Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THỰC TRẠNG VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.43 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
KHOA SAU ĐẠI HỌC
 

TIỂU LUẬN QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
ĐỀ TÀI:

HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
THỰC TRẠNG VÀ KHẢ NĂNG ỨNG
DỤNG TẠI VIỆT NAM
+ Nhóm thực hiện : Nhóm 1
1/ Trần Viết Lâm
2/ Nguyễn Chí Trung
3/ Nguyễn Tấn Trung
4/ Phạm Nguyên Anh
5/ Võ Thị Mỹ Hạnh
6/ Võ Nguyễn Huỳnh Nam
7/ Nguyễn Chí Thành
8/ Phan Kim Tuyến
+ Lớp
: TCDN NGÀY 1 – K20

TP HCM năm 2012

Nhóm 1 – Hoạt động mua bán nợ tại NHTM

Trang 1/13


MỤC LỤC


---oOo---

PHẦN I –

TỔNG QUAN VỀ MUA BÁN NỢ
1- Khái niệm về hoạt động mua bán nợ
2- Các lợi ích từ hoạt động mua bán nợ

Trang
3- 5

PHẦN II –

HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI CÁC NGÂN HÀNG

Trang
6- 7

THƯƠNG MẠI
1- Mua bán nợ và ngân hàng
2- Mua bán nợ và xuất khẩu
PHẦN III – THỰC TRẠNG VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TẠI VIỆT NAM
1- Sự cần thiết hình thành thị trường mua bán nợ
2- Cơ sở pháp lý của hoạt động mua bán nợ ở Việt Nam
3- Thực trạng và giải pháp
PHỤ LỤC THAM KHẢO

Nhóm 1 – Hoạt động mua bán nợ tại NHTM

Trang

8 - 12

Trang
13

Trang 2/13


PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ
1- KHÁI NIỆM HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ
Trong tiếng anh hoạt động mua bán nợ được gọi là ‘’factoring’’. Từ “factor” bắt nguồn
từ “factare” trong tiếng Latinh, có nghĩa là “thực hiện” hay “làm”. Công cụ tài chính này xuất
hiện từ thế kỷ 18 trước Công nguyên ở Babilonia dưới thời vua Hammurabi và là một phần của
những giao dịch mua bán vải vóc trên con đường tơ lụa năm xưa. Khái niệm mua bán nợ phát
triển liên tục và ngày nay đã trở nên quen thuộc trong kinh doanh, thương mại, tài chính ngân
hàng hay xuất nhập khẩu.
Theo Từ điển kinh tế (Dictionary of Economic – Christopher Pass & Bryan Lones),
“’Mua bán nợ là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một công ty tài chính chuyên nghiệp (công
ty mua nợ - factor firm) mua lại các khoản nợ của một công ty với số tiền ít hơn giá trị của
khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa tiền thu được của số nợ đã mua và giá
mua thực tế của món nợ đó. Lợi ích của công ty bán nợ là nhận được tiền ngay thay vì phải
chờ đến lúc con nợ trả nợ, hơn nữa lại tránh được những phiền toái và các chi phí trong việc
theo đuổi các con nợ chậm trả”.
Còn theo Từ điển thuật ngữ Ngân hàng – Hans Klaus thì “mua bán nợ là một loại
hình tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ. Một công ty chuyển toàn bộ hay một phần
khoản nợ cho một công ty tài chính chuyên nghiệp (công ty mua nợ, thông thường là một công
ty trực thuộc ngân hàng). Công ty này đảm nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi các khoản
phải thu để hưởng thủ tục phí và có lúc ứng trước các khoản nợ. Thông thường công ty mua
nợ phải chịu rủi ro mất khả năng thanh toán của món nợ”.

Tiến sĩ kinh tế Edward W. Reed và Edward K. Gill cho rằng: “Mua bán nợ là việc mua
lại các khoản nợ. Các công ty mua nợ mua các khoản nợ của khách hàng trên cơ sở không
truy đòi và tiến hành một số các dịch vụ khác ngoài việc ứng trước các khoản nợ. Công ty mua
nợ đánh giá mức tín dụng trong hiện tại và tương lai của khách hàng (người bán) và xác lập
các hạn mức tín dụng ứng trước. Các khách hàng được yêu cầu gửi trực tiếp cho công ty mua
nợ bản sao hoá đơn. Khoản ứng trước thường từ 80% - 90% trị giá hoá đơn. Khoản dự trữ
10% - 20% được công ty mua nợ giữ lại để phòng ngừa hàng trả lại, hàng giao thiếu, hoặc
các yêu cầu khác của người mua. Thường thường vào cuối tháng, công ty mua nợ tính toán
mức phí thu được trên số dư trên các khoản nợ chưa thu và cấp thêm vốn cho khách hàng”.
Qua các khái niệm về mua bán nợ trên đây, chúng ta có thể hiểu mua bán nợ là việc
chuyển nợ của người mua hàng (con nợ) từ người bán hay cung ứng dịch vụ (chủ nợ cũ) sang
công ty mua nợ (chủ nợ mới). Công ty mua nợ đảm bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro về không
trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ của người mua. Công ty mua nợ có thể trả trước thời hạn
toàn bộ hay một phần các khoản nợ của người mua cùng với một khoản hoa hồng tài trợ và phí
thu nợ. Mọi rủi ro không thu được đều do người tài trợ gánh chịu. Từ đó hình thành một quan
hệ tài chính liên quan tới ba bên gồm công ty mua nợ (ngân hàng, tổ chức tài chính), người bán
hàng hoá hay cung ứng dịch vụ và người mua hàng hoá hay nhận dịch vụ. Ngoài ra, nghiệp vụ

