Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Câu hỏi ôn tập có đáp án môn ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.28 KB, 17 trang )

Câu 3: Tại sao NHNN đưa ra hạn mức tăng trưởng tín dụng hàng năm cho các
NHTM và tỷ trọng của các loại hình tín dụng. Điều này ảnh hưởng gì đến hoạt động
của các NHTM
Trả lời:
1. Tại sao đưa ra hạn mức:
- Xuất phát từ lý do tại sao hoạt động của NHTM cần được kiểm soát chặt chẽ:

+ Giáo trình Peter Rose trang 36,37,38
- Làm tăng thêm niềm tin của Khách hàng, theo đó tạo sự trung thành của KH đối
với NG
- Định hướng điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
2. Ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM:
- Các NH buộc phải tìm cách nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng: Vì bị hạn chế
về tốc độ tăng trưởng -> tìm kiếm các dự án, phương án vay vốn có hiệu quả để
đảm bảo chất lượng TD, tăng thu từ lãi cho NH
- Khó khăn trong việc duy trì tỷ trọng một cách hợp lý
- Nhiều NH có điều kiện tiếp cận được với những dự án thực sự hiểu qua tuy nhiên
lại bị yếu tố hạn mức tín dụng do NHNN quy định cản trở
3. Việt Nam
Hạn mức tín dụng: Con dao 2 lưỡi
7:58 AM Thứ tư, ngày 29 tháng hai năm 2012- Chuyên mụcKinh Doanh|Tài chính|
Việc Ngân hàng Nhà nước giao hạn mức tín dụng cho từng NHTM được đánh giá sẽ tác
động tới hệ thống tiền tệ ở cả 2 chiều hướng.
Nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại và tránh
tình trạng “đánh đồng” sức khỏe các đơn vị tài chính, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã
tiến hành phân loại tín dụng theo 4 nhóm và giao chỉ tiêu tăng trưởng cụ thể cho từng
nhóm.
Theo đó, ngân hàng nhóm 1 được giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng trong năm 2012 là
17%, nhóm 2 là 15%. Hai nhóm còn lại lần lượt có chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng là 8% và
0%.
Việc phân loại tín dụng của NHNN bước đầu được đánh giá là tích cực vì sẽ giúp cải


thiện thanh khoản toàn hệ thống, giúp hạn chế tăng trưởng của các NHTM ở mức
phù hợp hơn, giảm áp lực huy động vốn, giúp mặt bằng lãi suất giảm.
Quan trọng hơn, các mức giới hạn này được kì vọng sẽ giúp giảm lạm phát, yếu tố cơ bản
gây ra tình trạng thanh khoản yếu của hệ thống này trong thời gian qua.


Không chỉ nhận được đánh giá tích cực từ các nhà đầu tư, quản lý trong nước, quyết định
trên của NHNN còn nhận được những phản hồi tích cực từ các tổ chức tín dụng nước
ngoài.
Trong báo cáo triển vọng tín dụng tuần vừa công bố, một trong 3 tổ chức xếp hạng tín
dụng hàng đầu thế giới là Moody's cho rằng quyết định phân nhóm hạn mức tín dụng
năm 2012 của NHNN sẽ giúp giải quyết một số thách thức tín dụng đối với các ngân
hàng trong nước.
Moody's đánh giá rằng, quyết định phân nhóm này sẽ hướng các ngân hàng vào việc tập
trung cải thiện chất lượng tài sản và các hoạt động bảo lãnh, thay vì tập trung tăng trưởng
tín dụng, dẫn tới tình trạng tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh hơn tiền gửi đã từng diễn ra
trong năm 2011.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, quyết định phân nhóm của NHNN lại
đang khiến các ngân hàng “chiếu dưới” điêu đứng khi đứng trước nguy cơ khách
hàng rút tiền khỏi ngân hàng mình và gửi vào các ngân hàng được xếp ở nhóm 1, 2.
Tới thời điểm này, đã có khoảng 20 ngân hàng nhóm 1, 2 công bố hạn mức tín dụng.
Theo đó, nhóm 1 gồm có Techcombank, VIB, Sacombank, MHB, ACB, MB,
MaritimeBank, Eximbank, SeaBank,.. Nhóm 2 có các ngân hàng như Nam A Bank,
OCB, SHB, BaoVietbank, ABbank, PhuongNambank, LienVietpostbank, PGbank,
DongAbank...
Riêng VPbank, sau khi công bố hạn mức tín dụng ở nhóm 1 đã bị điều chỉnh xuống nhóm
2 với chỉ tiêu tăng trưởng giảm từ 17% xuống 15%.
Các ngân hàng chưa công bố chỉ tiêu tín dụng mặc nhiên được xếp vào nhóm 3, 4. Điều
này khiến các khách hàng hiện đang gửi tiền hay thực hiện giao dịch tại đây băn khoăn về
sức khỏe, tình hình thanh khoản và có thể rời bỏ các ngân hàng này.

Vô hình chung, chính quyết định phân loại nhóm tín dụng lại đang khiến cho tình hình
thanh khoản, huy động vốn của các ngân hàng “chiếu dưới” đã khó lại càng khó hơn.
Câu 4: Tại sao Fitch/Moody’s hạ bậc tín nhiệm của các NHTM dựa trên vấn đề tăng
trưởng tín dụng và thiếu hụt vốn.
Fitch là một trong ba tổ chức giám định tài chính có uy tín trên thế giới, chuyên đưa ra
những hệ số tín nhiệm và năng lực tiền tệ của những công ty, chính phủ để đánh giá và
xếp hạng năng lực tài chính của đối tượng được giám định, phục vụ giới đầu tư.
Vì tăng trưởng tín dụng cao và thiếu hụt vốn có thể dẫn đến chất lượng tín dụng,
an toàn vốn và thanh khoản
Fitch hạ bậc tín nhiệm của ACB và VCB vì tăng trưởng tín dụng quá nhanh và
không đáp ứng được tỷ lệ an toàn vốn CAR
Fitch Ratings dự báo rằng tăng trưởng tín dụng cao sẽ có thể làm ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng chứ chưa khẳng định chất lượng tín dụng của ACB nói riêng


và của ngành NH VN nói chung đã thực sự giảm sút. Chúng tôi cũng xin chia sẻ
thông tin hiện nay tỉ lệ an toàn vốn của ACB đang trên mức 9%. Fitch Ratings e
ngại tín dụng bằng ngoại tệ sẽ rủi ro nếu lạm phát tăng cao và tỉ giá bất ổn sẽ làm
khách hàng khó trả nợ. Song họ đâu có biết rằng ACB cho vay ngoại tệ chủ yếu
cho doanh nghiệp xuất khẩu hoặc khách hàng đã có các biện pháp bảo hiểm nên
rủi ro này hầu như không có.
Fitch đã hạ mức đánh giá tín nhiệm đối với hai ngân hàng là VCB và ACB với lý do tín
dụng tăng nóng. Về lý thuyết, cho vay nhiều, tăng nóng thì có thể ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng, rủi ro cao hơn. Nhưng có rủi ro hay không lại là chuyện khác vì phải dựa
vào diễn biến trong thực tế.
Cũng cần giải mã việc tăng tín dụng nóng, có thể tỉ lệ cao nhưng số tuyệt đối thấp, hoặc
thị phần tín dụng của ngân hàng đó còn nhỏ so với mặt bằng chung.
Về tổng quan, tăng tín dụng năm 2009 bao gồm phần bù cho phần tín dụng bị kìm nén và
không tăng của năm 2008 cùng với mức tăng tín dụng tự nhiên của năm 2009. Đặc biệt là
hiệu ứng tăng hàng tồn kho sau khủng hoảng và việc áp dụng các chính sách kích cầu qua

