Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.19 KB, 26 trang )

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP
THỰC HIỆN TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI.
3.1. Bối cảnh kinh tế - tài chính ở trong và ngoài nước.
3.1.1.Bối cảnh trong nước.
Trước sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hoá và tự do hoá kinh tế thế giới và
xu hướng đổi mới không thể đảo ngược của nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế
KHHTT sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có thể tạm thời dự
đoán về bối cảnh kinh tế tài chính nước ta trong thời gian tới sẽ biến đổi theo một
số xu hướng mới. Đó là:
- Đổi mới cơ chế và thể chế kinh tế theo cơ chế thị trường vẫn được tiếp tục
diễn ra với tốc độ mạnh hơn, nhanh hơn và triệt để hơn. Mức độ và phạm vi thị
trường hoá các quan hệ kinh tế tài chính sẽ được mở rộng và phát triển ở mức độ
cao hơn. Khu vực kinh tế - tài chính công sẽ bị thu hẹp về quy mô và tỷ trọng
nhưng chất lượng và hiệu quả sẽ cao hơn. Khu vực kinh tế - tài chính tư nhân sẽ
phát triển mạnh, có quy mô và tỷ trọng tăng cao và sẽ chiếm vị trí quan trọng. Sự
can thiệp trực tiếp mang tính hình thức của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh
của các chủ thể kinh tế sẽ giảm dần và được thay đổi về cơ bản từ phương thức
quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp bằng các công cụ pháp luật, cơ chế, chính
sách vĩ mô. Sự độc lập và tự chủ của các đơn vị kinh tế được mở rộng. Nhiều tổ
chức nghề nghiệp hoạt động theo chế độ tự quản sẽ ra đời và phát triển, thay thế
cho các chức năng của một số cơ quan quản lý Nhà nước. Môi trường kinh tế tài
chính đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh sẽ trở nên bình đẳng, không có sự
phân biệt theo tính chất sở hữu và địa điểm ưu tiên.
- Hội nhập quốc tế về kinh tế sẽ diễn ra mạnh mẽ cả về bề rộng lẫn chiều sâu:
Cạnh tranh kinh tế - tài chính trên thị trường nội địa và quốc tế sẽ trở nên quyết liệt
hơn. Hệ quả là, các nguồn lực kinh tế sẽ được phân bổ và sử dụng có hiệu quả hơn
thông qua cơ chế thị trường nhưng sự khan hiếm và khó khăn về nguồn lực phân
tán, nhất là các nguồn vốn đối với nhiều chủ thể kinh tế, hoạt động không hiệu quả
sẽ là rất tất yếu và có thể dẫn đến bị phá sản. Sự giao lưu và thâm nhập của các
nguồn lực từ bên ngoài vào và từ trong nước chảy ra nước ngoài sẽ được tăng lên.


Công nghệ trong thanh toán và giao dịch sẽ có đổi mới nhanh hơn nhưng khoảng
cách chênh lệch so với các nước vẫn còn lớn. Loại hình và chất lượng của các dịch
vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng sẽ được đa dạng hoá hơn vì có chất lượng cao
hơn.
- Tài chính - tiền tệ trở thành công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu của Nhà nước,
đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Một mặt, tài chính -
tiền tệ sẽ trở thành công cụ sắc bén nhất để Nhà nước điều khiển sự phát triển kinh
tế, điều tiết phân bổ nguồn lực và thu nhập, là thước đo để đánh giá chất lượng và
hiệu quả tăng trưởng. Mặt khác, các công cụ về dịch vụ tài chính ngày một phong
phú hơn ở thị trường trong nước và quốc tế.
- Thu nhập và mức sống của đại đa số nhân dân ngày một tăng cao. Nhu cầu
tiết kiệm, tích luỹ và sử dụng các khoản tiền tiết kiệm ngày càng lớn và đa dạng
hơn. Các dịch vụ tài chính - tiền tệ ngày càng phát triển.
