Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Nghiên Cứu Khả Năng Sinh Trưởng, Phát Triển Và Năng Suất Của Một Số Giống Ngô Lai Mới Tại Huyện Vị Xuyên, Tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.21 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN THỊ QUYÊN

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN
VÀ NĂNG SUẤT CỦA MỘT SỐ GIỐNG NGÔ LAI MỚI
TẠI HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG
Chuyên ngành : Khoa học cây trồng
Mã số : 60 62 01 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Trung Kiên

Thái Nguyên, năm 2013


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bầy
trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu khoa học nào.
Các thông tin trích dẫn, tài liệu tham khảo sử dụng để hoàn thành luận
văn được chỉ rõ nguồn gốc./.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Quyên



ii

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian thực tập tốt nghiệp đến khi hoàn thành luận văn
thạc sĩ khoa học nông nghiệp, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ, quan tâm và
hướng dẫn tận tình về phương pháp nghiên cứu thí nghiệm cũng như hoàn thiện
luận văn của thầy giáo TS. Trần Trung Kiên; sự hợp tác giúp đỡ rất nhiệt tình
của Trung tâm Giống cây trồng Đạo Đức, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
Để luận văn này được hoàn thành, tôi xin trân trọng cảm ơn:
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo Phòng Quản lý đào tạo sau
đại học, Khoa Nông học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tạo điều
kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tiến sĩ Trần Trung Kiên – Phòng Quản lý đào tạo sau đại học, Trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tâm theo dõi, chỉ bảo và hướng dẫn
tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, cán bộ Trung tâm Giống
cây trồng Đạo Đức – Huyện Vị Xuyên – Hà Giang đã giúp đỡ nhiệt tình tôi
trong quá trình thực hiện và đánh giá hiệu quả mô hình trình diễn giống ngô
mới có triển vọng.
Và cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, đồng nghiệp và
bạn bè, những người luôn quan tâm, sát cánh bên tôi trong suốt thời gian học
tập và nghiên cứu vừa qua.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên……tháng…….năm 2013
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Quyên



iii

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Đặt vấn đề.................................................................................................. 1
2. Mục tiêu của đề tài .................................................................................... 2
3. Yêu cầu của đề tài ..................................................................................... 2
4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ..................................... 3
4.1. Ý nghĩa khoa học ................................................................................... 3
4.2. Ý nghĩa thực tiễn.................................................................................... 3
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU............................................................ 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài ...................................................................... 4
1.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và ở Việt Nam.............................. 5
1.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới ............................................... 5
1.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam................................................ 8
1.2.3. Tình hình sản xuất ngô vùng Đông Bắc........................................ 11
1.2.4. Tình hình sản xuất ngô của tỉnh Hà Giang ................................... 13
1.2.5. Tình hình sản xuất ngô của huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang....... 15
1.3. Tình hình nghiên cứu về giống ngô lai trên thế giới và ở Việt Nam... 16
1.3.1. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống ngô trên thế giới................ 16
1.3.2. Tình hình nghiên cứu về giống ngô lai ở Việt Nam ..................... 24
Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................ 37
2.1. Vật liệu nghiên cứu .............................................................................. 37
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ........................................................ 39
2.3. Nội dung nghiên cứu............................................................................ 40
2.4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................... 40
2.4.1. Thí nghiệm so sánh giống ............................................................. 40
2.4.2. Xây dựng mô hình trình diễn ........................................................ 46
2.4.3. Phương pháp xử lý số liệu............................................................. 46



iv

Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ................................................... 47
3.1. Khả năng sinh trưởng và phát triển của các giống ngô thí nghiệm vụ
Thu Đông 2012 và vụ Xuân 2013 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang ..... 47
3.1.1. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các giống ngô vụ Thu
Đông 2012 và vụ Xuân 2013 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang..... 47
3.1.2. Đặc điểm hình thái của các giống ngô thí nghiệm vụ Thu Đông
2012 và vụ Xuân 2013 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang............... 50
3.1.3. Khả năng chống chịu của các giống ngô lai thí nghiệm vụ Thu
Đông 2012 và vụ Xuân 2013 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang..... 57
3.1.4. Trạng thái cây, trạng thái bắp và độ che kín bắp của các giống ngô
vụ Thu Đông 2012 và vụ Xuân 2013 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà
Giang ................................................................................................... 61
3.1.5. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống ngô
tham gia thí nghiệm vụ Thu Đông 2012 và vụ Xuân 2013 tại huyện
Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang .................................................................... 63
3.2. Kết quả mô hình trình diễn .................................................................. 70
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................................... 73
1. Kết luận ................................................................................................... 73
2. Đề nghị .................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 75


