Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Phân tích các giai đoạn của quá trình tự do hóa tài chính ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.89 KB, 39 trang )

Đề tài:
Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài nhằm:
1. Phân tích các giai đoạn của quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam
2. Đánh giá những mặt tích cực, hạn chế của cơ chế lãi suất của từng giai đoạn
3. Làm rõ cơ sở của việc kiểm soát lãi suất trong tiến trình tự do hóa lãi suất. Xác định các
điều kiện để thực hiện tự do hóa lãi suất
4. Nêu ra một số gợi ý chính sách từ kết quả nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Ngân hàng (bao gồm NHTW và NHTM), người đi vay, người gửi tiền.
Mối quan hệ tác động giữa ba chủ thể này là cơ sở xác định lãi suất thị trường.
Lãi suất là nhân tố có tác động mạnh và rộng đến các lĩnh vực của nền kinh tế. là công cụ quan
trọng thực thi chính sách tiền tệ của NHNN. Và đối tượng nghiên cứu trọng tâm của đề tài này là
yếu tố lãi suất trong tiến trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chia quá trình tự do hóa lãi suất thành các giai đoạn tương ứng với từng cơ chế lãi suất để
phân tích. Phạm vi nghiên cứu giới hạn ở Việt Nam trên cơ sở đối chiếu so sánh với số liệu một
số nước trong khu vực Đông Nam Á. Đề tài nghiên cứu số liệu lãi suất ở Việt Nam giai đoạn từ
1986-2011.
Phương pháp nghiên cứu:


CỞ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LÃI SUẤT VÀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
Lãi suất và tác động của lãi suất:
Lãi suất:
Lãi suất là một phạm trù kinh tế tổng hợp, có liên quan chặt chẽ đến một số phạm trù kinh tế
khác và đóng vai trò như là một đòn bẩy kinh tế cực kỳ nhạy bén có ảnh hưởng trực tiếp đến các
hoạt động của doanh nghiệp và dân cư. Quan trọng hơn, nó được Nhà nước sử dụng như một
công cụ quản lý vĩ mô trong nền kinh tế thị trường. Một nhà kinh tế học nổi tiếng của Pháp
A.POIAL đã khẳng định: lãi suất là một công cụ tích cực trong phát triển kinh tế và đồng thời lại
là một công cụ kìm hãm của chính sự phát triển ấy, tuỳ thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại
trong việc sử dụng chúng. Theo nghĩa chung, lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn


vay trong một đơn vị thời gian nhất định. Tùy theo từng đối tượng sử dụng nguồn vốn, theo từng
nghiệp vụ cơ bản và từng giá trị theo thời điểm.. mà lãi suất được phân loại và có tính chất khác
nhau tùy vào hoàn cảnh sử dụng:
Lãi suất cơ bản là lãi suất được các Ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh
doanh của mình. Lãi suât cơ bản được hình thành khác nhau tùy từng nước. Ở nước ta, lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh
doanh. Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất
nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín
dụng và xu hướng biến động cung - cầu vốn.
Lãi suất tái cấp vốn là loại lãi suất mà ở đó NHNN áp dụng cho các nghiệp vụ tái cấp vốn cho
hệ thống NHTG (bao gồm NHTM). Ở Việt Nam, NHNN tái cấp vốn cho các NHTM qua các
hình thức: cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ
có giá ngắn hạn khác; cho vay lại dưới hình thức cầm cố các giấy tờ có giá ngắn hạn....
Lãi suất tái chiết khấu: Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất NHNN cho các tổ chức tín dụng vay
trên cơ sở những chứng từ có giá của NHTM. Đây là lãi suất phạt đối với NHTM khi thiếu hụt
khả năng thanh toán. NHNN thông qua lãi suất chiết khấu tác động vào lãi suất thị trường. Đều
dễ nhận thấy là lãi suất chiết khấu phải thấp hơn lãi suất tái cấp vốn thông thường nhưng lãi suất
hiệu dụng (effective rate) thì phải cao hơn mức lãi suất chiết khấu công bố. Lãi suất chiết khấu ở
đây cũng chính là một hình thức của lãi suất tái cấp vốn.
Lãi suất cho vay là lãi suất mà người sử dụng vốn phải trả cho Ngân hàng cho vay, là chi phí mà
người đi vay phải trả khi sử dụng vốn của Ngân hàng.
Lãi suất thực là lãi suất điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi của lạm phát, hay nói cách
khác được đo lường bằng chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa với tỷ lệ lạm phát dự kiến hay tỷ lệ
lạm phát kỳ vọng (expected inflation rate). Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát
kỳ vọng.


Lãi suất huy động tức là lãi suất tính trên số tiền gửi vào ngân hàng hay là các tổ chức tín dụng
nào đó mà người gửi tiền nhận được từ ngân hàng nhận tiền gửi. Lãi suất tiền gửi thì bản chất
giống như lãi suất huy động nhưng khác ở chỗ là huy động bằng các loại tiền chứ không phải là

cả các vật chất khác như vàng.
Tác động của lãi suất thực lên các biến số kinh tế vĩ mô.
Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
Thu nhập của cá nhân bao giờ cũng được chia làm hai phần là tiêu dùng và tiết kiệm. Hành vi tiết
kiệm với kỳ vọng phòng ngừa rủi ro, mở rộng sản xuất, tích luỹ và tiêu dùng trong tương lai
chính là cung về vốn vay trong nền kinh tế. Tiêu dùng là một hàm phụ thuộc vào thu nhập khả
dụng. Ở mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, sự thắt chặt hay nới lỏng của chính sách thuế mà
ngân sách dành cho chi tiêu bị tác động. Tiết kiệm bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như thu nhập,
tập quán tiết kiệm và lãi suất. Khi lãi suất tăng làm tăng ý muốn tiết kiệm và sự sẵn sàng chi tiêu
giảm xuống.
Lãi suất và đầu tư
Lượng cầu về hàm đầu tư phụ thuộc vào lãi suất, để một dự án đầu tư có lãi, lợi nhuận thu được
phải cao hơn chi phí. Vì lãi suất phản ánh chi phí vốn để tài trợ cho đầu tư, việc tăng lãi suất làm
giảm số lượng dự án đầu tư có lãi, bởi vậy nhu cầu về hãng đầu tư giảm do đó đầu tư tỷ lệ nghịch
với lãi suất. Lãi suất thực tế phản ánh chi phí thực sự của tiền vay do vậy chúng ta nhận định đầu
tư phụ thuộc vào lãi suất thực tế chứ không phải lãi suất là lãi suất danh nghĩa.
Lãi suất và lạm pháp
Lạm pháp là sự tăng lên liên tục của mức giá, là hiện tượng mất giá của đồng tiền. Lý luận và
thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữ lãi suất và lạm phát. Fisher chỉ ra rằng lãi suất
tăng cao trong thời kỳ lạm phát cao. Có nhiều nguyên nhân gây nên lạm phát và cũng có nhiều
biện pháp để kiểm soát lạm phát, trong đó công cụ lãi suất là một giải pháp công hiệu khá nhanh.
Trong thời kỳ lạm pháp, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số
tiền có trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm; cơ số tiền và lượng tiền cung
ứng giảm, lạm phát được kiềm chế.
Lãi suất và tỷ giá
Lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ với nhau. Đây là hai công cụ song hàng quan
trọng của chính sách tiền tệ, việc cải cách chính sách điều hành ngân hàng hai yếu tố này đòi hỏi
phải được tiền hành đồng thời. Trong điều kiện một nền kinh tế mở, với nguồn được tự do vận
động, nếu lãi suất trong nước tăng lên nguồn vốn nước ngoài sẽ đổ vào đẩy cầu nội tệ lên cao,
với mức cung tiền nhất định tỷ giá sẽ bị nâng lên ảnh hưởng đến hoạt động ngoại thương của

quốc gia. Ngược lại, khi lãi suất giảm xuống, vốn trong nước khoác áo ra đi làm cho cầu ngoại tệ
cao tỷ giá tụt xuống.
Lãi suất với cầu tiền


Tiền là một loại tài sản, cũng là một cách mà mỗi người sử dụng cho việc tích sản của mình. Nhu
cầu về tiền phụ thuộc nhiều yếu tố trong đó có thu nhập và lãi suất. Khi thu nhập tăng, theo lý
thuyết lượng cầu tài sản, nhu cầu nắm giữ tiền của dân chúng tăng lên. Người ta cần nhiều tiền
hơn cho chi tiêu. Lãi suất như đã đề cập từ đầu là chi phí cơ hội cho việc giữ tiền. Vì vậy khi lãi
suất tăng người ta ít có ý muốn nắm giữ tiền hơn mà chuyển sang mua các loại chứng khoán
hoặc gửi tiết kiệm để thu lợi.
Tự do hóa tài chính:
Trong một quốc gia, hệ thống tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã
hội. Quốc gia có hệ thống tài chính mạnh có thể làm cho quá trình lưu thông tiền tệ được diễn ra
suôn sẻ hơn, kích thích mọi thành phần kinh tế phát triển. Có nhiều ý kiến khác nhau về quan
điểm tự do hóa tài chính trong nền kinh tế. Thực ra, tự do hóa tài chính là việc nới lỏng những
ràng buộc hay việc kiểm soát khu vực tài chính của Nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trước hết, tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm soát của
Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự
do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường. Nội dung cơ bản của tự do hóa tài chính bao
gồm: tự do hóa lãi suất, tự do hóa hoạt động cho vay của các NHTM, tự do hóa hoạt động ngoại
hối, tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính.
Tự do hóa tài chính bao gồm tự do hóa tài chính trong nước và tự do hóa tài chính với nước
ngoài. Tự do hóa tài chính trong nước là cho phép các tổ chức tài chính trong nước tự do thực
hiện các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị trường, các thị trường tài chính trong nước được
khuyến khích phát triển, các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành theo tín hiệu thị trường.
Tự do hóa tài chính với nước ngoài bao gồm tự do hóa giao dịch vãng lai và tự do hóa giao dịch
vốn.
Có thể nói, bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn có của
thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị trường, mục tiêu là tìm ra sự

phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
kinh tế – xã hội. Do đó, kết quả của tự do hóa tài chính thường được thể hiện bằng tỷ số giữa tiền
mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong hệ thống NHTM) trên thu nhập quốc dân.
Ngoài ra, tự do hóa tài chính là sự xóa bỏ các hạn chế, định hướng hay ràng buộc về số lượng
trong quá trình cấp và phân phối tín dụng. Sự điều tiết về số lượng này được thay thế bởi một cơ
chế giá: tự do hóa mang lại cho các định chế tài chính quyền tự do xác định các mức lãi suất tiền
gởi, cho vay và tự do sử dụng công cụ lãi suất. Trên lý thuyết, tự do hóa dẫn đến chấm dứt các
mức trần lãi suất cũng như những ràng buộc trong việc sử dụng các nguồn vốn huy động được.
Tự do hóa cũng chấm dứt những kênh cấp vốn ưu đãi. Việc mở rộng cạnh tranh trong các hoạt
động trung gian tài chính, chấm dứt sự phân biệt đối xử về pháp lý giữa các thành phần kinh tế
cũng được xem là một khía cạnh của tự do hóa tài chính. Tuy nhiên, tự do hóa không có nghĩa là
chấm dứt mọi qui định hay giám sát các hoạt động tài chính. Ngược lại, tự do hóa đòi hỏi phải
tăng cường cơ sở hạ tầng qui chế và các cơ quan giám sát. Việc đặt ra các qui định là cần thiết để
đảm bảo cho sự vận hành hiệu quả của các thị trường tài chính và ngân hàng.


Tùy theo tình hình thực tế của từng quốc gia, tự do hóa tài chính bao gồm nhiều yếu tố khác
nhau. Nhìn chung có 5 yếu tố quan trọng nhất: tự do hóa lãi suất và giá cả; tự do hóa hoạt động
tín dụng và giảm thiểu thủ tục hành chính của các tổ chức tín dụng nhà nước; tự do hoạt động
ngoại hối; tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính; cắt giảm thuế
và lạm phát trên thị trường tài chính quốc gia. Trong phạm vi nghiên cứu, bài viết chỉ đề cập đến
tự do hóa lãi suất.
Tự do hóa lãi suất:
Khái niệm
Tự do hoá lãi suất là cơ chế lãi suất trong đó không có hoặc chỉ có sự can thiệp rất hạn chế của
Chính phủ vào việc hình thành lãi suất. Khi cởi bỏ kiềm chế, lãi suất được hình thành trên cơ sở
thị trường, vận động theo quy luật cungcầu. Tự do hoá lãi suất được hiểu là lãi suất hoàn toàn
được điều chỉnh theo yêu cầu của thị trường. Sự can thiệp của Nhà nước đối với thị trường tiền tệ
tín dụng được điều hành thông qua các công cụ gián tiếp như lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị
trường mở, dự trữ bắt buộc, để tác động lên cung-cầu vốn trên thị trường tiền tệ nhằm đảm bảo

sự an toàn phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô từng thời kì. Như vậy tự do hoá lãi
suất có thể được hiểu là việc tháo bỏ hoàn toàn các ràng buộc về lãi suất trong nền kinh tế, cho
phép lãi suất trong nền kinh tế đạt tới điểm cân bằng của nó. Thực chất của tự do hoá lãi suất là
một quá trình loại bỏ các quy phạm, giới hạn bất hợp lý, loại bỏ tối đa các kiểm soát về lãi suất
trong kinh doanh tiền tệ của khu vực trung gian tài chính và thay thế bằng các biện pháp điều tiết
lãi suất gián tiếp của Ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ.
Biểu hiện của tự do hoá lãi suất: Trong điều hành chính sách lãi suất, Ngân hàng Trung ương
chỉ công bố các mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn
của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn,
từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng tự ấn định,
dựa trên cung-cầu vốn và sự cạnh tranh trên thị trường, từ đó hình thành nên mức lãi suất phản
ánh đúng nhu cầu của thị trường.
Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế, phù hợp với
mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, Ngân hàng Trung ương sẽ thực hiện thông qua
việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các tổ chức tín dụng, từ đó tác động đến
lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh
của các tổ chức tín dụng.
Trình tự của quá trình tự do hoá lãi suất tại Việt Nam
Tự do hóa lãi suất là mục tiêu cần hướng tới để đảm bảo sự vận hành của thị trường về cơ bản
tuân theo quy luật cung cầu, phân bổ nguồn vốn hợp lý. Song, với thực trạng nền kinh tế đang
phải đối mặt cùng với những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất
trực tiếp là cần thiết, trong khi từng bước tạo dựng những điều kiện cần thiết để tự do hóa lãi
suất. Cần thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất thị trường. Trên cơ sở mức
lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo, như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất
chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều tiết


lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các thành viên trên thị trường tiền tệ.
Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu. Đồng thời
trong thời gian này NHNN cũng sẽ tích cực hỗ trợ thanh khoản đối với NHTM với kỳ hạn dài

hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây, hỗ trợ thông qua tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ và
chỉ đạo các NHTM nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn và điều chỉnh lãi suất giảm
dần phù hợp diễn biến nền kinh tế.
Đặc điểm lãi suất của các nước trên thế giới:
Lãi suât cơ bản tại Mỹ:
Lãi suất cơ bản (Prime rate) ở hầu hết các nước trên thế giới khá chung chung song có tựa điểm
là dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng - nghĩa là gần với lãi suất thực của hoạt động
cho vay trên thị trường. Ở Mỹ, lãi suất cơ bản được hiểu là mức lãi suất cho vay ngắn hạn của
đa số các ngân hàng đối với khách hàng là các tổ chức công ty lớn có hệ số tín nhiệm cao (có
thể hiểu là mức lãi suất thị trường ưu đãi). Ban đầu, lãi suất cơ bản được điều chỉnh thường
xuyên do vậy tiệm cận với lãi suất cho vay thực. Tuy nhiên, sau này, lãi suất cơ bản không còn
gắn rất chặt với lãi suất thực của các ngân hàng vì chúng không còn được điều chỉnh một cách
thường xuyên và ở những thời điểm nhất đinh, lãi suất cơ bản thoát ly lãi suất cho vay thực. Tuy
vậy, lãi suất cơ bản vẫn được sử dụng như một mức lãi suất chuẩn (benchmark) cho hầu hết các
khoản tín dụng trong một quốc gia.
Lãi suất công bố của FED
Lãi suất mà Fed công bố thực chất không phải là lãi suất cơ bản (Prime Rate) mà là Fed Funds
Rate. Đây là lãi suất mà các tổ chức tín dụng (thường là các ngân hàng) cho nhau vay phần vốn
dự trữ bắt buộc dư thừa (hoặc thiếu hụt tạm thời) đang nằm trong quỹ dự trữ liên bang theo yêu
cầu đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng (có thể gọi là lãi suất điều hoà vốn dự
trữ overnight).
Lãi suât LIBOR
Libor hình thành từ những năm 1980 của thế kỷ trước, khi các ngân hàng bắt đầu cho vay lẫn
nhau, với kỳ vọng trở thành lãi suất bình quân để những ngân hàng lớn có thể vay từ các đơn vị
cùng ngành mà không phải thế chấp.
Đầu tiên là Libor lại khác biệt so với các chuẩn điểm lãi suất vay theo đồng đôla Mỹ hay liên
ngân hàng châu Âu (Euribor) đưa ra. Tiếp theo, Libor và các điểm lãi suất điển hình khác lại
không có cùng biên kể từ năm 2008, khi lãi suất vay có thể mặc định bởi thị trường ngoại hối.
Thứ ba, biến động của đồng đôla (vốn đặt cho Libor) lại thấp hơn nhiều so với các loại điểm tín
dụng ngắn hạn khác trên thị trường. Thêm vào đó, lãi suất có nhiều mức khiến một số nhà băng

đã đề nghị Hiệp hội Ngân hàng Anh không so với những bản hợp đồng hoán đổi nợ xấu của họ
(những công cụ tài chính tương tự như bảo hiểm và là một biến pháp để tính toán rủi ro tính dụng
của ngân hàng). Đã từng có thời gian lãi suất các hợp đồng này nới rộng tại một số ngân hàng
(cho thấy nguy cơ tín dụng tăng cao), trong khi Libor vẫn ổn định (đồng nghĩa với chi phí vay
mượn của ngân hàng không thay đổi).


Lãi suất SIBOR
Lãi suất liên ngân hàng tại Singapore (SIBOR) phản ánh lãi suất cho vay giữa các định chế tài
chính với nhau và được sử dụng như một tham chiếu (benchmark) phục vụ cho hoạt động tín
dụng bất động sản. Hàng ngày, ABS ấn định SIBOR với sự hỗ trợ dịch vụ thông tin tài chính của
hãng thông tấn Thomson Reuters trên cơ sở lãi suất cho vay của 15 ngân hàng tại Singapore,
trong đó có 3 ngân hàng của Singapore là DBS, UOB và OCBC cũng như nhiều ngân hàng nước
ngoài như Citibank.
Khác với LIBOR, SIBOR chỉ mang tính chất nội địa và không phải là lãi suất tham chiếu quốc
tế. Ví dụ, LIBOR sử dụng để xác định mức giá cho hàng nghìn tỷ USD các sản phẩm tài chính
phái sinh (derivatives) hay các công cụ tài chính khác.


TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT TRONG QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI
CHÍNH CỦA VIỆT NAM:
1.

Khu vực tài chính và chính sách lãi suất trước năm 2000:

Năm 1988 đánh dấu đợt cải cach mạnh mẽ đầu tiên trong hệ thống tài chính – ngân hàng của
Việt Nam. Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 do Hội Đồng Bộ Trưởng ban hành mở đầu cho
công cuộc cải tổ hệ thống ngân hàng ở Việt Nam, với ba nội dung cải tổ quan trọng:
Thứ nhất là tách bộ phận quản lý quỹ ngân sách ra khỏi Ngân hàng Nhà nước để hình thành nên
hệ thống Kho bạc Nhà nước.

Thứ hai là tách chức năng kinh doanh ra khỏi hệ thống Ngân hàng Nhà nước giao cho các ngân
hàng chuyên doanh.
Thứ ba là thành lập hai ngân hàng chuyên doanh mới đó là Ngân hàng Công Thương Việt Nam
và Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam cùng với hai ngân hàng trước đó là Ngân Hàng
Ngoại Thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đảm nhận chức năng kinh
doanh thay thế cho Ngân hàng Nhà nước. Cả bốn ngân hàng hoạt động dưới hình thức chuyên
doanh cho đến năm 1990, khi giới hạn này được xóa bỏ và hệ thống ngân hàng thương mại ra
đời theo tinh thần của Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh các tổ chức tín dụng năm
1990.
Lãi suất tiền gửi và cho vay của ngân hàng TMQD đều do Ngân hàng Nhà nước quy định. Cũng
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại duy trì các mức lãi suất cho
vay khác nhau đối với cho vay nông nghiệp, công nghiệp và thương mại.
Năm 1988 cũng đánh dấu nỗ lực tự do hóa tài chính đầu tiên ở Việt Nam bằng quyết định của
Hội đồng Bộ trưởng 9/3/1988 cho phép các tổ chức kinh tế bao gồm các đơn vị kinh tế ngoài
quốc doanh được vay tiền và huy động vốn từ công chúng. Có ba đặc điểm chung đáng chú ý ở
đây:


Thứ nhất, giai đoạn 1986-1988 là là thời gian mất ổn đinh kinh tế vĩ mô nhấ mà nến kinh tế Việt
Nam từng trải qua. Với việc chính phủ sử dụng in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, lạm phát ở
mức phi mã ba chữ số.
Thứ hai, nỗ lực tự do hoá tài chính này được tiến hành trong khi hầu như chưa có cải cách trong
khu vực công nghiệp, DNNN và hoạt động ngoại thương. Thực tế là mới chỉ có khu vực nông
nghiệp được tự do hoá, và rất nhiều loại giá vẫn bị biến dạng nghiệm trọng.
Thứ ba, tự do hoá đã đi quá xa đến nỗi cho phép tất cả tổ chức kinh tế đều có thể kinh doanh
tiền tệ, trong khi hệ thống điều tiết tài chính thì hoàn toàn không tồn tại. Các tổ chức huy động
vốn từ công chúng dưới dạng tiền gửi tiết kiệm để cho vay không phải tuân thủ các quy định
truyền thống của ngân hàng, như dự trữ bắt buộc và tỷ lệ vốn/dự nợ vay.
Trong thời gian này, các quỹ và hợp tác xã tín dụng mọc lên rất nhiều. Đến cuối thập niên 80,
tổng số quỹ và hợp tác xã tin dụng lên tới 7.180, trong khi vào năm 1983 thi hợp tác xã tín dụng

đầu tiên mới được thành lập ở miền Nam. Hàng loạt các quỹ tín dụng ở thành thị đua nhau tăng
lãi suất để huy động vốn. Cả hệ thống rơi vào vòng xoáy của vấn đề lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ
lại. Ban đầu, có lẽ chỉ có một số quỹ tín dụng đưa ra lãi suất tiết kiệm cao và thu hút người gửi
tiền. Nhưng các tổ chức còn lại ngày càng phải chịu áp lực cạnh tranh khi thấy khách hàng gửi
tiền của minh chuyển tiết kiệm sang các quỹ trả lãi cao hơn. Các tổ chức này, do vậy, cũng bị
buộc phải tăng lãi suất tiền gửi lên mức hấp dẫn đối với người tiết kiệm. Đây chính là một trường
hợp điển hình của lựa chọn bất lợi. Đồng thời, việc không có quy định về vốn tạo ra tâm lý ỷ lại.
Đầu tư rủi ro mong thu được lợi nhuận cao rồi dùng một phần để trả lại cho vốn huy động là
hành vi tối đa hoá lợi nhuận hoàn toàn hợp lý khi quỹ tín dụng không chịu quy định đầy đủ về
vốn. Nếu đầu tư thắng, lợi nhuận thu được sẽ đủ trả lãi tiền gửi và còn được một khoản lợi nhuận
con. Còn nếu thua, thì cũng không mất mát nhiều do vốn tự có ban đầu bỏ ra không bao nhiêu.
Mất ổn định vĩ mô cũng có thể là yếu tố dẫn đến sự sụp đổ của các quỹ tín dụng, bên cạnh các
yếu tố đã đề cập ở trên. Mặc dù lạm phát đã giảm xuống, nhưng vẫn còn ở mức 70-80%/năm. Do
vậy, mặc dù không có kiểm soát lãi suất, nhưng các tổ chức tín dụng vẫn không thể dựa vào thị
trường để thẩm định các dự án đầu tư.
Cho đến cuối năm 1990, tổng số quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng chỉ còn 160. Bên cạnh sự
mất mát về tiền, cuộc khủng hoảng tín dụng năm 1990 còn tạo ra một tác động tâm lý sâu rộng
với sự sụt giảm lòng tin nghiêm trọng của người dân đối với hệ thống ngân hàng. Một số nghiên
cứu lúc đó cho rằng sự mất niềm tin này cùng với lãi suất thực âm vào lúc đó khiến rất nhiều
người dân rút tiền tiết kiệm của mình và chuyển sang vàng hay đô-la Mỹ.
Giai đoạn trước 1992 Nhà nước quản lý kinh tế theo phương thức kế hoạch hóa tập trung dẫn
đến việc áp dụng chính sách lãi suất bao cấp, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền


kinh tế thế giới. Dẫn đến lãi suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm
cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm,
vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.Trong giai đoạn này, lạm phát cũng liên tục cao.
Tuy nhiên, quan trọng hơn là chủ trương của Chính phủ là tất cả cho sản xuất, khu vực ngân
hàng là khu vực dịch vụ và theo chủ trương đó lãi suất ngân hàng thấp hơn lạm phát đáng kể.
Khi đó nếu ngân hàng càng cho vay thì dường như ngân hàng càng mất vốn. Đối với người gửi

tiền, thì vấn đề càng rõ hơn, nếu càng gửi nhiều tiền và càng gửi lâu thì họ lại càng mất tiền nếu
xét trên cơ sở so với thay đổi mặt bằng giá . Về mặt quyền lợi người ta thấy rằng, ngân hàng và
người gửi tiển đều không có lợi. Tuy nhiên, trên góc độ đầu tư, chính sách lãi suất thực âm đã
góp phần tài trợ vốn lớn với lãi suất thấp cho các DN và qua đó phần nào giảm được chi từ ngân
sách nhà nước, tập trung được nguồn vốn lớn cho khu vực sản xuất. Ngoài ra, cũng có thể thấy
rằng, chính sách lãi suất thực âm đó có thể không khuyến khích dân chúng gửi tiền vào ngân
hàng mà phần nào có ý nghĩa khuyến khích dân chúng tập trung tiền vốn vào sản xuất kinh
doanh và đầu tư sản xuất. Như vậy, những lợi ích của lãi suất thực âm là rõ ràng và có vai trò
lịch sử nhất định.
Giai đoạn từ 1992-1995, đặc trưng của giai đoạn này là Ngân hàng Nhà nước điều hành cơ chế
lãi suất theo khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền
kinh tế. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của ngân hàng
thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực chất là bước chuyển đổi căn bản từ cơ
chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, đảm bảo cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức
tín dụng kinh doanh có hiệu quả, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở
Việt Nam.
Trần lãi suất trong giai đoạn 1993-1996 này cụ thể là : 21.6%/năm đối với DNNN và 25.2% với
kinh tế ngoài quốc doanh. Lãi suất liền gửi tiết kiệm VNĐ trong giai đoạn 1992-1995 là rất cao:
năm 1992 là 34,1%/năm, năm 1993 là 20,4%/năm, năm 1994 là 16,8%/năm và năm 1995 là
16,8%/năm trong khi tỷ lệ lạm phát trong những năm này đã giảm đáng kể nên lãi suất thực
dương năm 1992 là 16,6%, năm 1993: 15,2%, năm 1994: 2,4%, năm 1995: 4,1%.
Năm