Có thể nói, trước các biến đổi lớn theo cơ chế thị trường trong các lĩnh vực
kinh tế - tài chính ở trong nước đang đòi hỏi phải giảm bớt sự kiểm soát tài chính,
nới lỏng dần các cơ chế, thể chế tài chính tiền tệ theo xu hướng tự do hoá với tốc
độ nhanh hơn, hiệu quả hơn.
3.1.2. Bối cảnh ngoài nước.
- Xu thế tự do hoá kinh tế - tài chính tuy trở thành một xu thế lớn, chi phối các
hoạt động chính trị, xã hội khác. Toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại, dịch vụ,
đầu tư diễn ra rất nhanh, nhất là sau năm 2010 và tiến tới cơ bản tự do hoá sau năm
2020. Tỷ trọng thương mại, dịch vụ của các nước đang phát triển trong tổng sản
phẩm của thế giới và tổng kim ngạch XNK thế giới tăng lên. Phần lớn các nước
chuyển đổi đã hội nhập với thế giới và tuân thủ các cam kết giữa kinh tế, thương
mại dịch vụ và đầu tư.
- Xu thế toàn cầu hoá gắn với phát huy nội lực ở các quốc gia, đổi mới cơ cấu
kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Tiết kiệm nội địa cho đầu tư phát triển kinh tế sẽ
được đề cao. Các nguồn vốn của ngoại kiều đầu tư vào trong nước sẽ được khuyến
khích mạnh và có quy mô ngày càng lớn. Cơ cấu kinh tế dựa trên nền tảng kỹ thuật
có công nghệ cao chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Cơ cấu dịch vụ trong GDP ngày

càng tăng, nhất là các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, tín thác đầu tư.
- Xu hướng sáp nhập các tập đoàn tài chính diễn ra mạnh hơn, cạnh tranh về
thu hút vốn chiếm lĩnh thị phần trên thị trường dịch vụ tài chính sẽ trở nên khốc liệt
hơn. Các công cụ tài chính điện tử hoá sẽ đa dạng hơn, các công cụ thanh toán
ngân hàng sẽ dần dần được thay thế. Di chuyển các nguồn vốn tài chính quốc tế sẽ
nhanh hơn và sự biến động của nó ngày càng trở nên khó dự đoán hơn.
- Sự phục hồi kinh tế của các nước khu vực sau khủng hoảng kèm theo nó là
sức cạnh tranh và tiềm lực tài chính của các định chế tài chính trung gian được
nâng cao. Mức độ tự do hoá tài chính ở các nước trong khu vực được mở rộng hơn
và cơ chế giám sát tài chính tiền tệ được kiện toàn, có tính thống nhất khu vực cao
hơn. Các đồng bản tệ ở khu vực có sức mạnh và uy tín cao hơn, phần lớn đã trở
thành các đồng tiền có khả năng chuyển đổi tự do trên các tài khoản vốn và tài
chính.
Nói tóm lại, các xu thế biến đổi về kinh tế - tài chính trong nước và ở bên
ngoài trên đây có tác động rất lớn đến quá trình đổi mới tài chính tiền tệ ở nước ta
và tự do hoá tài chính trong nước phù hợp với thể chế và luật lệ quốc tế không chỉ
là cần thiết mà còn là một xu thế khách quan trong tiến trình chuyển đổi nền kinh
tế Việt Nam theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, đó là một
quá trình tự do hoá chủ động, có sự kiểm soát của Nhà nước XHCN.
3.2. Một số quan điểm cơ bản về tự do hoá tài chính.
Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của việc tự do hoá tài chính trong
quá trình phát triển và hội nhập của đất nước, từ thực trạng đổi mới thể chế tài
chính tiền tệ trong nước theo cơ chế thị trường, việc hoạch định chiến lược về
chính sách tài chính tiền tệ trong giai đoạn tới theo hướng tự do hoá cần phải quán
triệt một số quan điểm cơ bản sau đây:
3.2.1. Tự do hoá tài chính phải tiến hành theo lộ trình, bước đi chủ động, thận
trọng và hiệu quả, góp phần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, phục vụ tích cực cho
sự phát triển kinh tế với tốc độ cao và vững chắc.
