Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

ĐIỀU TRA NGHIÊN CỨU HIỆN TƯỢNG BỒI LẤP CỬA SÔNG NHẬT LỆ VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.29 KB, 14 trang )

ĐIỀU TRA NGHIÊN CỨU HIỆN TƯỢNG BỒI LẤP CỬA SÔNG NHẬT LỆ VÀ
CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG
A. THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
1. Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Lập Dân.
2. Cơ quan chủ trì đề tài: Viện Địa lý - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
3. Các cá nhân tham gia thực hiện đề tài:
PGS.TSKH. Nguyễn Văn Cư; TS.Nguyễn Lập Dân; PGS.TS. Nguyễn Bá Quỳ;
PGS.TS. Nguyễn Văn Lai; TS. Đỗ Xuân Sâm; TS. Nguyễn Thị Thảo Hương; TS. Hoa
Mạnh Hùng; TS. Vũ Ngọc Quang; TS. Vũ Thu Lan; TS. Lê Văn Công; NCS. Đào Đình
Châm; ThS. Bùi Thị Mai; ThS. Phan Thanh Hằng; KS. Hoàng Thái Bình; KS. Lê Đức
Hạnh; KS. Nguyễn Quang Thành; ThS. Nguyễn Thái Sơn; CNCĐ. Nguyễn Văn Muôn;
CN. Nguyễn Quang Minh; PGS. TS. Phạm Thị Minh Châu; CN. Nguyễn Hoài Thư
Hương; CN. Đào Minh Huệ; CN. Nguyễn Thị Lan Hương; CN. Lê Thị Thoa; CN.
Nguyễn Thị Huế; CN. Trần Thị Ngọc Ánh; CN. Nguyễn Thị Lịm; ThS. Nguyễn Trung
Đức; KS. Lê Thị Hải Yến; KS. Trần Thanh Tùng; ThS. Doãn Hà Phong; CN. Nguyễn
Ngọc Thành; KTV. Trần Thị Thuyết; KTV. Nguyễn Minh Châu.
4. Mục tiêu của đề tài:
- Xác định hiện trạng, nguyên nhân biến hình lòng dẫn và bồi lấp cửa sông Nhật
Lệ.
- Đề xuất các giải pháp khoa học kỹ thuật; xử lý, phòng chống xói lở, bồi tụ cửa
sông thông luồng Nhật Lệ.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu truyền thống kết với phương pháp hiện đại,
đó là:
- Phương pháp phân tích hệ thống và kế thừa các tài liệu đã có nhằm thống kê, phân
tích đánh giá các tác nhân gây xói lở, bồi tụ bờ biển, cửa sông.
- Phương pháp khảo sát đo đạc ngoài hiện trường theo tuyến, điểm đặc trưng nhằm
bổ sung tài liệu và kiểm tra kết quả nghiên cứu.
- Phương pháp viễn thám, bản đồ và hệ thống tin địa lý (GIS) nhằm theo dõi, đánh
giá hiện trạng và diễn biến xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông trên toàn dải.
- Phương pháp chuyên gia.


- Phương pháp mô hình số trị thuỷ động.
6. Bố cục của đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có 3 chương:
- Chương 1: Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và ảnh hưởng của chúng
đến quá trình xói lở bờ biển, bồi lấp cửa sông Nhật Lệ.


- Chương 2: Hiện trạng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông và biến động lòng dẫn khu
vực cửa sông Nhật Lệ và lân cận.
- Chương 3: Phân tích, xác định nguyên nhân và đề xuất các giải pháp phòng chống
xói lở bờ biển, bồi lấp cửa sông Nhật Lệ.
B. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI
MỞ ĐẦU
Nghiên cứu xói lở, bồi tụ bờ biển, cửa sông đã được hầu hết các nước trên thế giới
quan tâm. Ở Việt Nam, xói lở bờ biển, cửa sông là dạng thiên tai nặng nề xảy ra ở cả ba
miền, diễn biến hết sức phức tạp, gây thiệt hại rất lớn về người và của; để lại hậu quả lâu
dài về kinh tế - xã hội và môi trường sinh thái. Đứng trước thiên tai xói lở, bồi tụ, Nhà
nước và một số địa phương đã cho triển khai các đề tài, dự án nhằm xác định nguyên
nhân và tìm biện pháp phòng chống hữu hiệu. Các công trình nghiên cứu đã thu được
nhiều kết quả có giá trị về mặt khoa học và thực tiễn; góp phần không nhỏ vào việc chỉnh
trị cửa sông, bờ biển, giảm nhẹ thiên tai xói lở - bồi tụ. Song do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan nên sự gắn kết giữa các vùng còn hạn chế, nhiều vấn đề về quy
luật diễn biến cửa sông, bờ biển, cơ chế của quá trình bồi tụ, xói lở vẫn chưa được giải
quyết thỏa đáng.
Cửa Nhật Lệ là cửa sông của sông Kiến Giang. Sông Kiến Giang có diện tích lưu
vực 2.650km2, nằm trong vùng trũng của duyên hải Trung Bộ. Địa hình lưu vực sông
Kiến Giang chủ yếu là đồi núi thấp, độ cao bình quân lưu vực đạt 234m và độ dốc đạt
20,1%. Lưu vực có dạng hình tròn, là tập hợp của 2 nhánh sông Kiến Giang và Đại
Giang. Bề mặt lưu vực bị chia cắt mạnh nên mạng lưới sông suối khá phát triển với mật
độ lưới sông 0,84 km/km2. Phần hạ lưu sông thuận lợi cho việc tập trung nước nên dễ bị
úng ngập trong mùa mưa. Trong những năm gần đây, cửa sông bị bồi lấp do doi cát phía