Nhóm 1 – Hoạt động mua bán nợ tại NHTM

Trang 3/13


mua bán nợ có thể "biến hoá" thành một số dịch vụ phụ như quản lý tài khoản phải thu của
khách hàng, cung cấp các thông tin kinh tế, tiền tệ, tín dụng và thương mại nhằm tăng thu và
giữ tốt mối quan hệ bạn hàng lâu dài.
2- CÁC LỢI ÍCH TỪ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ:
Sở dĩ nghiệp vụ mua bán nợ được nhiều công ty trên thế giới áp dụng bởi lẽ thông qua
nghiệp vụ này, hoạt động tài chính trong kinh doanh được đa dạng hơn do có nhiều sản phẩm
và dịch vụ hơn. Cụ thể với nghiệp vụ mua bán nợ, trên thị trường sẽ có nhiều loại hình dịch vụ

mới:
Tránh rủi ro tài chính
Một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng phá sản ở phần lớn các công ty
là việc bị chiếm dụng vốn do khách hàng không thanh toán các khoản nợ. Do đó, việc quản lý
rủi ro các khoản nợ không có khả năng thanh toán của khách hàng trong tín dụng thương mại
là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các công ty. Và rủi ro này công ty có thể tránh
được khi bán các khoản nợ của mình cho một công ty chuyên biệt chuyên mua các khoản nợ đó là các công ty mua nợ. Chính các công ty này với nghiệp vụ kinh doanh chuyên nghiệp của
mình có thể mua lại các khoản nợ, bù lại họ sẽ được hưởng lợi nhuận từ việc mua các khoản
nợ thấp hơn giá trị thực của các khoản nợ đó.
Trợ giúp quản lý tài chính
Với đặc thù là công ty tài chính chuyên biệt, các công ty mua bán nợ đã mang lại một
giải pháp toàn diện cho việc quản lý tài khoản vãng lai cho nhiều công ty khách hàng: một mặt,
đơn giản hoá hoạt động kế toán của công ty, mặt khác, bảo đảm thu nợ và xác định các khoản
thanh toán cho khách hàng. Ngoài ra, công ty mua nợ sẽ cung cấp những nhận định phân tích
một cách toàn diện cũng như xác định những bất thường, từ đó đưa ra khuyến cáo cho khách
hàng. Khi đó, công việc của công ty mua nợ là theo dõi các khoản kỳ hạn thanh toán, kiểm tra
các quy định thanh toán, nhắc nhở qua điện thoại, điện tín và cuối cùng là quản lý các khoản
nợ khó đòi. Với hệ thống kỹ thuật hiện đại, các công ty mua nợ sẽ thực hiện việc nhắc nhở các
khoản nợ qua các thư nhắc nhở tự động, hoặc hệ thống nhắc nhở tự động qua điện thoại. Nhờ
thế, công ty đã rút ngắn dần những khoản nợ chậm trả và tạo thói quen cho người mua hàng
thanh toán đúng hạn.
Tạo vốn trong kinh doanh
Điều này có nghĩa là công ty mua nợ sẽ trả tiền ngay tức thì khi chuyển quyền sở hữu
các hoá đơn. Những khoản tài trợ này là khoản không thể truy đòi. Bởi lẽ khoản tiền công ty
mua nợ chuyển cho khách hàng không phải là các khoản ứng trước đơn thuần mà là khoản bán
hết món nợ đó cho công ty mua nợ và khách hàng không phải hoàn lại cho công ty mua nợ nếu
người mua không có khả năng thanh toán. Thông qua hình thức này, nhiều công ty không
những giải phóng được các khoản nợ khó đòi mà còn có thêm nguốn vốn tái đầu tư cũng như
sử dụng vốn có hiệu quả hơn từ việc bán các hoá đơn.
Ngoài những lợi ích phong phú mà mua bán nợ đem lại, có rất, rất nhiều lý do để các

doanh nghiệp quan tâm đến dịch vụ này: tận dụng khả năng chuyên môn của các công ty mua
bán nợ để đem lại lợi ích cho mình, hay sẽ có nhiều sự lựa chọn phương pháp thanh toán sớm
hơn cho các nhà cung cấp hàng hoá (đặc biệt là trong xuất nhập khẩu, từ đó nhanh chóng có
nguồn vốn tái đầu tư để không bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh mới.