Trong thời gian tới, một trong những định hướng chiến lược phát triển kinh tế
xã hội của đất nước là phát triển kinh tế với tốc độ cao và vững chắc, coi đó là

nhiệm vụ trọng tâm để tạo cơ sở vật chất cho việc giải quyết các vấn đề phát triển
xã hội. Để phát triển kinh tế cần phải có môi trường tài chính tiền tệ ổn định, vì
mọi sự bất ổn định về tài chính tiền tệ đều có thể dẫn đến lạm phát, biến động giá
cả thị trường và kết quả là, tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế. Do đó, tự do
hoá tài chính phải được tiến hành một cách chủ động, có lộ trình và bước đi thận
trọng, vừa phù hợp với năng lực và sức cạnh tranh của các tổ chức tài chính - tiền
tệ trong nước, và đáp ứng yêu cầu thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế với
nước ngoài, đảm bảo môi trường kinh tế bình đẳng ổn định, bình đẳng đối với tất
cả các thành phần kinh tế, giữa trong nước với nước ngoài phục vụ cho mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội.
3.2.2. Tự do hoá tài chính phải được coi là phương tiện, là khâu đột phá và
được tiến hành trước một bước trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phục
vụ cho sự hội nhập và phát triển của đất nước.
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi có một môi trường đảm bảo cho các chủ thể có
quyền tự do kinh doanh, không có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước và cũng đòi
hỏi một mức giá cả được quyết định bởi các yêú tố cung - cầu, không lệ thuộc vào
các quyết định hành chính. Do đó, cần phải coi quá trình đổi mới tài chính tiền tệ là
quá trình hướng tới thực hiện quản lý nền tài chính tiền tệ quốc gia theo cơ chế thị
trường, tôn trọng các yếu tố thị trường trong quá trình thiết lập và phát triển các
quan hệ tài chính trong nền kinh tế. Song hội nhập cũng là một quá trình phát triển
của nền kinh tế thị trường, do đó, để hội nhập có hiệu quả cần coi tự do hoá là một
phương tiện để hoàn chỉnh cơ chế thị trường trong nước, tạo cơ sở vững chắc để
hội nhập với thị trường nước ngoài. Thực tế cho thấy, nếu thị trường trong nước
còn bị kiềm chế, thiếu sức mạnh thì vẫn không thể tiếp nhận được những cơ hội
thuận lợi, được chuyển giao từ thị trường bên ngoài, vừa có thể làm cho chính bản
thân thị trường trong nước bị bóp méo hoặc hoạt động lệch pha. Vì thế, để hội
nhập với thị trường tài chính quốc tế, trước hết cần phải cải cách thị trường tài
chính trong nước theo hướng tự do hoá, phù hợp với luật lệ quốc tế nhằm tạo dựng
cho được một hệ thống tài chính đủ mạnh để hấp thụ ngoại lực và cạnh tranh chiến
thắng ở cả trong nước và ngoài nước.

3.2.3. Tự do hoá tài chính phải nằm trong sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của
Nhà nước bằng pháp luật và thông qua một hệ thống hành lang an toàn, nhằm bảo
đảm an ninh tài chính tiền tệ quốc gia.
Nói đến cơ chế thị trường tự do, chỉ là sự tự do một cách tương đối, không
phải là không có giới hạn, mà là một sự tự do trong một khuôn khổ luật pháp do
Nhà nước quy định. Do đó, cơ chế thị trường tự do là đề cao, tôn trọng các yếu tố
cung - cầu, nhưng vẫn có sự điều tiết của Nhà nước với mục đích đảm bảo cho các
thể chế tài chính hoạt động tự do nhưng hướng tới đảm bảo một môi trường cạnh
tranh lành mạnh, ổn định, không gây các cú sốc lớn trên thị trường, ảnh hưởng đến
sự phát triển. Tuy nhiên, tự do hoá sẽ chứa đựng nhiều rủi ro, gây mất an toàn, do
đó, cần phải có một hệ thống hành lang an toàn để cảnh báo, ngăn chặn và đối phó
kịp thời với nhiều tình huống bất lợi, có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Vì thế, để bảo đảm an ninh tài chính quốc gia trong tiến trình tự do hoá tài chính
cần phải tăng cường chính sách kinh tế vĩ mô, tăng cường tính công khai và minh
bạch và phải có một hành lang an toàn để thực hiện cảnh báo và phát hiện kịp thời
mọi tình huống bất lợi.