công cụ tiền tệ là hỗ trợ lãi suất đã kích thích mạnh đà tăng trưởng tín dụng.
Tăng trưởng tín dụng bình quân kép trong hai năm 2008-2009 là 28%, không quá cao với
một nền kinh tế tăng trưởng nhanh như Việt Nam trong bối cảnh động lực tăng trưởng
chủ yếu dựa vào vốn ngân hàng chứ không phải từ thị trường chứng khoán.
Những quý đầu năm 2010 tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng cũng rất chậm, chỉ có
những tháng gần đây khi lãi suất cho vay giảm các ngân hàng mới cho vay được.
Tín dụng tăng nhanh, lo ngại về khả năng chịu đựng của hệ thống ngân hàng trong điều
kiện thị trường chứng khoán chưa phát triển là có cơ sở. Nhưng nếu xét về các chỉ số thì
vẫn ở mức an toàn khi dư nợ tín dụng/GDP của VN mới ở mức 105%, trong khi quốc gia
có cơ cấu chính trị và kinh tế gần giống Việt Nam là Trung Quốc chỉ số này là trên 160%.
Theo tôi, những đánh giá của Fitch về kinh tế VN cũng như hệ thống ngân hàng là có cơ
sở. Tuy nhiên, thực tiễn ở VN có nhiều điều mà những tính toán đó không thể bao quát
hết được.
Câu 5 + 6: Các NHTM đã từng huy động tiết kiệm VND các kỳ hạn từ 1 tháng
đến 12 tháng với lãi suất như nhau. Giải thích hiện tượng trên
Theo lý thuyết giá trị thời gian của tiền và theo mối quan hệ tỷ lệ thuận trong đường cong
thu nhập thì tiền gửi có kỳ hạn thanh toán càng dài sẽ tạo ra mức lãi suất càng cao cho
người gửi tiền.. Tuy nhiên, đã từng có thời gian tại VN, các NHTM đã từng huy động tiết
kiệm VND các kỳ hạn từ 1 tháng đến 12 tháng với lãi suất như nhau. Nguyên nhân của
tình trạng trên xuất phát từ thực trạng thiếu vốn của các NHTM, tình trạng thanh khoản


của các NHTM gặp nhiều vấn đề cũng như sự canh tranh chủ yếu về giá thay vì chất
lượng phục vụ giữa các NHTM Việt Nam.
Đây là một nghịch lý so với các lý thuyết: tính thanh khoản của khoản tiền gửi lại không
tỷ lệ nghịch với lãi suất. Để huy động, giành giật các nguồn tiền, các ngân hàng sẵn sàng
cung cấp các sản phẩm tiền gửi có kỳ hạn ngắn nhưng lãi suất lại không khác so với các
kỳ hạn dài hạn.
Thực trang trên dẫn đến việc các ngân hàng cạnh tranh nhau về giá huy động, tính ổn
định của các dòng tiền gửi giảm đi. Vì khi đó, người dân sẵn sàng gửi tiết kiệm kì hạn

ngắn hơn, tính thanh khoản cao hơn mà thu nhập đem lại không đổi.
Bên cạnh đó, việc huy động với lãi suất như trên cũng chỉ mang tính tạm thời, tình thế.
Mặt bằng lãi suất tại các thời điểm đó, nhìn chung được đấy lên quá cao, việc thu hút các
nguồn tiền gửi ngắn hạn và đến kỳ quay vòng tiếp theo của nguồn vồn này có thể không
phải trả chi phí cao như ban đầu.
Câu 9: Giải thích cơ sở của việc sử dụng hệ số Q (tỷ lệ dư nợ /tổng huy động)trong
quản trị NHTM. Đánh giá về việc bỏ hệ số này trong quản lý của NHNN đối với
NHTM VN hiện nay
Câu 14. NHNN quy định hệ số rủi ro đối với cho vay chứng khoán và cho vay kinh
doanh bất động sản là 250%. Hãy giải thích
Theo quy định tại Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 quy định về các tỷ lệ
bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, công thức tính tỷ lệ an toàn
vốn = Vốn tự có/ Tài sản “ Có “ rủi ro. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 9%.
Theo đó, cho vay chứng khoán và cho vay kinh doanh bất động sản có hệ số rủi ro bằng
250%. Việc quy định này xuất phát từ mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay kinh doanh
chứng khoán và cho vay kinh doanh bất động sản. Theo đó, cứ cho vay 100 tỷ đồng để
kinh doanh chứng khoản hoặc bất động sản thì khả năng xảy ra tổn thất dẫn đến mất
vốn chủ sở hữu là 9*250%= 22.5 tỷ đồng.
Theo quy định, hệ số rủi ro 9 % được giữ cố định, được áp dụng chung cho tất cả các loại
tài sản. Tuy nhiên, mỗi tài sản có mức độ rủi ro khác nhau, do vậy hệ số rủi ro được sử
dụng để điều chỉnh mức độ rủi ro của các tài sản khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Câu 16. Chính phủ VN quyết định các NHTM cần có số vốn tự có tối thiểu là 3000
tỷ đồng đến cuối 2010 và gia hạn đến 31/12/2011. Hãy bluan chính sách trên
Trả lời: ( Kết hợp câu trong tập lý thuyết nhỏ - Trang 8)
1. Trình bày về vai trò và sự cần thiết của số vốn tối thiểu đối với các NHTM


2. Năm 2006, Chính phủ có Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22.11.2006 về việc về

ban hành danh mục mức vốn pháp định đối với các tổ chức tín dụng (TCTD)

thành lập và hoạt động tại Việt Nam. Theo đó, các TCTD đã được cấp giấy phép
thành lập và hoạt động phải có biện pháp bảo đảm có số vốn điều lệ thực góp hoặc
được cấp tối thiểu tương đương mức vốn pháp định quy định tại danh mục ban
hành kèm theo Nghị định 141. Trong đó, mức vốn 3.000 tỉ đồng đối với các
NHTM phải thực hiện chậm nhất vào ngày 31.12.2010 và đã được gia hạn đến
31/12/2011
Khó khăn, vướng mắc
Theo ý kiến của nhiều lãnh đạo NHTM và các chuyên gia, Nghị định 141/2006/NĐ-CP
được ban hành tháng 11.2006, thời điểm cổ phiếu ngân hàng đang được mệnh danh là cổ
phiếu vua. Trong bối cảnh đó việc tăng vốn điều lệ của các NHTM ngỡ là rất dễ dàng.
Tuy nhiên từ đó, đến nay, nền kinh tế nói chung, thị trường tài chính của Việt Nam đã
chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế lan rộng trên
thế giới.
Sang năm 2010, khi nền kinh tế đã bước đầu phục hồi, TTCK tưởng như đã có thể tiến
đến mốc 600 dễ dàng thì vấn đề nợ công của một số nước Châu Âu và nguy cơ lan sang
Châu Á đã khiến tương lai của TTCK Việt Nam đang trở nên bất ổn, khó lường, thanh
khoản thị trường kém, giá cổ phiếu NH càng thê thảm hơn.
Một NĐT nói: “Nếu thị giá của một doanh nghiệp từ 2x trở lên thì việc phát hành CP với
mức giá 10.000 đồng còn có thể bán được, chứ thị giá của nhiều NH chỉ quanh 10.000
đồng/CP thì phát hành ai mua?”.
Việc tìm kiếm các cổ đông chiến lược nước ngoài không dễ dàng trong bối cảnh kinh tế
toàn cầu hiện nay. Đó là chưa kể đến niềm tin của các cổ đông chiến lược nước ngoài đối
với một số NHTM cổ phần Việt Nam chưa tốt. Nhiều ý kiến cho rằng, bây giờ cổ đông
lớn của các NHTM phải tự xoay xở và họ xoay xở thế nào còn là một câu chuyện dài.
Đây thực sự là những khó khăn để tăng vốn điều lệ của các NHTM.
Theo một chuyên gia ngân hàng thì việc gia hạn lộ trình tăng vốn chắc hiện đang được
một số NHTM vận động hành lang nhiều bởi sự tồn tại của họ, nhưng khó khăn đưa ra để
tạm dừng lộ trình tăng vốn cũng có lý nếu xét về bối cảnh kinh tế chung và khả năng thực
hiện của các NHTM hiện nay.
Cho đến thời điểm này thì NHNN vẫn giữ nguyên quan điểm phải thực hiện đúng lộ trình