Nam cửa sông phát triển gây cản trở giao thông, thoát lũ và gây xói lở phía bờ trái; uy
hiếp các công trình dân sinh kinh tế của thành phố Đồng Hới. Trước những lý do nêu
trên, việc tiến hành đề tài: “Nghiên cứu hiện trạng, xác định nguyên nhân và đề xuất các
giải pháp phòng chống bồi lấp cửa sông nhằm khai thông luồng Nhật Lệ, Quảng Bình”
mang tính bức xúc, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn.
Chương 1
ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÚNG ĐẾN XÓI LỞ BỜ BIỂN, BỒI LẤP
CỬA SÔNG NHẬT LỆ
1. Vị trí địa lý.
Cửa Nhật Lệ thuộc địa phận thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, có toạ độ địa lý
0
17 29' vĩ độ Bắc và 106038' kinh độ Đông. Trước khi đổ ra biển, đoạn cửa sông Nhật Lệ
từ Quán Hàu cho tới thành phố Đồng Hới, có hướng gần như Á kinh tuyến và khi đổ ra


biển, cửa sông có hướng Đông Bắc, còn đường bờ biển khu vực cửa sông có hướng Tây
Bắc - Đông Nam.
2. Đặc điểm địa hình.
Địa hình khu vực nghiên cứu nhìn chung thấp dần từ Tây sang Đông, bởi đây là
chân sườn phía Đông của dãy Trường Sơn tiếp giáp với biển Đông. Đồi núi chiếm 85%
diện tích toàn tỉnh và bị chia cắt mạnh.
3. Đặc điểm và sự phân bố của trầm tích tầng mặt hiện đại khu vực ven biển,
cửa sông Nhật Lệ.
Trên cơ sở điều tra khảo sát ngoài hiện trường và kết quả phân tích mẫu vật qua các
đợt khảo sát của Viện Địa lý ở khu vực cửa sông Nhật Lệ cho thấy: Trầm tích hiện đại
tầng mặt trong khu vực nghiên cứu gồm có sạn, cát thô - cát trung, cát trung, cát trung cát nhỏ, cát nhỏ, cát bột, bột, bột sét.., phần lớn trầm tích hiện đại tầng mặt ở khu vực bờ
biển cửa sông Nhật Lệ có nguồn gốc biển, gió biển, sông biển và sông. Các trầm tích hạt
thô (sạn, cát thô - cát trung, cát trung, cát trung - cát nhỏ) được phân bố ở dải ven bờ
dưới các dạng cồn, val cát cho tới độ sâu 6m, còn các trầm tích hạt mịn (cát nhỏ, cát bột,

bột, bột sét..) được phân bố ở trong lòng dẫn sông và đáy biển ở độ sâu dưới 6m nước.
Trầm tích hiện đại ở dải ven biển cửa sông Nhật Lệ phân bố ở diện hẹp, kéo dài
cùng phương với đường bờ biển. Trầm tích cát trung, cát nhỏ, bột có chiếm từ 50 - 90%,
các trầm tích chuyển tiếp cát thô - cát trung, cát trung - cát nhỏ, cát - bột mỗi cấp hạt chỉ
chiếm từ 30 - 40%. Trầm tích tầng mặt hiện đại đa phần có độ chọn lọc (S o) tốt, giá trị So
đạt từ 1 - 2, riêng đối với các trầm tích sét bột độ chọn lọc kém hơn với giá trị S o đạt từ
2,7 - 5. Trầm tích ở dải ven biển có đường kính trung bình (M d) thay đổi từ 0,1 - 1,1mm,
có màu trắng, trắng xám, trắng nhạt và vàng trắng. Đối với các trầm tích trong sông, do
có lẫn thành phần hữu cơ nên thường có màu xám xanh hoặc nâu xám, giá trị M d thay đổi
từ 0,003 - 0,1mm.
4. Biến động hình thái địa hình và vai trò của trầm tích hiện đại tầng mặt vùng
ven biển, cửa sông Nhật Lệ.
4.1. Biến động hình thái địa hình vùng ven biển, cửa sông Nhật Lệ.
Địa hình bờ biển, cửa sông Nhật Lệ chủ yếu là các dạng cồn, val, bãi... có nguồn
gốc biển, biển gió. Đường bờ biển ở đây kéo dài theo phương Tây Bắc - Đông Nam, bờ
biển chủ yếu được thành tạo bởi các cồn, val cát kéo dài cùng phương với đường bờ.
Trên cơ sở so sánh và phân tích hình thái địa hình, đường bờ, lòng dẫn đoạn cửa
sông ven biển trên các bản đồ qua các năm có thể nhận thấy đường bờ biển khu vực cửa
sông Nhật Lệ có diễn biến khá phức tạp. Các quá trình bồi - xói xảy ra khá mạnh, hiện
tượng xói lở thường xảy ra ở đoạn bờ phía Bắc cửa sông giáp với đường giao thông đạt
tốc độ xói từ 5 - 10m/năm. Ngược lại, đoạn bờ ở phía Nam lại được bồi với tốc độ bồi
đạt khoảng 0,5 m/năm. Trong thực tế, quá trình xói - bồi thường xảy ra ở các bãi ven bờ
biển và biến động theo mùa nên đường bờ biển ở đây được gọi là bờ biển xói lở - tích tụ.
Trục lòng dẫn khu vực cửa sông Nhật Lệ có xu hướng dịch chuyển về phía Bắc, có thể
nói hiện tượng dịch chuyển cửa sông này đã làm cho đoạn bờ phía Bắc cửa sông bị xói lở
mạnh và khu vực phía Nam cửa xuất hiện nhiều các bar, doi cát chạy song song với
đường bờ biển. Vào mùa mưa lũ, khi lũ lớn xuất hiện, cửa sông được mở rộng ra do dòng


chảy lũ kết hợp với dòng triều rút đã phá huỷ các bar, doi cát chắn ngang cửa, nhưng quá

trình bồi lấp cửa sẽ lại xảy ra ngay sau khi kết thúc các đợt lũ.
4.2. Vai trò động lực của trầm tích tầng mặt đối với sự phát triển thành tạo địa hình
ở vùng ven biển cửa sông Nhật Lệ.
Trên quan điểm đánh giá tổng hợp hệ thống vai trò động lực của các yếu tố thuỷ
thạch động lực, chế độ thuỷ hải văn, địa hình, địa chất,... đề tài đã có những nhận định
như sau:
- Khu bờ biển hiện đại cửa sông Nhật Lệ thuộc loại bờ biển mài mòn - tích tụ, sườn
bờ ngầm có độ dốc lớn, đường bờ thường có vách xói lở ngay trên sườn của các cồn, đụn
cát, vai bờ và các cửa sông phát triển dạng liman. Vai trò động lực của các quá trình gió,
ngoài việc tác động kết hợp với sóng chúng còn đóng vai trò vận chuyển, di chuyển và
vun cao dần các val cát để tạo nên các val bờ và các đụn cát có độ cao phổ biến từ 5 15m ở khu bờ biển.
- Khu vực nghiên cứu thường xuyên chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc vào
mùa đông, gió mùa Tây Nam vào mùa hè và các hướng gió Đông trong năm. Phần lớn
các hướng sóng chính trong năm đều có điều kiện phát triển mạnh, tác động tới khu bờ
biển cửa sông. Đặc biệt vào những ngày có dông, bão thì vai trò của sóng gió có tính phá
huỷ bờ biển khá nghiêm trọng. Đó cũng chính là những nhân tố tạo ra áp lực sóng vỗ bờ
và dòng chảy ven bờ, một nguyên nhân quan trọng đóng vai trò chính trong việc hình
thành bờ biển mài mòn - tích tụ. Kết quả của các quá trình này là thành tạo các val, cồn,
doi cát kéo dài dọc theo đường bờ biển lấp đầy ở các đoạn bờ lõm và khu vực cửa sông ở
dải ven biển Nhật Lệ.
- Đối với các nhân tố thuỷ văn khu vực, tuỳ theo thời gian và cường độ mưa lũ
trong lưu vực mà mức độ phá huỷ, biến động của lòng dẫn cửa sông bị thay đổi nhanh
hay chậm. Quá trình biến động của luồng lạch vùng cửa sông Nhật Lệ thường xảy ra
tương đối nhanh. Cho nên có thể nói khu vực ven biển cửa sông khu vực nghiên cứu các
nhân tố sóng, dòng chảy và gió đóng vai trò chính trong quá trình phát triển bar ngầm,
bãi bồi ven biển, cửa sông.
- Hình thái địa hình đường bờ biển ở đây phần lớn có dạng vách, bậc ở đoạn bờ nhô
ra biển còn các dạng tích tụ val, doi... ở đoạn bờ lõm. Độ dốc sườn bờ ngầm cộng với
mặt biển thoáng, chế độ thuỷ văn sông chỉ mạnh vào mùa lũ đã phản ánh vai trò động lực
của sóng biển đối với khu bờ biển, cửa sông Nhật Lệ. Tại đây, sóng và dòng ven đã áp

