Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận môn nghiệp vụ ngân hàng thương mại báo cáo nghiên cứu đề tài tổng quan về tập đoàn tài chính ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.02 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA NGÂN HÀNG


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

GVHD : PGS.TS. Trầm Thị Xuân Hương
Lớp

: CHNHK24

Nhóm : Nhóm 4
DANH SÁCH NHÓM 4:
STT

Họ tên

%

1

Nguyễn Thị Ngọc Hà

100%

2

Nguyễn Thị Mai Hương

100%



3

Trương Huỳnh Thảo Nhi

100%

4

Nguyễn Tấn Thuận

100%

5

Nguyễn Thu Thảo

100%

Ký tên

Tp. HCM, ngày 14 tháng 05 năm 2016
MỤC LỤC
Câu 1: Tập đoàn tài chính – ngân hàng .................................................................. 01


1.1 Khái niệm Tập đoàn tài chính – ngân hàng ......................................................... 01
1.2 Xu hướng hình thành và phát triển Tập đoàn tài chính - ngân hàng .................. 10

Câu 2: Đặc điểm chính của Tập đoàn tài chính – ngân hàng ................................ 11

Câu 3: Xu hướng hình thành và phát triển Tập đoàn TC – NH tại Việt Nam ..... 14
Câu 4: Nghiệp vụ của Ngân hàng đầu tư tại Tập đoàn TC – NH ......................... 17
Câu 5: Biện pháp phát triển Tập đoàn TC – NH tại Việt Nam ............................. 18
5.1 Những thuận lợi – khó khăn ................................................................................ 13
5.2 Biện pháp phát triển ............................................................................................ 14
Tài liệu tham khảo

42


Câu 1: Thế nào là Tập đoàn Tài chính – ngân hàng? Sự hình thành và xu hướng
phát triển trên thế giới.
1.1.

Tập đoàn tài chính ngân hàng:
• Khái niệm:
Tập đoàn tài chính ngân hàng là một nhóm các công ty hoạt động trong các lĩnh vực
tài chính khác nhau theo quy định của pháp luật của từng quốc gia. Là sự kết hợp của ít
nhất hai trong ba lĩnh vực sau Ngân hàng, chứng khoán hay bảo hiểm.
Theo The Group of 10: “Bất kỳ một nhóm các Công ty dưới sự kiểm soát chung có
các hoạt động độc lập hoặc hoạt động trong việc cung cấp ít nhất 2 lĩnh vực khác nhau
về tài chính (Bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán) thì được gọi là các Tập đoàn tài chính
- ngân hàng”.
Ủy ban Châu Âu (QĐ 2002/87/EC) cũng đưa ra một định nghĩa khá rõ nét hơn; một
nhóm các công ty đủ tiêu chuẩn để trở thành Tập đoàn tài chính – ngân hàng khi: Thứ
nhất nếu như nó có hơn 50% các hoạt động liên quan đến lĩnh vực tài chính. Và thứ hai là
nếu như tài sản của mỗi lĩnh vực ngân hàng và bảo hiểm nằm trong khoảng 10%-90% so
với tổng tài sản của cả tập đoàn. Thêm vào đó, nếu như tổng tài sản của những công ty
nhỏ nhất trong tập đoàn vẫn nhiều hơn 6 tỷ EUR thì nhóm các công ty này vẫn được xem
là một Tập đoàn tài chính – ngân hàng.

Còn ở Mỹ lại gọi Tập đoàn tài chính – ngân hàng là “Fanancial Holding Company”
(Tổ chức tài chính hỗn hợp). Theo quy định của Đạo luật Gramm-Leach-Bliley (GLB
Act) được thông qua năm 1999: Tập đoàn tài chính – ngân hàng là một tổ chức mà trong
đó công ty được nắm giữ những công ty khác cung cấp đa dạng các loại dịch vụ tài chính,
ngân hàng. Thực tế không yêu cầu chỉ là mô hình công ty mẹ, con mà còn là công ty thực
hiện đồng thời các hoạt động kinh doanh như ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm.
Khi đó, có thể thấy rằng: Một Tập đoàn Tài chính – ngân hàng cần là tổ chức bao
gồm một ngân hàng mẹ và các chi nhánh cùng các công ty con hoạt động cung cấp các
sản phẩm trong ngành tài chính – ngân hàng.
3




Mô hình cấu trúc:
Từ định nghĩa về Tập đoàn Tài chính – ngân hàng có thể thấy rằng nó có một mô
hình không hề giản đơn. Khi đó, trên thế giới không có một cấu trúc đơn nhất cho loại
hình Tập đoàn tài chính – ngân hàng; nó rất đa dạng phụ thuộc vào luật pháp và truyền
thống của mỗi quốc gia. Vậy để khái quát mô hình cấu trúc của Tập đoàn Tài chính –
ngân hàng cần được phân loại theo 3 tiêu chí:



Theo mối quan hệ giữa các cấp trong Tập đoàn.
Theo cấu trúc sở hữu.
Mô hình mẹ và con.
Theo mối quan hệ giữa các cấp trong Tập đoàn:
Theo Bank of Japan (2005), tập đoàn tài chính - ngân hàng có thể được tổ chức theo
3 mô hình:


-

Cấu trúc số 1: Full Universal Bank

Cấu trúc này được đặc trưng bởi một lĩnh vực chiếm đại đa số trong tập đoàn, như
lĩnh vực Ngân hàng, bảo hiểm hay chứng khoán. Đó chính là lĩnh vực hoạt động chính
của Công ty mẹ hay là một trong những hoạt động liên quan đến việc kinh doanh chủ yếu
của toàn bộ tập đoàn.
Cấu trúc Full Universal bank hoạt động gồm nhiều doanh nghiệp khác nhau, như là
một sự phân chia trong một tổ chức ngân hàng. Cấu trúc này gia tăng sự ảnh hưởng tổng
hợp thông qua sự cân bằng giữa tính tập trung và phi tập trung. Nhưng một vấn đề tiềm
ẩn phát sinh ở đây chính là sự đối lập giữa các lĩnh vực kinh doanh.
Đây là mô hình tập đoàn ngân hàng xuất hiện sớm ở Anh và Mỹ với các hoạt động,
nghiệp vụ kinh doanh cả của Ngân hàng Thương mại và Ngân hàng Đầu tư. Ở Mỹ, loại
4


hình tập đoàn này là sản phẩm của Đạo luật Glass - Steagall Act of 1933. Tuy nhiên,
trong quá trình phát triển, xuất hiện và tồn tại việc phân định giữa ngân hàng thương mại
và ngân hàng đầu tư. Mặc dù cho đến thời điểm hiện nay, ở châu Âu, việc phân định ranh
giới giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư đã không còn, tuy nhiên cho đến khi
cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng toàn cầu năm 2008 diễn ra thì vẫn còn một lượng
lớn các ngân hàng đầu tư thuần tuý. Vì vậy, các ngân hàng lớn thường có xu hướng hoạt
động như những ngân hàng toàn cầu trong khi một số tổ chức nhỏ hơn lại tập trung vào
việc phát triển thành những ngân hàng thương mại chuyên biệt hoặc như là những ngân
hàng đầu tư. Điều này đặc biệt đúng tại một số quốc gia với kiểu ngân hàng truyền thống
châu Âu. Những ví dụ điển hình của những ngân hàng toàn cầu là Deutsche Bank của
Đức, UBSS và Credit Suisse của Thuỵ Sĩ.
Hầu hết thì hiện nay các Ngân hàng ở Châu Âu đều đi theo mô hình này do tính
chất lịch sử cũng như quy định của khu vực này. Còn ở Mỹ thì cấu trúc này bị cấm bởi đi

ngược lại quy định của quốc gia.
-

Cấu trúc thứ 2: Financial Service Holding Company

Đối với các Ngân hàng ở Mỹ thì Cấu trúc Holding Company là một tiêu chuẩn và
hiện nay thì hầu hết tập đoản tài chính của Mỹ đều đi theo mô hình này. Cấu trúc này có
sự phân chia giữa các doanh nghiệp và tránh được xung đột lợi ích giữa các thành phần
5


như trong cấu trúc full universal bank. Tuy nhiên, không nhiều hiệu quả kinh tế đạt được
từ mô hình này, do thiếu sự phối hợp giữa các bộ phận (Ở đây là giữa các Công ty trong
cùng tập đoàn).
Thông qua nghiên cứu của Kuhara Masaharu cho thấy rằng: Ngoài mặt thì các tập
đoàn tài chính của Mỹ họ đi theo mô hình số 2 này, nhưng trên thực tế để đạt được sự
hiệu quả trong việc phối hợp giữa tính tập trung và phi tập trung thì cấu trúc này thường
bị biến thể đi theo hướng cả tập đoàn sẽ được lãnh đạo bởi một đơn vị kinh doanh chủ
lực, qua đó gần như đã phá vỡ các quy định về pháp luật đã nói trước đó, điều đó dẫn đến
các tập đoàn ở Mỹ đã không đi theo mô hình số 1.
-

Cấu trúc số 3: Bank Subsidiary

Cấu trúc này bao gồm một Ngân hàng mẹ sở hữu nhiều công ty con hoạt động trong
các lĩnh vực phi tài chính khác nhau. Nhờ đó mà hạn chế sự xung đột lơi ích giữa các
thành phần trong tập đoàn; qua đó giúp gia tăng sức mạnh tổng hợp giữa các thành viên
trong cùng tập đoàn.
 Theo cấu trúc sở hữu:
- Mô hình sở hữu giản đơn:


6


Đây là mô hình thuần túy nhất và ít được sử dụng trong giai đoạn hiện nay. Khi đó,
công ty mẹ chịu trách nhiệm cao nhất, chi phối công ty con cấp 2, và công ty con cấp 2
lại chi phối công ty cấp 3…