Nhóm 1 – Hoạt động mua bán nợ tại NHTM

Trang 4/13


Kể từ khi các công ty mua bán nợ có những đánh giá chuẩn xác về mức độ rủi ro tín
dụng, đồng thời sẵn sàng mua lại các khoản nợ với giá chiết khấu không cao (khoảng 10% đến
20% khoản nợ), rất nhiều công ty đã để mắt tới dịch vụ này. Không những vậy, có nhiều khách
hàng còn sẵn sàng trả phí để nhờ các công ty mua bán nợ điều tra và cung cấp thông tin nhằm
đảm bảo quản lý tín dụng một cách hiệu quả nhất, từ đó tăng vòng luân chuyển vốn cũng như
hạn chế rủi ro tài chính.

Nhóm 1 – Hoạt động mua bán nợ tại NHTM

Trang 5/13


PHẦN II
HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
Điều cốt lõi của nghiệp vụ mua bán nợ là tạo ra lòng tin về khả năng thanh toán nợ của
nhiều công ty cho vay, nhờ vậy, các công ty này sẽ yên tâm và tập trung vào công việc kinh
doanh của mình để đẩy mạnh doanh thu và lợi nhuận. Không quan tâm đến mọi diễn tiến xung
quanh (thậm chí cả trong trường hợp phá sản), với mua bán nợ, những khoản tiền mặt “nóng”
sẽ luôn sẵn sàng. Ngoài ra, mua bán nợ không chỉ là sự lựa chọn cho những khoản nợ khó đòi,

việc sử dụng dịch vụ này còn có thể đẩy nhanh những khoản thanh toán từ khách hàng mua
hàng trả chậm. Dịch vụ của các công ty mua bán nợ không giống nhau mà có thể có những
khác biệt về điều khoản, điều kiện mua bán nơ cũng như tỷ lệ chiết khấu tuỳ theo nhu cầu của
khách hàng, con số nợ nần, khả năng thu hồi nợ…
1- MUA BÁN NỢ VÀ CÁC NGÂN HÀNG
Nhiều ngân hàng đã vận dụng mua bán nợ như một trong những hoạt động kinh doanh
chính của mình. Với dịch vụ mua bán nợ, các ngân hàng lớn trên thế giới nhận thấy có thể mở
rộng mối liên hệ với khách hàng của họ trong một số ngành công nghiệp. Hơn nữa, họ có thể
tiến hành dịch vụ cho các ngân hàng đại lý có các khách hàng cần đến các dịch vụ mua bán nợ.
Hiện nay, có không ít các ngân hàng thương mại đang duy trì hình thức cho vay chi phí
sản xuất hàng hoá hoặc thu mua hàng và cho vay luân chuyển hàng hoá. Cho vay như thế đưa
đến việc doanh nghiệp sẽ ỷ lại vào vốn tín dụng của ngân hàng thương mại. Do vậy, việc cho
vay chi phí sản xuất và cho vay luân chuyển hàng hoá sẽ khiến ngân hàng thương mại chịu rủi
ro cùng doanh nghiệp: một khi hàng hoá không tiêu thụ được, khoản nợ sẽ rất khó thu hồi.
Trong khi đó, sử dụng dịch vụ mua bán nợ, các ngân hàng thương mại cung ứng vốn
cho doanh nghiệp tiếp tục chu kỳ sản xuất sau, nhưng ngân hàng thương mại ấy thu nợ bằng
tiền hàng hoá bán chịu của chu kỳ sản xuất trước nên mức độ rủi ro ít hơn. Nhờ vậy, dịch vụ
mua bán nợ còn giúp doanh nghiệp không lâm vào cảnh nợ nần dây dưa, khó đòi.
Bên cạnh việc các ngân hàng mở dịch vụ chiết khấu thương phiếu đối với hàng hoá tiêu
thụ thì dịch vụ mua bán nợ khiến việc cung ứng vốn tín dụng của ngân hàng thương mại cho
các công ty trên thị trường được đơn giản hơn và an toàn hơn. Đồng thời, việc này còn khuyến
khích doanh nghiệp sản xuất hoặc thu mua hàng hoá bằng vốn tự có của mình. Vốn tín dụng
của chi nhánh ngân hàng thương mại chỉ là vốn bổ sung khi doanh nghiệp bán hàng trả chậm.
2- MUA BÁN NỢ VÀ XUẤT KHẨU
Có một thực tế hiển nhiên là cuộc cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu đang ngày càng
trở nên khắc nghiệt và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu luôn phải tìm mọi cách để nâng cao
khả năng cạnh tranh của mình. Một trong những yếu tố để cạnh tranh giữa các nhà xuất khẩu là
điều kiện thanh toán. Nếu như một doanh nghiệp có thể xuất khẩu với phương thức thanh toán
ghi sổ nợ (open account), thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ ký thêm được nhiều hợp đồng. Tuy
nhiên, nếu xuất khẩu với hình thức này thì rủi ro thanh toán sẽ tăng lên. Vì vậy, doanh nghiệp