1992

1993

1994

1995


Lãi suất/năm

34.1%

20.4%

16.8%

16.8%

Lạm phát

18%

5%

14%

13%


Lái suất thực

16.6%

15.2%

2.4%


4.1%

Nguồn:
Qua thực tế điều hành cho thấy áp dụng lãi suất thực dương là một chính sách đúng đắn để chống
lạm phát. Nhưng nếu duy trì lãi suất thực dương quá cao sẽ đẩy đến đầu tư có thể bị sút giảm
trong đỉnh điểm của lãi suất dương và hiệu quả kinh tế có thể giảm sút.
Quốc hội khoán IX, kì họp thứ 8 tháng 10/1995 đã thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu hoạt
động tín dụng ngân hàng , đồng thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy
động 0.35%/tháng. Đây là duyên cớ để ra đời lãi suất trần hoàn toàn và bãi bỏ lãi suất cho vay
thỏa thuận từ 01/01/1996. Như vậy thực chất các ngân hàng vẫn phải chịu khống chế cả lãi suất
tiền gửi và cho vay, cho dù mức chênh lệch lãi suất thực tế có khác nhau giữa các ngân hàng tuỳ
thuộc cơ cấu chi phí cụ thể. Chính sách này có lợi cho các NHTM là duy trì được mức lợi nhuận
mong muốn.
Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành
kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thỏa thuận. Trên thực tế khoảng 30-60%
tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay bằng lãi suất thỏa thuận mà các DN ngoài quốc
doanh và các hộ nông dân với lãi suất 2,3-3.5%./tháng. Với cơ chế lãi suất thỏa thuận thì chúng
ta có thể nhận thấy lãi suất đang dần được tự do hóa.
Từ năm 1996, NHNN tiếp tục ấn định lãi suất tái cấp vốn và có những biến đổi căn bản về điều
hành lãi suất. Thay vì quy định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay,
NHNN chỉ quy định mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi
suất cho vay và lãi suất huy động bình quân là 0,35%/tháng (4,2%/năm) để khắc phục tình trạng
hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp
khó khăn về tài chính (khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn trước). Trong biên độ
dao động này giờ đây các ngân hàng có thể định mức lãi suất huy động tùy theo khách hàng và
lượng tiền gửi cũng như kỳ hạn gửi chứ không còn bó buộc trong một mức chung như trước đây.
Như vậy, cạnh tranh trong hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ gia tăng lên. Đây là tín hiệu của sự tự
do hóa lãi suất huy động nói riêng và tiến đến tự do hóa lãi suất nói chung.
Trong giai đoạn từ năm 1997 trở đi, theo nhận định của các chuyên gia của chính phủ, với đồng
tiền Việt Nam là đồng tiền chưa có khả năng chuyển đổi, tài khoản vốn đóng nên hệ thống ngân

hàng của Việt Nam không phải chịu tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng châu Á. Chính vì
điều này, từ năm 1997 đến đến đầu năm 1998, NHNN đã không siết chặc kiểm soát hệ thống
TCTD, lãi suất trần được nâng lên để các ngân hàng có thể tăng lãi suất tiền gửi để huy động vốn


. Đồng thời, trong bối cảnh cạnh tranh càng cao giữa các ngân hàng lúc này, quy định giới hạn
chênh lệch lãi suất cho vay và lãi tiền gửi trong khoảng 0,35%/tháng tỏ ra không có tác dụng
thúc đẩy hệ thống ngân hàng phát triển nên cuối cùng được bãi bỏ vào cuối tháng 1 năm 1998.
Tuy nhiên trái với dự đoán của chính phủ, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chịu tác động mạnh từ
cuộc khủng hoảng từ giữa năm 1997, các doanh nghiệp vay nợ gặp khó khăn do tăng trưởng kinh
tế, xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài suy giảm, đặc biệt là các doanh nghiệp nhập khẩu
mở một khối lượng thư tín dụng lớn từ 1995 và 1996 và đáo hạn cuối năm 1997 và 1998, nhiều
doanh nghiệp trong số này không còn khả năng thanh toán cùng với việc phá giá đồng nội tệ
10% vào tháng 8 năm 1998 dẫn đến các ngân hàng trong nước phải chịu một gánh nặng nợ nước
ngoài. Một số ngân hàng đứng trước tình trạng phá sản. Đứng trước tình trạng này NHNN đã liên
tục chủ động điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế,
đặc biệt là trong năm 1998 và 1999. Đồng thời, NHNN cũng điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn giảm
xuống nhằm mục đích quan trọng là kích cầu đầu tư-tiêu dùng, để vựt dậy các doanh nghiệp vượt
qua tác động của cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên ảnh hưởng của lãi suất đối với tổng cầu của nền
kinh tế Việt Nam rất hạn chế. Lý do trước hết là việc giảm phát trong thời gian từ 1996 xuất phát
từ sự suy giảm các yếu tố sản xuất liên quan đến tổng cung nhiều hơn tổng cầu, vì thế các chính
sách vĩ mô tác động vào tổng cầu sẽ chỉ đem lại hiệu quả hạn chế. Lý do thứ hai là sự điều chỉnh
lãi suất thường chậm so với thị trường, nên mất đi lợi thế bất ngờ của sự thay đổi lãi suất. Hơn
nữa việc điều hành trần lãi suất vẫn là một biện pháp can thiệp hành chính của Nhà nước do vậy
đã hạn chế tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh của các TCTD, hạn chế việc hình thành và
phát triển của các công cụ tài chính.
Việc điều chỉnh chính sách lãi suất trong giai đoạn 1996-2000 nhằm duy trì một trần lãi suất cho
vay, tạo điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản trong giai đoạn kế tiếp và từng bước tự do hoá
lãi suất.


Giai đoạn lãi suất từ 2000-2002
Biến động lãi suất 2002-2008
Giai đoạn 2001 – 2005, thế giới trải qua một thời kì phát triển đầy biến động và mất cân bằng
do những thay đổi lớn như giá dầu tăng nhanh đến mức kỷ lục, kinh tế Mỹ thâm hụt kép, đồng
USD mất giá gây ra những xáo trộn lớn trên thị trường ngoại hối toàn cầu,… Tuy vậy, kinh tế
thế giới giai đoạn này cũng đã được phục hồi, đạt tốc độ tăng trưởng đồng đều, đặc biệt những
năm 2004 – 2005 là đỉnh cao của chu kỳ tăng trưởng.
Bảng 1: Tăng trưởng kinh tế thế giới từ 2001 – 2005


Năm
Thế giới

2001
2,4%

2002
2,9%

2003
4,0%

2004
5,1%

2005
4,3%

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn
Kinh tế thế giới bắt đầu có những dấu hiệu về tăng trưởng chậm lại trên toàn cầu từ cuối năm

2000, mà chủ yếu là do kinh tế Mỹ tăng chậm, và khả năng suy giảm tăng trưởng ở một số nền
kinh tế mới nổi. Trước bối cảnh đó, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nhẹ, tập trung vào lĩnh vực
xuất khẩu và du lịch. Đóng góp vào việc phục hồi kinh tế và kích thích khu vực tư nhân đầu tư
phát triển. NHNN đã liên tục cắt giảm lãi suất trong năm 2001 để kích thích tăng trưởng tín
dụng. Tính trong cả năm 2001, lãi suất cơ bản đã thay đổi bốn lần từ 9%/năm cuối năm 2000,
xuống còn 7,2%/năm vào tháng 11/2001.
Bảng 2: Những dấu mốc thay đổi lãi suất cơ bản năm 2001
Lãi suất
Thế giới

9%/năm
02/08/2000

8,7%/năm
01/03/2001

8,4%/năm
01/04/2001

7,8%/năm
01/06/2001

7,2%/năm
01/11/2001

Nguồn: Thống kê NHNN
Theo đà đó, bước sang năm 2002, thị trường trong nước tăng trưởng mạnh hơn và bắt đầu có
những dấu hiệu lạm phát tăng lên. Lãi suất trên thị trường năm 2002 cũng tương đối ổn định.
Chênh lệch giữa lãi suất USD và lãi suất VND khá rộng (khoảng 5%), hạn chế được sự dịch
chuyển từ VND sang USD. Từ tháng 6, trong điều kiện lãi suất quốc tế xuống thấp, NHNN đã

áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng bằng VND giữa tổ chức tín dụng
với khách hàng. Trên cơ sở đó các NHTM xác định lãi suất cho vay dựa vào cung cầu vốn trên
thị trường và độ tín nhiệm của khách hàng, lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ có tính chất
tham chiếu cho các NHTM. Điều này giúp cho các thành phần khác nhau của nền kinh tế tuỳ
thuộc vào chi phí cho vay và rủi ro sẽ được tiếp xúc với các nguồn tín dụng với các giá khác
nhau phù hợp.


Hình 1: Diễn biến lãi suất giai đoạn 2000 – 2004

(Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN Việt Nam)
Thông qua hoạt động thị trường mở, trong năm 2002 NHNN đã mua 7,2 nghìn tỷ VND từ các
NHTM và bán 1,7 nghìn tỷ VND cho các ngân hàng, cả hoạt động mua vào và bán ra đều đạt
tăng trưởng trên 100%. Trong khi đó, tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ đã được điều chỉnh giảm 2 lần
xuống 8% vào tháng 4/2002 và xuống 5% vào tháng 12/2002. Trong năm 2002, lãi suất tái cấp
vốn, lãi suất chiết khấu của NHNN, cũng như tỷ lệ DTBB bằng VND được giữ nguyên ở mức
thấp, phù hợp với diễn biến thị trường và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Nhìn chung, nhờ
việc sử dụng và phối hợp khá hiệu quả các biện pháp của chính sách tiền tệ trong năm 2002 nên
đã góp phần đưa mức tăng trưởng cả năm đạt được 7,08%, và lạm phát được duy trì dưới 5%
theo mục tiêu.
Tình hình kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Mỹ đến năm 2003 vẫn còn đang trong tình trạng
chống suy thoái. Thêm vào đó, trong năm 2003 một loạt sự kiện kinh tế xảy ra đã làm cho đồng
USD mất giá kỷ lục so với các loại ngoại tệ chủ chốt khác và tác động thúc đẩy tăng giá vàng
trên thị trường thế giới lên cao nhất trong gần 8 năm. Điều này tác động đến toàn bộ nền kinh tế
thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài ảnh hưởng đó. Do đó, việc điều hành chính sách
tiền tệ của Chính phủ trong năm 2003 cũng đầy những biến động. Từ tháng 8/2003 lãi suất nội tệ