3.3. Định hướng giải pháp chính sách tự do hoá tài chính ở Việt Nam
trong các năm tới.
Xuất phát từ chỗ coi quá trình chuyển đổi nước ta đang được thực hiện theo
hai hướng cơ bản: chuyển đổi sang cơ chế thị trường và chuyển đổi phù hợp với xu
hướng hội nhập vào khu vực và quốc tế. Trong đó, tự do hoá tài chính là một xu
hướng lớn, chi phối hoạt động của cả 2 quá trình nói trên. Dưới đây tập trung vào
một số định hướng chính sách tự do hoá tài chính, đặc biệt nhấn mạnh đến tự do
hoá khu vực dịch vụ tài chính là một trong những trọng điểm của chiến lược tài
chính đến 2010.
3.3.1. Định hướng tự do hoá lãi suất.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng, nói đến tự do hoá lãi suất là chủ yếu đề cập đến
tự do hoá lãi suất ngân hàng (lãi suất vay và cho vay). Nếu quan niệm như vậy thì
mới chỉ hiểu ở góc độ hẹp, mà cần phải hiểu tự do hoá lãi suất ở góc độ rộng hơn,
tức nói đến tự do hoá tất cả hoặc tất cả lãi suất trên thị trường tài chính (lãi suất

trên thị trường tín dụng, lãi suất trên thị trường chứng khoán, lãi suất trên thị
trường dịch vụ tài chính, bảo hiểm, kiểm toán).
- Về định hướng tự do hoá lãi suất ngân hàng: Đây là mục tiêu rất quan trọng
nhằm thiết lập cơ chế lãi suất phù hợp với cơ chế thị trường và tạo điều kiện cho
NHNN thực hiện chính sách điều tiết lãi suất trên cơ sở sử dụng lãi suất tái chiết
khấu. Cho đến nay, nước ta đã chính thức đưa vào thực hiện lãi suất thỏa thuận, cơ
chế lãi suất của thị trường.Tuy nhiên, để thực hiện thành công bước chuyển đổi cơ
chế này, chúng ta cần phải thực hiện các giải pháp theo hướng NHNN tiếp tục chủ
động thực hiện các biện pháp để tránh và giảm thiểu biến động theo hướng bất lợi
của lãi suất thị trường, cụ thể là:
Thứ nhất: Làm tốt việc giải thích, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin
đại chúng để người dân và các tổ chức kinh tế hiểu rõ sự cần thiết và tác dụng của
việc tổ chức tín dụng cho vay theo lãi suất thoả thuận.
Thứ hai: Yêu cầu các tổ chức tín dụng tiếp tục đơn giản hoá thủ tục, mở rộng
cho vay để người sản xuất và tổ chức kinh tế, nhất là ở khu vực nông thôn thấy
được lợi ích của việc áp dụng lãi suất cho vay thoả thuận là họ được vay vốn thuận
lợi hơn.
Thứ ba: chủ động dự báo chiều hướng biến đổi của lãi suất thị trường biến
động phù hợp để định hướng lãi suất thị trường biến động phù hợp với mục tiêu
kinh tế vĩ mô.
Thứ tư: Củng cố các thiết chế thị trường tiền tệ để có quy mô đủ lớn, phản
ánh đúng tình hình cung cầu vốn thị trường, để NHNN có thông tin kịp thời đối với
thị trường tiền tệ.