Nhóm 1 – Hoạt động mua bán nợ tại NHTM

Trang 6/13


chỉ dám chấp nhận phương thức này với những khách hàng uy tín, lâu năm của mình mà thôi.
Ngay cả khi được đảm bảo về rủi ro thanh toán, doanh nghiệp vẫn bị khách hàng chiếm dụng
vốn trong suốt thời gian chờ đợi. Thiếu luồng tiền mặt mà lại không thể dễ dàng tiếp cận với
vốn từ các nguồn truyền thống (như tín dụng ngân hàng), doanh nghiệp sẽ gặp không ít khó
khăn để duy trì sản xuất. Trong tình thế đó, mua bán nợ đã xuất hiện như một vị cứu tinh. Mua
bán nợ được đánh giá là một dịch vụ tài chính mới, chỉ với thủ tục rất đơn giản, có thể giúp
doanh nghiệp vừa xuất khẩu cho khách hàng theo điều kiện thanh toán ghi sổ, lại vừa thu được
tiền mặt ngay sau khi xuất hàng đi.
Với giới kinh doanh xuất nhập khẩu thì mua bán nợ được hiểu là dịch vụ mua bán các
khoản phải thu của khách hàng (purchase/sale of account receivables). Định nghĩa này xuất
phát từ thuật ngữ kế toán: khi xuất hàng bán cho khách hàng nhưng bên bán chưa nhận được
tiền hàng thì khoản tiền này được ghi vào tài khoản phải thu của khách hàng. Mua bán nợ là
dịch vụ mua các khoản tiền nằm trong tài khoản nói trên. Cơ chế của mua bán nợ trong xuất
nhập khẩu rất dễ hiểu. Nhà xuất khẩu ký hợp đồng dịch vụ với công ty mua bán nợ. Khi hàng
được giao đi cho khách hàng, nhà xuất khẩu gửi hoá đơn tới công ty mua bán nợ. Công ty mua
bán nợ sẽ ứng trước cho nhà xuất khẩu khoảng 80% giá trị của hoá đơn. Công ty mua bán nợ
sẽ thu tiền hàng từ nhà nhập khẩu. Sau khi thu được 100% tiền hàng, công ty mua bán nợ sẽ
thanh toán nốt 20% còn lại cho nhà xuất khẩu.
Với ý nghĩa là mua bán nợ nhằm bảo hiểm rủi ro thanh toán, chúng ta có hai loại mua
bán nợ: mua bán nợ truy đòi và mua bán nợ miễn truy đòi. Đối với mua bán nợ truy đòi, công
ty mua bán nợ có quyền đòi lại khoản tiền đã ứng trước cho nhà xuất khẩu nếu nhà nhập khẩu
không thanh toán. Với mua bán nợ miễn truy đòi, nếu nhà nhập khẩu mất khả năng chi trả,
công ty mua bán nợ có trách nhiệm thanh toán 100% giá trị hoá đơn cho nhà xuất khẩu.
Dịch vụ mua bán nợ trong xuất nhập khẩu đã được sử dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế

giới. Các nước trong khu vực cũng đã phát triển mua bán nợ như Trung quốc, Indonesia, Än
độ, Nhật bản, Malaysia, Hàn quốc, Singapore, Sri Lanka, Đài loan và Thái lan. Thật không
công bằng cho các nhà xuất khẩu Việt nam khi các đối thủ cạnh tranh của họ ở các nước khác
đang được hưỏng lợi thế từ dịch vụ này. Chỉ những năm gần đây, dịch vụ mua bán nợ mới bắt
đầu được đưa vào phục vụ các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam.
“Thương trường như chiến trường”, để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc
liệt hiện nay, các doanh nghiệp ngoài nỗ lực tự thân còn rất cần đến sự trợ giúp nhiều mặt của
các ngân hàng cũng như các công ty đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Điều
đó đòi hỏi các công ty tài chính phải nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và
đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho thanh toán thương mại. Nếu
không, các doanh nghiệp khó tránh khỏi nguy cơ thiếu vốn sản xuất, kinh doanh do vốn bị
chiếm dụng, các nhà xuất khẩu khó tránh khỏi rủi ro trong thanh toán, kéo theo gây tâm lý lo
lắng, bất ổn cho doanh nghiệp nói riêng, cũng như kìm hãm tốc độ phát triển của nền kinh tế
quốc dân nói chung.. Để đạt mục tiêu đó, các công ty tài chính không có con đường nào khác
là phải nhanh chóng áp dụng nhiều nghiệp vụ tài chính mới mà các công ty, tập đoàn trên thế
giới đã áp dụng thành công. Và nghiệp vụ mua bán nợ là một trong số đó.

Nhóm 1 – Hoạt động mua bán nợ tại NHTM

Trang 7/13


PHẦN III
THỰC TRẠNG VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TẠI VIỆT NAM
1-SỰ CẦN THIẾT ĐỂ HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ
Trong thời đại hiện nay, các sản phẩm, dịch vụ ngày càng đa dạng và không ngừng
được hoàn thiện, ngân hàng đang giữ vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên, do tính chất phức tạp và tiềm ẩn rủi ro của các hoạt động nghiệp vụ, ngân hàng là
một tổ chức dễ bị ‘’tổn thương’’, chấn động, gây nguy cơ đổ vỡ hàng loạt cho hệ thống, ảnh
hưởng đến nền kinh tế, thậm chí có thể gây nên những cuộc khủng hoảng trầm trọng. Một