v

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CD bắp


: Chiều dài bắp

CIMMYT

: Trung tâm cải tạo ngô và lúa mỳ quốc tế

CSDTL

: Chỉ số diện tích lá

CV%

: Hệ số biến động

ĐK bắp

: Đường kính bắp

Đ/c

: Đối chứng

FAO

: Tổ chức nông nghiệp và lương thực Liên Hiệp Quốc

IPRI

: Viện nghiên cứu chương trình lương thực thế giới


KL1000

: Khối lượng 1000 hạt

LAI

: Chỉ số diện tích lá

LSD.05

: Sự sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa ở mức 0,05

LSLT

: Năng suất lý thuyết

NSTK

: Năng suất thống kê

NSTT

: Năng suất thực thu

OPV

: Giống ngô thụ phấn tự do

P


: Xác suất

PTNT
TGST
THL

: Phát triển nông thôn
: Thời gian sinh trưởng
: Tổ hợp lai

TPTD

: Thụ phấn tự do

TT cây

: Trạng thái cây

ƯTL

: Ưu thế lai

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới


vi


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Sản xuất ngô thế giới giai đoạn 1961 - 2012.................................... 6
Bảng 1.2. Sản xuất ngô của một số nước trên thế giới năm 2012 .................... 7
Bảng 1.3. Sản xuất ngô Việt Nam giai đoạn năm 1975 - 2012 ...................... 10
Bảng 1.5. Sản xuất ngô của tỉnh Hà Giang giai đoạn 2001 - 2012................. 14
Bảng 1.6. Sản xuất ngô của huyện Vị Xuyên giai đoạn 2001 - 2012 ............. 15
Bảng 3.1. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các giống ngô vụ Thu
Đông 2012 và vụ Xuân 2013 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang .. 48
Bảng 3.2. Chiều cao cây và chiều cao đóng bắp của các giống vụ Thu
Đông 2012 và vụ Xuân 2013 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang . 51
Bảng 3.3. Số lá trên cây và chỉ số diện tích lá của các giống ngô vụ Thu
Đông 2012 và vụ Xuân 2013 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang .. 54
Bảng 3.4. Tỷ lệ nhiễm sâu bệnh của các giống ngô vụ Thu Đông 2012 và
vụ Xuân 2013 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang .......................... 60
Bảng 3.5. Tỷ lệ đổ rễ, gãy thân của các giống ngô thí nghiệm vụ Thu Đông
2012 và vụ Xuân 2013 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang ............ 60
Bảng 3.6. Trạng thái cây, trạng thái bắp và độ che kín bắp của các giống
ngô tham gia thí nghiệm vụ Thu Đông 2012 và vụ Xuân 2013 tại
huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang....................................................... 62
Bảng 3.7. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống ngô
trong vụ Thu Đông 2012 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang........ 66
Bảng 3.8. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống ngô thí
nghiệm trong vụ Xuân 2013 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang......... 67
Bảng 3.9. Năng suất lý thuyết và năng suất thực thu của các giống ngô thí
nghiệm vụ Thu Đông 2012 và vụ Xuân 2013 tại Hà Giang............. 68
Bảng 3.10. Giống, địa điểm và quy mô mô hình trình diễn giống ngô triển
vọng vụ Xuân 2013 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang ................ 70
Bảng 3.11. Thời gian sinh trưởng và năng suất của giống ngô LVN092 vụ
Xuân 2013 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang ............................... 71



vii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Chiều cao cây, chiều cao đóng bắp của các giống ngô thí
nghiệm vụ Thu Đông 2012 tại Vị Xuyên - Hà Giang..................53
Biểu đồ 3.2 Chiều cao cây, chiều cao đóng bắp của các giống ngô thí
nghiệm vụ Xuân 2013 tại Vị Xuyên - Hà Giang .........................53
Biểu đồ 3.3. Số lá trên cây của các giống ngô thí nghiệm vụ Thu Đông
2012 và vụ Xuân 2013 .................................................................55
Biểu đồ 3.4. Năng suất thực thu của các giống ngô thí nghiệm vụ Thu
Đông 2012 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang .........................69
Biểu đồ 3.5. Năng suất thực thu của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân
2013 tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang ....................................69


1

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cây ngô (Zea mays L.) được trồng ở khắp nơi trên thế giới, là một trong
những cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế. Sản lượng ngô được sử dụng
làm lương thực chiếm 17%, 66% được sử dụng làm thức ăn cho chăn nuôi, làm
nguyên liệu cho ngành công nghiệp chiếm 5% và cho lĩnh vực xuất khẩu chiếm
trên 10% (Ngô Hữu Tình, 2009)[20]. Ở Việt Nam, ngô là một cây lương thực
phổ biến khắp cả nước, nhiều nhất là ở miền núi. Ngô là nguồn thực phẩm có giá
trị dinh dưỡng cao. Những bộ phận trên cây ngô có tác dụng rất lớn trong nhiều
lĩnh vực. Hạt ngô ăn trộn với gạo, dùng nấu rượu, làm tương; thân lá tươi làm
thức ăn cho gia súc...
Dân số thế giới ngày càng tăng nhanh, trong khi đó diện tích đất canh tác
ngày càng thu hẹp do sa mạc hóa và xu thế đô thị hóa. Nền nông nghiệp thế

giới ngày nay luôn phải trả lời làm thế nào để giải quyết đủ năng lượng cho 8
tỷ người vào năm 2021 và 16 tỷ người vào năm 2030. Nhu cầu ngô của thế
giới được dự báo sẽ là 852 triệu tấn vào năm 2020 (IPRI, 2003) [36], tăng 45%
so với năm 1997, riêng Đông Nam Á nhu cầu tăng 70% so với năm 1997
(CIMMYT, IITA 2010) [31] và sẽ là 1 tỷ tấn vào năm 2020. Để giải quyết
được câu hỏi này, ngoài biện pháp phát triển nền nông nghiệp nói chung thì
phải nhanh chóng chọn ra những giống cây trồng trong đó có các giống ngô
năng suất cao, ổn định có khả năng chống chịu tốt với điều kiện khí hậu ngày
càng biến đổi phức tạp.
Ngành sản xuất ngô nước ta thực sự có những bước tiến nhảy vọt là từ đầu
những năm 1990 đến nay, gắn liền với việc mở rộng giống lai và cải thiện các
biện pháp kỹ thuật canh tác. Năm 1991, diện tích trồng giống lai chưa đến 1%
trên hơn 400 nghìn ha trồng ngô, năm 2012 giống lai đã chiếm khoảng 95%
trong số hơn 1 triệu ha. Diện tích 1.118,2 nghìn ha, năng suất 42,95 tạ/ha, sản
lượng 4,8 triệu tấn (Tổng cục thống kê, 2013)[23]. Tuy nhiên, năng suất ngô
của nước ta vẫn thấp hơn trung bình thế giới, năm 2012 đạt 86,9% (42,95/49,44