sát vào bờ để xâm thực, vận chuyển, sắp xếp lại vật liệu dưới dạng các val, cồn, doi cát
kéo dài dọc theo đường bờ biển, đặc trưng cho kiểu bờ biển mài mòn - san bằng, lấp đầy
có kiểu cửa sông thẳng (liman).
- Vật liệu của trầm tích tầng mặt hiện đại trong khu vực nghiên cứu ngoài một phần
do sông mang ra được tích tụ ở cửa sông, còn phần lớn là do các quá trình mài mòn, xâm
thực bờ tại chỗ.
5. Đặc điểm địa chất và kiến tạo.
Vùng cửa sông ven biển Nhật Lệ được thành tạo chủ yếu bởi các trầm tích Đệ Tứ có
nguồn gốc gió biển, biển, sông biển và sông. Thành phần cơ lý của trầm tích trong các
cồn, đụn cát ven biển bao gồm cát hạt mịn, hạt nhỏ màu xám trắng, xám vàng có nguồn
gốc biển gió và thành phần cấp hạt khá đồng nhất, cấp hạt 0,1 - 0,5mm chiếm ưu thế


tuyệt đối, độ mài tròn và chọn lọc khá tốt. Trầm tích biển hiện đại có cấp hạt từ mịn đến
thô: Cát hạt mịn, hạt trung chiếm phần lớn trong trầm tích bãi biển hiện đại. Cát hạt vừa
đến thô chỉ phân bố hạn hẹp trong các đoạn bờ sát cửa sông. Trầm tích nguồn gốc sông
biển và sông thường phân bố ở đồng bằng và trong lòng dẫn ở khu vực đoạn lòng dẫn
gần cửa sông dưới các dạng địa hình đồng bằng ven trũng sông, bãi bồi, doi cát... Cát hạt
mịn chiếm phần lớn trên các bãi, còn bột, bột sét phân bố ở khu vực luồng lạch và lòng
dẫn.
Theo kết quả nghiên cứu địa chất cho thấy, trong phạm vi khu vực nghiên cứu có
các thành tạo địa chất như sau:
5.1. Địa tầng.
- Giới Paleozoi, gồm: Hệ Ocdovic thượng - Silua hạ, hệ tầng Long Đại; Hệ Silua
thượng - Devon hạ, hệ tầng Đại Giang (S2-D1 đg).
- Giới Kainozoi, gồm: Hệ Neogen: hệ tầng Đồng Hới (N đh); Hệ Đệ Tứ.
5.2. Các đứt gãy kiến tạo.
Các hệ thống đứt gãy có ảnh hưởng đến động lực phát triển khu vực nghiên cứu là
hệ thống đứt gãy Tây Bắc - Đông Nam.
5.3. Địa chất công trình.

Theo kết quả nghiên cứu đã công bố của tác giả Cao Thị Lụa và nnk cho thấy, khu
vực nghiên cứu các lớp đất từ trên xuống dưới có những đặc điểm như sau:
- Lớp 1: Đất lấp là đất sét pha màu nâu đỏ, nâu vàng lẫn dăm sạn, cứng.
- Lớp 2: Cát hạt nhỏ - trung màu xám vàng, nâu vàng, hơi ẩm - bão hoà nước, chặt
vừa.
- Lớp 3: Đất cát pha màu xám tro, xám ghi, xám đen, trạng thái dẻo - chảy.
- Thấu kính 3a: Sét pha lẫn tàn tích thực vật màu xám tro, xám đen, trạng thái dẻo
chảy.
- Lớp 4: Cát hạt trung bình màu xám trắng, xám ghi, xám đen, bão hoà nước, chặt
vừa.
- Lớp 5: Đất dăm sạn lẫn sét pha màu nâu xám, cứng.
6. Đặc điểm khí hậu.
Nhìn chung, khí hậu của Quảng Bình khắc nghiệt. Điều đó được thể hiện qua chế độ
nhiệt, ẩm và tính chất chuyển tiếp của khí hậu. Mùa mưa trùng với mùa bão. Tần suất
bão nhiều nhất là vào tháng 9 (37%). Bão thường xuất hiện từ tháng 7 và kết thúc vào
tháng 11. Bão kèm theo mưa lớn trong khi lãnh thổ lại hẹp ngang, độ dốc lớn nên thường
gây ra lũ quét, lũ bùn đá và ngập lụt, ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động sản xuất, đời
sống và đặc biệt là gây xói lở bờ biển nghiêm trọng, bồi lấp cửa sông làm ảnh hưởng đến
vấn đề giao thông thuỷ và thoát lũ ở khu vực nghiên cứu.
7. Đặc điểm thuỷ văn khu vực nghiên cứu.
7.1. Đặc điểm dòng chảy.
a. Đặc điểm mạng lưới sông suối lưu vực sông Kiến Giang.
Dòng chính sông Kiến Giang có chiều dài 96km với diện tích lưu vực là 2.650km 2,
có hướng chảy Tây Nam - Đông Bắc ở phần thượng du và chuyển hướng chảy Đông
Nam - Tây Bắc chạy song song với đường bờ biển được ngăn cách với biển bằng dãy đụn
cát cao ở phần hạ du, đổ ra biển qua cửa Nhật Lệ. Mạng lưới sông suối lưu vực sông