trong những nguyên nhân quan trọng của sự suy yếu ngân hàng chính là tình trạng nợ xấu tồn
đọng quá cao, lại trong một thời gian dài, mà không được xử lý, khiến tình hình tài chính của
ngân hàng rơi vào khó khăn, nhiều ngân hàng mất khả năng thanh toán và đi đến chỗ phá sản.
Vì vậy, vấn đề nợ đọng đang được nhiều quốc gia quan tâm, đặc biệt là các nước có tỷ lệ nợ
đọng quá cao so với mức giới hạn an toàn. Trong số các biện pháp xử lý nợ đọng, thành lập
công ty quản lý so với mức giới hạn an toàn. Trong số các biện pháp xử lý nợ đọng, thành lập
công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) được coi là cách hiệu quả nhất, tiết kiệm chi phí
nhất, thời gian xử lý ngắn nhất.
Ở nước ta, trước yêu cầu cơ cấu lại ngân hàng, lành mạnh hóa tình hình tài chính nhằm
cũng cố và tăng cường sức mạnh cho hệ thống ngân hàng, công tác xử lý nợ tồn đọng của các
ngân hàng thương mại đang được gấp gấp rút triển khai. Công ty quản lý nợ và khai thác tài
sản cũng đang là một trong những chọn lựa cũa chính phủ để giải quyết vấn đề này. Để có thể
phát huy được tối đa các ưu điểm của phương thức này, công tác nghiên cứu, xem xét, đánh giá
kỹ lưỡng về mô hình tổ chức cũng như những hoạt động nghiệp vụ của công ty, từ đó xây
dựng, đưa ra mô hình phù hợp và có thể phát huy hiệu quả hoạt động cao nhất trong điều kiện
nước ta hiện nay là điều vô cùng cấp thiết, cần làm ngay
2- CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN
DỤNG Ở VIỆT NAM
2.1. Cơ sở pháp lý:
Hoạt động mua bán nợ ở Việt Nam hiện vẫn còn ở dạng tiềm năng, thị trường mua bán
nợ đã manh nha hình thành nhưng chưa thể nói là hoạt động theo cơ chế thị trường thực sự khi
vẫn còn thiếu khuôn khổ pháp lý, vốn và kinh nghiệm thực tế . Ở Việt Nam hiện nay hoạt động
mua bán nợ của các TCTD được quy định tại Quy chế mua, bán nợ của các TCTD kèm theo
Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Quy chế mới ban hành quy định hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng (kể cả
các tổ chức có nhiệm vụ thực hiện mua, bán nợ trực thuộc tổ chức tín dụng) được thành lập và
hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng, đối với các khoản nợ mà tổ chức tín dụng cho khách
hàng vay.
Theo đó, mua bán nợ đó là việc chuyển nhượng khoản nợ, do bên bán nợ chuyển giao
quyền chủ nợ của khoản nợ cho bên mua nợ và nhận thanh toán từ bên mua nợ. Khoản nợ

được mua, bán là khoản nợ được tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ

Nhóm 1 – Hoạt động mua bán nợ tại NHTM

Trang 8/13


chức tín dụng, tổ chức tín dụng nước ngoài cho khách hàng vay (kể cả khoản trả thay trong bảo
lãnh) hiện đang còn dư nợ hoặc đang được theo dõi ngoại bảng.
Bên bán nợ là các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín
dụng, tổ chức có nhiệm vụ thực hiện việc mua, bán nợ trực thuộc tổ chức tín dụng, tổ chức tín
dụng nước ngoài sở hữu khoản nợ và bên mua nợ là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước
ngoài có nhu cầu mua khoản nợ từ bên bán nợ, để trở thành chủ sở hữu mớicủa khoản nợ.
Các khoản nợ được mua, bán là các khoản nợ mà tổ chức tín dụng cho khách hàng vay
(kể cả khoản nợ cho vay đối với các tổ chức tín dụng khác) đang hạch toán nội bảng; Các
khoản nợ đã được tổ chức tín dụng xử lý bằng dự phòng rủi ro hoặc bằng nguồn khác hiện
đang được hạch toán theo dõi ngoại bảng. Một khoản nợ có thể được mua, bán một phần hay
toàn bộ do các bên mua, bán nợ thoả thuận. Đối với các khoản nợ đã có thoả thuận không được
mua, bán thì các bên không được thực hiện mua, bán các khoản nợ này.
Một khoản nợ có thể được bán một phần hoặc toàn bộ, bán cho nhiều bên mua nợ và có
thể được mua, bán nhiều lần. Trong quá trình thực hiện việc mua, bán nợ phải đảm bảo an toàn
hoạt động của tổ chức tín dụng, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc
tế. Trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc
tham gia có quy định khác với quy định tại Quy chế này, thì áp dụng các điều ước quốc tế đó;
Việc mua, bán nợ được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa bên mua nợ và bên bán nợ, và
phải đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia mua, bán nợ. Việc chuyển
giao khoản nợ được mua, bán được tiến hành đồng thời với việc chuyển giao các nghĩa vụ của
bên nợ và các bên có liên quan đến khoản nợ (kể cả các quyền gắn liền với các bảo đảm cho
khoản nợ) từ bên bán nợ sang bên mua nợ. Đối với việc mua, bán nợ có liên quan tới các tổ
chức, cá nhân nước ngoài và thanh toán bằng ngoại tệ, các bên mua, bán nợ phải chấp hành các