-

Mô hình sở hữu chéo:
Việc sở hữu chéo có thể diễn ra theo 2 hình thức: giữa các công ty thành viên đồng
cấp đầu tư và kiểm soát lẫn nhau; hoặc công ty mẹ trực tiếp đầu tư và chi phối các công
ty con cháu.
Trong cấu trúc sở hữu chéo giữa các công ty đồng cấp, các công ty này phải đủ
mạnh về vốn để đầu tư lẫn nhau nhằm tăng cường mối liên kết tài chính chặt chẽ trong
tập đoàn và tránh được sự thôn tính của các thành phần ngoài tập đoàn. Các chaebol của
Hàn Quốc hầu hết đều có cơ cấu sở hữu chéo này như Samsung, Huyndai, LG,…; ở Mỹ
như General Motor, General Electric,…
Một dạng sở hữu chéo khác là công ty mẹ đầu tư vốn vào các công ty cháu, nhằm
kiểm soát một số lĩnh vực nào đó có tầm quan trọng đặc biệt hoặc do yêu cầu về vốn khi
công ty cháu gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất-kinh doanh của mình.

-

Mô hình sở hữu hỗn hợp:
Là một sự kết hợp của hai mô hình giản đơn và sở hữu chéo, khi đó gia tăng sự linh
hoạt trong hoạt động của tập đoàn. Đây là mô hình được sử dụng nhiều nhất hiện nay.

 Mô hình công ty mẹ và con:


7


Tập đoàn kinh tế được ví như một “đoàn tàu” luôn cần có một “đầu tàu” - công ty
mẹ - có đủ khả năng lái đoàn tàu kéo theo các “toa tàu” – cùng các công ty con – được
thành lập theo đúng lộ trình đã được định sẵn. Do đó, công ty mẹ - công ty con là khái
niệm cơ bản gắn liền với tập đoàn kinh tế nói chung cũng như tại các tập đoàn tài chính ngân hàng nói riêng.
-

Công ty mẹ:
Công ty mẹ là một doanh nghiệp được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp
luật, có tư cách pháp nhân, được thừa nhận có năng lực đủ mạnh về một hoặc một số yêu
cầu nhất định để kiểm soát và chi phối các công ty khác trong tập đoàn theo những
nguyên tắc và phương thức nhất định. Công ty mẹ tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các
công ty con với nhau và giữa các công ty con với chính nó thông qua hoạt động như bảo
lãnh nợ và hoạt động thương mại nội bộ. Mục đích đầu tư của công ty mẹ vào các công ty
con là hưởng phần lợi nhuận trên vốn góp.
Công ty mẹ sở hữu toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định vốn cổ phần của các công ty
khác trong tập đoàn. Theo tính chất và phạm vi hoạt động, trong mô hình công ty mẹ công ty con, công ty mẹ được chia làm 2 loại:



Công ty mẹ nắm vốn thuần tuý (pure holding company - PHC): hoạt động kinh doanh
chính của PHC là đầu tư vốn vào các công ty khác. Trách nhiệm chủ yếu của các nhà



quản lý cấp cao ở PHC là ra quyết định chiến lược phát triển tổng thể của cả tập đoàn.
Công ty mẹ vừa nắm vốn vừa trực tiếp kinh doanh (operating holding company - OHC):

OHC bên cạnh việc đầu tư vốn vào các công ty con, còn tham gia trực tiếp vào hoạt động
sản xuất kinh doanh. Các nhà quản lý cấp cao của OHC không chỉ tập trung vào việc ra
các quyết định điều hành kinh doanh của công ty mình, mà còn ra quyết định mang tính
chiến lược của tập đoàn. Đây là mô hình công ty mẹ - công ty con thường gặp ở nhiều

-

quốc gia.
Công ty con:
Các công ty con là các doanh nghiệp độc lập được thành lập hợp pháp, có tư cách
pháp nhân, có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của mình, tự nguyện chịu sự chi
8


phối và kiểm soát của một công ty mẹ theo những nguyên tắc và phương thức nhất định.
Mỗi công ty con được phép thành lập các công ty khác, hoặc tham gia góp vốn của mình
vào công ty khác sau khi được phép của công ty mẹ. Tuỳ theo mức độ chi phối của công
ty mẹ đối với công ty con, có thể phân loại công ty con thành:


Công ty con phụ thuộc toàn phần vào công ty mẹ: công ty mẹ sở hữu 100% vốn của công
ty con. Công ty con dạng này được thành lập dưới hình thức công ty TNHH một thành



viên do công ty mẹ làm chủ sở hữu, có tư cách pháp nhân độc lập.
Công ty con phụ thuộc từng phần: công ty mẹ nắm giữ cổ phần chi phối hoặc không đầu
tư vốn vào công ty con mà chỉ chi phối, kiểm soát công ty con qua công nghệ, thị trường
hoặc thương hiệu. Hình thức pháp lý của công ty con phụ thuộc từng phần khá đa dạng:
công ty cổ phần do công ty mẹ nắm cổ phần chi phối, công ty TNHH hai thành viên trở

