của từng đoạn để học sinh trả lời.
+ Giáo viên giảng giải thêm về nội dung, kết hợp giải nghĩa từ.
b. Luyện đọc (mức độ đọc hay)


-

Giáo viên nêu cách đọc hay: giọng đọc, nhấn giọng, ngắt giọng
Giáo viên đọc mẫu lần hai
Học sinh đọc(cá nhân đọc đồng thanh)
c. Luyện nói
6. Củng cố - dặn dò
Dặn dò học sinh đọc lại bài nhiều lần và chuẩn bị bài sau
19


Sau một thời gian tiến hành tìm hiểu điều tra thực trạng, rút ra một số kết
luận sau:
-

Giờ tập độc có vị trí quan trọng ở tiểu học
Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc tập đọc và nhiệm vụ chính của dạy

-

đọc.
Trong giờ tập đọc giáo viên còn làm mẫu nhiều mà chưa để các em tự phát hiện

-

ra cách đọc.
Trong giờ tập đọc nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý đến học
sinh yếu vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm giảm tiến độ
của tiết dạy..

2.1.3 Phiếu hỏi
Phương thức điều tra giáo viên bằng phiếu thăm dò: Đánh dấu vào ô
trống theo thầy(cô) là đúng, là thường thực hiện dạy tập đọc hoặc nêu hình thức
mà giáo viên thường làm.
Câu 1: Thầy(cô) cho biết trong một giờ Tập đọc ở lớp 1, thầy(cô) đã rèn đọc cho
học sinh như thế nào, hãy kể cách làm cụ thể?
Câu 2: Trong một giờ Tập đọc, thầy(cô) đã chú ý đối tượng học sinh nào?
Thầy(cô) hãy đánh dấu x vào ô trống mà đồng chí cho là đúng:
Học sinh khá – giỏi
Học sinh trung bình
Học sinh yếu kém
Câu 3: Trong số hình thức dạy học sau đây, thầy(cô) thường chọn những
hình thức nào? Hãy đánh dấu x vào ô mà đồng chí cho là đúng:
Dạy học cá nhân
Dạy học theo nhóm
Dạy học cả lớp
Hình thức dạy học nào là quan trọng nhất (ghi cụ thể tên hình thức dạy đó).
Câu 4: Thầy(cô) hãy kể tên những phương pháp mà thầy(cô) đã vận dụng để
dạy một giờ tập đọc cho học sinh lớp 1.

Nhận xét:
a. Ưu điểm:
20


Giáo viên đã tìm hiểu kỹ bài dạy và truyền đạt đủ kiến thức cơ bản theo
yêu cầu sách giáo khoa với việc phát huy tính tích cực của học sinh. Họ dành
thời gian cho học sinh làm việc với sách giáo khoa. Kết hợp nhiều phương pháp
trong một tiết dạy như: giảng giải trực quan, vấn đáp, gợi mở để dẫn dắt học
sinh tìm ra kiến thức. Giáo viên luôn có sự chuẩn bị đồ dùng trực quan.

b. Một số tồn tại:
Khi dạy một tiết Tập đọc, nhiều giáo viên chưa thực sự chú ý rèn đọc cho
học sinh khi học sinh đọc sai. Số ít giáo viên chưa chú ý tới việc luyện cách đọc
một câu văn dài, học sinh đọc còn gặp nhiều khó khăn.
Hầu hết các tiết dạy về Tập đọc, khi sử dụng các hình thức trực quan thì
chỉ dừng ở chỗ giáo viên làm động tác minh hoạ hoặc đưa ra vật thực. Một số
bài dạy chay không phóng to được hình vẽ. Nhiều khi ác tranh đưa ra còn hạn
hẹp, kém về hình thức. Điều này không gây được hứng thú học tập cho các em.
Do tập tục địa phương nên các em rất hay đọc ngọng phụ âm l/n, ch/tr, s/x và
ngọng về dấu hỏi – ngã.
Mặt khác, số ít giáo viên chưa chú ý cho học sinh cách đọc đúng nhịp điệu
thơ, đọc ngắc ngứ những câu văn dài. Trong khi tìm hiểu nội dung bài, một số
giáo viên dành nhiều thời gian để giảng giải, đàm thoại (thầy hỏi – trò suy nghĩ,
sau đó gọi 1 – 2 em lên trả lời). Vì vậy, giáo viên chưa kiểm soát được số đông
học sinh trong lớp và dành nhiều thời gian hợp lý cho các em hoạt động tự tìm
kiếm, lĩnh hội kiến thức theo khả năng của mình.
* Nguyên nhân:
Nguyên nhân của một số tồn tại kể trên là do giáo viên chưa nghiên cứu
kỹ nội dung của sách giáo khoa và sách hướng dẫn giảng dạy để từ đó chọn
phương pháp dạy và nội dung dạy học một cách thích hợp nhất.