bắt đầu giảm, và cho đến cuối tháng 9 và 10/2003 thì giảm đáng kể, bình quân giảm từ 0,03% 0,08%/tháng.
Bước sang hai năm 2004 – 2005 là những năm cuối cùng của giai đoạn kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội 5 năm của Việt Nam và cũng là hai năm quyết định sự thành bại trong kế hoạch này.
Việt Nam bắt đầu đối mặt với lạm phát tăng lên trong năm 2004 sau thời kì dài khắc phục khủng
hoảng. Chỉ mới 2 tháng đầu năm lạm phát đã bất ngờ tăng vọt lên 4,2% sau hơn 10 tháng yên
ắng. Thêm vào đó, năm 2004 tình hình thiên tai, dịch bệnh lan tràn càng đẩy chỉ số CPI gia tăng
mạnh, kéo theo lạm phát trong nước tăng cao.
Tình hình này buộc Chính phủ nước ta phải kịp thời tìm cách khắc phục và công cụ chính yếu
nhất để kiểm soát lạm phát là chính sách tiền tệ. Theo đó, bắt đầu từ 1/7/2004, NHNN quyết định
tăng dự trữ bắt buộc đối với các NHTM từ 2% lên 5% với tiền gửi nội tệ và từ 4% lên 8% đối
với tiền gửi ngoại tệ cho các khoản tiền gửi ngắn hạn. Chính sách này của NHNN có tác dụng
làm tăng chi phí của các NHTM, buộc các ngân hàng phải thận trọng hơn với các khoản cho vay
và hạn chế lượng tiền trong lưu thông. Bên cạnh đó, các ngân hàng bắt đầu thực hiện siết chặt tín
dụng và duy trì mức tăng tín dụng năm 2004 là 25%.
Lãi suất cơ bản trong năm này vẫn được giữ tương đối ổn định, NHNN quyết định không tăng lãi
suất vì nếu thực hiện sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng, lại không có lợi cho tâm lý nhân dân, doanh
nghiệp trong giai đoạn này. Dù sao mục tiêu chính của Chính phủ vẫn là tăng trưởng và ổn định
kinh tế nên hầu hết các chính sách thực thi trong năm 2004 đã mang lại hiệu quả đáng khích lệ,
tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7,7% so với mức tăng năm 2003 là 7,34%, tuy nhiên tỷ lệ lạm phát
chỉ kiềm chế được ở mức 9,5% - cao hơn so với tăng trưởng GDP trong năm. Do đó, đây sẽ là
một trong những khó khăn đặt ra cho mục tiêu năm 2005 để hoàn thành được kế hoạch 5 năm
của Chính phủ.
Trước sức ép của chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng liên tục tăng ở mức khá cao trong năm 2005
và mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, NHNN luôn xem xét đưa ra các biện pháp can thiệp phù
hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô và diễn biến thực thế của thị trường.
NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát đang gia tăng trong năm. Lãi suất
huy động kỳ hạn 3 tháng và 12 tháng phổ biến ở mức 7,56% - 8,4%/năm, tăng khoảng 0,84 –
1,2%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 9,6 – 12,39%/năm, tăng khoảng 0,96 –
1,2%/năm. Lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến ở mức 10,8 – 16,2%/năm, tăng khoảng 1,2
– 3%/năm.
Bảng 3 : Những dấu mốc thay đổi lãi suất năm 2005
Ngày thực hiện


Lãi suất cơ bản

Lãi suất tái cấp vốn

Lãi suất tái chiết khấu


Năm 2004
Tháng 1/2005
Tháng 3/2005
Tháng 12/2005

7,5%
7,8%
7,8%
8,25%

5,0%
5,5%
6,0%
6,5%

3,0%
3,5%
4,0%
4,5%

Nguồn: Thống kê từ NHNN
Việc điều chỉnh các mức lãi suất như trên là tương đối hợp lý, phù hợp với điều kiện của thị

trường, đồng thời khuyến khích các NHTM tăng cường công tác huy động vốn từ dân cư để cho
vay nền kinh tế, giảm việc cung ứng tiền ra lưu thông. Ngoài ra, NHNN đã chỉnh sửa các cơ chế
tín dụng . Vì vậy, trong năm 2005 các TCTD đã có những chuyển biến tích cực trong hoạt động
cho vay, tốc độ tăng trưởng tín dụng đã giảm từ 41,56% của năm 2004 xuống còn 31,04% trong
năm 2005. Nguồn huy động tiền gửi tiết kiệm của dân tăng mạnh so với năm 2004. Tỷ lệ tiền
mặt trong lưu thông đã giảm từ 23,1% vào tháng 12/2004 xuống còn 20,7% vào tháng 12/2005,
cho thấy chính sách tiền tệ của NHNN đang phát huy tác dụng hút tiền trong lưu thông. Các công
cụ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, tái chiết khấu cũng được NHNN sử dụng thường xuyên, linh hoạt
để thực hiện mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Điều này đưa đến kết quả trong
năm 2005 rất đáng khích lệ khi tăng trưởng GDP đạt 8,43%, cao nhất so với 9 năm trước đó và
so với các nước khu vực Đông Á, Việt Nam cao đứng thứ hai sau Trung Quốc. Mức tăng trưởng
cao của năm 2005 đã góp phần quyết định việc hoàn thành mục tiêu tăng trưởng GDP trung bình
7,5%/năm được đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 – 2005.
Kết thúc năm 2005 với tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,43% đã giúp cho nước ta hoàn thành tốt
việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2001 – 2005. Theo đó, Chính
phủ lại tiếp tục đề ra kế hoạch phát triển cho 5 năm tiếp theo giai đoạn 2006 – 2010 với nhiều
mục tiêu tăng trưởng được đặt ra.
Bên cạnh tình hình chính trị thế giới diễn biến khá phức tạp và điều kiện bất lợi về thời tiết đã
kéo theo thị trường hàng hoá trên thế giới tăng giá mạnh trở lại. Theo đó, Việt Nam vẫn đối phó
với lạm phát ngày càng tăng cao trong năm 2006, tiếp tục duy trì và thực hiện linh hoạt chính
sách tiền tệ thắt chặt từ cuối 2005 nhằm kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định môi trường kinh tế
vĩ mô, tạo thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Theo đó, trong năm 2006, NHNN vẫn giữ nguyên
các mức lãi suất chính thức. Việc giữ ổn định lãi suất chính thức của NHNN nhằm tránh phát tín
hiệu làm tăng lãi suất thị trường, đồng thời tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng huy động và
cho vay đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, lãi suất USD tăng khoảng 0,2 – 0,6%/năm do tác động
của lãi suất trên thị trường quốc tế. NHNN cũng giữ nguyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc để giảm áp lực
tăng lãi suất huy động trên thị trường. Tổng phương tiện thanh toán năm 2006 đã được giữ ở
mức tăng 33,59% so với năm 2005, nhưng vẫn cao hơn so với mức tăng 29,65% của năm 2005.
Trong đó, tiền gửi vẫn chiếm tỷ trọng lớn - 82,79% trong tổng phương tiện thanh toán.



Tín dụng trong năm 2006 đối với nền kinh tế tiếp tục có xu hướng tăng trưởng chậm lại do mục
tiêu tăng trưởng và kiềm chế lạm phát đi đôi với nhau nên mặc dù khuyến khích đầu tư nhưng
ngân hàng phải hạn chế lượng tiền đưa ra lưu thông và nâng cao chất lượng tín dụng tốt hơn.
Năm 2006, dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế tăng 22,54% so với năm
2005, thấp hơn nhiều so với mức tăng 31,1% của năm 2005 và mức tăng 41,65% của năm 2004.
Trong khi đó, nguồn huy động vốn của hệ thống ngân hàng tiếp tục tăng trưởng cao. Tính đến
cuối năm 2006, tăng trưởng huy động vốn đạt 36,53% so với năm 2005, cao hơn so với tốc độ
tăng trưởng 32,08% của năm 2005.
Hình 3: Tỷ trọng huy động vốn của từng nhóm TCTD

Nguồn: Thống kê của NHNN
Bước sang năm 2007, tình hình kinh tế thế giới lại trải qua những xáo trộn mạnh, đặc biệt trên
thị trường tài chính do xuất phát từ cuộc khủng hoảng trên thị trường cho vay cầm cố dưới
chuẩn ở Mỹ và giá dầu tăng lên mức kỷ lục. Tuy nền kinh tế thế giới vẫn đạt mức tăng trưởng
4,9% cả năm nhưng thấp hơn mức 5,0% của năm 2006 và dấu hiệu suy thoái kinh tế ở một số
nước ngày càng mạnh mẽ hơn. Lãi suất SIBOR và LIBOR ổn định trong 6 tháng đầu năm, nhưng
đến tháng 7/2007 lãi suất bắt đầu giảm khoảng 0,77% so với đầu năm. Hầu hết các nước đều tiến
hành điều chỉnh lãi suất định hướng cho phù hợp với tình hình hiện tại của nước mình.
Bảng 5: Lãi suất định hướng của một số NHTW các nước năm 2007