2

tạ/ha) và bằng 55,5% so với Mỹ (77,4 tạ/ha) (FAOSTAT, 2013)[32]. Nhu cầu
ngô ở nước ta trong thời gian tới là rất lớn. Theo chiến lược của Bộ Nông
nghiệp & PTNT đến năm 2020 sản lượng ngô của Việt Nam cần đạt 8 - 9
triệu tấn/năm để đảm bảo cung cấp đầy đủ cho nhu cầu sử dụng trong nước và
từng bước tham gia xuất khẩu.
Ở tỉnh Hà Giang, ngô là cây lương thực chính chỉ đứng sau cây lúa. Năm
2012, diện tích ngô là 52,5 nghìn ha, năng suất đạt 32,1 tạ/ha, sản lượng 168,7
nghìn tấn. Với diện tích trồng ngô lớn nhất vùng Đông Bắc nhưng năng suất ngô
của tỉnh bằng 74,7% so với trung bình cả nước (Tổng cục thống kê, 2013) [23].
Nguyên nhân chủ yếu là sản xuất ngô chủ yếu nhờ nước trời, chỉ có một phần

nhỏ diện tích ở vùng thấp là có tưới. Vì vậy, giải pháp tối ưu cho việc nâng
cao năng suất và sản lượng ngô ở vùng này là sử dụng các giống ngô lai chịu
hạn và áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới. Do đó, cần phải chọn tạo được
những giống ngô cho năng suất cao, có khả năng chống chịu tốt, phù hợp với
điều kiện sinh thái của từng vùng. Để tìm ra được những giống ngô ưu việt
nhất đưa vào sản xuất đại trà, cần tiến hành quá trình nghiên cứu, đánh giá,
loại bỏ những giống không phù hợp, giúp cho quá trình đánh giá và chọn tạo
giống đạt hiệu quả cao nhất.
Xuất phát từ cơ sở khoa học và thực tiễn trên chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của
một số giống ngô lai mới tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang”.
2. Mục tiêu của đề tài
Chọn được giống ngô lai phù hợp với điều kiện sinh thái của tỉnh Hà
Giang để đưa vào cơ cấu cây trồng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất ngô.
3. Yêu cầu của đề tài
- Theo dõi khả năng của sinh trưởng, phát triển của các giống ngô lai mới.
- Theo dõi đặc điểm hình thái của một số giống ngô lai mới.
- Theo dõi khả năng chống chịu của một số giống ngô lai mới.
- Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của một số giống
ngô lai mới.
- Xây dựng mô hình trình diễn giống ngô lai triển vọng.


3
4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
4.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho công tác chọn giống ngô lai vùng
Trung du và miền núi phía Bắc.
- Bổ sung thêm dữ liệu khoa học về các giống ngô lai phù hợp với điều
kiện sinh thái vùng Đông Bắc.

4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đề tài lựa chọn được 1 giống ngô lai có khả năng sinh trưởng phát triển
tốt, chống chịu tốt, cho năng suất cao và ổn định, thích nghi với điều kiện tỉnh
Hà Giang, góp phần mở rộng diện tích các giống ngô mới làm tăng hiệu quả
sản xuất.
- Đề tài góp phần chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, tăng năng suất và
hiệu quả sản xuất ngô, khai thác tiềm năng đất đai, góp phần xoá đói giảm
nghèo, tăng thu nhập cho các hộ nông dân vùng miền núi.


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Trong sản xuất nông nghiệp, giống có vai trò rất quan trọng góp phần
nâng cao năng suất và sản lượng cây trồng. Khả năng thích ứng của giống với
các điều kiện sinh thái rất khác nhau. Vì vậy, muốn phát huy hiệu quả tối đa
của giống, cần tiến hành nghiên cứu và đánh giá khả năng thích ứng cũng như
tiềm năng năng suất của các giống mới trước khi đưa ra sản xuất đại trà, từ đó
tìm ra những giống thích hợp nhất đối với từng vùng sinh thái.
Ngày nay sản xuất ngô muốn phát triển theo hướng hàng hoá với sản
lượng cao, quy mô lớn nhằm phục vụ nhu cầu thị trường, cần phải có các biện
pháp hữu hiệu như thay thế các giống cũ, năng suất thấp bằng các giống mới
năng suất cao, chống chịu tốt. Đặc biệt là ở các tỉnh Trung du và miền núi
phía Bắc, sử dụng giống có khả năng chống chịu tốt, cho năng suất cao sẽ góp
phần phát huy hiệu quả kinh tế của giống, đồng thời góp phần xoá đói giảm
nghèo cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong công tác chọn tạo giống cây
trồng nói chung và cây ngô nói riêng, việc tạo ra những dòng, giống có khả
năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất thuận là cần thiết. Sau khi chọn

tạo ra bất kỳ một dòng, giống mới nào thì công việc khảo nghiệm và đánh giá
các đặc tính nông sinh học của các giống mới đó được xem là một khâu quan
trọng trước khi đưa vào sản xuất đại trà. Việc đánh giá biểu hiện của một số
giống thường bắt đầu từ việc đánh giá các đặc tính sinh học, đánh giá sự sinh
trưởng, phát triển, tiềm năng năng suất, khả năng chống chịu sâu bệnh và các
điều kiện bất lợi, phân tích mối tương quan giữa một số chỉ tiêu đến năng suất
cây trồng.
Trong những năm gần đây, việc chọn tạo và đưa vào thử nghiệm vào sản
xuất những giống ngô lai mới có năng suất cao, ổn định và thích nghi với
những vùng sinh thái khác nhau là vấn đề rất quan trọng góp phần đưa nhanh
các giống ngô tốt vào sản xuất đại trà nhằm nâng cao năng suất, sản lượng ngô.


5
Để tăng năng suất cũng như sản lượng đáp ứng nhu cầu trong nước,
trong những năm qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xét công
nhận được nhiều giống ngô lai mới, các giống này đã phát huy hiệu quả tốt
trên đồng ruộng.
Ở Việt Nam, chương trình nghiên cứu và phát triển ngô lai được bắt
đầu chậm hơn so với các nước trên thế giới và khu vực nhưng tốc độ phát
triển rất nhanh. Các cơ quan nghiên cứu và sản xuất giống ngô đã đáp ứng
được yêu cầu về giống ở các vùng trồng ngô Việt Nam với bộ giống ngô lai
rất phong phú. Tuy nhiên mỗi giống ngô chỉ thích nghi với điều kiện sinh
thái nhất định, giống mới sẽ đạt năng suất cao hơn nếu được trồng trong điều
kiện thích hợp. Vì vậy các giống mới trước khi mở rộng sản xuất cần đánh giá
khả năng sinh trưởng, phát triển khả năng thích nghi của giống với điều kiện
sinh thái của vùng.
Đề tài nghiên cứu một số giống ngô lai mới tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà
Giang nhằm đánh giá một cách khách quan, kịp thời, có cơ sở khoa học về
tính khác biệt, độ đồng đều, tính ổn định, khả năng thích ứng, khả năng sinh

