Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

tiểu luận chính sách đối ngoại của pháp dưới thời tổng thống nicolas sarkozy và quan hệ việt – pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.56 KB, 38 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp là nước lớn nhất Tây Âu, lớn thứ ba ở châu Âu và có vùng đặc
quyền lớn thứ hai trên thế giới. Không chỉ là một quốc gia lớn về diện tích
(khoảng 550 nghìn km², xếp hạng 42 thế giới) và dân số (khoảng 66 triệu dân
vào năm 2014, xếp hạng 21 thế giới); trong hơn 500 năm qua, Pháp còn là
một cường quốc có ảnh hưởng văn hóa, kinh tế, quân sự và chính trị mạnh mẽ
ở châu Âu cũng như toàn thế giới. Pháp là một trong những quốc gia đóng vai
trò quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của Liên minh Châu Âu
và là một trong những trụ cột của Liên minh này.
Năm 2007, sau khi Tổng thống mới Nicolas Sarkozy nhậm chức, ông
đã liên tiếp thể hiện một phong cách ngoại giao mới, tích cực, chủ động và
đưa ra một chính sách ngoại giao mới có nhiều điểm khác biệt so với chính
sách ngoại giao của chính quyền tiền nhiệm Jacques Chirac. Chính sách đối
ngoại của nước Pháp dưới thời ông Sarkozy (2007 -2012) được đánh giá đã
bước sang một trang mới, có những dấu ấn đối ngoại rõ ràng, khẳng định vai
trò then chốt của Pháp đối với Châu Âu và toàn cầu ngay trong bối cảnh cả
Châu Âu lâm vào tình trạng khủng hoảng, những bất ổn chính trị không
ngừng gia tăng trong khu vực và cả quốc tế.
Trong bối cảnh cả thế giới toàn cầu hóa một cách rộng lớn và sâu sắc
như hiện nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phục vụ chiến lược
phát triển quốc gia đã trở thành một xu thế không cưỡng lại và là nhu cầu tất
yếu của nhiều nước trên thế giới. Trong những năm gần đây quan hệ Pháp –
Việt đang có những bước chuyển rõ rệt với nhiều hứa hẹn. Lợi thế và sức hấp
dẫn của mối quan hệ Pháp – Việt được tóm gọn trong phát biểu của Đại sứ
Pháp tại Việt Nam, Jean Nougareda: “Chính sách Việt Nam (của Pháp) đang
được suy tính trên quy mô khu vực. Chính sách này mang lại lợi ích cho cả
hai nước, Pháp có thể giúp Việt Nam phát triển và xây dựng mối quan hệ tốt


đẹp với Châu Âu. Để đáp lại, Việt Nam giúp Pháp có lại chỗ đứng trong khu


vực Châu Á. Đó là một bàn đạp cho sự trở lại châu Á của Pháp.”
Chính vì những trình bày nêu trên, Tiểu luận “Chính sách đối ngoại của
Pháp dưới thời Tổng thống Nicolas Sarkozy và Quan hệ Việt – Pháp” nhằm
tóm tắt về đường lối đối ngoại của Pháp dưới thời ông Sarkory và trình bày
những thành tựu trong quan hệ Pháp – Việt trong thời kì này trên một số lĩnh
vực quan trọng như chính trị, kinh tế, văn hóa – giáo dục, … Qua đó đưa ra
một số triển vọng cho quan hệ hai nước nhằm thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị
giữa hai quốc gia, vun đắp một mối quan hệ hợp tác hữu nghị lâu dài toàn
diện giữa hai dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này không chỉ có ý nghĩa
cấp thiết về mặt lí luận khoa học mà còn mang tính chất thực tiễn sâu xa đối
với nước ta.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Tiểu luận tập trung nghiên cứu làm rõ nội dung chính sách đối ngoại của
Pháp dưới thời kì Tổng thống Sarkozy (2007 – 2012) và quan hệ Pháp – Việt
trong thời kì này; từ đó dự báo triển vọng trong quan hệ hai nước, rút ra bài học
kinh nghiệm cho nước ta nhằm tăng cường hiệu quả trong hợp tác hai nước.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục tiêu đề ra, đề tài tập trung phân tích và giải quyết
những vấn đề chủ yếu sau:
- Phân tích những nội dung chủ yếu, chính sách mới trong đường lối
đối ngoại dưới thời kì Tổng thống Sarkozy (2007 – 2012);
- Phân tích thực trạng, những thành tựu trên từng lĩnh vực cụ thể trong
thời kì này của quan hệ hai nước;
- Phân tích những tồn tại, khó khăn trong quá trình hợp tác giữa hai
nước;
- Phân tích triển vọng trong quan hệ hữu nghị giữa hai quốc gia và đưa
ra một số đề xuất trong tương lai.
2



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Chính sách đối ngoại của Pháp và
quan hệ Pháp - Việt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Dưới thời Tổng thống Nicolas Sarkozy 2007 – 2012;
- Phạm vi: Đường lối đối ngoại Pháp và quan hệ hợp tác trên các lĩnh
vực chủ yếu của Pháp và Việt Nam.
4. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài có cấu trúc gồm 3 phần chính:
Chương 1: Chính sách đối ngoại của Pháp dưới thời Tổng thống
Nicolas Sarkozy.
Chương 2: Quan hệ Cộng hòa Pháp – Việt Nam và thành tựu hợp
tác của hai quốc gia dưới thời kì Tổng thống Sarkozy.
Chương 3: Triển vọng về quan hệ đối tác chiến lược giữa Pháp và
Việt Nam

3


CHƯƠNG 1
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA PHÁP DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG
NICOLAS SARKOZY (2007 – 2012)
I. Khái quát về Tổng thống Sarkozy và chính sách đối ngoại của
Pháp dưới thời kì này.
1. Tổng thống Nicolas Sarcozy
Ông sinh ngày 28 tháng 1 năm 1955 với tên Nicolas Paul Stéphane
Sarközy de Nagy-Bocsa, là cựu tổng thống Cộng hòa Pháp. Sarkozy kế nhiệm

Jacques Chirac vào ngày 16 tháng 5 năm 2007. Ông thường được những
người ủng hộ lẫn chống đối đặt cho biệt hiệu là Sarko.