lên, công ty liên doanh do công ty mẹ giữ tỷ lệ vốn góp chi phối, công ty liên kết.
Ở nước ta, mô hình công ty mẹ - công ty con được quy định trong Nghị định
153/2004/NĐ-CP ngày 9/8/2004 của Chính phủ về chuyển đổi các Tổng công ty Nhà
nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Theo Điều 18 Khoản 1: “Là
hình thức liên kết và chi phối lẫn nhau bằng đầu tư, góp vốn, bí quyết công nghệ, thị
trường hoặc thương hiệu giữa các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, trong đó có một
công ty Nhà nước giữ quyền chi phối các doanh nghiệp thành viên khác (gọi tắt là công
ty mẹ) và các doanh nghiệp thành viên khác bị công ty mẹ chi phối (gọi tắt là công ty
con) hoặc có một phần vốn góp không chi phối của công ty mẹ (gọi tắt là công ty liên
kết)”.
Tóm lại, một Tập đoàn Tài chính – ngân hàng có một tổ chức rất phức tạp. Dù được
tổ chức theo hình thức nào thì nó cũng cần có một ngân hàng lớn làm trung tâm điều phối
mọi hoạt động của tập đoàn. Từ đó, quản lý các chi nhánh và công ty con tham gia các
hoạt động trong ngành tài chính – ngân hàng.



Điều kiện thành lập:

9


Có nhiều yếu tố tác động đến khả năng hình thành tập đoàn TC-NH, trong đó các
yếu tố có liên hệ mật thiết với nhau. Từ phương diện phân tích, có thể phân chia thành
yếu tố (điều kiện) khách quan và điều kiện chủ quan.
-

Điều kiện khách quan:
Môi trường pháp lý có thể cản trở hoặc thúc đẩy sự hình thành và phát triển các tập
đoàn TC-NH, nhất là những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động tài chính, ngân hàng,

chứng khoán. Nói cách khác, quá trình hình thành và phát triển tập đoàn TC-NH diễn ra
theo quy luật khách quan, nhưng các chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc
đưa ra các quy định và chính sách phát triển dịch vụ tài chính nói chung và tập đoàn TCNH nói riêng.
Trình độ phát triển của thị trường dịch vụ tài chính tác động đến khả năng mở rộng
quy mô hoạt động của tập đoàn tài chính như thông qua các công ty con hay công ty trực
thuộc. Trên thực tế, sự hình thành các tập đoàn TC-NH thường bắt nguồn từ việc mở rộng
các loại hình kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ của ngân hàng mẹ, từ chỗ chỉ kinh doanh
dịch vụ ngân hàng, mở rộng sang dịch vụ bảo hiểm, chứng khoán, v.v. Mặt khác, thị
trường tài chính càng phát triển, khách hàng càng đòi hỏi cao hơn về chất lượng và tiện
ích của dịch vụ tài chính – ngân hàng.
Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cũng là yếu tố và điều kiện để một tổ
chức tài chính phát triển thành tập đoàn TC-NH. Các tập đoàn này phải kịp thời nắm bắt
thông tin, nhất là công nghệ mới có liên quan đến hoạt động tài chính – ngân hàng để có
thể khai thác và ứng dụng các thành tựu về công nghệ mới vào hoạt động kinh doanh,
mang lại nhiều lợi nhuận cho tập đoàn và tiện ích cho khách hàng.

-

Điều kiện chủ quan:
Tiềm lực tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hoạt động và khả năng
phát triển lâu dài của tập đoàn. Trong đó, nguồn vốn có tác dụng hỗ trợ cho tập đoàn đổi
mới công nghệ, mở rộng các lĩnh vực kinh doanh, phát triển dịch vụ mới, tăng cường
năng lực cạnh tranh và mở rộng thị phần.

10


Các ngân hàng tiên tiến và tập đoàn tài chính mạnh thường cung cấp dịch vụ đa
dạng và đạt chất lượng cao với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. Tương tự, chất
lượng nguồn nhân lực cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng trong việc nâng cao

hiệu quả hoạt động của các ngân hàng và tập đoàn tài chính – ngân hàng.
1.2.