trưởng phát triển, khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất
thuận cũng như tiềm năng cho năng suất của các giống ngô lai.
1.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới
Ngô là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, mặc dù chỉ
đứng thứ ba về diện tích sau lúa nước và lúa mì, nhưng ngô lại dẫn đầu về
năng suất và sản lượng, là cây trồng có tốc độ tăng trưởng về năng suất cao
nhất trong các cây lương thực chủ yếu.
Ngô còn là cây điển hình được ứng dụng nhiều thành tựu khoa học về
các lĩnh vực di truyền học, chọn giống, công nghệ sinh học, cơ giới hoá, điện
khí hoá và tin học... vào công tác nghiên cứu và sản xuất (Ngô Hữu Tình,
1997) [21]. Do vậy diện tích, năng suất ngô liên tục tăng trong những năm
gần đây.


6

Bảng 1.1. Sản xuất ngô thế giới giai đoạn 1961 - 2012

1961

Diện tích
(triệu ha)
105,48

Năng suất
(tạ/ha)
19,4

Sản lượng

(triệu tấn)
205.00

2004

147,47

49,48

729,21

2005

147,44

48,42

713,91

2006

148,61

47,53

706,31

2007

158,61


49,69

788,11

2008

161,01

51,09

822,71

2009

155,7

51,9

809,02

2010

161,91

52,15

844,41

2011


171,78

51,54

885,29

2012

176,99

49,44

875,10

Năm

Nguồn: FAOSTAT, 2013[32]
Qua bảng số liệu trên cho thấy, năm 1961, năng suất ngô trung bình của
thế giới chỉ đạt sấp xỉ 20 tạ/ha nhưng đến năm 2004 năng suất ngô trên thế
giới đã đạt 49,48 tạ/ha. Năm 2010, diện tích trồng ngô gieo trồng với 161,91
triệu ha, năng suất đạt 52,15 tạ/ha và sản lượng đạt 844,41 triệu tấn. Năm
2012 diện tích ngô là 176,99 triệu ha, tuy tăng so với năm 2010 nhưng năng
suất lại giảm còn 49,44 tạ/ha. Trong khi đó, diện tích trồng lúa nước năm
1961 là 115, 3triệu ha, năng suất 19 tạ /ha, sản lượng 215,3 triệu tấn. Năm
2012, diện tích 163,15 triệu ha, năng suất đạt 44,29 tạ/ha, sản lượng đạt
722,56 triệu tấn. Diện tích trồng lúa mỳ năm 1961 đạt 200,9 triệu ha, năng
suất đạt 11tạ/ha, sản lượng thu được 219,22 triệu tấn. Năm 2012, diện tích
216,64 triệu ha, năng suất 31,15 tạ/ha, sản lượng đạt 674,88 triệu tấn
(FAOSTAT, 2012)[32]. Như vậy, trong những năm qua, lúa nước, lúa mỳ và

ngô vẫn là những cây trồng chủ lực trong sản xuất nông nghiệp thế giới, mặc
dù diện tích trồng ngô của thế giới năm 2012 có thấp hơn so với lúa mỳ
nhưng năng suất và sản lượng ngô vẫn đứng đầu trong những cây lương thực
chủ yếu trên thế giới.


7
Có được kết quả trên, trước hết là nhờ ứng dụng rộng rãi lý thuyết ưu thế
lai trong chọn tạo giống, đồng thời không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ
thuật canh tác. Đặc biệt, từ năm 1996 đến nay, cùng với những thành tựu mới
trong chọn tạo giống ngô lai nhờ kết hợp phương pháp truyền thống với công
nghệ sinh học thì việc ứng dụng công nghệ cao trong canh tác cây ngô đã góp
phần đưa sản lượng ngô thế giới vượt lên trên lúa mì và lúa nước.
Hiện nay, tình hình sản xuất ngô của một số nước trên thế giới cũng đã
có nhiều thay đổi, thể hiện cụ thể qua bảng 1.2.
Bảng 1.2. Sản xuất ngô của một số nước trên thế giới năm 2012

Mỹ

Diện tích
(triệu ha)
35,36

Năng suất
(tạ/ha)
77,44

Sản lượng
(nghìn tấn)
273,83


Trung Quốc

34,97

59,55

208,26

Braxin

14,23

50,12

71,30

Mexicô

6,92

31,87

22,07

Ấn Độ

8,40

25,07


21,06

Ý

0,98

83,58

8,20

Đức

0,51

97,86

5,00

Hy Lạp

0,175

114,29

2,00

Ixaren

0,033


255,56

0,85

Nước

Nguồn: FAOSTAT, 2013[32]
Phần lớn các nước phát triển năng suất ngô tăng không đáng kể nhưng
năng suất ngô ở Mỹ lại tăng đột biến. Kết quả đó có được là nhờ ứng dụng
công nghệ sinh học trong sản xuất (Minh-Tang Chang and Peter, 2005)[37]
cho biết, ở Mỹ chỉ còn sử dụng 48% giống ngô được chọn tạo theo công nghệ
truyền thống, 52% bằng công nghệ sinh học. Do vậy mà năng suất, sản lượng
ngô của Mỹ đạt cao nhất, sau đó đến Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ,....