Kiến Giang gồm: Nhánh Đại Giang; sông Kiến Giang còn có 3 phụ lưu cấp I có chiều dài
lớn hơn 10km và diện tích lớn hơn 100km 2 là Hải Trung, Cẩm Ly, Rào Lệ Kỳ.

b. Tiềm năng nguồn nước trên lưu vực sông Kiến Giang.
Hàng năm, trên lưu vực đã sinh ra 5,29 tỷ m 3 nước chảy vào mạng lưới sông suối.
Nếu tính trung bình cho toàn diện tích lưu vực sẽ được một lớp dòng chảy 1.996mm,
tương ứng với moduyn dòng chảy 63,3 l/s.km 2 và hệ số dòng chảy đạt cao α = 0,73. So
với toàn lãnh thổ Việt Nam, đây là khu vực có tiềm năng nguồn nước mặt vào loại phong
phú.
8. Đặc điểm hải văn.
Các yếu tố hải văn bao gồm: thuỷ triều, sóng, dòng chảy biến đổi theo các chu kỳ
khác nhau kết hợp với điều kiện địa hình khu vực đã tạo nên chế độ động lực đặc thù ở
vùng ven biển cửa sông Nhật Lệ.
9. Đặc điểm kinh tế - xã hội và ảnh hưởng của chúng đến xói lở bờ biển và bồi
lấp cửa sông Nhật Lệ.
Ngoài các đặc điểm tự nhiên, quá trình phát triển, phân bố dân cư cũng như hoạt
động kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng trên lãnh thổ vùng nghiên cứu đều có ảnh hưởng
nhất định đến xu thế và động lực phát triển hiện tượng bồi - xói bờ biển, bồi lấp cửa
sông. Tác động của con người giữ một vai trò rất quan trọng, có thể thúc đẩy và làm sâu
sắc thêm các thiệt hại cho chính con người. Có thể nói con người đã góp phần trực tiếp
hoặc gián tiếp vào các quá trình xói lở bờ biển, bồi lấp cửa sông Nhật Lệ.
Chương 2
HIỆN TRẠNG XÓI LỞ - BỒI TỤ BỜ BIỂN, CỬA SÔNG VÀ BIẾN ĐỘNG LÒNG
DẪN VÙNG CỬA SÔNG NHẬT LỆ VÀ LÂN CẬN
1. Ứng dụng phương pháp viễn thám trong nghiên cứu biến động lòng dẫn và
đường bờ biển, cửa sông Nhật Lệ.
Phương pháp viễn thám sử dụng trong đề tài là giải đoán thông tin trên các ảnh vệ
tinh, bản đồ địa hình và các tài liệu khác có liên quan ở các thời gian khác nhau để phân
tích tình hình diễn biến lòng dẫn cửa sông và biến động bờ biển, cửa sông Nhật Lệ. Tóm
tắt quy trình xử lý thông tin từ ảnh và bản đồ địa hình theo sơ đồ tóm tắt trên hình 1 với
việc sử dụng các phần mềm xử lý ảnh và Hệ thông tin địa lý (GIS).



Từ kết quả phân tích, xử lý ảnh vệ tinh của các năm 1985, 1992, 1999 và 2006 cho
thấy:
- Đường bờ biển đoạn cửa sông Nhật Lệ về phía Nam tương đối ổn định, mức độ
biến đổi của đường bờ không đáng kể.
- Tại bờ trái phía trong sông khu vực cửa sông Nhật Lệ, xảy ra hiện tượng bồi lấp là
chủ yếu, tốc độ bồi lấp bờ trái cửa sông Nhật Lệ trong giai đoạn 1985 - 2006 trung bình
hàng năm là 0,75 m/năm. Ngược lại, ở phía bờ phải, đường bờ biển giai đoạn 1985 1999 tương đối ổn định nhưng đến thời kỳ từ 1999 - 2006 đường bờ tại mũi Mỹ Cảnh đã
bị xói mạnh với tốc độ trung bình khoảng 6 - 7 m/năm.
- Lòng dẫn của đoạn sông Nhật Lệ từ cửa sông đến cầu Nhật Lệ có sự biến đổi
tương đối rõ rệt. Trong thời kỳ từ 1985 - 1992, lòng dẫn của đoạn sông này có xu hướng
dịch chuyển dần về phía bờ phải, tốc độ dịch chuyển trung bình khoảng 2,5 m/năm. Giai
đoạn từ 1992 - 1999, lòng dẫn của đoạn sông này dịch chuyển khá nhanh về phía bờ trái,
tốc độ dịch chuyển lòng dẫn trung bình khoảng 7,0 m/năm. Giai đoạn từ 1999 - 2006,
lòng dẫn của đoạn sông này có sự dịch chuyển dần về bờ trái nhưng không đáng kể. Tuy
nhiên, cửa sông Nhật Lệ xuất hiện nhiều bãi chắn, nổi cao khi triều rút và bị ngập khi
triều lên. Các bãi ngầm trước cửa sông có xu thế phát triển kéo dài từ bờ phải chạy lấn
dần về phía bờ trái làm cho trục lòng dẫn sông chạy lệch áp sát bờ trái gây xói lở mạnh
bờ biển từ khách sạn Phong Nha đến khách sạn Hoa Hồng.


Lòng dẫn sông Kiến Giang đoạn từ cầu Nhật Lệ đến cầu Quán Hàu tương đối ổn
định qua các thời kỳ nghiên cứu.
2. Hiện trạng xói lở-bồi tụ bờ biển, bờ sông và biến dạng lòng dẫn khu vực
nghiên cứu.
2.1. Hiện trạng xói lở - bồi tụ bờ biển.
Quảng Bình dài khoảng 116km, có khoảng 32 đoạn bờ bị xói lở, với tốc độ và chiều
dài mỗi đoạn có sự khác nhau: Bố Trạch: 10 đoạn bị xói lở; Quảng Trạch: 3 đoạn bị xói
lở; Quảng Ninh: 6 đoạn bị xói lở; Lệ Thuỷ: 5 đoạn bị xói lở; Thành phố Đồng Hới: 8
đoạn bị xói lở.
2.2. Hiện trạng sạt lở bờ sông Kiến Giang - sông Nhật Lệ.