Tổng thống Nicolas Sarkozy
Ngày 6 tháng 5 năm 2007, Sarkozy đắc cử tổng thống sau khi đánh bại
đối thủ thuộc Đảng Xã hội, Ségolène Royal, trong cuộc tổng tuyển cử năm
2007. Sarkozy giành được 53,4% trong khi đối thủ của ông chỉ nhận được
46,6% phiếu bầu. Số cử tri đi bầu đạt 85,5%, mức cao nhất kể từ năm 1981
cho tới nay.
Trước đó, ông là lãnh tụ đảng UMP (Union pour un Mouvement
Populaire) hữu khuynh. Ông giữ chức Bộ trưởng Nội vụ cho đến ngày 26
tháng 3 năm 2007.

4


Sarkozy nổi tiếng với lập trường bảo thủ trong các vấn đề luật pháp và
trật tự, cùng khát vọng xây dựng một mô hình kinh tế mới cho nước Pháp
cũng như khuyến khích một nền kinh tế tự do theo cung cách của Anh và Mỹ.
Đặc biệt ông chủ trương thân Mỹ và được gọi là "một người Mỹ ở Paris".
Trong bài diễn văn nhậm chức đọc tại Điện Elysde ngày 16/5/2007, ông
đã bày tỏ niềm tự hào của mình đối với nước Pháp và dân tộc Pháp, “một dân
tộc vĩ đại có một lịch sử vĩ đại”, “luôn can đảm vượt qua mọi thử thách và tìm
thấy trong mình sức mạnh làm thay đổi thế giới” cũng như mong muốn xây
dựng nước Pháp, “một đất nước không muốn tàn lụi, một đất nước vừa muốn
có trật tự lại vừa muốn có biến chuyển, vừa muốn có tiến bộ lại vừa muốn có
bác ái, vừa muốn có hiệu quả lại vừa muốn có công lý, vừa muốn có bản sắc
lại vừa muốn mở cửa ra thế giới” xứng với vị thế trong lịch sử của mình trên
thế giới.
2. Chính sách đối ngoại của Tổng thống Sarkozy

Sau khi nhậm chức, Tổng thống Sarkozy đã có những điều chỉnh trong
chính sách đối ngoại của Pháp, thế hiện rõ nét nhất trong quan hệ của Pháp
với Liên minh Châu Âu (EU), với Mỹ và với Trung Đông. Pháp là một trong
những nước cổ động mạnh nhất cho thế giới đa cực, trong đó EU đóng vai trò
then chốt.
Mục tiêu trong chính sách đối ngoại của Tổng thống Sarkozy
Mục tiêu trọng tâm là, đảm bảo an ninh và độc lập dân tộc của đất
nước Pháp và nhân dân Pháp, đồng thời cũng đảm bảo an ninh và độc lập dân
tộc của bạn bè và các nước đồng minh của Pháp.
Mục tiêu thứ hai là, đề cao giá trị nhân quyền và chủ trương tích cực
đi đầu trong việc khuyến khích và giải quyết các vấn đề liên quan đến lĩnh
vực này, “bởi vì nước Pháp chỉ thực sự là nước Pháp khi mà nước Pháp là
hiện thân của tự do, chống lại áp bức và chống lại sự hỗn độn.”
Mục tiêu thứ ba là, khuyến khích các giá trị kinh tế và thương mại để
tăng cường sức mạnh của Pháp trong một thế giới toàn cầu hóa.
5


Song song với việc đề cao những yếu tố mang tính giá trị này, Chính
sách đối ngoại của Pháp còn thể hiện tính thực dụng rõ nét qua việc Pháp vẫn
tính đến lợi ích thiết thực trong quan hệ với những đối tượng cụ thể. Tổng
thống Sarkozy cho rằng nước Pháp cần bắt tay với tất cả các nhà lãnh đạo,
cho dù một vài nước trong số đó có tiến trình dân chủ không hoàn toàn giống
như mong muốn của Pháp bởi vì nếu cô lập họ hoặc gạt họ ra ngoài lề thì còn
dễ gặp phải những nguy cơ lớn hơn nhiều so với việc phải bắt tay với họ. Như
vậy, lợi ích kinh tế mới là cái cốt lõi, những luận điệu về dân chủ và nhân
quyền cũng không thể làm thay đổi thực tế này được.
II. Hoạt động đối ngoại của Pháp dưới thời kì Tổng thống Nicolas
Sarkory
1. Với Châu Âu

Trong nỗ lực tìm cách tái lập vị trí và vai trò của nước Pháp trên trường
quốc tế, ưu tiên hàng đầu của Chính quyền Sarkozy vẫn là xây dựng và củng
cố mối quan hệ với các nước trong Liên minh Châu Âu. Theo ông, xây dựng
châu Âu là một ưu tiên tuyệt đối của chính sách này.
Để xúc tiến kế hoạch này, Tổng thống Sarkozy đã thuyết phục các nước
EU thông qua nội dung Hiệp ước Giản đơn, đây được coi là dự thảo Hiến
pháp của Liên minh Châu Âu. Hiệp ước đã được lãnh đạo của 27 các nước
thành viên thông qua tại Hội nghị cao cấp EU ở Lixbon tại Bồ Đào Nha vào
tháng 10 năm 2007 và đã được kí vào tháng 12 năm 2007. Hiệp ước này được
các nhà lãnh đạo đánh giá là đặc biệt quan trọng do nó thay thế cho các quy
định đã lỗi thời trước đây của EU và phù hợp với tình hình mới khi EU đã
tăng số thành viên lên 27.
Suốt 6 tháng đảm nhận nhiệm vụ Chủ tịch Luân phiên của EU (từ ngày
1/7/2008), Pháp chủ trương tiến hành cải cách về chính trị, an ninh - phòng
thủ, và giải quyết một số vấn đề liên quan đến bản sắc châu Âu, nhập cư và
quan hệ giữa các nước thành viên EU. Trong nhiệm này, Tổng thống Sarkozy
phần nào đã thành công trong việc đưa EU thoát khỏi tình trạng bế tắc về thể
6


chế bằng việc thuyết phục các nước thông qua nội dung hiệp ước giản đơn;
tăng cường quan hệ với Anh, Đức, Italia, Tây Ban Nha; thúc đẩy quan hệ với
các nước Đông và Trung Âu sau thời kỳ lạnh nhạt dưới thời Tổng thống
Chirac; củng cố vai trò của Pháp tại châu Âu.
Với mục tiêu tăng cường tiếng nói của Pháp trong các vấn đề châu Âu,
Tổng thống đã quyết định đưa nước Pháp quay lại Bộ chỉ huy Quân sự của
NATO sau hơn 40 năm vắng bóng. Quyết định này được coi là một bước
ngoặt và không khỏi gặp phải những phản đối của dư luận trong nước.