đã quy định tại Nghị định 141. Tuy nhiên, vẫn còn 6 tháng nữa để đưa ra lời phán quyết


cuối. Một số ý kiến cho rằng việc gia hạn cho một số NH, nhất là các NHTM cổ phần đô
thị mới từ NHTM cổ phần nông thôn lên ở các tỉnh phía nam là khó tránh khỏi.
Gian nan tăng vốn ngân hàng
Hàng chục ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) đang trong tình thế gian nan: phải tăng vốn điều lệ lên mức tối
thiểu 3.000 tỉ đồng vào cuối năm 2010. Cửa ải này còn chưa biết có vượt qua được hay không, thì một thách thức
mới lại được đặt ra: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tuyên bố lộ trình tăng vốn pháp định lên 5.00010.000 tỉ đồng trong mấy năm tới. - Luật sư Trương Thanh Đức (*)

9 năm tăng 600 lần
Cho đến cuối năm 2001, mức vốn pháp định đối với ngân hàng TMCP nông thôn chỉ là 5 tỉ đồng, ngân hàng TMCP
đô thị là 50-70 tỉ đồng theo Nghị định số 82/1998/NĐ-CP ngày 03-10-1998.

Đến cuối năm 2008, mức vốn pháp định đối với các ngân hàng TMCP (TMCP - không còn phân thành hai loại nông
thôn và đô thị) là 1.000 tỉ đồng và cuối năm 2010 là 3.000 tỉ đồng theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22-112006.

Như vậy là chỉ trong vòng 9 năm, các ngân hàng phải tăng vốn điều lệ đột biến lên gấp từ 50-600 lần. Đây là một
gánh nặng quá sức tưởng tượng đối với phần lớn các ngân hàng. Đó còn là một sự ngược đời nếu xét trên khía cạnh
hiệu quả đầu tư vốn: yêu cầu tăng vốn lên đến 70-80%/năm, cao gấp đôi tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành
ngân hàng, chỉ khoảng dưới 30%/năm trong chín năm qua.

Gần một chục ngân hàng đã phải gắng gượng mới vượt qua chướng ngại vật 1.000 tỉ đồng vào cuối năm 2008. Đến
nay, 20 ngân hàng, chiếm quá một nửa tổng số ngân hàng cổ phần, chưa về đích, trong đó chín ngân hàng mới chỉ
đạt một phần ba chặng đường. Như vậy, chỉ trong nửa năm nữa, các ngân hàng này buộc phải tăng vốn lên 300%.

Trong lúc nhiều ngân hàng đang khó nhọc bước tới cái mốc 3.000 tỉ đồng, thì Thống đốc NHNN lại cảnh báo,
sẽ tăng vốn pháp định lên 5.000 tỉ đồng vào năm 2012 và 10.000 tỉ đồng vào năm 2015. Dường như chính sách
là nhằm loại trừ các ngân hàng tốp dưới, để tạo ra toàn ngân hàng khổng lồ (so với nền kinh tế trong nước)
chứ không phải với mục tiêu là nhằm nâng cao chất lượng và an toàn hoạt động của các ngân hàng như vẫn

đang tuyên bố.


Yêu cầu tăng vốn quá nhanh đồng nghĩa với sức ép mở rộng quy mô, tăng nhanh dư nợ tín dụng, tăng trưởng
nóng. Điều này đã, đang và sẽ tất yếu dẫn đến rủi ro phát triển nóng, là một trong những rủi ro nguy hiểm
nhất trong hoạt động ngân hàng.

NHNN liên tiếp phát đi thông điệp không nhân nhượng với các ngân hàng không tăng đủ vốn pháp định. Dường như
có đánh đồng ngân hàng nhỏ là ốm yếu, ngân hàng to là khỏe mạnh. Trong khi chất lượng của ngân hàng phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố như trình độ quản trị, điều hành; bảo đảm các tỷ lệ an toàn vốn; mức độ rủi ro, đặc biệt là rủi ro
tín dụng... Còn mức vốn điều lệ chỉ là một trong những yếu tố bảo đảm an toàn, chứ không quyết định chất lượng,
hiệu quả.

Tăng vốn lên bao nhiêu chăng nữa, mà NHNN không kiểm soát được hoạt động kinh doanh, không tăng
cường hiệu quả kiểm tra, giám sát để phát hiện và xử lý kịp thời nguy cơ mất an toàn, thì cũng vô nghĩa.
Tăng vốn không đồng nghĩa với việc tăng chất lượng tài sản có; phân loại nợ chính xác và giảm tỷ lệ nợ xấu;
tăng chất lượng quản trị, điều hành; tăng hiệu suất lợi nhuận. Ngược lại, dù vốn thấp, nhưng quản lý tốt, thì
cũng vẫn bảo đảm an toàn và hiệu quả.

Bao nhiêu vốn thì đủ là do các ngân hàng tự quyết định, dựa trên tiêu chí an toàn vốn và điều kiện liên quan như mở
mỗi chi nhánh phải có từ 50-100 tỉ đồng vốn. Thị trường chứ không phải là mức vốn pháp định tạo ra ngân hàng lớn.

Mặt khác, cần có đủ loại ngân hàng lớn, vừa và nhỏ, phù hợp với đại đa số khách hàng trên thị trường là doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Một ngân hàng có vốn điều lệ 1.000 tỉ đồng, theo quy định được phép cho vay mỗi doanh nghiệp
tới 150 tỉ đồng. Số tiền đó đã lớn gấp rưỡi tổng nguồn vốn của một doanh nghiệp được xếp vào loại lớn theo quy
định của Chính phủ. Vậy liệu có cần thiết ép buộc tất cả các ngân hàng phải trở thành những doanh nghiệp siêu lớn?
Là ngân hàng nhỏ, thì càng dễ hợp nhất, sáp nhập, giải thể. Nếu bị phá sản, thì ngân hàng càng nhỏ càng ít gây nguy
hiểm cho hệ thống. Bắt phải tăng vốn, buộc phải lao vào chạy đua, đã ốm yếu càng nguy nan.

Gian nan tăng vốn

Tăng vốn là việc bán thêm cổ phần cho cổ đông hiện hữu và cổ đông mới, với giá thấp nhất là bằng mệnh giá.
Việc tăng vốn chỉ hợp lý khi đạt được lợi nhuận kỳ vọng không thấp hơn tiền gửi ngân hàng. Tuy nhiên, lợi
nhuận của không ít ngân hàng chỉ đạt dưới 10% và cổ tức thì còn thấp hơn nhiều, giá cổ phiếu của ngành
ngân hàng đã bị tụt giảm một cách thảm hại, thậm chí là dưới mệnh giá và tính thanh khoản rất thấp (mà
nguyên nhân chính là do tăng vốn quá nhanh). Do đó bài toán tăng vốn là vô cùng nan giải, đặc biệt là khối
lượng cổ phần phát hành mới quá lớn, đến mức bội thực. Quyền lợi mua cổ phần của cổ đông ngân hàng
trong trường hợp này trở thành hữu quyền vô lợi.