Nguồn: Reuters
Với kinh tế Việt Nam khi bước vào năm 2007, chỉ số giá tiêu dùng một số mặt hàng thiết yếu
tăng cao gây nên tình trạng lạm phát ngày càng gia tăng. Trước tình hình này, trong năm 2007,
NHNN đã thực hiện điều tiết cung tiền thông qua một số công cụ của chính sách tiền tệ nhằm
kiềm chế lạm phát và ổn định nền kinh tế vĩ mô (ví dụ nghiệp vụ thị trường mở đã có những đổi
mới đáng kể, phát huy hiệu quả cao. Và đến giữa năm 2007 thì lạm phát có xu hướng tăng mạnh,
NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc gấp 1,5 – 2 lần (áp dụng từ tháng 6/2007) để hút
tiền về, kiểm soát tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán. Trong năm, để tránh tác động không

thuận lợi đối với tăng trưởng kinh tế, NHNN giữ nguyên các mức lãi suất do NHNN công bố
như lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm, lãi suất chiết khấu là
4,5%/năm, lãi suất qua đêm, lãi suất tiền gửi tại NHNN.. nhằm ổn định thị trường. NHNN cũng
đã bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân kể từ ngày 1/1/2007, theo đó,
các TCTD được phép ấn định lãi suất tiền gửi bằng USD của pháp nhân theo cơ chế thoả thuận.
Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cũng biến động trên dưới 15%/năm và lãi suất huy động
của các NHTM biến động ở khoảng dưới 10%/năm trong năm 2007.
Hình 4: Huy động vốn từ nền kinh tế của hệ thống TCTD từ 2001- 2007


Nguồn: Thống kê NHNN
Bên cạnh đó, NHNN đã thực hiện kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ, thực hiện đồng bộ các giải
pháp như ban hành cơ chế sửa đổi quy định trích lập và dự phòng rủi ro phù hợp với chuẩn mực
quốc tế, ban hành Chỉ thị 03/2007/CT – NHNN yêu cầu các TCTD thực hiện kiểm soát tín dụng,
khống chế dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng,
tăng cường thanh tra giám sát hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán nhằm đảm bảo
an toàn, hiệu quả hoạt động của hệ thống TCTD. Tuy nhiên, tổng phương tiện thanh toán cả năm
2007 vẫn tăng 46,12%, cao hơn nhiều so với mức tăng 33,59% của năm 2006. Huy động vốn của
toàn hệ thống ngân hàng cũng tăng trưởng mạnh đạt 47,64%, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng
36,53% của năm 2006 và đã góp phần hút bớt lượng tiền nhàn rỗi từ dân cư vào trong hệ thống
TCTD. Mặc dù NHNN ra sức kiểm soát tín dụng, kiềm chế lạm phát nhưng tăng trưởng tín dụng
năm 2007 vẫn đạt rất cao. Dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng tăng 53,89% so với năm 2006,
cao hơn nhiều so với mức tăng 25,44% của năm 2006. Điều này trái lại, lại góp phần tích cực
đáp ứng có hiệu quả nhu cầu vốn của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tuy sẽ mâu
thuẫn với mục tiêu kiềm chế lạm phát trong năm.
Chúng ta có thể nhìn nhận cục diện thị trường hiện nay là lạm phát đang ở mức cao, khan hiếm
tiền đồng trong hệ thống NH – lãi suất vay qua đêm bị đẩy vọt lên và NHNN phải bơm hơn 11
ngàn tỷ đồng vào thị trường để giúp làm giảm áp lực thanh toán của các NH. Như vậy, cuộc đua
tăng lãi suất là không thể tránh khỏi. Tăng lãi suất có thể giúp các NH giữ chân khách hàng, khi
mà các NH còn cạnh tranh nhau về mức lãi suất chứ không phải là dịch vụ, tăng dư nợ tín dụng

để đáp ứng Chỉ thị 03, có thể giải quyết được tình trạng mất khả năng thanh toán tiền đồng và có
thể tạo ra một lượng tiền đồng để hấp thụ hàng tỷ USD sẽ đổ vào thị trường Việt Nam. Nhưng là
lợi bất cập hại, khi tăng lãi suất huy động thi cũng làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, làm tăng
chi phí sản xuất, gây ra tác động lên giá thành; cuộc đua tranh này có thể làm phá vỡ cam kết lãi
suất giữa các NH.
Tóm lại, chúng ta thấy rằng các loại lãi suất mà NHNN áp dụng vẫn chưa giúp điều chỉnh thị
trường. Một chính sách lãi suất chậm chạp và đặc biệt là lãi suất cơ bản không phản ánh thị
trường cũng như là thước đo cho các NHTM khác sử dụng.
Bắt nguồn từ hàng loạt tín hiệu xấu từ những tháng cuối năm 2007, bước sang năm 2008, tình
hình thế giới lại rơi vào vòng xoáy khủng hoảng nặng nề hơn. Chỉ trong một năm, Việt Nam phải
gánh chịu cả hai bối cảnh đối nghịch nhau hoàn toàn: lạm phát tăng cao vào đầu năm và suy
giảm kinh tế những tháng cuối năm. Điều này gây ra rất nhiều sức ép cho việc hoạch định chính
sách tiền tệ trong năm.
Diễn biến lãi suất tại Việt Nam giai đoạn 2008-2012


Giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2012 là giai đoạn có nhiều biến động về kinh tế trên thế giới.
Khủng hoảng kinh tế do cho vay dưới chuẩn, khủng hoảng nợ công tại Châu Âu là một trong
những nguyên nhân gây xáo trộn nền kinh tế thế giới và tạo tác động không nhỏ đến kinh tế Việt
Nam, đặc biệt là biến động lãi suất và chính sách điều hành lãi suất của Việt Nam.
Năm 2008 - Một năm biến động chưa từng có của lãi suất
Năm 2008 là một năm mà kinh tế Việt Nam chịu nhiều biến động: sự ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính thế giới. Lãi suất Việt Nam có sự thay đổi trái chiều nhau với biên độ lớn chỉ
trong vòng 12 tháng. Khủng hoảng kinh tế thế giới đã có những ảnh hưởng nhất định đến nền
kinh tế Việt Nam theo hướng tiêu cực. Trước tình hình đó, để đảm bảo sự ổn định kinh tế,
NHNN đã có những chính sách quan trọng trong điều hành lãi suất như điều chỉnh lãi suất cơ
bản và các mức lãi suất khác. Biến động lãi suất trong năm 2008 được chia làm hai giai đoạn
chính: 06 tháng đầu năm với cuộc đua tăng lãi suất và 06 tháng cuối năm với diễn biến ngược lại.

Nguồn: Số liệu từ NHNN

06 tháng đầu năm 2008 gắn liền với việc NHNN điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản, cơ chế áp dụng
chính sách trần lãi suất trong hoạt động cho vay được NHNN tiến hành 1 cách nghiêm túc
( không quá 150% lãi suất cơ bản). Thị trường chứng kiến một cuộc đua tăng lãi suất mạnh mẽ.
Lãi suất cơ bản đã được trả về đúng với chức năng vốn có của nó. Đây là năm mà thị trường
chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ của lãi suất cơ bản. Từ ngày 1/2/2008 đến ngày 11/6/2008, lãi
suất cơ bản tăng từ 8,75% lên 14%/năm. Lãi suất cơ bản được NHNN điều chỉnh linh hoạt theo
các biến động của thị trường. Cơ chế cho vay/huy động dựa trên trần lãi suất của NHNN và lãi
suất thỏa thuận đều bị hủy bỏ. Thay vào đó, lãi suất cho vay được áp theo quy định của Bộ luật
dân sự là không vượt quá 150% lãi suất cơ bản.
Cuộc chạy đua lãi suất huy động và cho vay của các NHTM
Lãi suất huy động và cho vay của các NHTM đua nhau tăng cao. Lãi suất huy động đạt đỉnh tại
mức 18,5%/năm kéo theo lãi suất cho vay điều chỉnh ở mức rất cao, có lúc đạt đỉnh tại mức
43%/năm. Lãi suất đầu vào và đầu ra liên tục được điều chỉnh theo hướng tăng cao.
Nguyên nhân của việc chạy đua lãi suất là do áp lực thanh khoản đang đè nặng lên các NHTM.
Tình hình kinh tế thế giới đã ảnh hưởng tiêu cực đến giá các mặt hàng trong nước dẫn đến lạm
phát tăng cao. Để kìm chế lạm phát, NHNN áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, rút lượng tiền ra
khỏi lưu thông bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%/năm, nâng lãi suất cơ bản từ
8.25% lên 8.75%/năm kể từ 01/02/2008, phát hành 20,300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, đồng thời
buộc Kho bạc rút 50.000 tỷ đồng từ các NHTM. Chính những động thái này đã gây ra tình trạng
thiếu vốn tại các NHTM. Áp lực thanh khoản đè nặng lên các NHTM. Tuy nhiên việc huy động
vốn của các Ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn, nguồn vốn huy động chủ yếu là các kỳ hạn
ngắn nhưng đầu ra cho vay chủ yếu là tài trợ cho các dứ án trung dài hạn. Bởi vậy, áp lực trong
cân đối nguồn vốn các kỳ hạn của các ngân hàng là không hề nhỏ. Để thu hút nguồn vốn các


ngân hàng đã tăng lãi suất để thu hút vốn. Như vậy, tình hình bất ổn của kinh tế thế giới và
những diễn biến phức tạp của thị trường tiền tệ trong nước đã tác động gây nên cuộc đua lãi
suất trong 06 tháng đầu năm 2008.
06 tháng cuối năm 2008: Thị trường chứng kiến một cuộc đảo ngược giảm lãi suất. Nếu như
trong 06 tháng đầu năm 2008, thị trường chứng kiến cuộc đua tăng lãi suất giữa các NHTM do