Thủ tướng Đức Angela Merkel, Tổng thống Pháp Sarkozy và

các đồng minh Bỉ

Cùng với việc nỗ lực tăng cường vị thế của Pháp ở châu Âu nói riêng
và thế giới nói chung, Tổng thống Sarkozy tiếp tục tăng cường vai trò của
Pháp ở khu vực Đông Âu cũ như việc hòa giải căng thẳng của Nga với Gruzia
và xúc tiến ra đời Liên minh Địa Trung Hải vào tháng 7/2008.
Sự quan tâm của Tổng thống Sarkozy đến Châu Âu còn thể hiện ở việc
ông đã cho thành lập một Ủy ban Độc lập để nghiên cứu về tình hình và xu
thế phát triển của thế giới nói chung và châu Âu nói riêng, từ đó chỉ ra những
thách thức chính đối với hoạt động đối ngoại của Pháp cho đến năm 2020 và
đề ra sứ mệnh ngoại giao của Pháp trong thời kì mới.

7


2. Với Mỹ
Tổng thống Sarkozy chủ trương cải thiện mối quan hệ với Mỹ theo
chiều hướng thân thiện, hợp tác song vẫn giữ vững độc lập.

Hai tổng thống N. Sarkozy và B. Obama hôm 4/11/2011

Nếu như trước đây, dưới thời của Tổng thống Jasquec Chirac, quan hệ
Pháp – Mỹ được đánh dấu bằng một loạt bất đồng xung quanh việc Mỹ và
Irac mà đỉnh điểm là việc thàn lập Liên minh chống Mỹ phát động chiến tranh
chống Irac thì hiện nay quan hệ Pháp – Mỹ đã ngày càng nồng ấm hơn như
vấn đề Iran là một ví dụ: Nếu như Chính phủ của Tổng thống Chirac trước
đây chủ trương dùng giải pháp chính trị và ủng hộ Liên minh châu Âu tiến
hành thương lượng với Iran thì nay Chính phủ Sarkozy chia sẻ với Mỹ lập
trường cứng rắn trong việc giải quyết vấn đề hạt nhân của Iran và tỏ rõ: “ triển
vọng một nước Iran có vũ khí hạt nhân là điều không thể chấp nhận được và

không ai nghi ngờ quyết tâm của chúng ta”. Ông còn khẳng định quyết tâm
“chung vai sát cánh” với Mỹ trong nỗ lực ngăn chặn nguy cơ Iran sở hữu vũ
khí hạt nhân.
3. Với Châu Phi
Pháp tiếp tục coi Châu Phi là một ưu tiên, thúc đẩy sáng kiến Liên
minh Địa Trung Hải để tăng cường hợp tác Âu – Phi, thiết lập mối quan hệ
8


đối tác mới với Châu Phi và chủ trương triển khai cơ chế đồng phát triển với
các nước châu Phi da đen trước đây là thuộc địa của Pháp để tăng cường ảnh
hưởng của Pháp tại châu lục này.
Tổng thống Sarkozy đã dứa sẽ duy trì các cam kết về tài chính của Pháp.
Ông khẳng định Pháp muốn giúp đỡ các nước châu Phi đạt được các Mục tiêu
Phát triển Thiên niên kỷ của mình và cam kết sẽ ủng hộ 2,5 tỉ Euro trong thời
gian 5 năm để phát triển lĩnh vực kinh tế tư nhân và đề cao việc làm. Tổng
thống coi Nam Phi là đối tác kinh tế hàng đầu của Pháp và hai nước đã đạt
nhiều thoải thuận hợp tác kinh tế quan trọng trong lĩnh vực năng lượng.
Tuy nhiên, ngân sách hỗ trợ cho châu Phi của Pháp đã bị cắt giảm và
vai trò của Pháp tại đây vẫn đang tiếp tục bị suy giảm do Pháp chưa giải quyết
triệt để các cuộc khủng hoảng chính trị - quân sự tại một số quốc gia châu Phi
và việc Trung Quốc – Mỹ đang tăng cường ảnh hưởng của mình tại châu lục
này. Mặt khác, sự hiện diện của các căn cứ quân sự của Pháp ở châu Phi ngày
càng bị giới trẻ châu Phi phản đối mạnh mẽ. Về vấn đề này, Tổng thống
Sarkozy cho rằng các căn cứ này có sứ mệnh hàng đầu là “giúp đỡ Liên minh
Châu Phi xây dựng một kết cấu hòa bình và an ninh trong khi vực” mà kết
cấu này sẽ là “một công cụ” để giúp châu Phi “đảm bảo tốt hơn và một cách
chắc chắn sự ổn định của mình”, sự hiện diện của quân đội Pháp sẽ giúp các
nước châu Phi tăng cường khả năng duy trì hòa bình và chừng nào mà Liên
minh Châu Phi có đủ khả năng về chiến lược quân sự cho phép họ “tự tái thiết

sự bình đẳng quốc tế trên châu lục” thì lúc đó sự hiện diễn của Pháp có lẽ sẽ
chỉ hạn chế ở mức tối thiểu”.
4. Với Châu Á – Thái Bình Dương
Tổng thống Sarkozy chủ trương tăng cường quan hệ với khu vực này
trên tất cả các lĩnh vực, tiếp tục duy trì quan hệ cân bằng với tất cả các nước
lớn trong khu vực, đặc biệt là Nga, Trung Quốc và Nhật Bản.
Trong quan hệ với Nga, tuy vẫn còn tồn tại một số bất đồng như việc
Pháp phê phán Nga dùng con bài năng lượng để gây sức ép đến các nước láng
9


giềng, vấn đề nhân quyền ở Nga, vấn đề hạt nhân của Iran hay vấn đề độc lập
của Kosovo,… song cả hai quốc gia này đều cần đến nhau. Pháp coi Nga là
một trong những nhà cung cấp năng lượng hàng đầu và là một đối tác kinh tế
chiến lược, còn Nga coi Pháp là đối tác tiềm năng và là “cửa ngõ” thâm nhập
vào thị trường châu Âu. Tổng thống Pháp đã từng khẳng định, trong chuyến
công du sang Nga vào tháng 10/2007, rằng Pháp “muốn làm bạn với Nga”,
“muốn lắng nghe và thấu hiểu nước Nga”, và “Pháp, Nga cần hợp tác vì hòa
bình trên thế giới”. Cũng trên tinh thần hợp tác, Thủ tướng Nga Putin cũng đã
có chuyến công du nước Pháp vào tháng 5/2008 để tăng cường quan hệ hợp
tác song phương trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Đối với Trung Quốc, tuy hai bên còn những bất đồng trong nhiều vấn
đề quốc tế, đặc biệt là vấn đề hạt nhân của Iran, vấn đề Tây Tạng, chính sách
năng lượng của Trung Quốc ở châu Phi, cán cân thương mại song phương hay
tỉ giá đồng Nhân dân tệ,… song Chính quyền Sarlozy vẫn rất coi trọng cải
thiện và tăng cường quan hệ với Trung quốc, một nước có ảnh hưởng ngày
càng lớn trên trường quốc tế. Để chứng minh cho thiện chí của mình và để
khôi phục lại quan hệ với Trung quốc sau những phản ứng mạnh mẽ của
Trung quốc trước việc Tổng thống Sarlozy gặp gỡ thủ lĩnh ly khai Tây Tạng
Dalai Lama tại Ba Lan vào tháng 12/2008, Tổng thốp Pháp đã cam kết sẽ