Gần đây, NHNN đã cho phép một số ngân hàng có vốn điều lệ 1.000 tỉ đồng được niêm yết trên sàn chứng khoán để
tăng cơ hội huy động đủ vốn điều lệ. Không có gì đảm bảo rằng ngân hàng lên sàn sẽ lập tức kiếm được gấp ba lần
số vốn điều lệ hiện hữu. Như vậy, khác nào cho phép các ngân hàng đặt cược với thị trường chứng khoán tập trung?


Và hậu quả giải thể, sáp nhập xảy ra trong trường hợp này chắc chắn là xấu hơn khi chưa cho niêm yết.

gi
Rồi yêu cầu tăng vốn cấp tập, nhưng đồng thời lại giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của mỗi cá nhân và pháp nhân lần lượt
từ 20-40% xuống còn một nửa vào năm 2009 và chỉ còn 5-15% kể từ năm 2011 theo dự thảo Luật các tổ chức tín
dụng mới. Như vậy, dù cổ đông có tiềm lực tài chính hùng mạnh thì cũng buộc phải nhường việc mua thêm cổ phần
cho người khác. NHNN giải thích rằng, việc giảm tỷ lệ sở hữu là để tránh nguy cơ một nhóm nhỏ cổ đông chi phối
hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, chi phối gồm hai dạng, làm cho hoạt động của ngân hàng xấu đi hoặc tốt lên. Vậy,
không hiểu tại sao người ta lại chỉ nghĩ đến việc xấu? Mà để tránh việc xấu thì đã có hàng chục cơ chế luật pháp
ràng buộc như: chủ tịch HĐQT không được kiêm tổng giám đốc; bắt buộc phải có ít nhất một nửa số thành viên
HĐQT độc lập và không điều hành; cấm cho thành viên HĐQT, Ban kiểm soát và Ban điều hành vay vốn; tổng dư
nợ đối với tất cả các cổ đông lớn và một số đối tượng khác không quá 5%...

Sáp nhập liệu có là giải pháp tốt?
Quan điểm thúc đẩy việc tăng vốn bằng hợp nhất, mua bán, giải thể, sáp nhập là cho rằng đang thừa ngân hàng. Vậy,
tại sao tình trạng cho vay nặng lãi trong xã hội lại tràn lan và nặng nề như hiện nay? Phải chăng là vì còn thiếu ngân
hàng hay vì toàn ngân hàng to hàng ngàn tỷ, không còn ngân hàng nhỏ phục vụ những nhu cầu nhỏ lẻ, đa dạng, tất

yếu của cuộc sống?

Nếu thực sự tạo điều kiện cho các ngân hàng nhỏ hoạt động, theo quy luật mèo nhỏ bắt chuột nhỏ, thì sẽ không xảy
ra tình trạng, nhỏ cản mũi lớn, làm rối thị trường. Nếu ngân hàng nhỏ chỉ được hoạt động trong phạm vi một vài
tỉnh, với vài chi nhánh, chỉ huy động và cho vay các món nhỏ, đúng với năng lực và các giới hạn luật định, thì sao
nó có thể ảnh hưởng xấu đến thị trường.

Lo sợ các ngân hàng nhỏ làm loạn thị trường, nên sáp nhập nhằm giảm bớt ngân hàng, thì liệu có mâu thuẫn khi dẫn
tới khả năng một hoặc một nhóm ngân hàng lớn sẽ thao túng thị trường tài chính, tiền tệ? Cho rằng sắp xếp lại, để
càng ít ngân hàng, càng dễ kiểm soát, liệu có tạo ra một nghịch lý khác là ngân hàng càng lớn, thì càng phức tạp và
lại càng khó kiểm soát?

Và điều quan trọng hơn là, lấy gì khẳng định rằng sáp nhập vào sẽ mạnh lên? Nhất là mấy ngân hàng yếu kém sáp
nhập lại với nhau thì chỉ có cộng thêm vốn, chứ những yếu tố khác ít có cơ hội nhân lên, nếu không muốn nói là còn
yếu đi. Mấy ngân hàng thiếu vốn sáp nhập với nhau sẽ cho ra một ngân hàng có đủ vốn pháp định, đúng với ý chí
của NHNN, nhưng không mang lại đội ngũ quản lý giỏi hơn, không có được chất lượng hoạt động tốt hơn, càng
không có gì bảo đảm cho sự an toàn hơn.

Một ngân hàng yếu kém thì cần phải chấm dứt hoạt động, nếu đó là yếu kém do nguyên nhân khác. Còn nếu chỉ vì
lý do không đạt được một mức vốn pháp định quá cao so với mặt bằng nền kinh tế, mà lại nhập vào nhau, thì chỉ là
phép cộng giản đơn, không làm tăng thêm sức mạnh gì cho chính nó cũng như cho toàn hệ thống, thậm chí còn là
ngược lại.


3. Gia hạn tăng vốn pháp định của tổ chức tín dụng đến 31/12/2011
Vốn pháp định của tổ chức tín dụng
Chính phủ đã chính thức chấp thuận giãn tiến độ áp dụng vốn pháp định đối với các tổ
chức tín dụng chậm nhất vào ngày 31/12/2011 thay vì 31/12/2010 như quy định trước
đây. Sau ngày 31/12/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt nam xem xét, quyết định xử lý theo
quy định của pháp luật đối với tổ chức tín dụng không đảm bảo mức vốn pháp định theo

quy định.
Đây là nội dung trong Nghị định số 10/2011/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
26/01/2011 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày
22/11/2006 về ban hành Danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng.
Mức vốn pháp định của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Nghị định này vẫn giữ
nguyên như quy định tại Nghị định 141, cụ thể: ngân hàng thương mại Nhà nước (3.000
tỷ đồng); ngân hàng thương mại cổ phần (3.000 tỷ đồng); ngân hàng liên doanh (3.000 tỷ
đồng); ngân hàng 100% vốn nước ngoài (15 triệu USD); ngân hàng chính sách (5.000 tỷ
đồng); công ty tài chính (500 tỷ đồng); công ty cho thuê tài chính (150 tỷ đồng)…
Nghị định cũng quy định: trong thời gian các tổ chức tín dụng chưa đảm bảo mức vốn
pháp định theo quy định, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không xem xét việc mở rộng
mạng lưới hoạt động (chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp, các loại hình hiện
diện khác theo quy định của pháp luật) và việc mở rộng nội dung hoạt động của tổ chức
tín dụng.
Được biết, sau 4 năm kể từ ngày Nghị định số 141/2006/NĐ-CP có hiệu lực, mới chỉ có
17 ngân hàng thương mại đáp ứng mức vốn pháp định, còn tới 23 ngân hàng thương
mại chưa đáp ứng yêu cầu này.Vì vậy việc giãn tiến độ này được xác định theo các mục
tiêu định hướng là tiếp tục duy trì mục tiêu tăng vốn điều lệ để nâng cao năng lực tài
chính của các tổ chức tín dụng; tiếp tục khuyến khích các tổ chức tín dụng tăng vốn điều
lệ để sớm đạt được mức vốn pháp định; giảm bớt áp lực về thời gian tăng vốn cho các tổ
chức tín dụng chưa thể tăng đủ ngay mức vốn pháp định.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/3/2011.