quy định của pháp luật hiện hành về quản lý ngoại hối và các quy định liên quan khác của pháp
luật Việt Nam.
Việc mua, bán nợ được tthực hiện theo một trong hai phương thức sau và do các bên
tham gia lựa chọn: (1) Phương thức mua, bán nợ thông qua đấu giá các khoản nợ thực hiện
theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản. (2)Phương thức mua, bán nợ thông qua đàm
phán trực tiếp giữa bên bán nợ và bên mua nợ hoặc thông qua môi giới.
Trong việc mua, bán này, giá mua, bán nợ là do các bên thoả thuận trực tiếp hoặc thông
qua bên môi giới. Riêng đối với các khoản nợ thuộc Nhóm 1 theo quy định hiện hành của
Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng, thì giá mua, bán nợ không được thấp hơn
giá trị khoản nợ được mua, bán. Đồng thời, giá mua bán nợ là giá mua cao nhất trong trường
hợp khoản nợ được bán theo phương thức đấu giá.
Ngoài ra, Quy chế này có các điều, khoản quy định cụ thể về hợp đồng; thẩm quyền ký
kết hợp đồng mua, bán nợ; đồng tiền giao dịch; chuyển giao quyền đối với các bảo đảm nợ;
quyền và nghĩa vụ của bên mua, bên bán nợ, của bên môi giới, của bên nợ và các bên bảo đảm
cho khoản nợ; Xử lý tranh chấp; Quản lý đối với các khoản nợ đã mua, bán; Xử lý tài chính,
hạch toán kế toán trong nghiệp vụ mua, bán nợ; Chế độ thông tin báo cáo.
2.2. Hạn chế của quy định về hoạt động mua bán nợ:
Nhóm 1 – Hoạt động mua bán nợ tại NHTM

Trang 9/13


Quy chế về hoạt động mua bán nợ vẫn chỉ giới hạn ở quy định mang tính quy trình đối
với hoạt động mua bán nợ mà thiếu đi những yêu cầu có tính bắt buộc bán nợ ở các TCTD nếu
nợ xấu vượt quá tỷ lệ nhất định hoặc kéo dài quá thời hạn cho phép mà không được xử lý, gây
lãng phí nguồn lực xã hội.
Chính việc thiếu những quy định như vậy cũng như trình tự thủ tục xử lý nợ xấu rất khó
khăn từ việc lập hồ sơ, khởi kiện đến khi thi hành án kéo dài, phức tạp đã làm cho những công
ty mua bán nợ chuyên nghiệp nản lòng khi tham gia thị trường.

Thứ hai, đó là sự thiếu minh bạch về xử lý nợ xấu. Các TCTD ở Việt Nam không chỉ
thiếu minh bạch về tỷ lệ nợ xấu mà hồ sơ pháp lý các khoản nợ xấu trong nhiều trường hợp
cũng không minh bạch và thiếu chặt chẽ khiến cho việc mua bán những khoản nợ này gặp rất
nhiều khó khăn và thậm chí là không thể mua bán.
Thứ ba, việc thiếu các tổ chức trung gian, các tổ chức định giá nợ xấu chuyên nghiệp đã
làm cho “khoảng cách” giữa người mua và người bán nợ rất khó được rút ngắn. Đối với người
mua, giá trị các khoản nợ xấu thường phải được chiết khấu với một tỷ lệ rất cao (trên 50%),
trong khi người bán định giá các khoản nợ này lên đến 60 - 70%, thậm chí gần 100% giá trị
khoản nợ. Nếu không có các tổ chức trung gian, tổ chức định giá chuyên nghiệp đưa ra mức
giá tham khảo hợp lý cũng như các điều kiện mua bán khác thì khoảng cách “mênh mông”
giữa bên mua và bên bán nợ xấu rất khó được rút ngắn để tiến tới thực hiện mua bán nợ.
Những khó khăn trên đã làm cho người bán chần chừ trong khi người mua chưa sẵn
sàng do những rủi ro về pháp lý cũng như không thống nhất được về giá. Đặc biệt, thị trường
mua bán nợ xấu hiện nay rất thiếu người mua nợ xấu chuyên nghiệp. Trên thị trường hiện có
Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) trực thuộc Bộ Tài chính và
khoảng 20 công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) trực thuộc các TCTD là có chức
năng mua bán nợ. Tuy nhiên, nếu như phạm vi DATC chủ yếu là mua bán nợ tại các doanh
nghiệp nhà nước và hầu hết theo sự chỉ định của chính phủ để xử lý thì các AMC cũng giới
hạn tiếp nhận và xử lý nợ xấu cho các ngân hàng mẹ. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp
này hầu như không tham gia mua bán nợ trên thị trường và do đó các khoản nợ xấu về bản chất
chỉ chạy lòng vòng trong các TCTD hoặc các doanh nghiệp nhà nước chứ không thực sự được
đưa ra thị trường.
Nói cách khác, các khoản nợ xấu hầu như chỉ được xử lý “nội bộ” nên hình thức xử lý
đơn thuần là thanh lý tài sản để thu hồi nợ với thời gian xử lý kéo dài hơn so với việc chuyển
giao nợ xấu cho các công ty mua bán nợ chuyên nghiệp. Đồng thời điều này sẽ làm cho các
nhà đầu tư mạo hiểm không tiếp cận được các khoản đầu tư từ mua lại nợ xấu, sau đó áp dụng
các biện pháp xử lý tiên tiến, hiệu quả như chuyển nợ thành vốn góp, tái cơ cấu doanh nghiệp..
tại các doanh nghiệp có nợ xấu nhưng cũng có tiềm năng phát triển.
Với những nguyên nhân trên cộng với năng lực tài chính nhân sự, cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện tại của các thành viên thị trường chưa đủ để giải quyết lượng nợ xấu tăng mạnh lên