rủi ro thanh khoản tăng cao thì đến 06 tháng cuối năm 2008, áp lực thanh khoản đã giảm bớt,
các NHTM đang đứng trước bẫy thừa vốn do ảnh hưởng từ cuộc chạy đua lãi suất 06 tháng đầu
năm. Sau khi đã huy động được vốn để tránh rủi ro thanh khoản, lãi suất huy động tăng cao
khiến cho lãi suất cho vay cũng tăng cao theo. Bài toán giải phóng nguồn vốn đang được đặt ra
cho các NHTM. Lãi suất cho vay quá cao khiến các doanh nghiệp không thể tiếp cận vốn. Vì
vậy, để khai thông dòng vốn, các NHTM đã thực hiện hạ lãi suất, tuy nhiên mức độ giảm được
thực hiện chậm, biên độ hẹp để không ảnh hưởng đến lợi nhuận của mình do dòng vốn huy động
06 tháng đầu năm 2008 có chi phí rất cao.
Ngoài ra, tín hiệu tích cực từ lạm phát và chuyển biến kinh tế vĩ mô cũng là cơ sở để có được sự
điều chỉnh này. Lạm phát có chiều hướng giảm - Do dư nợ tăng thấp nên vốn khả dụng VND dư
thừa tương đối nhiều, cộng thêm tình hình kinh tế có dấu hiệu giảm phát, các NH đã liên tục hạ
LS tiền gửi VND. Từ 16,5%- 17,5%/năm giảm về từ 10,5%-14,5%/năm.
Bước sang năm 2009, lãi suất biến động ổn định hơn, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn nguy cơ cao.
Năm 2009 – Lãi suất ổn định nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ biến động cao
Tình hình kinh tế trong những tháng đầu năm 2009:
Do ảnh hưởng từ hậu quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu, năm 2009 đứng trước nhiều thách
thức, nhiều vấn đề kinh tế cần được giải quyết. Năm 2008, nhà nước Việt Nam đã thực hiện
thành công việc kiềm chế lạm phát, nhưng kéo theo đó là nguy cơ suy giảm kinh tế. Mục tiêu đặt
ra là phải kích cầu đầu tư và tiêu dùng, chống lại nguy cơ suy giảm kinh tế thông qua việc giúp
doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay với chi phí thấp. Tuy nhiên, mục tiêu chống suy giảm kinh
tế luôn đi liền với việc đề phòng nguy cơ tái lạm phát như trong năm 2008. Ngoài ra, những vấn
đề về tỷ giá hối đoái, thâm hụt ngân sách, áp lực dự trữ ngoại hối nhưng phải đặt trong lộ trình tự
do hóa tài chính, kinh tế thị trường cũng là những thách thức lớn đối với nền kinh tế trong năm
2009. Trước tình hình đó, Chính Phủ và NHNN đã có những chính sách linh hoạt, phản ứng kịp
thời trước những diễn biến phức tạp, khó lường của kinh tế trong nước và thế giới.
Diễn biến lãi suất trong năm 2009 có thể được chia thành 2 mốc chính: giai đoạn 10 tháng đầu
năm 2009 với việc NHNN giữ nguyên mức lãi suất cơ bản là 7%/năm sau đó lãi suất cơ bản
được điều chỉnh tăng lên 8%/năm. Trong các thời điểm khác nhau trong năm 2009, NHNN đã
linh hoạt điều chỉnh giảm và tăng các mức lãi suất chủ đạo, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái
chiết khấu tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm và tăng lãi suất huy động và cho vay phù

hợp mục tiêu điều tiết lượng vốn huy động và cho vay tín dụng theo hướng nới lỏng một cách
thận trọng.
Sau năm 2008 chứng kiến đầy biến động của lãi suất. Năm 2009, Lãi suất được giữ ổn định hơn
mặc dù vẫn tiềm ẩn nguy cơ biến động cao. Tháng 01/2009, lãi suất cơ bản được giảm xuống


còn 7%/năm và được giữ nguyên trong một thời gian dài. NHNN đã ban hành quyết định số
2024/QĐ-NHNN về việc quy định giữ mức lãi suất cơ bản ở mức 7%/năm.

Nguồn: Số liệu từ NHNN
Lãi suất cho vay tại các NHTM chỉ dao động từ 8%/năm đến 10,5%/năm. Lãi suất huy động tăng
nhẹ tại tất cả các kỳ hạn.
Lãi suất huy động – Lãi suất cho vay
Ngân hàng/Kỳ hạn Không Kỳ Hạn 1

2

3

VietinBank

2,4

6,5

6,7

BIDV

3


Vietcombank

6

9

12

18

24

36

7

7,9

8,1

8,3

7,8

8,6

6,85 7,3

7,4


7,56 7,68 8

8

8

3

6,96 7,2

7,4

7,68 7,8

8,04 8,04 8,16

TechcomBank

2,4

7,3

7,6

7,8

8,1

7,6


8,1

MaritimeBank

3

7,8

7,9

8

8,1

8,2

8,35 9

7,6

8,6

8,75
9,3

Nguồn: Tự tổng hợp
Từ tháng 5/2009, các NHTM đua nhau tăng lãi suất ở tất cả các kỳ hạn. Cuộc đua lãi suất huy
động này không chỉ diễn ra ở các NHTM mà các NHTM Nhà nước cũng đua nhau tăng lãi suất
cho thấy nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng mạnh. Ở khối NHTM Nhà nước, lãi suất huy động

VND không kỳ hạn phổ biến là 2,4-3%/năm, kỳ hạn 36 tháng có lãi suất huy động khoảng
8%/năm. Tại khối NHTM cổ phần, mức 3%/năm dành cho không kỳ hạn, kỳ hạn 36 tháng có lãi
suất huy động cao nhất là 9,3%/năm tại NH MaritimeBank. Lãi suất cơ bản theo quy định giai
đoạn này là 7%/năm. Như vậy, Lãi suất huy động VND đang tiến sát về mức trần cho vay.
Chênh lệch lãi suất giữa Lãi suất cho vay và huy động giữ ở mức 3%/năm.
Gói hỗ trợ lãi suất của Chính Phủ:
Ở thời điểm cuối tháng 6/2009, các khoản vay được hỗ trợ lãi suất chiếm đến 22% tổng các
khoản vay của toàn hệ thống, thế nhưng những lĩnh vực nhận được tiền phần lớn không thay đổi,
điều này cho thấy những khách hàng đã vay tiền đã tiếp tục được cấp vốn. Tính đến cuối tháng
6/2009, khoản vay dành cho lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp, mỗi lĩnh vực chiếm 26%,
thương mại chiếm 18%, xây dựng chiếm 13%. Tuy nhiên sự liên quan của các ngân hàng đến
lĩnh vực xây dựng và bất động sản sẽ tăng lên bởi những đảm bảo liên quan đến các dự án bất
động sản và bởi họ còn nắm giữ bất động sản làm đảm bảo. Xét đến đối tượng vay tiền, ở thời
điểm cuối tháng 6/2009, 15% là các doanh nghiệp nhà nước, 66% là doanh nghiệp tư nhân, 17%
là các hộ gia đình...Hiện tồn tại lo ngại rằng tiền hỗ trợ lãi suất đã chảy vào thị trường chứng
khoán và bất động sản, dù điều này không hề hợp pháp nếu xét theo các quy định của chương
trình hỗ trợ lãi suất. Nhóm đối tượng vay tiền cũng có thể lại gửi tiền đó vào ngân hàng với lãi
suất cao hơn để ăn chênh lệch.
Từ đầu tháng 12/2009 trước những biến chuyển mới của thị trường trong nước và thế giới,
NHNN đã chủ động và linh hoạt điều chỉnh lãi suất cơ bản lên mức 8%/năm sau 10 tháng liên


tiếp giữ ở mức 7%/năm. Như vậy, trần lãi suất kinh doanh tại các NHTM tối đa là 12%/năm.
Một loạt các lãi suất khác cũng được NHNN điều chỉnh tăng như: lãi suất tái chiết khấu của
NHNH đối với tổ chức tín dụng tăng từ 5%/năm lên mức 6%/năm. Với động thái này, NHNN
hướng đến mục đích kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng, tạo điều kiện cho các
NHTM huy động các nguồn vốn từ nền kinh tế.
Như vậy, trong năm 2009, lãi suất tại các NHTM có khuynh hướng tăng nhưng biên độ tăng
không mạnh mẽ và đột ngột như trong năm 2008. Chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất
cho vay giảm, Lãi suất huy động tiệm cận sát lãi suất cho vay. Điều này cho thấy áp lực về

nguồn vốn của các NHTM, đặc biệt là vào những tháng cuối năm. Trong những tháng cuối năm,
nhu cầu vốn tăng rõ rệt không những tại các NHTM mà còn tại các Ngân hàng vốn nhà nước dẫn
đến việc tăng lãi suất giữa các ngân hàng. Điều này là do nhu cầu vốn để thực hiện chính sách hỗ
trọ lãi suất, nhu cầu vốn đối với những hợp đồng tín dụng sắp đáo hạn.
Năm 2010 – kịch bản lặp lại: Lãi suất điều hành ổn định trong một thời gian dài và sau đó tăng
lên vào cuối năm nhằm kiếm chế lạm phát; lãi suất thị trường có xu hướng giảm vào giữa năm
và tăng cao trở lại những tháng cuối năm.
NHNN duy trì ổn định lãi suất cơ bản ở mức 8% trong suốt 10 tháng đầu năm. Trong năm có
những đợt biến động nhỏ nhưng đều được NHNN có những chính sách điều chỉnh kịp thời để
đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Lãi suất được điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối năm
trước sức ép của lạm phát. Lãi suất huy động tại các NHTM tăng từ 12%/năm – 17%, 18%/năm.
NHNN yêu cầu các NHTM giảm mặt bằng lãi suất huy động không vượt quá 14%/năm.
Trong năm 2010, NHNN đã ban hành lien tục rất nhiều Thông tư quy định về vấn đề lãi suất
như: Thông tư số 03/2010/TT-NHNN; Thông tư 07/2010/TT-NHNN; Thông tư 12/2010/TTNHNN nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường tiền tệ hoạt động linh hoạt, hiệu
qủa, tuân theo quy luật thị trường và có sự quản lý của nhà nước bằng việc cho phép TCTD được
thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận.
Diễn biến lãi suất điều hành năm 2010 của NHNN
Thời gian
Lãi suất cơ bản (%) Lãi suất tái cấp vốn (%)
1/1 – 4/11/2010 8
8