Câu 24. Các NHTM Việt Nam đã có những thời gian đối mặt với rủi ro thanh
khoản. Anh/chị hãy bình luận về các biện pháp quản lý rủi ro thanh khoản hiện nay
của các NHTM VN.
Kết hợp câu 21 trang 12 quyển lthuyet nhỏ



1. Thực trạng rủi ro thanh khoản đối với các NHTM VN.
Hiện tại, vấn đề thanh khoản của các Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam khá trầm trọng. Các
Ngân hàng thương mại vẫn nằm trong tình trạng "hoảng sợ" không dám cho vay. Nợ xấu trong hệ
thống, gốc rễ là ở vấn đề thanh khoản. Điều này không dễ dàng giải quyết nhanh chóng, nhất là
vào thời điểm các thị trường tài sản chưa tan băng như hiện nay.
2. Biện pháp quản lý rủi ro thanh khoản hiện nay của các NHTM VN

Rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt
Nam và giải pháp khắc phục
TS. Trần Văn Hùng – Lê Văn Thịnh Gửi email
03:12' PM - Thứ ba, 18/11/2008

Bản in

Hơn hai thập kỷ qua, kể từ khi hệ thống ngân hàng Việt Nam thực hiện quá trình cải cách các
ngân hàng thương mại (NHTM) đã có bước phát triển mới cả về lượng và chất, nhưng vấn đề
rủi ro thanh khoản dường như chưa được quan tâm đúng mức. Một trong những nhiệm vụ quan
trọng mà các nhà quản lý ngân hàng cần thực hiện là đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lý cho
ngân hàng. Ngân hàng có khả năng thanh khoản tốt, hay nói cách khác là ngân hàng không gặp
rủi ro thanh khoản khi luôn có được nguồn vốn khả dụng với chi phí hợp lý vào đúng thời điểm
mà ngân hàng cẩn. Điều này có nghĩa nếu ngân hàng không có đủ nguồn vốn cần thiết để đáp
ứng mọi nhu cầu của thị trường sẽ có thể mất khả năng thanh toán, mất uy tín và dẫn đến sự đổ
vỡ của toàn hệ thống.
Thanh khoản và rủi ro thanh khoản
Thanh khoản là một thuật ngữ chuyên ngành nói về khả năng đáp ứng các nhu cầu về sử dụng
vốn khả dụng phục vụ cho hoạt động kinh doanh tại mọi thời điểm như chi trả tiền gửi, cho vay,
thanh toán, giao dịch vốn...
Rủi ro thanh khoản là tình trạng ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn khả dụng
(nhu cầu thanh khoản). Tình trạng này nhẹ thì gây thua lỗ, hoạt động kinh doanh bị đình trệ,
nặng thì làm mất khả năng thanh toán dẫn đến ngân hàng phá sản.

Bảy tháng đầu năm 2008, tình trạng khan hiếm tiền đồng, lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam liên
ngân hàng tăng lên một cách chóng mặt đã đẩy các ngân hàng thương mại vào cuộc chạy đua lãi
suất làm mặt bằng lãi suất huy động tăng dần lên từ 12% lên tới 18,6%/năm. Trong khi đó, về
phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hai lần tăng lãi suất cơ bản lên 12%/năm và 14%/năm,
đồng thời, chỉ đạo các NHTM tuân thủ một cách nghiêm ngặt quy định không áp dụng lãi suất
kinh doanh vượt quá 150% lãi suất cơ bản và không được thu phí đối với hoạt động cho vay.
Mặc dù lãi suất huy động tăng cao như vậy nhưng theo nghiên cứu của một số chuyên gia thì
thực sự đồng Việt Nam thu hút về ngân hàng lại không được như ý muốn của các nhà quản lý và
tình trạng thanh khoản vẫn luôn bị những áp lực rất căng thẳng.
Hậu quả là hoạt động kinh doanh của hầu hết các ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng nghiêm
trọng, thậm chí một vài ngân hàng nhỏ bị tê liệt. Việc cho vay đối với khách hàng tại các ngân
hàng hầu như bị đình chỉ, hầu hết các ngân hàng chỉ ưu đãi cấp tín dụng theo hạn mức đối với


những khách hàng truyền thống, trong khi đó lãi suất cho vay cũng bị đẩy lên rất cao, ở mức
18%/năm, rồi 21%/năm. Kết quả kinh doanh của các ngân hàng giảm sút một cách nghiêm trọng,
nhiều ngân hàng bị lỗ hàng trăm tỷ và hầu hết các ngân hàng đều phải điều chỉnh giảm kế hoạch
lợi nhuận năm 2008 khoảng 30- 40%. Tình hình đó đã gây ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đánh giá ở góc độ vĩ mô của toàn bộ nền kinh tế thì
những diễn biến như trên đã gây ảnh hưởng tiêu cực lớn đến mục tiêu giảm lạm phát, tăng
trưởng kinh tế và ổn định đời sống xã hội.
Nguyên nhân chủ yếu
Dòng vốn tiền gửi của các thành phần kinh tế trong xã hội vào các NHTM bị hạn chế do tác
động của lạm phát và lòng tin. Về phía các NHTM, điều kiện kinh doanh thuận lợi trong những
năm gần đây đã làm nảy sinh tư tưởng chủ quan, tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi lại
buông lỏng chính sách quản lý rủi ro làm mất cân đối một số tương quan cơ bản trong cơ cấu tài
sản, không đảm bảo đúng các tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt một cách
quyết liệt nhằm thu về một khối lượng tiền mặt đồng Việt Nam khá lớn từ lưu thông thì một số
NHTM không thể xoay chuyển kịp thời, bị mất thanh khoản do cơ cấu đầu tư.

Các NHTM đã không thực hiện chính sách quản lý rủi ro thanh khoản một cách khoa học và bài
bản. Do tính chất hệ thống đặc biệt chặt chẽ của ngành trong quan hệ vốn giữa các ngân hàng,
chỉ cần một vài ngân hàng mất khả năng thanh khoản sẽ gây hiệu ứng dây chuyền, nhanh chóng
lan toả trong toàn hệ thống ngân hàng.
Sự sụt giảm mạnh giá cổ phiếu của ngân hàng trong thời gian qua, có nguyên nhân từ việc nhà
đầu tư nhận thấy rằng khủng hoảng thanh khoản đang hoặc sắp xảy ra với ngân hàng. Nguyên
nhân gây nên sự sụt giảm mạnh cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần, đặc biệt là hàng
loạt ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ cũng xuất phát từ vấn đề thanh khoản.
Rủi ro thanh khoản cũng là rủi ro tài chính do tính lỏng của tài sản không ổn định. Một tổchức tài
chính (ngân hàng) có thể mất khả năng thanh khoản nếu chỉ số tín nhiệm tín dụng của tổ chức
này giảm sút, tổ chức này đối mặt với tình trạng lượng tiền ra ồ ạt không dự kiến được trước hay
một sự kiện nào đó khiến cho các đối tác không muốn giao dịch hoặc cho vay đối với tổ chức đó.
Tổ chức này cũng đối mặt với rủi ro thanh khoản nếu thị trường hoạt động của tổ chức này có
nguy cơ mất khả năng thanh khoản. Rủi ro thanh khoản thường đi kèm với nhiều rủi ro khác.
Nếu một đối tác vay tiền của ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ thì ngân hàng sẽ phải huy động tiền từ
những nguồn khác để thanh toán khoản đi vay của ngân hàng, bù đắp vào chi trả này. Nếu ngân
hàng không có khả năng huy động tiền từ các nguồn khác để thanh toán khoản nợ thì chính ngân
hàng này cũng phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ. Như vậy, rủi ro thanh khoản gắn liền với rủi ro tín
dụng.
Một số giải pháp khắc phục
Đối với Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng nhà nước vẫn cần hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM thông qua các công cụ điều
hành chính sách tiền tệ. Trong bối cảnh thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, tín dụng nhằm kiềm
chế lạm phát. Đối với các NHTM lớn, có nhiều giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn thì việc hỗ trợ thanh
khoản sẽ thông qua nghiệp vụ thị trường mở tại Ngân hàng Nhà nước. Đối với các NHTM nhỏ