không ủng hộ “độc lập Tây Tạng” dưới bất kì hình thức nào và khẳng định
cho dù mối quan hệ Trung – Pháp thay đổi như thế nào thì vẫn chỉ có duy nhất
một Trung Quốc trên thế giới, trong đó Đài Loan và Tây Tạng chắc chắn chỉ
là những phần thuộc lãnh thổ Trung Quốc.

10


Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Tổng thống Sarkozy tiến hành hội đàm tại Bắc Kinh
ngày 30/3/2011

Đối với Nhật Bản, Chính quyền Sarkozy chủ trương tiếp tục tăng
cường hợp tác song phương trong lĩnh vực kinh tế, năng lượng đặc biệt là
việc sử dụng năng lượng hạt nhân vào mục đích hòa bình cũng như phối hợp
hoạt động trong các vấn đề quốc tế liên quan đến an ninh, môi trường và phát
triển. Tổng thống Sarkozy ưu tiên nhiều đến việc phát triển quan hệ với Trung
Quốc hơn là đối với Nhật Bản, khác với người tiền nhiệm là ông Chirac. Thay
vì Nhật Bản, ông Sarkozy đã chọn Trung Quốc là điểm dừng chân đầu tiên
trong chuyến công du châu Á sau khi nhậm chức và quan hệ Nhật – Pháp mới
chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh tế, chưa có bước tiến mang tính chiến lược về
chính trị.
5. Với Trung Đông
Đây là khu vực địa – chính trị mang tính chiến lược của lục địa Á – Âu
với những vấn đề nóng bỏng liên quan đến lợi ích kinh tế và an ninh của
nhiều quốc gia như: dầu lửa, khủng hoảng ở Irac, vấn đề hạt nhân ở Iran và
tiến trình hòa bình Ixaraen – Palextin,…
11


Tổng thống Sarkozy cho rằng chỉ có tiến hành giải pháp chính trị song

song với việc rút hết quân đội nước ngoài thì mới có thể chấm dứt được cuộc
khủng hoảng ở Irac. Chuyến thăm Irac của Bộ trưởng Bộ Các vấn đề đối
ngoại và Châu Âu của Pháp hồi tháng 8/2007 được đánh giá là dấu hiệu cho
thấy Pháp duy tri sự có mặt và mối quan hệ truyền thống của mình với Irac
cũng như mong muốn giữ một vai trò trong tương lai ở đây. Tổng thống Pháp
cũng bày tỏ thiện ý muốn giúp đỡ Irac giành lại hòa bình và ổn định cũng như
khôi phục vị trí của mình tại các diễn đàn quốc tế.
Với Iran, ông Sarkozy khẳng định Pháp không chấp nhận một nước
Iran có vũ khí hạt nhân. Pháp ủng hộ việt Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và
EU tăng sức ép quốc tế buộc Iran phải thực hiện những yêu cầu cơ bản của
Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) đề đạt tới giải pháp thương
lượng. Pháp tuyên bố ủng hộ các nỗ lực ngoại giao nhưng cũng không ngoại
trừ việc sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề này.
Pháp chủ trương tăng cường hợp tác với các quốc gia Arap trong các
lĩnh vực kinh tế và hạt nhân dân sự, vì theo Tổng thống Sarkozy: “Không thể
ngăn cản một nước phát triển chương trình hạt nhân dân sự chỉ vì họ là quốc
gia Arap”.
Đôi với tiến trình hòa bình Ixaraen – Palextin, Tổng thống Pháp bày tỏ
quan điểm rằng Ixaraen được thành lập một cách hợp pháp và có quyền được
thành lập một cách hợp pháp và có quyền được đảm bảo an ninh của mình,
còn những người dân Palextin có quyền có một nhà nước vững vàng. Những
người Ixaraen cần phải dừng các hoạt động di dân, và những người Palextin
cần tiếp tục đấu tránh chống lại các hành động và phong trào khủng bố. Để
tiến trình hòa bình đi tới đích, cả hai bên phải tôn trọng các cam kết của mình.
6. Với các tổ chức quốc tế
Pháo đề cao vai trò của Liên Hợp Quốc, ủng hộ việc mở rộng Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc và rất tích cực tham gia các hoạt động của Liên hợp
quốc để giải quyết các xung đột khu vực. Pháp là nước có nhiều quân tham
12



gia Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc nhất, với gần 10.000 quân.
Tổng thống Sarkozy khẳng định Liên hợp quốc là “không thể thay thế được”,
vì chỉ có Liên hợp quốc mới có đủ tính hợp pháp và hiệu quả để xử lí nhiều
vấn đề trên thế giới.
Tổng thống Sarkozy cũng tuyên bố ủng hộ việc mở rộng G8 cho các
nước mới nổi. Theo ông, G8 dần dần phải trở thành G13 với sự gia nhập của
các nước mới nổi là Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin, Mehico và Nam Phi.
Tuy nhiên, bên cạnh những hứa hẹn lợi ích kinh tế khổng lồ trong
tương lai, Chính sách đối ngoại của Tổng thống Sarkozy đã gặp phải phản
ứng không nhỏ trong chính giới Pháp. Người dân Pháp đã bày tỏ sự không
hàu lòng của mình đối với một số quyết định đối ngoại của Tổng thống, đặc
biệt là tuyên bố gửi thêm quân tới Apghanixtan.