Qua kết quả nghiên cứu cho thấy: Xói lở trên sông Đại Giang diễn ra mạnh mẽ và
liên tục. Chiều dài các đoạn bị xói lở xảy ra tương đối lớn, xuất hiện ở xã Hiền Ninh dài
khoảng 4.500m, đoạn sông thuộc xã Xuân Ninh dài khoảng 3.500m. Hàng chục hộ dân
đã phải di dời đi nơi khác và hiện tại nhiều hộ dân cũng đang nằm trong khu vực có nguy
cơ sạt lở mạnh.
- Bờ sông Kiến Giang xói lở cũng xảy ra tương đối mạnh trên đoạn sông thuộc địa
bàn các xã Duy Ninh, Hiền Ninh huyện Quảng Ninh và cả phía thượng nguồn sông thuộc
huyện Lệ Thuỷ như các xã: Mỹ Thuỷ, Xuân Thuỷ, Lộc Thuỷ, An Thuỷ... Tổng chiều dài
sạt lở có thể lên đến trên 10.000m.
- Trên sông Nhật Lệ, tình hình sạt lở bờ diễn ra khá mạnh trong những năm gần đây
ở cả hai bên bờ sông, nhất là từ năm 2004 đến nay sạt lở đã gây ra những thiệt hại nặng
nề về đất đai, nhà cửa và cơ sở hạ tầng.
2.3. Biến động địa hình đáy và trục lòng dẫn vùng ven biển, cửa sông Nhật Lệ qua
các đợt khảo sát đo đạc thực tế.
Qua các đợt khảo sát cho thấy: Vào mùa mưa lũ, địa hình đáy biển phía trái cửa
sông bị xói mạnh, phía bên phải thì được bồi đáng kể tạo thành các bãi nổi thấp nằm
song song với đường bờ. Ngược lại vào mùa khô, đáy biển phía trái cửa sông được bồi tụ
nhẹ tạo thành các bãi cát nổi cao và thấp nằm ngay sát bờ và một vài luống cát nằm song
song với đường bờ biển. Phía phải cửa sông có hiện tượng xói yếu do dòng cát dọc bờ
vận chuyển lên phía Bắc, nhưng nhìn chung địa hình đáy ở khu vực này biến động không
nhiều.
- Vùng ven biển ở hai bên cửa sông, vào mùa lũ xuất hiện một số bar cát ngầm nằm
ở khu vực gần bờ và khu vực ngang trước cửa sông lệch về phía trái luồng. Vào mùa khô,
các bar cát này có xu thế chuyển dần vào giữa luồng ở phía trước khu vực cửa sông và
xuất hiện thêm các dải cát ngầm nằm rải rác bên phải luồng.
- Địa hình đáy luồng vùng cửa sông Nhật Lệ đang xảy ra hiện tượng bồi lấp mạnh
mẽ vào mùa ít mưa, trùng với thời kỳ hoạt động của gió mùa Tây Nam. Trong mùa mưa
lũ xảy ra hiện tượng bồi, xói xen kẽ song thiên về xói. Ngược lại, đoạn lòng dẫn từ cửa
sông cho đến cầu Nhật Lệ đang bị xói đáy mạnh vào mùa mưa lũ và được bồi nhẹ vào
mùa khô.



- Trục lòng dẫn có sự dịch chuyển rất phức tạp lúc chuyển sang trái, lúc sang phải,
có thể nhận thấy rằng trục lòng dẫn biến động theo mùa. Vào mùa mưa lũ, trục lòng dẫn
dịch chuyển về phía phải luồng, vào mùa khô thì trục lòng dẫn có xu hướng dịch dần về
phía bờ trái. Biên độ dịch chuyển lớn nhất đạt 400m. Tốc độ dịch chuyển rất lớn ở phía
ngoài cửa sông, có nơi đạt đến trên 260m/năm, ở ngưỡng cửa sông tốc độ này có giảm đi.
Càng vào sâu trong sông, trục lòng dẫn càng có xu thế ổn định hơn.
Chương 3
PHÂN TÍCH, XÁC ĐỊNH NGUYÊN NHÂN VÀ ĐỀ XUẤT
CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG XÓI LỞ BỜ BIỂN
BỒI LẤP CỬA SÔNG NHẬT LỆ
1. Những nhận định về nguyên nhân xói lở bờ biển, bồi lấp cửa sông Nhật Lệ.
Nguyên nhân xảy ra xói lở - bồi tụ là do tổng hoà các yếu tố tác động liên quan đến
tiến hoá tự nhiên của dải ven biển cửa sông và tác động của con người với ba nhóm
nguyên nhân: Ngoại sinh, nội sinh và nhân sinh, hoặc tổ hợp của 2 hoặc cả 3 nguyên
nhân đó.
- Nguyên nhân nội sinh: Là do tác động của hoạt động tân kiến tạo và chuyển động
hiện đại gây nên chuyển động nâng, hạ, tách dãn, trượt của lớp hoặc các mảng đất đá dẫn
tới xói lở hoặc bồi tụ ở khu bờ.
- Nguyên nhân ngoại sinh: Là địa hình - địa mạo, gió, sóng (sóng bão, sóng gió),
bão, biến đổi mực nước (mực nước dâng toàn cầu, mực nước dâng do bão và gió mùa,
mực triều), dòng chảy (dòng triều, dòng do gió, dòng sông và dòng do sóng).
- Nguyên nhân nhân sinh: Là hoạt động kinh tế - xã hội và xây dựng các công trình
ven biển rất đa dạng, phần lớn có tác động thúc đẩy ở mức độ khác nhau quá trình xói lở
bờ biển, bờ sông và bồi lấp cửa sông Nhật Lệ.
2. Nguyên nhân trực tiếp gây xói lở - bồi tụ bờ biển và bồi lấp cửa sông Nhật
Lệ.
2.1. Sóng và dòng chảy.
- Sóng: Khu vực nghiên cứu có 4 hướng sóng chủ yếu và gây tác động trực tiếp lên

bờ biển cửa sông Nhật Lệ là Bắc (B), Đông Bắc (ĐB), Đông (Đ) và Đông Nam (ĐN). Do
không có các bar, đảo che chắn nên sóng nước nồng có độ cao khá lớn. Vào mùa đông,
sóng ngoài khơi có hướng B khi vào gần bờ thì chuyển thành hướng ĐB, nên hướng sóng
ĐB chiếm tần suất khá lớn. Do khu vực nghiên cứu có hướng đường bờ NĐN - BTB nên
sóng ĐB tác động trực tiếp và có hướng gần vuông góc với đường bờ nên chúng có sức
phá huỷ rất lớn đối với bờ biển, cửa sông Nhật Lệ.
- Dòng chảy sóng: Qua kết quả tính toán của đề tài cho các hướng sóng đặc trưng là
ĐB, ĐN trong khu vực nghiên cứu cho thấy: Trong mùa đông, dòng chảy sóng ven bờ có
tốc độ lớn nhất đạt từ 1,1 - 1,4 m/s và có hướng Tây Bắc - Đông Nam. Vào mùa hè, dòng
chảy sóng ven bờ có tốc độ lớn nhất đạt từ 0,8 - 0,9 m/s và có hướng Đông Nam - Tây
Bắc. Nói chung, tốc độ dòng chảy giảm dần từ phía ngoài biển khi vào ven bờ, hướng
của dòng chảy sóng khá ổn định dọc bờ theo hướng sóng tác dụng. Dòng chảy sóng ven
bờ trong gió mùa Đông Bắc lớn hơn trong gió mùa Tây Nam nên khu vực ven biển Nhật