không đủ giấy tờ có giá hoặc không có khả năng cạnh tranh trên thị trường mở thì Ngân hàng
Nhà nước hỗ trợ thông qua công cụ tái cấp vốn. Việc hỗ trợ này của Ngân hàng Nhà nước rất
ngắn hạn và các NHTM được yêu cầu phải điều chỉnh lại cơ cấu nguồn và sử dụng nguồn cho

phù hợp, hạn chế thấp nhất rủi ro thanh khoản.
Đối với các NHTM
Thực hiện việc cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có cho phù hợp. Đây là công việc hết sức quan
trọng để quản lý rủi ro thanh khoản của các NHTM. Các ngân hàng cần xem lại cơ cấu danh mục
tài sản nợ, tài sản có cho phù hợp, nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra, đó là cơ cấu lại
nguồn vốn huy động và cho vay trên thị trường; cơ cấu lại dư nợ cho vay ngắn hạn với cho vay
trung hạn, giữa nguồn huy động ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn.
Thực hiện việc phát hành giấy tờ có giá, điều chỉnh cơ cấu cho vay vào các lĩnh vực nhạy cảm và
rủi ro nhiều như chứng khoán, bất động sản và tiêu dùng. Các ngân hàng đều phải duy trì một tỷ
lệ dự trữ (bao gồm tiền mặt trong ngân hàng, tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương và các tài sản có
tính lỏng cao khác). Làm như vậy để đảm bảo duy trì dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Trung ương
và để đối phó với các dòng tiền đi ra. Việc kết hợp giữa dự trữ sơ cấp và dự trữ thứ cấp sẽ giúp
ngân hàng chủ động vừa đối phó với rủi ro thanh khoản vừa có thu nhập hợp lý. Các ngân hàng
cần xem xét lại cơ cấu về danh mục tài sản nợ, tài sản của mình cho phù hợp nhằm hạn chế rủi ro
ở mứt thấp nhất đó là cơ cấu lại nguồn vốn huy động và cho vay trên thị trường I (huy động tiền
gửi từ các tổ chức và dân cư); cơ cấu lại dư nợ cho vay ngắn hạn với cho vay trung, dài hạn, giữa
nguồn huy động ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn. Thực hiện việc phát hành các giấy tờ
có giá, điều chỉnh cơ cấu huy động vốn giữa thị trường I và thị trường II (thị trường liên ngân
hàng); điều chỉnh cơ cấu cho vay vào các lĩnh vực nhạy cảm và rủi ro cao như chứng khoán, bất
động sản và tiêu dùng.
Thực hiện tốt quản lý rủi ro lãi suất khe hở lãi suất: Cần hoàn thiện các quy định liên quan đến
huy động và cho vay (nhất là huy động, cho vay trung, dài hạn) theo lãi suất thị trường; cần có
cách giải quyết khoa học để không xảy ra tình trạng các khách hàng gửi tiền rút tiền trước hạn
khi lãi suất thị trường tăng cao hoặc khi có các đối thủ khác đưa ra lãi suất cao, hấp dẫn khách
hàng hơn. Hiện nay, xuất hiện một thực tế là các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đến hạn
không chịu trả nợ vay vì họ e ngại sau khi trả sẽ rất khó vay lại được tiền từ ngân hàng. Vì thế,
họ sẵn sàng chịu phạt lãi suất quá hạn ghi trong hợp đồng vì như vậy, so ra vẫn còn thấp hơn lãi
suất cho vay mới. Chính điều này đã gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh khoản của ngân
hàng.
Thực hiện tốt quản lý rủi ro kỳ hạn: Sự không cân đối về kỳ hạn giữa tài sản nợ và tài sản có của

ngân hàng là lý do quan trọng làm cho các ngân hàng gặp khó khăn thanh khoản trong thời gian
qua. Vấn đề sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn với tỷ trọng lớn hoặc cùng là ngắn
hạn và trung, dài hạn nhưng thời hạn cụ thể khác nhau (ví dụ như huy động trung, dài hạn hai
năm nhưng cho vay trung hạn ba năm) cũng làm cho ngân hàng khó khăn trong việc kiểm soát
dòng tiền ra và dòng tiền vào của mình.
Thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro: Thị trường tiền tệ phái sinh ở Việt Nam còn rất hạn chế,
tuy nhiên, sau đợt biến động của thị trường tiền tệ trong thời gian qua, chắc chắn các ngân hàng
sẽ quan tâm nhiều hơn và nó sẽ giúp cho ngân hàng quản lý tốt hơn tài sản nợ, tài sản có của
mình. Thị trường REPO là công cụ khá hiệu quả trong việc tạo ra tính lỏng cao cho các chứng
khoán nợ và cơ cấu tài sản có nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng một cách nhanh


chóng. Forward và Future cũng là những công cụ để cầm giữ lãi suất giao dịch nhằm hạn chế rủi
ro khi lãi suất thị trường biến động. Đặc biệt SWAP là công cụ quan trọng để các ngân hàng có
thể cơ cấu lại tài sản nợ, tài sản có trên bảng cân đối tài sản của mình, nhằm hạn chế các tác động
của rủi ro lãi suất. rủi ro kỳ hạn.
Với thực trạng thị trường như hiện nay, vấn đề nâng cao chất lượng quản lý rủi ro thanh khoản
nhằm giảm thiểu rủi ro vỡ nợ là mối quan tâm hàng đầu, là bài toán khó đặt ra không chỉ với một
ngân hàng riêng lẻ mà đối với toàn hệ thống từ Ngân hàng Nhà nước cho tới các ngân hàng
thương mại.
Quản lý rủi ro thanh khoản không đơn thuần chỉ là vấn đề của các dòng tiền, vấn đề cơ cấu của
tài sản Nợ - Có trên bảng cân đối tài sản mà nó chính là hoạt động quản trị của một ngân hàng
thương mại. Vì thế, các NHTM cần hiểu rõ tầm quan trọng của quản lý rủi ro thanh khoản, chủ
động xây dựng chính sách khung về quản lý rủi ro thanh khoản, thiết lập các quy trình cụ thể
nhằm xác định, đo lường, kiểm soát các rủi ro về thanh khoản có thể xảy ra. Các ngân hàng cần
có được khả năng dự báo với độ chính xác cao các luồng tiền vào, luồng tiền ra, đặc biệt là các
luồng tiền liên quan tới các cam kết ngoại bảng và các nghĩa vụ tài sản nợ để chủ động đưa ra kế
hoạch hoạt động trong các tình huống bất ngờ.
Cuối cùng, các ngân hàng cũng cần hiểu rõ mối quan hệ hữu quan giữa các loại rủi ro như rủi ro
tín dụng, rủi ro tỷ giá.... với rủi ro thanh khoản để có được định hướng đúng đắn trong việc

hoạch định chính sách kinh doanh của mình.
Câu 29. Quy định hiện tại của NHNN về số lượng chi nhánh của NHTM liên quan tới vốn
chủ sở hữu. Hãy giải thích căn cứ chính sách và bình luận về số lượng chi nhánh hiện nay
của các NHTMVN