21


2.1.2 Đối với học sinh
Qua nhiều năm dạy học, chúng tôi nhận thấy ở tiểu học các em thường
coi nhẹ môn tập đọc, vì các em cho rằng môn tập đọc là môn dễ không phải suy
nghĩ như môn toán mà chỉ cần đọc trôi chảy, lưu loát là được. Các em cũng chưa
để ý đến việc đọc của mình như thế nào. Một số ít học sinh phát âm sai do thói
quen đã có từ trước hoặc do tiếng địa phương. Khi đọc các em còn hay mắc lỗi

ngắt giọng, các em còn ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện (còn gọi là ngắt
giọng sinh lý). Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng phần lớn
các em chỉ biết bắt chước cô một cách tự nhiên.
Phiếu hỏi
Phương thức điều tra 1: Bằng hình thức thăm dò điền vào dàn ý, vào ô
trống mà em cho là đúng hoặc hình thức lựa chọn từ thích hợp để điền vào ô
trống.
Câu 1: Điền vào chỗ trống n hoặc l.
Cây ….úa, ……ấu cơm, ……ăn tròn.
Câu 2: Điền vào chỗ trống chao hay trao.
………… ơi!, …………giải thưởng.
Câu 3: Điền vào chỗ trống s hoặc x.
…ản xuất, …uất sắc

Điều tra kết quả phương thức 1:
Câu 1: 75% học sinh trả lời đúng.
Câu 2: 90% học sinh trả lời đúng.
Câu 3: 80% học sinh trả lời đúng.
Từ kết quả điều tra phương thức trên cho thấy học sinh đọc sai nhiều nhất
là phụ âm l/n, s/x . Hai phụ âm này học sinh hay đọc sai, trong đó có một phần
lỗi học sinh chưa chú ý và giáo viên đọc chưa chuẩn.
Phương thức điều tra 2:
Tiến hành điều tra vào lớp khảo sát cụ thể qua việc đọc của từng học sinh.
22


Qua điều tra thực tế việc đọc của học sinh, thấy rằng thực trạng của học
sinh có ưu nhược điểm sau đây:
Ưu điểm:
Học sinh đã được học nhiều bài tập đọc bằng giáo án điện tử tạo điều kiện

tốt cho học sinh trong giờ học. Nói chung đa số học sinh đọc được nội dung bài
và bước đầu có kỹ năng đọc đúng. Đã có một số em biết áp dụng vào giờ ngoại
khoá.
Một số em đã biết đọc diễn cảm và có ý thức học tập tốt, hăng hái phát
biểu ý kiến xây dựng bài.
Hạn chế:
Một số em chưa thực sự hiếu học, hay quên đồ dung học tập, chưa chuẩn
bị đầy đủ trước khi đến lớp. Một số học sinh yếu vừa đọc vừa đánh vần, số đông
học sinh khác đọc trôi chảy song chưa biết nhấn mạnh ở các từ ngữ cần chú ý
cũng như cách ngắt nghỉ đúng dấu câu.
Ví dụ: Chỗ ngừng giọng giữa chủ ngữ và vị ngữ, giữa động từ và bổ ngữ.
Đó là chưa kể trong thơ, hầu như người ta đã bỏ các dấu câu, nhiều bài văn xuôi
tác giả không dùng các dấu phẩy như yêu cầu của nhà trường. Đây là nguyên
nhân dẫn đến học sinh không đọc đúng chỗ ngắt giọng ở những câu dài có cấu
trúc ngữ pháp phức tạp.
Ngắt giọng hay là đích của dạy học và cũng là một trong những
phương tiện để dạy tiếp cận, chiếm lĩnh văn bản được đọc. Từ đó các em đọc
đúng phụ âm đầu, ngắt giọng đúng và hay; chúng tôi đã hướng dẫn để các em
cảm thụ được nội dung bài học theo từng chủ điểm. Nhờ đó các em trau dồi cho
mình vốn từ phong phú, cách viết trong sáng, mạch lạc, bố cục chặt chẽ, nội
dung hấp dẫn trong phân môn Tập đọc.
Qua quá trình thực tế dạy tập đọc cho học sinh lớp 1 nhiều em tiếp thu bài
nhanh, đọc tốt, song vẫn còn tồn tại một số em đọc chưa thạo.