Lệ vào mùa đông mức độ biến động đường bờ và địa hình đáy mạnh hơn mùa hè khá
nhiều.
- Dòng chảy thuỷ triều: Thuỷ triều và dòng triều chỉ tác động gián tiếp đối với
đường bờ thông qua sự cộng hưởng với dòng sóng và dòng chảy sông. Tuy nhiên, nếu
xảy ra sự cộng hưởng các yếu tố bất lợi như triều cường, sóng lớn và gió mùa Đông Bắc,
tác động xói lở, biến động lòng dẫn sẽ rất lớn. Dao động mực nước trung bình tại cửa
sông Nhật Lệ là 1,6 - 1,8m vào thời kỳ triều cường, 0,5 - 0,6m vào thời kỳ triều kém.
Trong sông biến trình mực nước trong mùa lũ mực nước cực đại có thể lên đến hơn 2m.
- Dòng chảy tổng hợp: Dòng chảy tổng hợp trong khu vực cửa sông Nhật Lệ chủ
yếu do sự tương tác giữa dòng triều và dòng chảy sông. Trong mùa lũ, dòng chảy sông
ngòi tăng lên nhanh, tỷ lệ thời gian chảy ngược chảy xuôi giảm mạnh và biến mất hoàn
toàn khi có dòng lũ lớn, dòng chảy tổng hợp do dòng chảy lũ quyết định. Ngược lại,
trong mùa cạn dòng chảy sông ngòi giảm thấp thì dòng chảy tổng hợp ở khu vực cửa
sông lại do dòng sóng và dòng triều quyết định.
- Vận chuyển bùn cát: Ở khu vực ven biển cửa sông Nhật Lệ, ngoài dòng bùn cát

trong sông đưa ra còn tồn tại hai loại dòng bùn cát khác đó là: dòng vận chuyển bùn cát
dọc bờ và dòng vận chuyển bùn cát vuông góc với bờ (dòng bùn cát ngang).
Ở vùng biển cửa sông Nhật Lệ cơ chế độ vận chuyển bùn cát tuân theo quy luật
hoàn lưu của dòng chảy sóng.
Ở vùng cửa sông từ ngưỡng dưới cửa sông đến Quán Hàu, ngã ba Kiến Giang và
Đại Giang đến đập Mỹ Trung trong cả hai mùa đều xảy ra hiện tượng xói, bồi xen kẽ.
Vận chuyển bùn cát trong đoạn sông từ ngưỡng dưới cửa sông đến cầu Nhật Lệ do dòng
triều quyết định trong mùa kiệt và dòng chảy triều cộng với lũ quyết định trong mùa lũ.
Đoạn từ cầu Nhật Lệ đến cầu Quán Hàu dòng sa bồi do dòng triều chi phối mạnh trong
mùa kiệt và dòng chảy lũ với triều trong mùa lũ. Đoạn từ cầu Quán Hàu lên đến ngã ba
Kiến Giang và Đại Giang cho đến đập Mỹ Trung do dòng triều và dòng chảy mùa kiệt
quyết định trong mùa kiệt và dòng chảy lũ quyết định trong mùa lũ.
2.2. Đánh giá ảnh hưởng của đập Mỹ Trung và cầu Nhật Lệ đến quá trình xói lở, bồi
tụ cửa sông Nhật Lệ bằng mô hình HEC - RAS.
Đề tài đã sử dụng mô hình toán thuỷ văn HEC-RAS (HEC-River Analysis System)
của Hiệp hội các kỹ sư quân sự Hoa Kỳ để đánh giá ảnh hưởng của đập Mỹ Trung và cầu
Nhật Lệ đến quá trình xói lở, bồi tụ cửa sông Nhật Lệ.
- Đánh giá ảnh hưởng của đập Mỹ Trung đến diễn biến bồi - xói:
Kết quả cho thấy khi không có đập Mỹ Trung, lượng nước của sông Kiến Giang đổ
vào sông Nhật Lệ khoảng 40%, sông Long Đại 60%. Vào mùa lũ, lượng nước dễ dàng
chảy từ thượng nguồn chảy qua sông Kiến Giang và sông Long Đại cùng nhập vào sông
Nhật Lệ rồi đổ ra biển. Do địa hình phía trên đập Mỹ Trung thấp và rộng, bề rộng lòng
sông hẹp lưu lượng giảm dần và vận tốc tăng dần nên vào mùa lũ thường bị ngập úng với
diện tích khoảng 90km2.
Nhìn chung, trên sông Nhật Lệ có sự chênh lệch về vận tốc dòng chảy khi có đập,
tốc độ dòng chảy lũ giảm từ 0,10 - 0,35 m/s tuỳ theo trên từng mặt cắt. Như vậy, đập Mỹ


Trung đã làm giảm mức độ xói đáy ở ngưỡng dưới cửa sông. Song mức độ ảnh hưởng
này cũng không lớn.