hơn 85 nghìn tỉ đồng, tương đương 3.39% của tổng dự nợ hiện nay
3- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ Ở VIỆT NAM
3.1. Thị trường mua bán nợ xấu: Chỉ là tiềm năng
Với tổng giá trị nợ xấu trên thị trường rất lớn, từ 85.000 tỉ đồng (theo công bố của Ngân

Nhóm 1 – Hoạt động mua bán nợ tại NHTM

Trang 10/13


hàng Nhà nước) và có thể lên đến 300.000 tỉ đồng (theo ước tính của Fitch Rating), đây chính
là điều kiện cần cho thị trường mua bán nợ xấu phát triển ở Việt Nam.
Hoạt động mua bán nợ xấu nói chung có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của
hệ thống ngân hàng và tổng thể nền kinh tế. Mua bán nợ xấu sẽ nhanh chóng làm giảm tỷ lệ nợ
xấu của ngân hàng, cải thiện thanh khoản, qua đó góp phần củng cố sự an toàn đối với từng tổ
chức tín dụng (TCTD) cũng như toàn hệ thống. Đồng thời, mua bán nợ xấu cũng chuyển các
khoản nợ này đến các nhà xử lý nợ xấu chuyên nghiệp, các nhà đầu tư mạo hiểm, tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp có nợ xấu có cơ hội phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh hay ít nhất
giúp các tài sản nằm ở những khoản nợ xấu nhanh chóng được giải phóng và đưa vào sử dụng
từ đó giúp cải thiện hiệu quả nền kinh tế.
Ngày 17/12/2011, theo con số do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố, dư nợ hệ
thống ngân hàng vào khoảng 2,5 triệu tỉ đồng, trong đó nợ xấu chiếm 3,39% (tức khoảng
85.000 tỷ đồng) tăng mạnh so với mức 2,19 % của năm 2010. Riêng nợ nhóm 5 (nợ có khả
năng mất vốn) lên đến 50%. Con số công bố là vậy nhưng mới đây ông Trần Minh Tuấn, Phó
Thống đốc NHNN thừa nhận, con số này chưa phản ánh đúng thực chất rủi ro tín dụng của các
ngân hàng do tiêu chuẩn phân loại nợ hiện nay còn bất cập và các tổ chức tín dụng thường
không phân loại đúng theo quy định.
Trong khi đó, nếu phân loại nợ theo chuẩn mực quốc tế, Fitch Rating cho rằng tỷ lệ nợ
xấu của các ngân hàng Việt Nam là 13% tổng dư nợ. Đây là tỷ lệ rất cao, vượt xa so với
ngưỡng an toàn 5%.

Với tổng giá trị nợ xấu trên thị trường rất lớn, từ 85.000 tỉ đồng (theo công bố từ
NHNN) và có thể lên đến 300.000 tỉ đồng (theo ước tính của Fitch Rating), đây chính là điều
kiện cần cho thị trường mua bán nợ xấu phát triển ở Việt Nam.
3.2. Vì sao tiềm năng chưa thành cơ hội?
Mặc dù tiềm năng như vậy nhưng để biến tiềm năng thành cơ hội thực sự cho thị trường
mua bán nợ xấu phát triển lại là vấn đề không dễ dàng. Điều này thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, khuôn khổ pháp lý và trình tự thủ tục mua bán và xử lý nợ xấu chưa hoàn
thiện. Hiện nay, các hoạt động mua bán nợ chủ yếu chịu sự điều chỉnh của Quyết định
59/2006/QĐ-NHNN về quy chế mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, Quy chế này
vẫn chỉ giới hạn ở quy định mang tính quy trình đối với hoạt động mua bán nợ mà thiếu đi
những yêu cầu có tính bắt buộc bán nợ ở các TCTD nếu nợ xấu vượt quá tỷ lệ nhất định hoặc
kéo dài quá thời hạn cho phép mà không được xử lý, gây lãng phí nguồn lực xã hội.
Chính việc thiếu những quy định như vậy cũng như trình tự thủ tục xử lý nợ xấu rất khó
khăn từ việc lập hồ sơ, khởi kiện đến khi thi hành án kéo dài, phức tạp đã làm cho những công
ty mua bán nợ chuyên nghiệp nản lòng khi tham gia thị trường.
Thứ hai, đó là sự thiếu minh bạch về xử lý nợ xấu. Các TCTD ở Việt Nam không chỉ
thiếu minh bạch về tỷ lệ nợ xấu mà hồ sơ pháp lý các khoản nợ xấu trong nhiều trường hợp
cũng không minh bạch và thiếu chặt chẽ khiến cho việc mua bán những khoản nợ này gặp rất
nhiều khó khăn và thậm chí là không thể mua bán.
Thứ ba, việc thiếu các tổ chức trung gian, các tổ chức định giá nợ xấu chuyên nghiệp đã
làm cho “khoảng cách” giữa người mua và người bán nợ rất khó được rút ngắn. Đối với người
mua, giá trị các khoản nợ xấu thường phải được chiết khấu với một tỷ lệ rất cao (trên 50%),
Nhóm 1 – Hoạt động mua bán nợ tại NHTM