Lãi suất tái chiết khấu (%)
6

5/11 – 12/2010

7

9


9

Nguồn: NHNN
Đối với lãi suất huy động:
Trong 06 tháng đầu năm 2010, lãi suất huy động tăng nhẹ với biên độ hẹp và tương đối ổn định.
Lãi suất các kỳ hạn không có chênh lệch lớn. Đến khoảng tháng 10/2010, các NHTM có đợt điều
chỉnh giảm lãi suất sau đó trong 2 tháng cuối năm, thị trường lại chứng kiến cuộc chạy đua lãi
suất huy động dưới áp lực lạm phát.
Ngân hàng/Kỳ hạn
Không Kỳ Hạn 1
TechcomBank
03/2010

2,4

2

3

6

9

12

18

24


36

10,49 10,49 10,49 10,29 10,49 10,49 10,44 10,49 10,49


11.3
11.4 11.4 11.4 11.2 11.2
5

05/2010

2.4

11.1 11.2 11.4

07/2010

2.4

10.8

11/2010

2.4

11.9 11.9 11.9 11.9 11.9 11.9 11.9 11.9 11.9
5
5
5
5

5
5
5
5
5

12/2010

2.4

13.4 13.4 13.4 12.4 12.4 12.4 12.4 12.4 12.4
5
5
5
5
5
5
5
5
5

10.8
10.9 10.9 10.9 10.9 10.9 10.9
10.9
5
5
5
6
6
4

6

Qua bảng số liệu lãi suất của NHTMCP Techcombank, trong 6 tháng đầu năm lãi suất đã tăng
bình quân 0,03 – 0,07% cho tất cả các kỳ hạn (chưa kể đến các hình thức khuyến mại), sau đó lãi
suất bắt đầu giảm vào tháng 07/2010 ở tất cả các kỳ hạn. Tuy nhiên trong 2 tháng cuối năm, lãi
suất huy động đã bất ngờ tăng trở lại. Vào ngày 8/12/2010, Sự kiện 3 ngày vàng của
Techcombank diễn ra với mức lãi suất được nâng lên mức 17%/năm, cùng chính sách tặng ngay
500.000 đồng khi giới thiệu khách hàng gửi tiết kiệm mới từ 1 tỷ trở lên đã gây chấn động thị
trường.
Những biến động nửa đầu năm đẩy lãi suất huy động VND lên quanh 11%/năm. Việc lãi suất
huy động cao đã tác động đẩy mặt bằng lãi suất cho vay tăng cao trong điều kiện áp dụng cơ chế
lãi suất thỏa thuận. Điều này sẽ dẫn đến việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp gặp khó khăn,
tăng trưởng tín dụng tại các NHTM có xu hướng chững lại. Trước tình hình lãi suất có biến động
tăng, Chính phủ đã ban hành Nghị Quyết 23 ngày 7/5/2010 chỉ đạo NHNN có biện pháp phù hợp
để khẩn trương hạ lãi suất huy động xuống khoảng 10%, lãi suất cho vay khoảng 12% và điều
hành tỷ giá ở mức hợp lý, tăng tính thanh khoản cho nền kinh tế thông qua việc tăng tổng
phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Do đó, NHNN đã yêu cầu các NHTM đồng thuận
giảm lãi suất huy động vốn bằng VND để góp phần thực hiện hạ mặt bằng lãi suất của thị
trường theo Nghị quyết 23/NQ – CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp sản xuất trong nền kinh tế tiếp cận được với vốn. Do đó, thị trường đón nhận đợt điều
chỉnh giảm lãi suất đầu tiên vào khoản tháng 07/2010, được điều chỉnh ở mức 11%/năm, sau đó
là giao động tại mức 10,8%/năm. Khéo theo đó, lãi suất cho vay có xu hướng giảm dần, chủ yếu
là đối với các khoản vay phục vụ các ngành nghề ưu tiên như nông – lâm – ngư nghiệp, xuất
khẩu,...
Hai tháng cuối năm 2010, thị trường chứng kiến sự gia tăng của lãi suất, các NHTM liên tục điều
chỉnh tăng lãi suất. Tính đến cuối tháng 12/2010, lãi suất huy động tăng 1,96 – 3,39% cho các kỳ
hạn so với cuối năm 2009, tăng cao đặc biệt ở các kỳ hạn ngắn từ 1 tháng đến 3 tháng. Mặt bằng
lãi suất huy động mới được thiết lập ở mức 12%/năm, và tiếp tục có xu hướng gia tăng mạnh, có
thời điểm giao động xoay quay mức 17 – 18%/năm. Điều này khiến cho mặt bằng lãi suất cho
vay có xu hướng tăng cao. Nguyên nhân của việc chạy đua lãi suất này là do Nhu cầu vốn cho

đầu tư, sản xuất kinh doanh và tiêu dùng tiếp tục tăng cao trong bối cảnh phục hồi kinh tế; Chịu
sức ép từ chỉ số lạm phát do tác động trễ của các chính sách năm 2009 (trong năm 2010, chỉ số
giá tiêu dùng chỉ giữ được ổn định từ tháng 3 đến tháng 8; Sự cạnh tranh thiếu lành mạnh của
một vài các TCTD thông qua việc phá rào lãi suất, hàng loạt chính sách khuyến mãi kèm theo và


tâm lý, kỳ vọng của người dân. NHNN đã phải sử dụng các biện pháp hành chính, yêu cầu các
ngân hàng giảm mặt bằng lãi suất huy động, bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình
thức, sẽ không vượt quá 14%/năm.
Tóm lại, diễn biến của mặt bằng lãi suất huy động trong năm nổi lên một số điểm đáng chú ý
như sau:
Trong năm 2010, NHNN từng bước bỏ các quy định rằng buộc về các loại lãi suất của các
TCTD. Cụ thể là trong năm, NHNN đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN; Thông tư
07/2010/TT-NHNN; Thông tư 12/2010/TT-NHNN cho phép TCTD được thực hiện cho vay
bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. Tuy nhiên trong năm vừa qua, chính sách điều hành
cũng như chính sách lãi suất vẫn bị chi phối bởi chính sách kinh tế đa mục tiêu, chịu áp lực lớn
từ biện pháp kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Vì vậy, đã tạo ra những khó khăn nhất định trong
công tác điều hành ổn định mặt bằng lãi suất của NHNN, nổi bật là một số vấn đề sau: (1)Lãi
suất điều hành ổn định trong một thời gian dài và sau đó tăng lên vào cuối năm nhằm kiếm chế
lạm phát. (2)Lãi suất thị trường chịu áp lực tăng cao qua các tháng, đặc biệt các tháng cuối
năm. (3)Không còn sự khác biệt về mức lãi suất huy động giữa các kỳ hạn, thậm chí những
tháng cuối năm nghiêng hẳn về các kỳ hạn ngắn. (4)TCTD tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp
nhằm hợp lý hóa các chi phí phụ cho hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng thông qua
các chương trình khuyến mại, các loại phí...
Năm 2011 – lãi suất gắn chặt với lạm phát
Những biến động của thị trường trong những tháng cuối năm 2010 cho thấy nguy cơ lạm phát đã
tái diễn trở lại. Trong năm 2011, chính sách điều hành kinh tế của Chính Phủ đặt mục tiêu kiềm
chế lạm phát lên hàng đầu. Do đó, diễn biến lãi suất trong năm 2011 gắn chặt với diển biến của
lạm phát.
Bối cảnh kinh tế thế giới và tại Việt Nam: Năm 2011 là năm mà tình hình kinh tế thế giới chứng

kiến nhiều sự biến động phức tạp. Khủng hoảng nợ công tại Châu Âu và Mỹ ngày cảng trở nên
trầm trọng. Khối lượng nợ công khổng lồ của các chính phủ vượt quá khả năng chi trả của các
nước trên. Tính đến thời điểm 2010, nợ công của Mỹ lên đến 90,4% GDP, của khối Liên minh
châu Âu (EU) là 80,3%; Hy Lạp: 123% GDP; Ailen:142% GDP...Do tác động của cuộc khủng
hoảng nợ dưới chuẩn từ năm 2008-2009, để vực dậy nền kinh tế trong nước, các quốc gia đã dốc
ngân sách để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên việc nhận được những gói hỗ trợ dễ dãi
nhưng không có những chính sách kích thích đúng đắn, đúng chỗ đã dẫn đến việc các nước
không còn khả năng trả nợ khi đến hạn. Sức đề kháng của khu vực Châu Âu đang ngày càng cạn
kiệt khi thất nghiệp và thâm hụt ngân sách đang ở mức quá cao. Ngoài ra, Nhật Bản đang phải
đối phó với với những đợt sóng thần gây thiệt hại nặng nề về kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Trung Quốc đang chậm lại. Trong nước, lạm phát và lãi suất cao đã ảnh hưởng một cách toàn
diện lên nền kinh tế và đời sống người dân. Thị trường bất động sản, chứng khoán lao dốc; giá vàng nổi
sóng; sức ép tái cấu trúc nền kinh tế ngày càng lớn.

Biến động lãi suất trong năm 2011 có thể được chia thành 3 giai đoạn chính:


×