13


CHƯƠNG 2
QUAN HỆ CỘNG HÒA PHÁP – VIỆT NAM VÀ THÀNH TỰU HỢP TÁC
CỦA HAI QUỐC GIA DƯỚI THỜI KÌ TỔNG THỐNG SARKOZY

I. Quan hệ chính trị giữa Pháp và Việt Nam
Pháp và Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp Đại sứ
vào ngày 12/4/1973.
1. Các giai đoạn phát triển của quan hệ chính trị giữa hai nước
Những năm Việt Nam tổ chức kháng chiến chống Mỹ thống nhất đất
nước, Pháp đã có nhiều hoạt động giúp Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.
Giai đoạn 1975-1978, sau khi Việt Nam giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước, hai chính phủ đã ký một loạt nghị định thư tài chính và đỉnh cao là
chuyến thăm Pháp của Thủ tưởng Phạm Văn Đồng vào tháng 4 năm 1977.

Tuy nhiên quan hệ tốt đẹp trong giai đoạn này bị gián đoạn trong thập kỷ
1980 do nước Pháp và các nước phương Tây thi hành chính sách cô lập, gây
sức ép buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Mặc dù vậy, thái độ của
Pháp cũng có chừng mực không cực đoan như Mỹ. Chính thái độ đó đã trở
thành cầu nối để sau này Việt Nam nối lại quan hệ với các nước phương Tây.
Trong thời gian Chiến tranh Lạnh, Pháp đã là trung gian giữa Việt Nam và
khối các nước phương Tây. Tại thủ đô Paris của Pháp – nơi ký Hiệp định Hòa
bình Paris vào tháng 1/1973, là nơi đã diễn ra cuộc đàm phán hòa bình để
chấm dứt cuộc chiến Campuchia năm 1991
Đến năm 1989, Pháp là nước đi đầu trong các nước phương Tây nối lại
quan hệ với Việt Nam. Lúc này, quan hệ giữa hai nước ấm dần lên. Cùng với
sự kiện quan trọng là Ngoại trưởng Pháp R.Dumas thăm Việt Nam đầu năm
1990, Pháp đã nối lại viện trợ phát triển cho Việt Nam, hỗ trợ cho Việt Nam
giải tỏa quan hệ với các tổ chức tài chính và tiền tệ quốc tế, nhất là việc Pháp
ủng hộ Việt Nam thiết lập tăng cường quan hệ với EU. Pháp đã xóa nợ và
giúp Việt Nam giải quyết nợ với các nước thành viên Câu lạc bộ Paris.
14


Tháng 2/1993, Tổng thống Pháp F.Mitterrand – Tổng thống phương
Tây đầu tiên đến thăm Việt Nam đánh dấu đỉnh cao quan hệ hai nước cho đến
thời điểm đó. Sự kiện này có ý nghĩa rất quan trọng trong quan hệ hai nước
nói riêng và quan hệ Việt Nam với EU nói chung.

Tổng thống Pháp Francois Mitterrand nói chuyện vào ngày 9-2-1993 với vị Đại tướng
Võ Nguyên Giáp trong chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam

Trong chuyến thăm này, Tổng thống F.Miterrand đã tuyên bố hòa giải
hoàn toàn giữa Việt Nam và Pháp, đặt nền móng cho quan hệ cho Việt Nam –
EU. Đồng thời lên tiếng yêu cầu Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam. Từ đây, Việt Nam

đã dần tiến tới bình thường hóa quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ thế
giới, tiến tới bình thường hóa với tất cả các nước khác, kể cả Mỹ. Hơn thế,
đây là một sự kiện để từ đó Việt Nam tiến tới trở thành đối tác trực tiếp của
Pháp và châu Âu chứ không chỉ là một nước ngoại phạm vi làm hàng gia công
cho các nước phát triển hơn trong khu vực Đông Nam Á. Từ đây Việt Nam đã
có thể thuận lợi để hòa nhập vào trường quốc tế trong thời kỳ toàn cầu hóa.
Tháng 11/1993 tại Paris, đã diễn ra Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt
Nam. Đây là sự kiện ghi dấu trang sử mới tốt đẹp trong quan hệ hợp tác phát
triển của Việt Nam với cộng đồng thế giới.
15


Có thể nói, giữa hai nước hiện không có bất kỳ một bất đồng nào. Pháp
coi Việt Nam là một ưu tiên ở Châu Á, là cửa ngõ để từ đó Pháp đi vào
ASEAN và Châu Á. Đối với Việt Nam, Pháp là một đối tác truyền thống và
thông qua Pháp, Việt Nam tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với Liên
Minh Châu Âu.
Kể từ chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Pháp F.Mitternand
năm 1993, hai nước đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao.
 Về phía Pháp:
Tháng 11/1997, Tổng thống Pháp J.Chirac đã đến Hà Nội tham dự Hội
nghị Thượng đỉnh các nước sử dụng tiếng Pháp lần thứ VII. Tháng 10/2004,
ông J.Chirac thực hiện chuyến công du lần thứ hai sang Việt Nam với thông
điệp ủng hộ Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương Mại thế giới (WTO), ứng cử
vào việc vị trí ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
nhiệm kỳ 2008 – 2009. Chủ tịch Thượng viện Pháp C.Poncelet cũng đã hai lần
sang thăm Việt Nam vào tháng 5/2003 và tháng 6/2005. Tháng 5/2011, Thủ
tướng Pháp F.Fillon đã có chuyến thăm Việt Nam đầu tiên và chính thức với tư
cách là người đứng đầu chính phủ. Tháng 5/2011, nhân chuyến sang Việt Nam
dự Hội nghị hàng năm lần thứ 44 của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tại

Hà Nội, Bộ trưởng Kinh tế, Tài chính và Công nghiệp Pháp Christine Lagarde
(nay là Giam đôc IMF) có cuộc hội đàm với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về
quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư của hai nước,…
 Về phía Việt Nam:
Tháng 6/1993, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đến thăm và hội đàm với Thủ
tướng Pháp Edouard Balladur tại Dinh Thủ tướng. Cũng trong năm này Chủ
tịch quốc hội Nông Đức Mạnh đã đến Pháp vào tháng 9. Theo lời mời của
Tổng thống Pháp, Chủ tịch Lê Đức Anh đã sang thăm Pháp dự lễ kỷ niệm 50
năm chiến thắng phát xít vào tháng 5/1995. Năm 2000, Tổng bí thư Đảng
Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu đến thăm Pháp, đánh dấu chuyến thăm đầu
tiên của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam sang Tây Âu. Hai nước đã
16