Trả lời: Tập lý thuyết nhỏ
Câu 34. Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam: cơ hội và thách thức
Áp lực tái cơ cấu: Nhiều bất cập của hệ thống ngân hàng được bộc lộ trong thời gian qua, thanh khoản
yếu kém cùng với tình hình nợ xấu cao có nguy cơ gây rủi ro đến an toàn hệ thống khiến việc tái cơ cấu,
cải tổ toàn bộ hệ thống tài chính, trong đó quan trọng nhất là hệ thống ngân hàng đã trở thành vấn đề
cấp bách và khó có thể trì hoãn lâu hơn nữa. NHNN cũng thể hiện mong muốn tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng thông qua nhiều chính sách quan trọng trong năm 2011 để đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu. Áp lực
sáp nhập ngân hàng dự kiến lên đến đỉnh điểm vào cuối năm nay và đầu năm 2012 khi nhiều ngân hàng
gặp khó khăn trầm trọng về thanh khoản đang rất cần tiền để trả nợ. NHNN cũng đã có sẵn hành lang
pháp lý dành cho các hoạt động phá sản, sáp nhập ngân hàng thông qua việc ban hành Thông tư
34/2011/TT-NHNN về trình tự, thủ tục thu hồi giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng. Như
vậy, sự yếu kém trong nội tại ngân hàng dẫn đến áp lực phải tái cơ cấu đang đặt ra thách thức cho các tổ
chức này trước 2 lựa chọn hoặc phải tìm đối tác sáp nhập để nâng cao năng lực tài chính hoặc chấp nhận
giải
thể.
Sau LienVietBank và Tiết kiệm Bưu điện (VPSC), sự kiện hợp nhất của 3 ngân hàng Ficombank, SCB và
Tinnghiabank mới đây là thương vụ thứ 2 của ngành ngân hàng nhưng là thương vụ đầu tiên nằm trong
lộ trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam do NHNN đặt ra. Sau hợp nhất, ngân hàng mới được


thành lập sẽ có tổng tài sản ước trên 150.000 tỷ đồng với quy mô vốn điều lệ khoảng 10.600 tỷ đồng và
trên 200 đơn vị chi nhánh, phòng giao dịch. Theo đó, quy mô vốn điều lệ của ngân hàng mới sẽ tương
đương với Eximbank và lớn hơn so với 1 số ngân hàng thương mại cổ phần lớn trong nước như ACB, MB,
Sacombank và Techcombank. Như vậy, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ngoài việc tạo ra áp lực phải sáp
nhập hoặc giải thể đối với các ngân hàng yếu kém, quá trình này cũng tạo ra những ngân hàng mới sau

sáp nhập và có thể sẽ trở thành thách thức cạnh tranh mới cho các ngân hàng lớn trong tương lai.
1. Mục đích tái cơ cấu
PV: Thưa Thống đốc, vì sao đến thời điểm này mới đặt ra vấn đề tái cơ cấu hệ thống ngân hàng?
Thống đốc Nguyễn Văn Bình: Với sự phát triển nhanh về quy mô, các tổ chức tín dụng hiện nay đang
tiềm ẩn những yếu kém, rủi ro nhất định. Các tổ chức tín dụng hoạt động thiếu công khai, minh bạch.
Nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng không được đề cao.
Nguyên nhân là do xuất phát từ những yếu tố khách quan như: Kinh tế vĩ mô trong nước, ngoài nước
kém ổn định, hệ thống doanh nghiệp nhiều yếu kém, khuôn khổ thể chế còn bất cập…, và yếu tố chủ
quan như: Năng lực quản trị, điều hành, tài chính, trình độ cán bộ và công nghệ nhiều hạn chế,….
Những yếu kém hiện nay của một bộ phận các tổ chức tín dụng không được xử lý kịp thời có thể tác
động bất lợi đến ổn định kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính quốc gia. Do đó, cơ cấu lại hệ thống các tổ
chức tín dụng là yêu cầu cần thiết để lành mạnh hóa, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các
tổ chức tín dụng (TCTD), từ đó, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao hiệu quả đầu tư và tăng trưởng
kinh tế bền vững.
Việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng sẽ hướng tới đến năm 2020, phát triển được hệ thống các tổ chức
tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về
sở hữu, quy mô, loại hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân
hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng, nhằm đáp ứng tốt hơn
nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế.

Mục đích và nguyên tắc của tái cơ cấu ngân hàng: NHNN khẳng định 3 quan điểm, nguyên
tắc tái cơ cấu, đó là:
- Mục tiêu hàng đầu là đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng và
quyền lợi của người gửi tiền;
- Quá trình tái cơ cấu được triển khai thận trọng trên nguyên tắc tự nguyện với lộ trình và
bước đi cụ thể, thích hợp.
- Đồng thời, chỉ đạo các đơn vị chức năng khẩn trương xây dựng Đề án tái cơ cấu nhằm tạo
ra một hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh, hiệu quả, ngày càng phù hợp hơn với các
chuẩn mực, thông lệ quốc tế và có khả năng cạnh tranh tốt; Chuẩn bị tốt cơ sở pháp lý cho
quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.

Thực hiện 3 nguyên tắc và quan điểm nêu trên cần phải tránh 2 xu hướng trong quá trình tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính.
Thứ nhất, tư tưởng nóng vội dẫn đến phá bỏ tất cả những bất cập đã và đang phát sinh trong
hệ thống các tổ chức tín dụng mà không có bước đi và lộ trình phù hợp. Không tính đến các


yếu tố chủ quan và khách quan và tính “đặc thù rất Việt Nam” trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng.
Thứ hai, áp dụng cứng nhắc quan điểm “đánh chuột không được vỡ lọ bình”, thực hiện tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính một cách “qua loa, chiếu
lệ…” dẫn đến toàn bộ hệ thống không được làm mới, không được chấn chỉnh kịp thời và sức
khỏe của toàn hệ thống không lên được là bao, không đủ sức chống đỡ các rủi ro hay khủng
hoảng trong tương lai.
2. Cơ hội và thách thức

2.1.

Cơ hội

Sáp nhập, hợp nhất ngân hàng hàng là xu hướng tất yếu khách quan hiện nay để nâng cao khả năng cạnh tranh. Sáp
nhập, hợp nhất ngân hàng đem lại giá trị gia tăng lớn hơn so với khi các ngân hàng đứng riêng rẽ nhờ đạt được lợi
ích kinh tế theo quy mô lớn hơn, tăng uy tín, thương hiệu, giảm chi phí, khai thác tối đa lợi thế kinh doanh của các
bên tham gia, phát triển cơ sở khách hàng, màng lưới phân phối,…

Do đó, xu hướng sáp nhập, hợp nhất ngân hàng có thể xảy giữa các ngân hàng lớn với nhau, giữa ngân hàng lớn và
ngân hàng nhỏ, giữa các ngân hàng nhỏ với nhau.

Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp hiện nay tương đối đồng bộ,
hoàn chỉnh như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, Luật Chứng khoán. Lĩnh vực ngân hàng còn có
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật Các tổ chức tín dụng.

Trên cơ sở các văn pháp có liên quan, ngày 11/02/2011 NHNN đã ban hành Thông tư số 04/2010/TT-NHNN quy
định việc sáp nhập, hợp nhất và mua lại tổ chức tín dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sáp nhập,
hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng. Ngoài ra, NHNN sẵn sàng hỗ trợ kỹ thuật cho các ngân hàng có nguyện vọng
sáp nhập, hợp nhất.

2.2.