23


2.2 Một số biện pháp cơ bản để luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các
tiết tập đọc
Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của việc dạy đọc là

nhận thấy nếu dạy như đại trà hiện nay thì chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu
dạy đọc ở tiểu học. Do vậy để khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu
điểm hiện có ở thực tế. Chúng tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp hướng
dẫn học sinh rèn đọc đúng để nâng cao hiệu quả của giờ tập đọc ở lớp 1 nói
riêng và ở tiểu học nói chung. Đó là:
2.2.1 Đọc mẫu:
- Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích mẫu hình thành kỹ năng
đọc của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn, đọc đúng rõ ràng, trôi
chảy và diễn cảm. Giáo viên yêu cầu lớp ổn định trật tự tạo cho học sinh tâm lý
nghe đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc giáo
viên đứng ở 6 vị trí bao quát lớp, không đi lại, cầm sách mở rộng, thỉnh thoảng
mắt phải dừng sách nhìn lên học sinh nhưng không để bài đọc bị gián đoạn.
- Đối với học sinh lớp 1 giai đoạn đầu (khoảng 2 → 3 bài đầu) giáo viên
chép bài đọc lên bảng rồi học sinh theo dõi cô đọc ở trên bảng, nhưng ở giai
đoạn sau giáo viên nêu yêu cầu học sinh theo dõi bài ở sách giáo khoa để tạo
cho các em có thói quen làm việc với sách.
2.2.2 Hướng dẫn đọc
Sách giáo khoa tập đọc lớp 1 chủ yếu có 2 dạng bài:
-

Dạng thơ, chủ yếu là thể thơ 4 – 5 tiếng
Dạng văn xuôi
Cụ thể là trong 42 bài đọc thì có:

-

23 bài dạng văn xuôi
19 bài dạng thơ
Việc hướng dẫn đọc đúng được thể hiện trong tiết 1.
a. Luyện đọc từ ngữ

24


Đối với lớp 1 dù ở bất kỳ dạng bài nào văn xuôi hay thơ thì trước khi
luyện đọc đúng toàn bài bao giờ học sinh cũng được ôn luyện âm vần. Trong
phần này các em ôn luyện vần trên cơ sở luyện đọc những từ khó, hay nhầm lẫn
khi đọc có ở trong bài. Để thực hiện được tốt phần này, ngoài việc cần lựa chọn
thêm những từ ngữ khác mà học sinh trong lớp mình hay nhầm lẫn hoặc phát âm
sai để cho các em luyện đọc.
Ví dụ: Bài “Hoa Ngọc Lan” Sách giáo khoa chỉ yêu cầu luyện đọc các từ sau
“ Hoa lan, lá dày, lấp ló”
Khi dạy, dựa vào tình hình đọc của lớp ngoài những từ trên chúng tôi đã
tìm thêm một số từ ngữ khác cần luyện đọc đúng đó là các từ ngữ: “xanh thẫm,
nụ hoa, cánh xoè ra duyên dáng, ngan ngát, toả khắp vườn, khắp nhà…” Sở dĩ
chúng tôi đã lựa chọn thêm những từ ngữ này bởi vì thực tế ở lớp chúng tôi dạy
vần còn một số ít em đọc chưa tốt, các em hay nhầm lẫn vần, phụ âm đầu và dấu
thanh. Cụ thể như:
Từ
Xanh thẫm
Nụ hoa
Cánh xòe ra duyên dáng
Ngan ngát
Tỏa khắp vườn, khắp nhà

Học sinh đọc nhầm
Sanh thấm
Nụ hao
Cánh xèo ra duyên dáng
Ngan ngác
Tỏa khắc vườn, khắc nhà


Giáo viên cũng nên để cho học sinh tự nêu những từ mà các em cảm thấy
khó đọc trong khi phát âm.
Ví dụ: Bài “Chú công”
Sách giáo khoa chỉ yêu cầu luyện đọc từ “nâu gạch, rẻ quạt, rực rỡ, lóng
lánh” nhưng các em học sinh lớp chúng tôi đã nêu ra được 2 từ mà các em cho là
khó đọc đó là: “màu sắc, xoè tròn” vì khi đọc dễ bị lẫn “màu sắc” với “màu
xắc”, “xoè tròn” với “xèo tròn”

25


×