nhất trí tổ chức Diễn đàn kinh tế - tài chính Pháp – Việt nhằm giải quyết
những vấn đề liên quan đến cải cách kinh tế ở Việt Nam.
Năm 2002, Chủ tịch nước Trần Đức Lương sang thăm Pháp, đây là
chuyến thăm cấp nguyên thủ quốc gia đầu tiên kể từ khi hai nước tái lập quan
hệ ngoại giao. Tháng 6/2005, nhân chuyến Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh sang
thăm Pháp, một sô dự án kinh tế đã được hai bên ký kết. Như dự án trùng tu
cầu Long Biên, dự án xây dựng tuyến xe điện tại Hà Nội,…Đặc biệt là việc
ký kết thành công hợp đồng về nhà máy lọc dầu Dung Quất với tổng số vốn
lên đến 1,5 tỉ USD, hợp đồng về cung cấp trang thiết bị, chuyển giao công
nghệ dự án hệ thống giám sát tài nguyên thiên nhiên và môi trường với ưu đãi
của Bộ Kinh tế, Tài chính và Công nghiệp Pháp.
Chuyến công du của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Pháp vào tháng
10/2007 là dịp lãnh đạo Việt Nam khẳng định chính sách coi trọng vị trí của
Pháp trong các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam, bày tỏ quan điểm ủng hộ
chính phủ mới của Tổng thống Pháp N.Sarkozi, tăng cường hợp tác chính trị
giữa hai chính phủ. Hai nước đã ký kết một số thỏa thuận và hợp đồng lớn

như: Nghị định thu tài trợ hiện đại hóa trường Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện
thực hành tại Hà Nội, nghị định thư tài trợ khôi phục cầu Long Biên, hai thỏa
thuận với Cơ quan Phát triển Pháp về viện trợ tuyến đường sắt nội đô Hà Nội
– Nhổn và Chương trình tín dụng nhà nước.
Chính phủ Pháp đánh giá cao thành tựu hơn 20 năm thực hiện công
cuộc đổi mới của Việt Nam, ghi nhận vị thế và vai trò của Việt Nam ngày
càng được nâng cao trong khu vực cũng như trên thế giới và tin tưởng vào
triển vọng phát triển của Việt Nam; tái khẳng định sự ủng hộcủa Chính
phủPháp đối với chiến lược phát triển, xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam
thông qua các khoản viện trợ ưu đãi... Việt Nam hiện là một đối tác quan
trọng, là một trong những ưu tiên lớn trong chính sách châu Á của Pháp, nhất
là khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO (năm 2006) và là Ủy viên
Không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
17


Trong quan hệ đa phương, Pháp đóng vai trò quan trọng hỗ trợ Việt
Nam bình thường hóa quan hệ với các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế
(1993), ký kết Hiệp định khung hợp tác với EU (1995). Cùng với sự ủng hộ
của Pháp, Việt Nam đã trở thành Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an
Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008 – 2009. Ngoài ra, ha nước còn là thành viên
tích cực của Cộng đồng các nước sử dụng tiếng Pháp, Diễn đàn hợp tác Á –
Âu (ASEM) và nhiều diễn đàn hợp tác quốc tế khác.
2. Cơ chế hợp tác của hai nước
Hai nước có nhiều cơ chế hợp tác, đáng lưu ý có:
- Uỷ ban hỗn hợp Hợp tác Văn hóa, Khoa học kỹ thuật liên Chính phủ
(1982) họp thường kỳ hai năm một lần, phiên thứ 11 tại Hà Nội tháng 5/2000
và sau đó không tổ chức họp nữa.
- Nhà Pháp luật Việt-Pháp thành lập năm 1993 trên cơ sở Hiệp định
giữa hai Chính phủ với hai nhiệm vụ chủ yếu là hỗ trợ Việt Nam trong quá

trình soạn thảo các văn bản pháp luật và đào tạo chuyên gia ngành tư pháp.
Hàng năm, Ủy ban định hướng do hai Bộ trưởng Tư pháp đồng chủ trì luân
phiên tại hai nước. Phiên thứ 16 đã họp tại Việt Nam tháng 02/2009.
- Hội đồng cấp cao vì sự phát triển hợp tác kinh tế Việt - Pháp được
thành lập theo sáng kiến của Tổng thống Pháp J. Chirac và Tổng bí thư Nông
Đức Mạnh. Phiên họp thứ hai tổ chức vào tháng 3/2008 tại TP. HCM đã thúc
đẩy hoạt động của các doanh nghiệp Pháp, là diễn đàn trao đổi về nhu cầu hợp
tác của Việt Nam đến các doanh nghiệp và chính quyền Pháp.
- Diễn đàn kinh tế tài chính Việt - Pháp (2000) do ADETEF, cơ quan
hợp tác Bộ Kinh tế Pháp và Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch - Đầu tư
Việt Nam đồng tổ chức, là một diễn đàn đối thoại và trao đổi để đưa ra đề
xuất và định hướng cho chính sách nhà nước. Khoá họp toàn thể của diễn đàn
được tổ chức hàng năm và bàn về một chủ đề có tính thời sự. Khóa thứ 8 với
chủ đề "Năng lượng và phát triển bền vững" đã diễn ra vào tháng 11/2009.

18


3. Quan hệ kinh tế giữa hai nước Pháp – Việt
3.1. Hỗ trợ phát triển
Việt Nam là một trong ít nước được hưởng cả ba kênh viện trợ tài chính
của Pháp là viện trợ phát triển chính thức từ ngân khố và cho vay ưu đãi từ
Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) và từ Quỹ Đoàn kết ưu tiên (FSP). Pháp hiện
là nhà tài trợ song phương ODA thứ hai cho Việt Nam, sau Nhật Bản. Việt
Nam đứng thứ 7 trong số các nước hưởng ODA của Pháp. Đến nay, Pháp đã
cấp cho Việt Nam vay ưu đãi trên 2 tỷ euro cho các dự án, trong đó đáng chú
ý là dự án vệ tinh VNREDSAT1 (57,8 triệu euro), dự án tầu điện ngầm Hà
Nội (280 triệu euro), dự án trường đại học khoa học công nghệ Hà Nội (100
triệu euro)... Năm 2008, Pháp đứng đầu trong số các nhà tài trợ song phương
tại CG, cam kết viện trợ 380 triệu đô-la cho Việt Nam cho năm 2009 (tăng so

với 228 triệu năm 2007).

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Francois Fillon
ngày 3/10/2007.