Trang 11/13


trong khi người bán định giá các khoản nợ này lên đến 60 - 70%, thậm chí gần 100% giá trị
khoản nợ. Nếu không có các tổ chức trung gian, tổ chức định giá chuyên nghiệp đưa ra mức
giá tham khảo hợp lý cũng như các điều kiện mua bán khác thì khoảng cách “mênh mông”

giữa bên mua và bên bán nợ xấu rất khó được rút ngắn để tiến tới thực hiện mua bán nợ.
Những khó khăn trên đã làm cho người bán chần chừ trong khi người mua chưa sẵn
sàng do những rủi ro về pháp lý cũng như không thống nhất được về giá. Đặc biệt, thị trường
mua bán nợ xấu hiện nay rất thiếu người mua nợ xấu chuyên nghiệp. Trên thị trường hiện có
Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) trực thuộc Bộ Tài chính và
khoảng 20 công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) trực thuộc các TCTD là có chức
năng mua bán nợ. Tuy nhiên, nếu như phạm vi DATC chủ yếu là mua bán nợ tại các doanh
nghiệp nhà nước và hầu hết theo sự chỉ định của chính phủ để xử lý thì các AMC cũng giới
hạn tiếp nhận và xử lý nợ xấu cho các ngân hàng mẹ. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp
này hầu như không tham gia mua bán nợ trên thị trường và do đó các khoản nợ xấu về bản chất
chỉ chạy lòng vòng trong các TCTD hoặc các doanh nghiệp nhà nước chứ không thực sự được
đưa ra thị trường.
Nói cách khác, các khoản nợ xấu hầu như chỉ được xử lý “nội bộ” nên hình thức xử lý
đơn thuần là thanh lý tài sản để thu hồi nợ với thời gian xử lý kéo dài hơn so với việc chuyển
giao nợ xấu cho các công ty mua bán nợ chuyên nghiệp. Đồng thời điều này sẽ làm cho các
nhà đầu tư mạo hiểm không tiếp cận được các khoản đầu tư từ mua lại nợ xấu, sau đó áp dụng
các biện pháp xử lý tiên tiến, hiệu quả như chuyển nợ thành vốn góp, tái cơ cấu doanh nghiệp..
tại các doanh nghiệp có nợ xấu nhưng cũng có tiềm năng phát triển.
3.3. Đâu là giải pháp?
Để thúc đẩy thị trường mua bán nợ xấu phát triển, thiết nghĩ cơ quan quản lý nên thực
hiện các biện pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp lý về mua bán, xử lý nợ xấu đồng thời buộc các
TCTD phải nhanh chóng áp dụng các tiêu chuẩn phân loại nợ phù hợp với chuẩn mực quốc tế
và công khai minh bạch nợ xấu nhằm tạo nguồn cung dồi dào cho thị trường. Bên cạnh đó, cần
phải quy định rõ những trường hợp TCTD phải bán nợ xấu (theo thỏa thuận hoặc qua đấu giá)
nhằm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng và giải tỏa tài sản đang nằm chết tại các khoản nợ
xấu này.
Thứ hai, ban hành các chính sách ưu đãi nhằm kêu gọi đầu tư vào các công ty mua bán
nợ chuyên nghiệp, đặc biệt là đầu tư từ nước ngoài nhằm tận dụng năng lực, phương pháp xử
lý nợ tiên tiến cũng như tiềm lực tài chính từ các nhà đầu tư này. Qua đó, giúp hình thành các

nhà tạo lập thị trường trên thị trường mua bán nợ để thúc đẩy thị trường phát triển.

Nhóm 1 – Hoạt động mua bán nợ tại NHTM

Trang 12/13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
01

Giáo trình Quản Trị Ngân Hàng, Trần Huy Hoàng, NXB Thống kê – 2012

02

Thời báo Kinh Tế Sài Gòn số 02 -2012 ngày 5 – 1 - 2012

03

Các website tham khảo

www.thesaigontimes.vn


05

Một số tiểu luận môn học Quản Trị Ngân Hàng về hoạt động mua bán nợ tại NHTM
của các Khóa 19 / Khóa 18 / Khóa 17 – ĐHKT Tp Hồ Chí Minh

Nhóm 1 – Hoạt động mua bán nợ tại NHTM


Trang 13/13



×