Thách thức

Tái cơ cấu: thách thức phải đối mặt
Trong thực hiện lộ trình cải cách và tái cấu trúc ngành ngân hàng của Ngân hàng Nhà
nước(NHNN) với các tổ chức tài chính quốc tế WB, ADB, IMF, trong khuôn khổ hợp tác giữa
NHNN và những tổ chức này, một trong số những vấn đề đặt ra là phải thương mại hoá hoạt
động của hệ thống NHTM Việt Nam, chủ yếu là là 4 ngân hàng thương mại quốc doanh.
Cả một thời gian dài trước đó, các ngân hàng thương mại quốc doanh của Việt Nam là các định
chế tài chính độc quyền thực hiện sứ mệnh cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Nhiệm vụ của những trung gian tài chính này chủ yếu sử dụng vốn ngân sách, công việc chính là cấp phát
vốn ngân sách theo chỉ định. Do vậy, bốn định chế tài chính này gần như không cạnh tranh, không chịu
sức ép của hoạt động kinh doanh ngân hàng, không có động lực để đổi mới phát triển. Nguồn nhân lực


trong cả một giai đoạn dài làm việc rất thụ động theo chuẩn mực, khuôn phép, không đổi mới. Đặc biệt
là không có sản phẩm dịch vụ ngân hàng thương mại, không định hướng khách hàng.

Rõ ràng 20 năm qua, khi hệ thống ngân hàng tham gia tiến trình đổi mới, phải đặt mình vào
những thách thức, cơ hội lớn để bắt kịp và phát triển được trong tiến trình này.
Lĩnh vực ngân hàng là hoạt động nhạy cảm và là xương sống của nền kinh tế, đòi hỏi phải đổi
mới, tái cấu trúc một cách toàn diện các hoạt động, một nhiệm vụ quan trọng là quản trị ngân
hàng.
Đứng về phía quản lý nhà nước, điều không phải bàn cãi là tái cấu trúc ngân hàng và đổi mới

năng lực quản trị của các ngân hàng thương mại quốc doanh (. Theo đó, gần 10 năm qua, các
ngân hàng này đã tái cấu trúc và đổi mới hoạt động của mình trên hàng loạt các khía cạnh.
Cụ thể, họ đã chuyển tất cả các khoản vay chỉ định sang một bên, làm sạch bảng tổng kết tài sản
bằng cách đưa các khoản nợ xấu vào khoanh nợ, tách bạch các khoản cho vay chỉ định để quản
lý bằng các đơn vị riêng để các báo cáo tài chính được lập theo chiều hướng rõ ràng và minh
bạch.
Bên cạnh đó, họ đã cấu trúc lại bộ máy quản lý, bổ sung thêm một số mô hình quản trị ngân hàng
mới bằng việc hình thành những khối nghiệp vụ để nâng cao vai trò của từng khối trong hệ thống
kinh doanh của mình và đổi mới công nghệ ngân hàng .
Đối thủ cạnh tranh đang hiện hữu
Khối ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) sinh sau đẻ muộn,
xuất phát điểm là quy mô nhỏ, thị phần khiêm tốn, khách hàng
thì từ lâu chỉ biết đến những ngân hàng TMQD có thâm niên
trên thị trường. Vì vậy việc thu hút khách hàng không dễ dàng.
Việc xây dựng uy tín, tên tuổi của các ngân hàng TMCP khởi
đầu khá khó khăn. Thêm nữa, họ chịu sự cạnh tranh không cân
sức về vốn với những ngân hàng lão làng. Và trong bối cảnh hội
nhập, họ buộc phải đưa công nghệ ngân hàng hiện đại vào để
phát triển sản phẩm dịch vụ vốn dĩ quá nghèo nàn.
Tuy nhiên, các ngân hàng TMCP đã làm được nhiều điều. Thị phần của
các ngân hàng TMQD thu hẹp dần.

Hiện nay, các ngân hàng TMQD đã mất gần 40% thị phần vào
tay các ngân hàng đối thủ là ngân hàng TMCP và ngân hàng
ngoại. 60% thị phần mà các ngân hàng TMQD hiện nắm giữ
cũng khó toàn vẹn trước sự lớn mạnh của các ngân hàng TMCP năng động và lớn mạnh từng
ngày.
Lãnh đạo một ngân hàng TMCP nói, nhiều ngân hàng TMCP khác trong nước có một cách rất
hay là tìm vị trí nào mà các ngân hàng TMQD có để mở chi nhánh bên cạnh và bằng nhiều
phương thức kinh doanh rất nhạy bén, họ đã hút khách hàng của ngân hàng TMQD về ngân hàng

mình bằng những dịch vụ khách hàng tốt hơn.


Nguồn nhân lực của các ngân hàng TMQD hàng chục năm qua luôn bị phe đối thủ thu hút, mời
gọi. Có nhiều thời điểm, ngân hàng TMQD đã thực hiện nhiệm vụ bất đắc dĩ là trở thành trường
đào tạo nghề cho các đối thủ cạnh tranh.
Sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng quốc doanh hầu như chỉ sử dụng dịch vụ truyền thống, đi
vay và cho vay, rất chậm đổi mới, không tiếp cận với khái niệm “tung sản phẩm”, dù tiềm lực
của các ngân hàng quốc doanh rất lớn. Khâu R&D (nghiên cứu- phát triển) rất yếu, đặc biệt là
khả năng thích ứng, điều chỉnh phương thức kinh doanh chậm...
Hạn chế rủi ro ngay từ điều hành
Các ngân hàng TMQD đang trong quá trình cổ phần hóa, nghĩa là dần bằng bình đẳng về mô
hình hoạt động ngân hàng và môi trường cạnh tranh.
Điều này rõ ràng đặt ra cho ban điều hành các ngân hàng TMQD những yêu cầu đòi hỏi quản trị
điều hành của cả bộ máy với hàng ngàn chi nhánh, hàng triệu khách hàng, ngày càng thách thức
và cạnh tranh gay gắt.



Vậy các ngân hàng đang giải quyết những hạn chế theo cách nào? Trước hết, họ chuyển hoá tất cả các
giá trị điều hành theo mô hình tập trung. Trước đây các ngân hàng trao quyền cho các giám đốc chi
nhánh, khu vực rất nhiều, các giám đốc này chỉ cần báo cáo kết quả cuối cùng lên hội sở chính. Đến nay
nhiều ngân hàng đã nhận thức được vấn đề, chỉ có quản trị tập trung mới có thể kiểm soát được tình
hình tốt nhất, đặc biệt là phòng ngừa rủi ro hiệu quả.

Quản trị rủi ro, điều được đặt lên hàng đầu đối với các ngân hàng ở các nước phát triển, nhưng
hầu hết các ngân hàng trong nước hiện nay chưa thực hiện được đầy đủ và sâu sắc. Chỉ đến khi
có hàng loạt những tổn thất xảy ra gây phương hại đến thanh danh uy tín và lợi nhuận của ngân
hàng thì lúc đó mới vội “mất bò lo làm chuồng”.
Nâng cao vai trò trách nhiệm của bộ máy quản trị bằng cách gắn hiệu qủa kinh doanh với quyền

và nghĩa vụ của các đơn vị trên toàn hệ thống, quyền lợi về thu nhập gắn với kết quả kinh doanh,
bao gồm đồng thời cả chỉ tiêu kinh doanh và chi phí hoạt động.
Một trong những yếu tố tính toán hiệu quả kinh doanh ngân hàng hiện đại là tính trên mỗi đơn vị
kinh doanh gồm có doanh thu, lợi nhuận, phân bổ hiệu qủa đến từng nhân viên. Điều này buộc
các ngân hàng quan tâm đến chất lượng nhân sự, hiệu quả lao động tính trên đầu người. Cùng
doanh thu, lợi nhuận nhưng ngân hàng nào có bộ máy cồng kềnh tất nhiên sức cạnh tranh kém
hơn, năng lực cán bộ kém hơn. Tuy nhiên, điều này hiện tại mới chỉ có một số ít ngân hàng
TMCP hàng đầu áp dụng, hầu hết các ngân hàng khác chưa tính toán đến.



×