Sự hình thành và xu hướng phát triển trên thế giới.
Cùng với quy luật hình thành và phát triển mô hình Tập đoàn kinh tế, việc hình
thành và phát triển các Tập đoàn Tài chính - ngân hàng là một xu hướng phát triển của
nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới và nhất là ở Mỹ, châu Âu, Nhật Bản trong những
năm vừa qua. Từ cuối thập kỷ 60 thế kỷ 20 đến nay, xu thế hình thành nên những định
chế tài chính, ngân hàng lớn, có tầm ảnh hưởng và hoạt động xuyên quốc gia, đã chi phối
không chỉ nền kinh tế của từng quốc gia mà có ảnh hưởng đến toàn cầu. Việc hình thành
và phát triển của các tập đoàn tài chính - ngân hàng cũng tuân theo các quy luật và
phương thức chung nhất của các tập đoàn kinh tế, nhưng bên cạnh đó còn có đặc thù của
hoạt động với tư cách là một định chế tài chính chịu sự ràng buộc và chi phối từ rất nhiều
quy định, quy chế của Nhà nước trong quản trị hoạt động, quản trị rủi ro khi phát triển
mạng lưới, lĩnh vực và phạm vi hoạt động, cũng như việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại,
góp vốn, đầu tư vào các định chế tài chính, doanh nghiệp bên ngoài để hình thành nên
Tập đoàn Tài chính - ngân hàng.
Phương thức hình thành Tập đoàn Tài chính - ngân hàng là sự phát triển mạnh của
một Công ty /Ngân hàng mẹ kinh doanh trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng (tài chính,
bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán… và /hoặc các ngành khác liên quan đến hoạt động
đầu tư), Công ty /ngân hàng mẹ này tiến hành mở rộng sự phát triển dựa trên sự (i) phát
triển mạnh mẽ thông qua việc mua bán, sáp nhập, góp vốn, đầu tư, mở rộng mạng lưới...
vào các lĩnh vực tài chính (tín dụng, thẻ, ngân hàng đầu tư, bảo hiểm, cho thuê tài chính,
tài chính....), các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động tài chính - ngân hàng; và (ii)
các hoạt động đầu tư, góp vốn và thành lập doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực phi
tài chính như bất động sản, xây dựng, hạ tầng...

11



Mỗi thành viên tập đoàn là những pháp nhân độc lập, trong đó có một doanh nghiệp
hoặc một ngân hàng đóng vai trò là Công ty mẹ làm nòng cốt. Giữa các doanh nghiệp đó
có mối liên kết nhất định về vốn, quản trị, thương hiệu để cùng nhau thực hiện một liên
kết kinh tế có quy mô lớn nhằm đạt được các tôn chỉ, mục đích, sứ mệnh và hiệu quả hoạt
động tối đa.
Các nguyên nhân hình thành bảo gồm:
-

Theo Berger và cộng sự (năm 1996), xu thế tập đoàn tài chính đã được thúc đẩy phát
triển bởi những lợi ích từ việc kết hợp tất cả các hoạt động tài chính về một mái nhà vì
thế sẽ tạo ra hiệu quả hoạt động cao hơn và cho phép cải tiến sản phẩm và khuyến khích

-

khách hàng “sẵn lòng chi trả” vì được “mua sắm tất cả tại một nơi”.
Theo Ville Mälkönen (2004), sự kết hợp giữa Ngân hàng và công ty Bảo hiểm đã tạo ra
lợi thế thông tin, nghĩa là tập đoàn tài chính ngân hàng sẽ tiết kiệm được chi phí hơn bởi

-

sự kết hợp nguồn thông tin của hai bên.
Trong nghiên cứu của Jappelli and Pagano (2002) chỉ ra rằng việc chia sẻ thông tin giúp
nhận biết các mối quan hệ tín dụng, giám sát quá trình cho vay và giảm thiểu tỷ lệ thất
bại khi cho vay. Quan điểm này cũng được ủng hộ bởi Mester, Nakamura and Renault

-

(2002) và Vander Vennet (2002).
Theo Berger (2000), tập đoàn tài chính ngân hàng giúp giảm chi phí thu thập thông tin
của các dòng sản phẩm đa dạng thông qua việc thu thập thông tin một lần và sử dụng

chung cho nhiều hoạt dộng. Việc phân phối, marketing và các yếu tố đầu vào vật lý có thể

-

được kết hợp để tạo ra sản phẩm dịch vụ hoàn hảo hơn.
Theo Ville Mälkönen (2004), tập đoàn tài chính ngân hàng thì ổn định hơn một tổ chức
riêng vì rủi ro được đa dạng hóa. Quan điểm được đúc kết từ nghiên cứu của Allen and
Jagtiani (2000) và Stiroh (2002).
Tóm lại, sự hình thành và phát triển của tập đoàn tài chính – ngân hàng là xu hướng
phát triển của ngành tài chính – ngân hàng gắn liền với xu hướng toàn cầu hóa trên thế
giới. Các tập đoàn hình thành và phát triển dù xuất phát từ nguyên nhân nào cũng sẽ
hướng đến mục tiêu gia tăng tối đa hóa lợi nhuận, và đảm bảo sự phát triển bền vững.
Câu 2: Đặc điểm của Tập đoàn Tài chính – ngân hàng?
12


Hiện nay, trên thế giới đã có rất nhiều tập đoàn tài chính nổi tiếng: Citigroup Inc,
Deutsche Bank AG, ING – Hà lan, HSBC Holdings, Maybank, DBS Group, BNP –
Paribas,…. Các tập đoàn này có mô hình kinh doanh phức tạp, khác biệt so với mô hình
giản đơn của một NHTM thông thường.
TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG TIÊU BIỂU
Chỉ tiêu

CitiGroup

DBS Group

BNP – Paribas

Thông tin cơ bản


Tập đoàn đa quốc
gia ngân hàng đầu
tư và dịch vụ tài
chính của Mỹ có trụ
sở
chính

Manhattan,
thành
phố New York từ
năm 2008.