8
Theo FAO, việc sản xuất và tiêu thụ ngô trên thế giới đang có sự mất cân
đối giữa cung và cầu dẫn đến tình trạng các nước nhập khẩu ngô tăng dần, các
nước xuất khẩu ngô giảm dần từ nay đến những năm đầu thế kỷ XXI. Xuất
khẩu ngô đã đem lại nguồn lợi lớn cho các nước lớn sản xuất ngô như Mỹ,
Trung Quốc, Achentina, Hungari,… (Ngô Hữu Tình, 2003)[19].
Trung Quốc được xem là cường quốc đứng thứ hai trên thế giới, sau Mỹ,
và đứng thứ nhất trong khu vực châu Á trong lĩnh vực sản xuất ngô lai với tốc
độ tăng trưởng ngày càng tăng. Hiện nay, Mỹ và Trung Quốc là hai quốc gia
có diện tích trồng ngô lớn nhất và cao gấp nhiều lần so với các quốc gia khác
trên thế giới. Các nước khác như Ý, Đức, Hy Lạp, Ix-ra-en,.... mặc dù năng
suất ngô cao nhưng sản lượng vẫn còn thấp do diện tích trồng ngô chưa được
mở rộng.
Viện nghiên cứu Chương trình Lương thực thế giới (IPRI) dự báo tổng

nhu cầu sử dụng ngô trên thế giới vào năm 2020 là 852 triệu tấn, trong đó
15% dùng làm lương thực, 69% dùng làm thức ăn chăn nuôi, 16% dùng làm
nguyên liệu cho công nghiệp. Ở các nước phát triển chỉ dùng 5% ngô làm
lương thực nhưng ở các nước đang phát triển tỷ lệ này là 22% (IPRI,
2003)[36].
Trong thời kỳ hội nhập nền kinh tế thế giới hiện nay, ngô, lúa mỳ, lúa
nước là những cây thực phẩm vẫn chiếm vị trí quan trọng nhất trong lĩnh vực
cung cấp lương thực, thực phẩm nuôi sống toàn nhân loại. Vì vậy, chọn các
giống ngô năng suất cao và các biện pháp kỹ thuật canh tác là một trong
những giải pháp của nhân loại về vấn đề lương thực.
1.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam
Ở nước ta, ngô là cây trồng nhập nội được đưa vào Việt Nam khoảng
300 năm và đã trở thành một trong những cây trồng quan trọng trong hệ thống
cây lương thực quốc gia (Ngô Hữu Tình và cs, 1997)[21]. Cây ngô đã khẳng
định vị trí trong sản xuất nông nghiệp và trở thành cây lương thực quan trọng
đứng thứ hai sau cây lúa đồng thời là cây màu số một, góp phần đáng kể trong
việc giải quyết lương thực tại chỗ cho người dân Việt Nam, nhờ những đặc


9
tính sinh học ưu việt như khả năng thích ứng rộng, chịu thâm canh, đứng đầu
về năng suất, trồng được ở nhiều vùng sinh thái và ở các vụ khác nhau trong
năm, từ đó diện tích trồng ngô nhanh chóng được mở rộng ra khắp cả nước,
đặc biệt là các vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Trong hơn mười năm trở
lại đây, những thành công trong công tác nghiên cứu và sử dụng các giống
ngô lai được coi là cuộc cách mạng thực sự trong ngành sản xuất ngô ở Việt
Nam. Những thành tựu nghiên cứu về cây ngô đã thay đổi sâu sắc tập quán
trồng ngô ở Việt Nam và đã có những đóng góp nhất định cho mục tiêu phát
triển cây ngô ở nước ta.
Nếu như năm 1991, diện tích trồng ngô lai ở nước ta chỉ đạt 1% tổng

diện tích trồng ngô, nhưng đến năm 2010, giống ngô lai đã chiếm khoảng
95% trong tổng số hơn 1 triệu ha trồng ngô. Trong đó giống được cung cấp do
các cơ quan nghiên cứu trong nước chọn tạo và sản xuất chiếm khoảng 50 55%, còn lại là của các công ty hạt giống ngô lai hàng đầu thế giới. Một số giống
ngô lai được dùng chủ yếu ở vùng núi hiện nay như LVN99, LVN4, LVN61,
DK888, DK999, B9698, NK54, NK4300, NK66, NK67, VN8960...
Năng suất ngô nước ta tăng nhanh liên tục với tốc độ cao hơn trung bình
thế giới trong suốt hơn 20 năm qua. Năm 1980, năng suất ngô nước ta chỉ
bằng 34% so với trung bình thế giới, năm 1990 bằng 42%, năm 2000 bằng
59,8%, năm 2005 bằng 74,4% và năm 2012 đạt 86,9%. Năm 1990, sản lượng
ngô vượt ngưỡng 1 triệu tấn, năm 2000 vượt ngưỡng 2 triệu tấn, và đến năm
2012 Việt Nam đạt năng suất, diện tích, sản lượng ngô cao nhất từ trước cho
đến nay (diện tích đạt 1.118,2 nghìn ha, năng suất đạt 42,95 tạ/ha và sản
lượng 4.803,2 triệu tấn).
Có thể nói tốc độ phát triển ngô lai ở Việt Nam rất nhanh so với lịch sử
phát triển ngô lai trên thế giới. Đây là bước tiến vượt bậc so với một số nước
trong vùng, kết quả này đã được CIMMYT và nhiều nước đánh giá cao. Hiện
nay nhiều tỉnh có diện tích trồng ngô lai đạt gần 100% như; Đồng Nai, An
Giang, Trà Vinh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Sơn La, Hà Tây, Vĩnh Phúc,…


10

Bảng 1.3. Sản xuất ngô Việt Nam giai đoạn năm 1975 - 2012
Năm
1975
1980
1985
1990
1995
2000

2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012

Diện tích
(nghìn ha)
276,6
389,6
392,2
431,8
556,8
730,2
1.052,6
1.033,1
1.096,1
1.125,9
1.086,8
1.126,9
1.112,5
1.118,2

Năng suất
(tạ/ha)
10,42
11,00

14,90
15,50
21,3
27,50
36,0
37,30
39,30
40,20
40,80
40,90
43,13
42,95

Sản lượng
(nghìn tấn)
278,4
428,8
584,9
671,0
1.184,2
2.005,9
3.787,1
3.854,6
4.303,2
4.531,2
4.431,8
4.606,8
4.835.7
4.803,2


Nguồn: Tổng cục thống kê, 2013[23]
Sự phát triển ngô lai ở Việt Nam đã được CIMMYT và FAO cũng như
các nước trong khu vực đánh giá cao. Việt Nam đã đuổi kịp các nước trong
khu vực về trình độ nghiên cứu tạo giống ngô lai và đang ở giai đoạn đầu đi
vào công nghệ cao (công nghệ gen, nuôi cấy bao phấn và noãn) (Ngô Hữu
Tình, 2003)[19].
Một thực trạng đặt ra hiện nay là mặc dù diện tích, năng suất và sản lượng
ngô của nước ta đều tăng nhanh nhưng so với bình quân chung của thế giới
năng suất ngô nước ta còn rất thấp, mặt khác nhu cầu sử dụng ngô của Việt
Nam ngày càng lớn. Vấn đề này đặt ra nhiệm vụ rất quan trọng và cấp
thiết cho các cơ quan nghiên cứu chọn tạo giống là tạo ra các giống ngô
có năng suất cao, chống chịu tốt đồng thời đáp ứng được cả yêu cầu về
chất lượng.