- Về định hướng tự do hoá lãi suất (giá cả trong giao dịch và mua bán chứng
khoán): Trong quan hệ mua, bán chứng khoán có rất nhiều loại giá cả dưới các
dạng phí, lệ phí, chênh lệch giá mua và giá bán chứng khoán. Ở đây, vai trò khống
chế của Nhà nước về các loại lãi suất khác nhau là rất quan trọng. Ví dụ, cần phải
giới hạn mức phí bảo lãnh, môi giới mua bán chứng khoán để khống chế mức chi
phí của người phát hành và của người mua và bán chứng khoán với mức thấp nhất
để khuyến khích thị trường phát triển. Hoặc trong giao dịch mua, bán chứng khoán

cũng cần phải khống chế mức chênh lệch giá mua vào, bán ra để loại trừ các biến
động lớn và tránh gây giả tạo trên thị trường, đặc biệt là hiện tượg "bong bóng" thị
trường.
Từ lập luận trên, có thể thực hiện tự do hoá lãi suất trên thị trường chứng
khoán với các bước đi như sau:
+ Giả sử thị trường chứng khoán Việt Nam được thành lập từ năm 2000, thì từ
năm 2000, cần áp dụng giới hạn phần trăm (%) trần các loại phí bảo lãnh, môi giới,
tư vấn đầu tư chứng khoán và mức chênh lệch giá mua và bán trong các hoạt động
kinh doanh chứng khoán để bảo vệ các công ty chứng khoán cạnh tranh lành mạnh
và tạo môi trường ổn định cho thị trường hoạt động, với các biến động lớn. Mức
giới hạn này nên áp dụng từ 5 đến 7 năm sau khi thị trường ra đời.
+ Sau 5 đến 7 năm hoạt động, thị trường đã có môi trường phát triển, các công
ty chứng khoán đã có nhiều kinh nghiệm cạnh tranh, các nhà đầu tư đã dần gắn với
các luật chơi của thị trường thì có thể áp dụng mức giới hạn nới lỏng hơn như: quy
định trần mức phí bảo lãnh, thực hiện mức hoa hồng môi giới theo giá thoả thuận
và quy định mức tối đa tư vấn đầu tư chứng khoán. Nhưng vẫn cần phải khống chế
chặt chẽ mức chênh lệch giá mua vào và giá bán ra để đảm bảo giá cả thị trường ổn
định, khống chế các hoạt động đầu cơ, mua, bán giả tạo trong khoảng 10 năm đầu
khi thị trường ra đời và phát triển.
+ Sau năm 2010, có thể thực hiện tự do hoá nhiều loại lãi suất trên thị trường
chứng khoán để tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty
chứng khoán trong nước vơí các công ty chứng khoán nước ngoài, từng bước thực
hiện hoà đồng lãi suất (giá cả) giữa các công ty kinh doanh chứng khoán, không
phân biệt các công ty trong nước hay nước ngoài.
- Về định hướng tự do hoá lãi suất trên thị trường dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ
kiểm toán: Hiện nay đang có dấu hiệu các doanh nghiệp bảo hiểm tra nước cạnh
tranh nhau không lành mạnh thông qua việc hạ mức phí và trả hoa hồng cao cho
các khách hàng của mình. Các công ty kiểm toán trong nước thì chỉ nhận hợp đồng
kiểm toán với mức phí thấp hơn nhiều các công ty kiểm toán nước ngoài. Điều này
làm cho các công ty kiểm toán trong nước khó có điều kiện nâng cao tiềm lực tài

chính.