19


Theo tinh thần Tài liệu khung về quan hệ đối tác Việt Nam – Pháp giai
đoạn 2006-2010 (ký ngày 15/9/2006), Pháp cam kết viện trợ cho Việt Nam
1,4 tỷ đô –la, tập trung thế mạnh của Pháp vào 4 lĩnh vực ưu tiên: xây dựng
cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, chuyển giao công nghệ, phát triển nông nghiệp,
công nghiệp (điện năng, năng lượng sạch và công nghệ chế biến) và phát triển
lĩnh vực tài chính phi ngân hàng.
3.2. Trao đổi thương mại giữa hai nước
Trong số các nước châu Âu, Pháp là bạn hàng lớn thứ 3 của Việt Nam
(sau Anh và Đức). Việt Nam luôn là phía được hưởng thặng dư thương mại.
Từ năm 1990 đến 1996, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước tăng
bình quân khoảng 10%/năm. Giai đoạn 1997-2005, mức tăng trưởng bị chậm
lại, nhưng từ năm 2006 đến nay, thương mại song phương phát triển tương
đối nhanh. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam và Pháp có tính chất bổ
sung cho nhau, đây là một thuận lợi để phát triển thương mại song phương
hơn nhiều hơn nữa
Việt Nam xuất khẩu sang Pháp hàng hóa có tỉ lệ tiêu dùng thiết yếu
cao, tương đối phong phú, đa dạng bao gồm: giầy dép, dệt may, đồ gia dụng,
hàng nông, lâm, thuỷ sản, đá quý, đồ trang sức, đồ điện, điện tử, dụng cụ cơ
khí, gốm sứ các loại, cao su, than đá, đồ chơi, sản phẩm thể thao, giải trí, sản
phẩm nhựa, hàng mây tre đan. Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu từ Pháp về Việt
Nam bao gồm: máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ, dược phẩm, hóa
chất, hàng dệt may cao cấp, đá quý, đồ trang sức, rượu, đồ uống, sản phẩm

cao su, dụng cụ quang học, đo lường, y tế, mỹ phẩm, bột mì, xe các loại và
phụ tùng.

20


Nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt Nam
Đơn vị: triệu USD
Mặt hàng
Giày dép
Dệt may
Cà phê
Đồ gỗ
Thủ công
Hải sản

2005
180,4
103,4
22,7
74,2
8,8
39,3

2006
195
142
26,5
83,8
11

52

2007
201
150
49
92
11,9
63,6

2008
195,2
150,3
47,5
101,3
12,8
91,7

2009
159
138,5
37,8
70,3
7,9
83,8

2010
194,6
146
26

82
10
121

2011
244
202
34
83
9,5
131

2012
237
174
73
91
7,4
117

Nhóm hàng nhập khẩu chính từ Pháp
Đơn vị: triệu USD
Mặt hàng
Máy móc, thiết bị
Tân dược
Nguyên liệu dệt may
Ô tô nguyên chiếc
Linh kiện điện tử
Phương tiện vận tải
Sữa và sản phẩm sữa


2005
189,5
81,7
5,2
0,4
6,2
NA
NA

2006
123
105,9
6,6
NA
5,8
NA
NA

2007
733
133
7
NA
9,7
NA
NA

2008
394,1

157,7
8,9
1,0
4,0
NA
NA

2009
187,7
193
8,3
NA
9,6
153,6
10,1

2010
167,7
198
10,7
3,7
13
221,6
17,5

2011
197
230
11,2
10,4

16,6
307,9
29

2012
179
252
11
15
10
652
61

Trong năm 2008, cơn bão khủng hoảng kinh tế tài chính, GDP Pháp
tăng trưởng chỉ 0,1%, xuất nhập khẩu giảm sút, sức mua của người dân Pháp
cũng giảm. Do đó, kim ngạch những mặt hàng chủ lực của Việt Nam đều bị
ảnh hưởng. Tổng kim ngạch xuất khẩu giảm từ 1,705 tỉ (2007) xuống 1,633 tỉ
Euro (2008).
Sang năm 2009, thương mại hai chiều đã tăng trở lại mặc dù GDP Pháp
suy thoái, đạt 1,744 tỉ Euro, tăng khoảng 5,92% so với năm 2008. Đến cuối
năm 2010, kinh tế Pháp hồi phục ở khoảng 1,4%, nhu cầu tiêu dùng tăng
nhanh, kim ngạch xuất khẩu tiếp tục trên đà phát triển và khoảng cách giá trị
xuất nhập khẩu có sự thu hẹp. Đến hết tháng 9 nam 2010, Pháp là nước đứng
thứ 19 trong số các nhà nhập khẩu của Việt Nam, chiếm 14% tổng giá trị nhập
khẩu với 717 triệu USD (tăng 27% so với năm 2009)

21


Sang năm 2011, tăng trưởng kinh tế Pháp ước đạt 1,6%, sức mua thị

trường cải thiện đáng kể nên thị trường xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng
tốt. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như đồ gia dụng, giày dép,
sản phẩm dệt may đạt mức tăng trưởng cao và ổn định. Xuất khẩu thủy sản
tăng mạnh năm 2010. Dự kiến thặng dư thương mại của Việt Nam năm 2011
chạm ngưỡng 1 tỉ Euro
Trong các bạn hàng quốc tế, Pháp có khối lượng xuất khẩu vào Việt
Nam đứng thứ 15 với mặt hàng quan trọng nhất là dược phẩm. Một số nhóm
hàng cũng có sức tăng mạnh như: sữa và sản phẩm từ sữa, hóa chất, cao su,
phương tiện vận tải khác, sản phẩm từ thép, máy móc, thiết bị, phụ tùng khác
và phương tiện vận tải,...Nhập khẩu của Việt Nam từ Pháp tăng đột biến từ
cuối năm 2009 và vẫn duy trì tốc độ tăng cao đến hết 2010 do Vietnam
Airlines đã ký thỏa thuận mua 4 máy bay Airbus A380 (giá trung bình khoảng
từ 200 đến 300 triệu USD/chiếc). Nếu hai bên hoàn thành thỏa thuận mua bán
đã ký, dự kiến kim ngạch nhập khẩu thiết bị bay từ Pháp trong các năm tới sẽ
tiếp tục tăng. Năm 2010 nhập khẩu của Việt Nam tăng gần 50% tiếp tục tăng
trong 6 tháng đầu năm 2011, nhưng cũng chững lại trong quí 3 và giảm mạnh
trong quí 4. Các mặt hàng giảm nhập khẩu hàng đầu là ô tô du lịch, mỹ phẩm
và rượu vang.

Rượu vang Pháp nổi tiếng

22


Thống kê của Hải quan Việt Nam cho thấy, kim ngạch nhập khẩu của
Việt Nam từ Pháp năm 2011 tăng 24,35% so với năm 2010. Nhập khẩu từ
Pháp giai đoạn 2000 – 2010 tăng mạnh một mặt là do nhu cầu đẩy mạnh hiện
đại hóa ngành công nghiệp, phát triển hàng không dân dụng của Việt Nam,
mặt khác là do đời sống người dân được nâng cao, hình thành tầng lớp người
thu nhập trên trung bình có nhu cầu về hàng hóa chất lượng cao.