11
1.2.3. Tình hình sản xuất ngô vùng Đông Bắc
Vùng Đông Bắc bao gồm 9 tỉnh (Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn,
Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang và Phú
Thọ), là một trong các vùng trồng ngô có diện tích lớn ở Việt Nam. Diện
tích trồng ngô năm 2012 của vùng Đông Bắc là 194 nghìn ha, tuy diện
tích lớn nhưng phân bố rải rác, đất trồng ngô có địa hình phức tạp, chủ
yếu là đất nương bãi, thung lũng, thềm sông suối, độ cao so với mặt nước
biển thay đổi từ vài trăm mét (Lạng Sơn) đến hơn nghìn mét (cao nguyên
Đồng Văn - Hà Giang). Khí hậu của vùng Đông Bắc thường khắc nghiệt,
hạn và rét kéo dài, lượng mưa không phân bố không đều trong năm, đã
ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất ngô của vùng.
Mặc dù sản lượng ngô của vùng Đông Bắc chiếm tới 15,8% sản
lượng ngô cả nước nhưng mới chỉ cung cấp được cho nhu cầu ngô của
vùng, sản xuất ngô hàng hóa chưa nhiều. Phần lớn diện tích trồng ngô của

vùng là trồng trên đất dốc và nhờ nước trời, đầu tư thâm canh thấp, một số
tỉnh có tỷ lệ giống ngô địa phương và giống ngô thụ phấn tự do cao, là
nguyên nhân làm cho năng suất ngô đạt thấp hơn các vùng khác. Các
giống ngô địa phương và giống thụ phấn tự do tuy năng suất thấp nhưng
lại có chất lượng và khả năng chống chịu tốt. Mặt khác đồng bào miền núi
vẫn canh tác theo tập quán cũ không thu hoạch ngô khi chín mà để “treo
đèn” ngoài đồng, nên các giống ngô lai tuy có năng suất cao nhưng lại
không thích hợp với tập quán canh tác này do dễ bị sâu bệnh sau thu
hoạch tấn công, gây hại. Tình hình sản xuất ngô của các tỉnh vùng Đông
Bắc được trình bày ở bảng 1.4.


12
Bảng 1.4: Diện tích, năng suất, sản lượng ngô vùng Đông Bắc từ 2008 - 2012

TT

Tỉnh

Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(1.000 ha)

(tạ/ha)

(nghìn tấn)


2009 2010 2011 2012 2009 2010 2011 2012 2009 2010 2011 2012
1

Hà Giang

46,8

47,6 49,9 52,5 25,9 28,0

31,2

31,8 121,2 133,3 156,6 167,2

2

Cao Bằng

37,2

38,4 38,9 39,3 29,8 29,6

32,1

32,5 110,9 113,7 124,7 127,7

3

Bắc Kạn


16,0

15,9 16,9 16,5 34,9 36,7

38,8

37,2

55,8

58,4

65,5

61,4

4

Tuyên Quang

14,8

16,6 16,3 14,0 42,3 42,3

43,8

43,1

62,6


70,2

71,4

60,4

5

Thái Nguyên

17,4

17,9 18,6 17,9 38,6 42,1

43,3

42,2

67,2

75,4

80,6

75,5

6

Lạng Sơn


20,2

20,2 20,9 21,8 46,0 47,9

48,5

47,8

92,9

96,8 101,3 104,3

7

Quảng Ninh

6,3

6,6

6,0 36,7 36,4

37,9

37,3

23,1

24,0


23,9

22,4

8

Bắc Giang

12,0

12,3 10,8 8,6 34,1 36,5

37,4

39,1

40,9

44,9

40,4

33,6

9

Phú Thọ

16,4


20,7 21,4 17,4 38,7 43,7

43,6

45,5

63,5

90,5

93,4

79,1

Vùng Đông Bắc

187,1 196,2

6,3

200

194

327

343,2 356,6 356,5 638,1 707,2 757,8 564,4

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2013 [23]
Hà Giang và Cao Bằng là hai tỉnh có diện tích và sản lượng ngô lớn nhất

của vùng Đông Bắc, với diện tích trồng ngô năm 2012 tương ứng là 52,5 ha
và 39,3 ha, sản lượng đạt 167,2 và 127,7 nghìn tấn. Năng suất ngô của Hà
Giang và Cao Bằng vẫn còn thấp, do diện tích trồng các giống ngô thụ phấn
tự do còn chiếm tỷ lệ lớn trong sản xuất. Diện tích trồng ngô lai của hai tỉnh
này chỉ đạt 62% và 65,8%. Tại vùng Đông Bắc các tỉnh đạt năng suất ngô cao
là những tỉnh có diện tích trồng ngô lai trên 95% như Tuyên Quang, Thái
Nguyên, Lạng Sơn, Phú Thọ. Tuy nhiên các tỉnh này lại ít có khả năng mở
rộng diện tích, do đó sản xuất ngô của vùng Đông Bắc đã và đang phát triển
chậm hơn so với các vùng ngô khác.