+ Đối với việc tự do hoá lãi suất trên thị trường bảo hiểm cần chú ý đến một
số định hướng cơ bản: Thứ nhất là, tiếp tục áp dụng mức trần phí bảo hiểm và mức
trả hoa hống cho khách hàng như hiện nay đối với các doanh nghiệp baỏ hiểm
trong nước, nhằm tạo môi trường cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước cạnh
tranh nhau trên cơ sở nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng. Thứ hai,
không thực hiện hoà đồng lãi suất giữa doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp
bảo hiểm liên doanh và các công ty bảo hiểm 100 vốn nước ngoài, chỉ thực hiện
từng bước áp dụng mức phí bình đẳng sau 2010 để tạo điều kiện nâng cao khả
năng cạnh tranh và tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước;
Thứ ba, từng bước tự do hoá mức phí tái bảo hiểm bắt buộc 20% như hiện nay để
tiến tới sau năm 2010, thực hiện tự do hoá (xoá bỏ) tái bảo hiểm bắt buộc. Cũng
sau năm 2010 có thể tiến hành cổ phần hoá công ty tái bảo hiểm quốc gia để từng
bước nâng cao sức mạnh tài chính của công ty tái bảo hiểm, đáp ứng nhu cầu cạnh
tranh của thị trường, tạo điều kiện cho công ty này có thể tham gia thị trường tái
bảo hiểm khu vực ASEAN và quốc tế.
+ Đối với việc tự do hoá lãi suất trên thị trường kiểm toán, cần nâng mức phí
thuê hợp đồng kiểm toán của các doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam lên cao hơn so
với hiện nay và tiến tới áp dụng mức phí bình đẳng giữa các công ty kiểm toán
Việt Nam và công ty kiểm toán 100% vốn nước ngoài khi thực hiện kiểm toán các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
3.3.2.Định hướng tự do hoá hoạt động tín dụng.
Trong thời gian tới, việc lấy yếu tố thị trường là công cụ để điều tiết và phân
bổ các luống vốn tín dụng có ý nghĩa hết sức quan trọng, đảm bảo yêu cầu nâng
cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn tín dụng cho đầu tư phát triển kinh tế. Điều đó
có nghĩa là cần phải thị trường hoá tối đa các nguồn vốn tín dụng, vừa đảm bảo yêu
cầu nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn vừa đáp ứng nhu cầu quản lý vốn tín
dụng phù hợp với các cam kết và nguyên tắc hội nhập với khu vực và quốc tế, đó
là xoá bỏ các ưu đãi và bao cấp bất hợp lý đối với khu vực kinh tế quốc doanh.
Để đảm bảo các yêu cầu trên đây, hoạt động tín dụng cần phải được tự do hoá

theo một số hướng cơ bản sau đây:
+ Từng bước mở rộng và tiến tới xoá bỏ mọi cản trở đối với khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh trong việc tiếp cận vay vốn ngân hàng; triệt để xoá bỏ mọi sự
can thiệp của chính quyền vào hoạt động của các ngân hàng để yêu cầu các tổ chức
ngân hàng cho DNNN vay theo chỉ định. Thực hiện quyền tự quyết định lãi suất
huy động và cho vay của các ngân hàng theo cơ chế thị trường trên cơ sở tính toán
hiệu quả các dự án đầu tư và thời hạn vay vốn của dự án.
+ Từng bước giảm dần và tiến tới xoá bỏ việc cấp vốn tín dụng Nhà nước với
lãi suất ưu đãi tràn lan cho nhiều dự án đầu tư của khu vực Nhà nước. Thực hiện cơ
chế tín dụng Nhà nước hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển không phân biệt tính
chất sở hữu, đặc biệt là cho các dự án đầu tư phát triển SXKD, phục vụ cho xuất
khẩu. Phấn đấu nâng tổng vốn đầu tư của Nhà nước thông qua cơ chế tín dụng Nhà
nước từ 20-25% lên khoảng 60-70% vào 2010 và chuyển dần theo lãi suất thị
trường, hạn chế tối đa việc cấp và cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và sẽ có chính
sách hỗ trợ khác sau đầu tư hoặc miễn giảm thuế.
+ Đối với một số ngành như nông nghiệp, một số ngành công nghiệp mũi
nhọn có nhiều khó khăn để phát triển mạnh hoạt động xuất nhập khẩu cần phải tiếp
tục hỗ trợ tín dụng với lãi suất ưu đãi. Riêng các khoản tín dụng ưu đãi trước đây

×