- Đánh giá ảnh hưởng của cầu Nhật Lệ đến diễn biến bồi - xói:
Qua điều tra khảo sát và tính toán cho thấy, trên toàn bộ mặt cắt ngang cầu Nhật Lệ
tại lòng chính độ xói sâu mố cầu đạt từ 3,8 - 4,67m lớn hơn nhiều so với độ xói các vị trí
ở hai bên lòng dẫn cũng như các khu vực gần bờ sông. Kết quả tính toán này của đề tài
khá phù hợp với kết quả tính của TEDI. Nguyên nhân chính của các mức độ xói này là
do ở lòng chính có độ sâu và vận tốc dòng nước lớn hơn so với hai bên cầu.
Theo kết quả tính toán cho thấy, trong cả pha triều dâng và pha triều rút khi có cầu
Nhật Lệ thì lưu lượng và vận tốc dòng nước có sự thay đổi không lớn.
3. Đề xuất các giải pháp phòng chống xói lở bờ biển, bồi lấp cửa sông Nhật Lệ.
Giải pháp KHCN phòng chống xói lở bờ biển bao gồm 2 nhóm giải pháp chính: phi
công trình và công trình.
- Các giải pháp phi công trình: Trước hết là tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận
thức cho người dân về các tai biến của thiên tai và các nguyên nhân cơ bản (trong đó có
tác nhân con người) gây xói lở, bồi tụ để họ có ý thức thực hiện nghiêm chỉnh các luật:
Luật bảo vệ Môi trường, Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật Tài nguyên nước...
Xuất phát từ những đặc điểm, nguyên nhân và xu thế diễn biến xói lở, bồi tụ bờ
biển, cửa sông các giải pháp phi công trình cho khu vực nghiên cứu, bao gồm:
+ Tổ chức theo dõi diễn biến xói lở bờ biển, bồi lấp cửa sông về quy mô, cường độ,
hướng dịch chuyển theo định kỳ và không theo định kỳ với các tình huống bão, lũ xảy ra.
Xây dựng cơ sở dữ liệu kiểm soát xói lở, theo địa bàn huyện, tỉnh...
+ Thông tin cảnh báo, dự báo phải được thông báo kịp thời đến người dân và phát
lệnh cấp báo trường hợp khẩn cấp thông qua hệ thống thông tin quản lý kiểm soát xói lở
kết mạng giữa các cơ quan quản lý, cơ quan nghiên cứu khoa học và cộng đồng dân cư.
+ Điều chỉnh quy hoạch phát triển trước hết là điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội theo huyện, theo vùng lãnh thổ. Cần khoanh vi các vùng có nguy cơ
xói lở với các cấp khác nhau: mạnh, trung bình, yếu... nhằm bố trí hợp lý các tụ điểm dân
cư, các công trình dân sinh, kinh tế. Tổ chức di dời dân cư ra khỏi khu vực nguy hiểm
dưới các hình thức di dời vĩnh viễn theo kế hoạch quy hoạch; di dời tạm thời khi có cảnh
báo và di dời khẩn cấp khi có cấp báo.
- Các giải pháp công trình: Khu vực ven biển cửa sông Nhật Lệ là một trong những

vùng có chế độ thuỷ hải văn phức tạp, cho nên công trình bảo vệ sẽ rất khó đạt hiệu quả
nếu chỉ gia cố trực tiếp mái bờ, cho dù công trình có kiên cố đến đâu. Bãi biển do bị mất
cân bằng tải cát, ngày càng bị xâm thực và bị hạ thấp cao trình mặt bãi, làm cho công
trình gia cố bờ bị sập xuống, đẩy đường bờ lùi dần vào lục địa gây ra hiện tượng biển lấn.
Trong trường hợp này, có thể chỉ cần dùng những giải pháp chống xâm thực bãi biển,
hoặc kết hợp giữa gia cố bờ và công trình chống xâm thực bãi.
Để chống xói lở bờ, bãi biển người ta thường sử dụng 5 giải pháp sau:
+ Trồng rừng ngập mặn chống sóng, giữ cát ở phía ngoài bãi biển.


+ Nuôi bãi nhân tạo bằng cách đưa cát từ nơi khác (từ các bãi bồi cửa sông hoặc từ
phía ngoài đới sóng vỡ ở độ sâu trên 10m) đến bồi đắp vào vùng bãi bị xói.
+ Đê chắn sóng từ ngoài bờ và song song với đường bờ dạng đê nhô hoặc đê ngầm.
+ Hệ thống mỏ hàn ngăn dòng bùn cát dọc bờ.
+ Hệ thống mỏ hàn hình chữ T nhằm ngăn dòng bùn cát dọc bờ và giảm sóng và
dòng bùn cát từ bờ đưa ra phía biển sâu (công trình tổng hợp).
Đối với khu vực ven biển cửa sông Nhật Lệ và lân cận, do bờ biển hở, áp lực sóng
lớn, dòng chảy tiêu lớn nên đề tài kiến nghị nên sử dụng công trình tổng hợp bằng hệ
thống mỏ hàn hình chữ T hoặc công trình mỏ hàn kết hợp với đê chắn sóng ở phía ngoài
cách bờ từ 150 - 180m.
* Giải pháp công trình chống bồi lấp cửa sông: Sử dụng kè hướng dòng, tập trung
dòng chảy ở phía ngoài cửa sông và kè áp mái ở phía trong cửa sông nhằm mục đích:
Tập trung dòng chảy, tăng khả năng tự xói đáy, ổn định bờ luồng, lòng dẫn cửa sông;
Thoát lũ tốt, không gây ngập lụt vùng cửa sông, đẩy được bùn cát ra xa cửa sông.
- Giải pháp công trình chống xói lở bờ biển và bồi lấp cửa sông Nhật Lệ.
+ Phương án chống xói lở bờ biển khu vực cửa sông Nhật Lệ: Đề tài kiến nghị nên
sử dụng giải pháp công trình tổng hợp bằng hệ thống mỏ hàn hình chữ T.
+ Phương án chống bồi lấp cửa sông Nhật Lệ: Để chống bồi lấp khu vực cửa Nhật
Lệ, đề tài đề nghị sử dụng giải pháp xây dựng 2 đập hướng dòng chắn cát, giảm sóng K1
và K2 ở 2 bờ Bắc và bờ Nam cửa sông kéo dài về phía biển đến cao trình -3m. Theo tính

toán sơ bộ về các đặc trưng thuỷ thạch động lực và địa hình đáy khu vực, thiết kế công
trình K1, K2 song song với nhau, cách nhau khoảng 400m, hợp với đường bờ (N - B)
một góc 600, có chiều dài và kết cấu tương tự nhau.
4. Xây dựng cơ sở dữ liệu về xói lở - bồi tụ khu vực ven biển cửa sông Nhật Lệ.
- Quản lý tai biến xói lở - bồi tụ khu vực ven biển cửa sông Nhật Lệ bằng công nghệ
hệ thông tin địa lý.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu xói lở - bồi tụ khu vực ven biển cửa sông Nhật Lệ, bao
gồm thành lập cơ sở dữ liệu trong GIS; Ứng dụng của các chương trình AutoCAD, Micro
Station, PC Arc/Info, ArcView, MapInfo và một số các chương trình tiện ích khác; Xây
dựng cơ sở dữ liệu xói lở - bồi tụ vùng ven biển cửa sông Nhật Lệ phục vụ công tác
nghiên cứu hiện trạng, xác định nguyên nhân và đề xuất các giải pháp phòng chống bồi
lấp cửa sông.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu quy luật bồi tụ - xói lở bờ biển, cửa sông và dự báo sự phát triển đường
bờ ở đới ven biển cửa sông Nhật Lệ có ý nghĩa khoa học, thực tiễn lớn. Kết quả nghiên
cứu của đề tài trong các năm 2005 - 2007 đã làm sáng tỏ đặc điểm, hiện trạng xói lở - bồi
tụ, nguyên nhân bồi - xói bờ biển, bồi lấp cửa sông Nhật Lệ, nơi chịu tác động của các
nhân tố nội và ngoại sinh cùng với sự tác động thường xuyên của các hoạt động con
người.
1. Cấu trúc địa chất, địa hình và đặc trưng thạch học của các loại đất đá ở khu vực
bờ biển, cửa sông Nhật Lệ là các yếu tố quyết định phạm vi phân bố của hoạt động bồi -