13

1.2.4. Tình hình sản xuất ngô của tỉnh Hà Giang
Cùng với sự phát triển ngô trong cả nước, tỉnh Hà Giang trong những
năm gần đây tỉnh cũng rất quan tâm phát triển sản xuất ngô và đã thu được
nhiều kết quả nhất định nhờ có các thành tựu khoa học kỹ thuật mới, được
nông dân ứng dụng mạnh mẽ vào sản xuất ngô cho nên diện tích, năng suất và
sản lượng ngô trên địa bàn toàn tỉnh tăng nhanh trong những năm gần đây.
Qua bảng 1.6. cho thấy: Từ năm 2001 đến năm 2012 diện tích ngô của
tỉnh Hà Giang tăng từ 43.128,6 ha đến 52.508,6 ha. Năng suất ngô của tỉnh
tăng đều từ 6,1 tạ/ha năm 2001 lên 32,1 tạ/ha vào năm 2012, tăng 26,0 tạ/ha so
với năm 2001. Sản lượng tăng từ 26.170,7 tấn năm 2001 lên 168.706,0 tấn vào
năm 2012, tăng 142.535,3 tấn so với năm 2001. Tuy nhiên năng suất ngô của
tỉnh Hà Giang vẫn thấp hơn nhiều so với năng suất ngô của cả nước, năng suất
ngô hiện tại của tỉnh chỉ bằng 74,6% năng suất ngô của cả nước. Sản lượng ngô
năm 2012 đạt 168.706,0 nghìn tấn. Điều này chứng tỏ trong những năm gần
đây tỉnh Hà Giang cây ngô đã được Đảng bộ và chính quyền tỉnh đặc biệt chú
trọng quan tâm và đầu tư phát triển đã đạt được những thành tựu như vậy đó
chính là nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất ngô như:

Sử dụng các giống mới, kỹ thuật canh tác. Tuy nhiên sản xuất ngô ở Hà Giang
cần được quan tâm và đầu tư phát triển nhiều hơn, mạnh hơn nữa như: Tăng
diện tích gieo trồng ngô xuống ruộng 1 vụ, gieo trồng ngô trên đất đồi, đất bãi
ở vụ hè thu. Sử dụng giống mới, thâm canh tăng năng suất nhằm khai thác tối
đa tiềm năng đất sẵn có của tỉnh đặc biệt là những huyện vùng thấp.


14

Bảng 1.5. Sản xuất ngô của tỉnh Hà Giang giai đoạn 2001 - 2012
Năm

Diện tích
(ha)

Năng suất
(tạ/ha)

Sản lượng
(tấn)

2001

43.128,6

6,1

26.170,7

2002


43.805,3

19,5

85.573,0

2003

45.094,6

19,5

87.721,0

2004

43.750,4

20,4

89.454,2

2005

44.024,1

21,0

92.615,4


2006

43.269,8

21,0

90.689,6

2007

43.828,4

22,8

99.891,0

2008

46.138,5

24,3

112.257,6

2009

46.758,5

26,0


121.368,5

2010

47.559,4

28,7

136.341,8

2011

49.187,4

30,3

148.915,2

2012

52.508,6

32,1

168.706,0

Nguồn: Cục thống kê tỉnh Hà Giang, 2013
Ngoài việc thâm canh ngô lai ở những vùng thuận lợi, cần tăng cường sử
dụng các giống ngô thụ phấn tự do cải tiến ở nh÷ng vùng khó khăn, nhằm tăng

năng suất, sản lượng và chất lượng ngô, nâng cao hiệu quả kinh tế, góp phần
xóa đói giảm nghèo cho nông dân. Đặc biệt phải tiến hành nghiên cứu các tổ
hợp phân bón cho ngô lai, kết hợp nghiên cứu các phương thức trồng xen và
mở rộng những nghiên cứu ra sản xuất nhằm đảm bảo nhu cầu an ninh lương
thực, đồng thời nâng cao được chất lượng lương thực cho đồng bào dân tộc
thiểu số vùng cao, đặc biệt góp phần giảm giá thành sản phẩm ngành chăn
nuôi, nâng cao hiệu quả kinh tế của tỉnh.
Trong những năm gần đây Hà Giang đã chuyển đổi cơ cấu giống, sử
dụng các giống ngô lai năng suất cao như: LVN10, LVN11, LVN12,
LVN99… ngoài ra còn một số giống ngô nhập nội như: Bioseed 9698,
DK999, DK888, NK4300, NK66, C919, DK9901, DK9955,… các giống này
đã được áp dụng và đưa vào sản xuất trên địa bàn toàn tỉnh.


15

1.2.5. Tình hình sản xuất ngô của huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển cây lương thực nói chung
của huyện Vị Xuyên, cây ngô cũng rất được quan tâm phát triển sản xuất và đã
thu được nhiều kết quả nhất định. Nhờ có các thành tựu khoa học kỹ thuật mới
được nông dân ứng dụng mạnh mẽ vào sản xuất ngô cho nên diện tích, năng suất
và sản lượng ngô trên địa bàn toàn huyện cũng đã tăng nhanh.
Bảng 1.6. Sản xuất ngô của huyện Vị Xuyên giai đoạn 2001 - 2012
Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(nghìn ha)


(tạ/ha)

(tấn)

2001

3.450,0

17,0

5.873,4

2002

3.490,0

25,4

8.871,8

2003

3.674,0

25,8

9.489,2

2004


3.630,0

25,9

9.389,4

2005

3.680,0

26,5

9.764,6

2006

3.788,1

25,4

9.638,7

2007

3.591,0

27,9

10.003,5


2008

3.861,8

28,3

10.923,0

2009

3.916,9

28,9

11.307,3

2010

3.969,3

28,9

11.785,0

2011

4.067,3

31,3


12.724,2

2012

4.274,2

32,0

13.681,0

Năm

Nguồn: Cục thống kê tỉnh Hà Giang, 2013
Qua bảng 1.7 cho thấy: Từ năm 2001 đến năm 2012 diện tích ngô của
huyện Vị Xuyên tăng từ 3.450,0 ha đến 4.274,2 ha. Năng suất ngô của huyện
tăng đều từ 17,0 tạ/ha lên đến 32,0 tạ/ha vào năm 2012, tăng 15,0 tạ/ha so với
năm 2001. Sản lượng tăng từ 5.873,4 tấn năm 2001 lên đến 13.681,0 tấn vào
năm 2012, tăng 7.807,6 tấn so với năm 2001. Điều này chứng tỏ trong những
năm gần đây ở tỉnh Hà Giang nói chung, huyện Vị Xuyên nói riêng cây ngô
đã được Đảng bộ và Chính quyền huyện đặc biệt chú trọng đầu tư phát triển.
Đạt được những thành tựu như vậy đó chính là nhờ áp dụng các tiến bộ khoa