Tập đoàn cung cấp
dịch vụ tài chính –
ngân hàng lớn nhất
Châu Á có trụ sở tại
Singapore từ năm
2005.

Tập đoàn tài chính
BNP-Paribas có trụ
sở tại Pháp từ năm
2000.

Lịch sử hình
thành

Hình thành từ một
vụ sáp nhập lớn nhất

thế giới trong lịch sử
bằng cách kết hợp
các ngân hàng của
CitiGroup và tập
đoàn
tài
chính
Travelers
Group
(1998).

Sự gia tăng vốn và
mở rộng chi nhánh
ngân hàng khắp khu
vực Châu Á từ năm
2005 đã phát triển
DBS thành tập đoàn
tài chính – ngân
hàng hàng đầu Châu
Á.

Việc mua lại toàn bộ
cổ phần của Ngân
hàng Paribas để hình
thành nên Tập đoàn
tài chính hàng đầu
của Pháp (2000).

Tổng vốn và tài
sản


Vốn CSH:
$221.800.000.000

Tài sản:

Vốn CSH: Euro

$332.600.000.000

85.620.000.000

Tài sản:

Tài sản: Euro
1.965.000.000.000

1,73 nghìn tỷ USD
Cơ cấu tổ chức

Với công ty mẹ là
Citybank cùng các
chi nhánh ngân hàng
trên khắp thế giới và
các công ty con kinh
doanh các dịch vụ
tài chính khác.

Sản phẩm


Sản phẩm đa dạng Hình thành 4 nhóm Phát triển, đa dạng
hình thành nên 3 sản phẩm chính:

Với Ngân hàng mẹ
là trung tâm tại
Singapore cùng với
các chi nhánh ngân
hàng và công ty con,
công ty liên kết
khắp Châu Á.

13

Với Ngân hàng mẹ
là trung tâm cùng
các chi nhánh và
công ty con trên
khắp nước Pháp và
90 chi nhánh ở nước
ngoài tại nhiều quốc
gia trên thế giới.


khối
sản
phẩm
chính:
Khối sản phẩm tiêu
dùng toàn cầu: dịch
vụ ngân hàng, tín

dụng, thẻ và bảo
hiểm.
Khối dịch vụ ngân
hàng đầu tư và tín
dụng doanh nghiệp.
Khối quản lý tài sản
toàn cầu.
Cơ chế quản lý

Dịch vụ Doanh
nghiệp.
Đầu tư.
Quản lý tài sản.
Dịch vụ bán lẻ.

hóa các sản phẩm
trong lĩnh vực tín
dụng ngân hàng,
quản lý tài sản, môi
giới chứng khoán,
phát triển quản lý
quỹ tại Singapore và
Hồng Kông.

Quản lý thống nhất Quản lý theo mô
và tập trung theo hình dọc. Lãnh đạo
chiều dọc.
Tập đoàn này là Đại
diện các quan chức
cao cấp của các

Ngân hàng thành
viên và hoạt động
theo cơ chế các Hội
đồng thực quyền,
đưa ra các qui chế,
các chuẩn mực hoạt
động và phương
thức quản trị thống
nhất cho toàn bộ các
Ngân hàng thành
viên.

Quản lý theo mô
hình dọc hình thành
nên các Ủy ban điều
hành: giải quyết các
vấn đề chính của tập
đoàn: phương hướng
và chiến lược kinh
doanh, quy chế hoạt
động…

Qua đó, ta thấy những đặc điểm chính của Tập đoàn TC - NH là:


Thứ nhất, hầu hết các tập đoàn tài chính có lịch sử phát triển từ một ngân hàng (thương
mại hoặc đầu tư) hay từ công ty bảo hiểm.
Sau khi phát triển đến độ cần thiết, các ngân hàng đều hướng đến hoạt động đa năng
và phát triển ra thị trường quốc tế với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Do đó, các ngân
hàng xuất phát từ mục tiêu này thành lập nên các tập đoàn tài chính – ngân hàng. Kinh

nghiệm quốc tế cho thấy có rất nhiều hướng đi để một ngân hàng có thể phát triển thành
một tập đoàn tài chính:

14


-

Một NHTM có thể tự xây dựng thành một tập đoàn tài chính nếu có đủ điều kiện.
Cũng có thể hợp nhất một số NHTM để trở thành tập đoàn tài chính.
Thông qua cổ phần hoá những NHTM Nhà nước mà Nhà nước cho phép hoặc liên doanh.
Hợp nhất, thậm chí sát nhập một vài NHTM với nhau qua đó, cơ cấu sở hữu thay đổi tạo