xói bờ biển, cửa sông. Các nhóm trầm tích trẻ, bở rời trước tác động của sóng và dòng
chảy thường gây biến động luồng lạch, lòng dẫn ở khu vực cửa sông. Hình thái đường bờ
biển, cửa sông đã phân chia đới ven biển Quảng Bình thành các cung đoạn bờ độc lập có
chế độ thuỷ - thạch động lực và đặc điểm bồi - xói khác nhau. Ngoài ra, đề tài cũng làm
rõ các điều kiện tự nhiên khác của khu vực nghiên cứu như: Khí hậu - khí tượng, thuỷ
văn, hải văn, các hoạt động kinh tế – xã hội và ảnh hưởng của chúng đến xói lở bờ biển bờ sông, bồi lấp cửa sông Nhật Lệ.
2. Hoạt động bồi tụ, xói lở bờ biển, cửa sông ở đới ven biển Quảng Bình nói chung

và khu vực cửa sông Nhật Lệ nói riêng xảy ra ở mức độ trung bình. Hoạt động xói lở
chiếm ưu thế vào mùa gió mùa Đông Bắc, còn hoạt động bồi tụ xảy ra vào mùa hè (gió
mùa Tây Nam).
3. Nguyên nhân xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông Nhật Lệ là do tổng hoà các yếu tố
tác động liên quan đến tiến hoá tự nhiên của dải ven biển cửa sông và tác động của con
người. Ở một đoạn bờ cụ thể, với cấu trúc địa chất và thành phần đất đã xác định được
hiện tượng xói lở hay bồi tụ xảy ra là do một trong 3 nhóm nguyên nhân: Ngoại sinh, nội
sinh và nhân sinh hoặc tổ hợp của 2 hoặc 3 nhóm nguyên nhân đó.
4. Hệ thống sông trong khu vực nghiên cứu có tổng lượng bùn cát tải ra khu vực
cửa sông không lớn so với lượng bùn cát từ biển mang vào, chế độ dòng chảy quá chênh
lệch giữa mùa lũ và mùa kiệt trong năm. Thời gian hoạt động mạnh của sóng B, ĐB
thường trùng với mùa mưa lũ của khu vực nên hoạt động dòng chảy sông đã chi phối
hoạt động bồi - xói và biến động lòng dẫn không những tại vùng cửa sông mà còn cả ở
khu bờ biển lân cận gây xói lở bờ và bồi đáy.
5. Đề tài đã xem xét đánh giá ảnh hưởng của đập Mỹ Trung và cầu Nhật Lệ đến quá
trình bồi - xói vùng cửa sông Nhật Lệ bằng mô hình HEC - RAS theo các kịch bản có
đập và không có đập, có cầu và không có cầu trong hai mùa lũ, kiệt. Kết quả tính toán
cho thấy, đập Mỹ Trung đã làm cho tốc độ dòng chảy lũ trên sông Nhật Lệ giảm từ 0,10 0,35 m/s tuỳ theo từng mặt cắt. Đập Mỹ Trung đã làm giảm tốc độ xói đáy ở ngưỡng
dưới cửa sông trong mùa lũ và tăng tốc độ bồi vào mùa kiệt. Mức độ ảnh hưởng này cũng
không lớn. Cầu Nhật Lệ đã gây ra hiện tượng dềnh mực nước ở phía trước mố cầu và xói
sâu ở phía sau chân mố tạo ra quá trình xói sâu cục bộ và lan truyền xói sâu xuống hạ du
cầu.
6. Trong tương lai, do ảnh hưởng sự dâng lên của mực nước biển và sự phát triển
kinh tế - xã hội của khu vực nghiên cứu, quá trình xói lở bờ biển, cửa sông sẽ xảy ra với
xu thế mạnh hơn so với hiện nay. Kết quả tính toán cân bằng bùn cát cửa sông cho thấy
cửa Nhật Lệ phát triển theo cơ chế lấp cửa kiểu liman. Phần lớn bãi bồi cửa sông cửa
Nhật Lệ có xu thế được bồi tụ, song tốc độ phát triển không lớn và luôn bị biến động
theo mùa. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản của sự phát triển bào mòn san
bằng và tích tụ do các quá trình động lực sông - biển ở vùng ven biển cửa sông Nhật Lệ.
Việc nắn chỉnh hướng dòng chảy sông ra biển và giảm bớt lượng bùn cát từ biển mang

vào gây bồi lấp cửa sông cùng với việc ngăn chặn xói lở bờ biển, cửa sông là việc làm
cấp bách, có ý nghĩa thực tiễn rất lớn đối với vùng cửa sông Nhật Lệ.


7. Xói lở bờ biển, bồi lấp cửa sông là một thiên tai nguy hiểm. Nó không chỉ gây
thiệt hại về sinh mạng, tiền của, đất đai, tài sản mà còn tác động mạnh đến môi trường
sinh thái, ảnh hưởng đến dân sinh - kinh tế, đe dọa sự phát triển bền vững vùng ven biển
cửa sông Nhật Lệ và lân cận.
Đề tài đề xuất giải pháp công trình nhằm chống xói lở bờ biển thuộc phường Hải
Thành, xã Quang Phú, xã Bảo Ninh và bồi lấp cửa sông Nhật Lệ trên cơ sở các tài liệu
trước đây đã công bố, đặc biệt là những kết quả điều tra nghiên cứu, đánh giá hiện trạng,
xác định nguyên nhân xói lở bờ biển và bồi lấp cửa sông do đề tài thực hiện. Phương án
khả thi nhất được đề xuất là xây dựng 2 đập hướng dòng, chắn cát chống bồi lấp ở cửa
sông kết hợp với các công trình kè chữ T giảm sóng, ngăn cát chống xói lở bờ biển ở
phía Bắc (3 kè chữ T) và phía Nam (2 kè chữ T) cửa sông Nhật Lệ.
Tổng thuật: Nguyễn Đăng Tuấn



×