16
học kỹ thuật mới vào sản xuất ngô như: Sử dụng một số tập đoàn các giống
mới, áp dụng kỹ thuật canh tác tốt. Tuy nhiên sản xuất ngô ở huyện Vị Xuyên
cần được quan tâm và đầu tư phát triển nhiều hơn, mạnh hơn nữa như: Tăng
diện tích gieo trồng ngô xuống ruộng 1 vụ, gieo trồng ngô trên đất đồi, đất bãi
ở vụ hè thu. Sử dụng giống mới, thâm canh tăng năng suất nhằm khai thác tối

đa tiềm năng đất sẵn có của huyện từ sự phát triển đó đã phần nào đảm bảo
được cuộc sống cho đồng bào vùng sâu, đảm bảo được an ninh lương thực
cho toàn huyện.
Ngoài việc thâm canh ngô lai ở những xã thuận lợi, cần tăng cường sử
dụng các giống ngô thụ phấn tự do cải tiến ở nh÷ng xã khó khăn, nhằm tăng
năng suất, sản lượng và chất lượng ngô, nâng cao hiệu quả kinh tế, góp phần
xóa đói giảm nghèo cho nông dân. Đặc biệt phải tiến hành nghiên cứu các tổ
hợp phân bón cho ngô lai, kết hợp nghiên cứu các phương thức trồng xen và
mở rộng những nghiên cứu ra sản xuất nhằm đảm bảo nhu cầu an ninh lương
thực, đồng thời nâng cao được chất lượng lương thực cho đồng bào dân tộc
thiểu số vùng cao, đặc biệt góp phần giảm giá thành sản phẩm ngành chăn
nuôi, nâng cao hiệu quả kinh tế của toàn huyện.
Trong những năm gần đây huyện Vị Xuyên đã chuyển đổi cơ cấu
giống, áp dụng các biện pháp luân canh, sử dụng các giống ngô lai năng suất
cao như: LVN10, LVN11, LVN12, LVN99… ngoài ra còn một số giống ngô
nhập nội như: Bioseed 9698, DK 999, DK 888, NK 4300, NK 66, C 919, DK
9901, DK 9955,… các giống này đã được áp dụng và đưa vào sản xuất trên
địa bàn toàn huyện.
1.3. Tình hình nghiên cứu về giống ngô lai trên thế giới và ở Việt Nam
1.3.1. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống ngô trên thế giới
Đối với các bộ tộc da đỏ Châu Mỹ, về một phương diện nào đó, ngô đã
thuộc về khái niệm con người hơn thực vật, ngô trở thành điểm hội tụ của
niềm tin và chủ nghĩa tượng trưng, là món ăn vật chất và tinh thần của người
da đỏ của châu lục mới. Cây ngô gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của người
bản sứ châu Mỹ, được suy tôn như bậc thần thánh, được cúng tế trước khi
gieo trồng và sau khi thu hoạch. Thế kỷ 16 và 17 người da trắng tiếp nhận cây


17
ngô từ người da đỏ nhưng cũng không phát hiện được gì hơn so với những

người da đỏ đã làm được.
Tuy nhiên phải đến thế kỷ XVIII tức sau khi Columbus mang cây ngô về
châu Âu hơn 2 thế kỷ, loài người mới có những phát hiện khoa học quan
trọng về cây ngô. Phát hiện đầu tiên là phát hiện về giới tính của cây ngô.
Vào năm 1716, Mather đã quan sát thấy sự thụ phấn chéo ở ngô tại
Massachusetts. Trên ruộng ngô vàng có sự thay đổi về mầu hạt bởi giống
đỏ và xanh.
Tám năm sau công bố của Mather, Paul Dadly đã đưa ra nhận xét về giới
tính của cây ngô và ông đã cho rằng gió đã mang phấn ngô cho quá trình thụ
tinh (trích theo Ngô Hữu Tình, 2009) [20].
Năm 1760, nhà bác học người Nga, Koelreute đã quan sát và mô tả hiện
tượng ưu thế lai thông qua việc lai giữa các chi Nicotinana tabacum và N.robusa.
Năm 1766, Koelreute lần đầu tiên miêu tả hiện tượng tăng sức sống của con lai ở
ngô khi tiến hành lai các cây trồng thuộc chi Nicotiana. Dianthus, Verbascum,
Mirabilis và Datura với nhau, đây là cơ sở để Charles Darwin quan sát thấy hiện
tượng ưu thế lai ở ngô vào năm 1871. Ông nhận thấy những cây giao phối phát
triển cao hơn các cây tự phối 20% (trích theo Ngô Hữu Tình, 2009) [20].
Vào nửa cuối thế kỷ 19, các phương pháp cải tạo ngô đã mang tính chất
khoa học chứ không trông chờ vào sự may rủi. Công trình cải tạo giống ngô
đã được Beal thực hiện vào năm 1877, ông đã thấy sự khác biệt về năng suất
giống lai so với giống bố mẹ. Năng suất của con lai vượt năng suất của giống
bố mẹ về năng suất từ 25% (trích theo Ngô Hữu Tình, 2009) [20].
Năm 1877, Charles Darwin sau khi làm thí nghiệm so sánh hai dạng ngô
tự phụ và giao phối và đi tới kết luận: “Chiều cao cây ở dạng ngô giao phối
cao hơn 19% và chín sớm hơn 9% so với dạng ngô tự phối” (Hallauer,
Miranda, 1986) [34].
Để tạo các dòng thuần, Shull (năm 1904) đã áp dụng tự phối cưỡng bức
ở ngô. Các thí nghiệm được tiến hành tiếp tục đến năm 1912, ông nhận thấy
tự phối dẫn đến sự suy giảm kích thước của cây, giảm sức sống và năng suất.
Ông bắt đầu tiến hành lai đơn giữa một số dòng và thấy rằng năng suất và sức



×