cơ sở pháp lý cho sự thay đổi cơ cấu tổ chức trong các NHTM.
- Hợp nhất giữa NHTM và công ty bảo hiểm để tạo ra những tập đoàn tài chính lớn hơn.
• Thứ hai, tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của tập đoàn tài chính khá lớn và chiếm tỷ lệ lớn
trong GDP.
Hầu hết các tập đoàn tài chính trên thế giới đều có tổng tài sản và vốn chủ sở hữu
khá lớn. Riêng Citigroup – tập đoàn tài chính hàng đầu thế giới đã có tổng tài sản năm
2004 là 1.484.1001 triệu USD, vốn chủ sở hữu là 74.415 triệu USD, với tỉ trọng dịch vụ
trên GDP là 75%. HSBC Holdings, tuy đứng thứ ba, nhưng thật sự không kém xa so với
Citigroup với tổng tài sản là 1.276.778 triệu USD với vốn chủ sở hữu là 67.259 triệu
USD, chiếm 72% GDP.
Ở một số nước Châu Á, tỷ lệ đóng góp của tổng tài sản và vốn chủ sở hữu trên GDP
khá lớn: Trung Quốc 31% và 2,1%; Hàn Quốc 26 và 1,1%; Malaysia 40% và 2,7%;
Singapore 102% và 6,8%; Thái Lan 22% và 1,5%.


Thứ ba, cơ cấu tổ chức phức tạp.
Cơ cấu của tập đoàn tài chính thường bao gồm có bộ phận kinh doanh và bộ phận

hỗ trợ. Bộ phận kinh doanh được phân tán làm 4 mảng chuyên môn chính: (1) Ngân hàng
bán lẻ phục vụ khách hàng cá nhân đại trà; (2) Ngân hàng bán buôn bao gồm doanh
nghiệp vừa và nhỏ và các công ty lớn; (3) Ngân hàng phục vụ khách hàng giàu có; (4)
Ngân hàng đầu tư kinh doanh trên thị trường tài chính. Bộ phận hỗ trợ gồm có quản lý rủi
ro; tài chính; tác nghiệp và IT.



Thứ tư, sản phẩm kinh doanh đa năng.
Sản phẩm cung ứng bao gồm tất cả các loại hình sản phẩm tài chính: cấp tín dụng,
tư vấn, dịch vụ, bảo hiểm, quản lý tài sản, quản lý tài chính, dịch vụ ngân hàng điện tử (e-

15


banking) ... Các sản phẩm phải đa dạng đáp ứng nhu cầu khách hàng và thể hiện sự phân
tán rủi ro của ngân hàng.


Thứ năm, tất cả các bộ phận được quản trị thống nhất và tập trung theo ngành dọc.
Đứng đầu tập đoàn thường là Chủ tịch tập đoàn, sau đó đối với với từng mảng hoạt
động sẽ có giám đốc phụ trách khối, ví dụ: Giám đốc phụ trách khối rủi ro, Giám đốc phụ
trách tài chính, Giám đốc phụ trách khách hàng...
Câu 3: Xu hướng phát triển Tập đoàn Tài chính – ngân hàng tại Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của các Tập đoàn đa quốc gia, ngành tài chính - ngân hàng
thế giới chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các định chế tài chính - ngân hàng nhằm
cung cấp sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Từ đó, xuất hiện xu hướng phát
triển Hệ thống ngân hàng toàn cầu trong vòng hai thập kỷ vừa qua, từ đó hình thành nên
những Tập đoàn tài chính - ngân hàng lớn trên thế giới. Tình hình phát triển Hệ thống
ngân hàng Việt Nam cũng không nằm ngoài sự phát triển chung của thế giới. Ta có thể

thấy rằng tại Việt Nam hiện cũng đang có một số tiền đề để phát triển Tập đoàn tài chính
– ngân hàng.
Trên thực tế hầu hết các vụ sáp nhập và mua lại gần đây liên quan đến doanh nghiệp
cạnh tranh trong cùng ngành. Dưới sự tác động của hậu khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2008, thì trong quá trình cải cách Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, các hoạt
động mua bán và sát nhập giữa các ngân hàng liên tục được diễn ra. Hoạt động này nhằm
giải quyết các vấn đề yếu kém trong Hệ thống ngân hàng tuy nhiên cũng là bước tiền đề
hình thành nên Tập đoàn tài chính - ngân hàng tại Việt Nam.
Ngoài ra, nhằm mục đích nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí với mục tiêu giải
quyết vấn đề giảm lợi nhuận từ những dịch vụ ngân hàng truyền thống, các ngân hàng tại
Việt Nam cũng cần chủ động đem đến cho khách hàng mục tiêu về những tiện ích vượt
trội. Sự hài lòng quyết định tính sẵn sàng chi trả của người sử dụng dịch vụ, từ đó ngân
hàng có thể gia tăng được lợi nhuận. Một động lực làm gia tăng thị trường sản phẩm, xây
dựng một hệ thống sản phẩm ngày càng đa dạng (Ví dụ: các ngân hàng hiện nay cũng bán
16