Tuy nhiên, việc trao đổi thương mại kinh tế giữa hai nước còn gặp
nhiều khó khăn:
Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Pháp thời gian quan tăng
trưởng tốt là do cơ cấu hàng hóa xuất thị trường này có tỷ lệ hàng tiêu dùng
thiết yếu cao, chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Biến động tỷ giá giữa đồng Việt
Nam và Euro trong năm qua cũng có lợi cho xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng
hiện sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vẫn gặp một số khó khăn tại Pháp khi
phải cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm tương tự của các nước được hưởng
chính sách thương mại ưu đãi của EU (Đông Âu, Châu Phi, các nước vùng
Caribe và Địa Trung Hải,…)
Xuất khẩu của Pháp sang Việt Nam cũng chịu sức ép cạnh tranh đáng
kể của hàng hóa đến từ các nước láng giềng với giá cả rẻ hơn, thậm chí còn
được hưởng ưu đãi tiếp cận thị trường nhờ có các hiệp định thương mại tự do
mà Việt Nam tham gia. Tuy cơ cấu hàng xuất khẩu hai nước có tình bù đắp,
đáp ứng được nhu cầu thị trường mỗi bên, nhưng với sự cạnh tranh giữa các
đối tác xuất nhập khẩu và tham gia các thị trường khác nhau của cả hai bên
hiện nay, nếu EU và Việt Nam không đạt được thỏa thuận về một hiệp định
thương mại tự do trong khi mỗi bên lại tham gia vào các thỏa thuận mở cửa
thị trường với các nền kinh tế khác thì sẽ gây bất lợi cho giao thương Việt –
Pháp.
3.3. Lĩnh vực đầu tư
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế khả quan trong nhiều năm và sự ổn định
về chính trị, Việt Nam là nước được các nhà đầu tư Pháp đánh giá cao về tiềm
23


năng, triển vọng phát triển kinh tế cũng như về môi trường đầu tư an toàn, ổn
định với nhiều ưu đãi. Các nhà đầu tư Pháp có mặt tại Việt Nam từ rất sớm,
ngay từ những năm đầu tiên khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành
(1987). Liên tục trong nhiều năm qua, Pháp là quốc gia dẫn đầu các nước EU

về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tính đến nay có khoảng 300 doanh nghiệp
Pháp với 336 dự án đang triển khai tại Việt Nam (một sô doanh nghiệp có
nhiều cơ sở trên khắp cả nước), tổng số vốn đầu tư xấp xỉ 3 tỷ USD, xếp thứ
15/93 quốc gia và vùng lãnh thổ và là nước thứ 2 thuộc EU đầu tư tại Việt
nam (đứng đầu là Hà Lan).
Thời gian gần đây, FDI từ Pháp vào Việt Nam tuy có lúc giảm do kinh
tế thế giới bất ổn nhưng vẫn rất năng động. Năm 2010 có 25 dự án đầu tư của
Pháp, trong đó có 4 dự án chiếm tới 86% tổng giá trị đầu tư, bao gồm các lĩnh
vực mỹ phẩm và nước hoa, sản xuất phần mềm, dịch vụ.

Lễ ký thỏa thuận hợp tác giữa tập đoàn bảo hiểm AXA của Pháp và Tổng công ty Cổ phần
Bảo Minh bằng việc sở hữu 16,6% cổ phần của Bảo Minh.

Đại sứ Pháp tại Việt Nam Jean-Francois Girault khẳng định, Pháp luôn
giữ vị trí hàng đầu trong các nước Châu Âu đầu tư vào thị trường Việt Nam.
Các doanh nghiệp của Pháp tại Việt Nam đều mong muốn được có mặt trong
nhiều lĩnh vực, muốn Việt Nam mở cửa nhiều hơn nữa những lĩnh vực có đầu
24


tư nước ngoài, mong muốn Việt Nam có đối tác tư nhân tham gia quản lý
cộng động như giao thông, năng lượng và xử lý rác. Số liệu thống kê vốn đầu
tư của Pháp ở Việt Nam vào các ngành cho thấy sự phù hợp tương đối của các
chỉ số này với yêu cầu về cơ cấu một nền kinh tế hiện đại, phù hợp với nhu
cầu phát triển của Việt Nam trong cộng cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Sự gặp gỡ giữa nhu cầu và lợi ích của các bên chính là nền tảng cho
sự phát triển nhanh chóng của mối quan hệ đầu tư giữa Việt Nam và Pháp.
Hiện nay, các nước trong khối ASEAN là Singapore, Indonesia, Thái
Lan, Malaysia,… đã có dự án đầu tư được triển khai tại Pháp nhưng Việt Nam
hầu như chưa có doanh nghiệp nào làm được điều này. Tổng Giam đốc Phòng

Thương mại và Công nghiệp Pháp tại Việt Nam (CCIFV) Guillaume Crouzet
khẳng định chính phủ Pháp luôn tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam đầu
tư vào Pháp. Còn theo ông Nguyễn Đức, Giam đốc khu vực ASEAN, Tổ chức
Invest in France, khó khăn nhất của doanh nghiệp Việt khi xâm nhập thì
trường Pháp là năm vững được các qui trình, thủ tục đăng ký đầu tư đáp ứng
được các tiêu chuẩn của thị trường này.

 Viện trợ phát triển ODA
Việt Nam hiện đứng thứ 7 trong số các nước hưởng ODA của Pháp.
Trong những năm gần đây, Pháp đã liên tục cam kết tăng ODA cho Việt Nam.
Giai đoạn 2006 – 2010, Pháp cam kết dành cho Việt Nam khoản ODA 1,4 tỷ
Euro cho các dự án trong lĩnh vực ưu tiên nêu trong Tài liệu khung về đối tác
Việt Nam – Pháp 2006 – 2010 như: cơ sở hạ tầng, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và
nhỏ, nông nghiệp và an toàn thực phẩm, dịch vụ, ngân hàng, tài chính.
Pháp đã định hướng hợp tác trung hạn với Việt Nam, tập trung thế
mạnh của Pháp vào 4 lĩnh vực ưu tiên:
- Hỗ trợ Việt Nam cải cách pháp luật
- Hỗ trợ chương trình hiện đại hóa hệ thống giáo dục và nghiên cứu
- Hỗ trợ chuyển đổi nền kinh tế

25


×