sản phẩm bảo hiểm hoặc các công ty bảo hiểm cũng cung cấp sản phẩm hỗn hợp). Do đó,
các hoạt động kinh doanh sản phẩm và dịch vụ trở nên đa dạng, phong phú hơn.
Những cải tiến trong công nghệ thông tin trong ngân hàng tại Việt Nam đã mở
đường cho sự phát triển của nhiều sản phẩm mới, góp phần thúc đẩy các công ty hoạt
động trong lĩnh vực như viễn thông và thông tin tham gia vào thị trường dịch vụ tài
chính- ngân hàng. Ngoài ra, sự phát triển công nghệ thông tin còn cung cấp cho các nhà
quản trị các kỹ thuật quản lý rủi ro hiệu quả hơn, điều này đặc biệt có ý nghĩa trong
ngành tài chính - ngân hàng, lĩnh vực được xem là kinh doanh khá rủi ro. Những kỹ thuật
này giúp các các nhà quản trị không những quản trị được chính mình mà còn đánh giá
được các tổ chức khác, phục vụ cho mục tiêu sáp nhập, mua lại.
Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hoá kinh tế và tự do hoá thương mại diễn ra mạnh
mẽ hơn bao giờ hết. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan dần được loại bỏ, tạo điều
kiện thuận lợi cho các dòng ngân lưu gia tăng lưu lượng và di chuyển giữa các quốc gia.

Cho nên sự hình thành các tập đoàn tài chính chính là để thích ứng với sự phát triển này.
Theo TS. Nguyễn Thị Kim Thanh - Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam; cho rằng Những nhân tố chi phối xu hướng phát triển khu vực
ngân hàng đến năm 2020 là:
-

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa ngày càng gia tăng, những bất ổn khó lường
của thị trường toàn cầu ngày càng mạnh mẽ hơn và tiến bộ công nghệ đang có những tác
động mạnh đến sự phát triển hệ thống tài chính trong nước và toàn cầu, cách tiếp cận của
các định chế tài chính. Để phù hợp với tình hình này, cần sự năng động của hệ thống tài

-

chính, đặc biệt là các định chế tài chính trong nước phải được vững mạnh và hiệu quả.
Kinh tế tri thức cùng với những tiến bộ về công nghệ đã xác định lại các quy tắc của cuộc
chơi và sự chuyển đổi môi trường mà các định chế tài chính hoạt động. Trong một môi
trường mới như vậy, khả năng của các định chế tài chính trong việc cung cấp sản phẩm
và dịch vụ một cách hiệu quả nhất sẽ là chìa khóa xác định chức năng và phạm vi hoạt
động của định chế tài chính. Theo đó, khả năng thu được những lợi ích trong môi trường
cạnh tranh mới phụ thuộc rất nhiều vào khả năng và năng lực của các định chế tài chính
17


trong việc nhanh chóng thích nghi với môi trường mới và nắm bắt kịp thời những cơ hội
-

mới.
Thêm vào đó, tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng và chuyển đổi môi trường đã tạo ra
nhu cầu mới cũng như cơ hội cho các doanh nghiệp. Điều này đã đòi hỏi những dịch vụ
tài chính hiệu quả. Đồng thời, sự vững mạnh của các doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia


-

đình sẽ là nhân tố chính để duy trì sự ổn định của cả hệ thống tài chính.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu, đặt ra vấn đề phải tái cơ cấu hệ thống tài chính của từng
quốc gia cũng như toàn cầu, theo một xu hướng tăng cường khả năng giám sát và cảnh
báo sớm nhằm ngăn ngừa những bất ổn có thể xảy ra.
Như vậy, có thể nói: “Nhìn về tương lai, sự phát triển Hệ thống tài chính – ngân
hàng thế giới là theo xu hướng phát triển ổn định, bền vững, hiệu quả sẽ đóng vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế.” Do đó, xu hướng phát triển các Tập đoàn tài chính ngân hàng là một xu thế tất yếu trong tương lai tại Việt Nam nhằm bắt kịp với xu hướng
phát triển của thế giới.
Câu 4: Nghiệp vụ đầu tư tại các Tập đoàn tài chính – ngân hàng.
Qua đánh giá về Tập đoàn Tài chính – ngân hàng, chúng ta có thể thấy rằng: Ưu thế
của một Tập đoàn tài chính – ngân hàng là thực hiện tốt vai trò đa năng, nó có thể thực
hiện được hầu hết các hoạt động như ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, … Khi đó, theo
Rudi Vander Vennet cho rằng: “Xét về chi phí, các ngân hàng chuyên ngành (specialized
banks) không tồn tại sự khác biệt khi so với các Tập đoàn tài chính – ngân hàng khi thực
hiện các dịch vụ truyền thống của ngân hàng. Tuy nhiên, sẽ có sự khác biệt khi hai loại
ngân hàng này thực hiện các dịch vụ phi truyền thống.” Khi đó các tập đoàn tài chính
cũng có lợi thế hơn khi so sánh về hiệu quả lợi nhuận.
Kết quả này liên quan đến việc các tập đoàn tài chính có nhiều thông tin hơn so với
các ngân hàng nhỏ. Đồng thời, họ cũng hoạt động trên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế
hơn. Trong đó, ưu thế lớn nhất của họ là thực hiện các hoạt động của ngân hàng đầu tư
dựa trên nguồn khách hàng từ hoạt động ngân hàng thương mại.

18


Theo The Glass-Steagall Act (còn gọi là Banking Act): Ngân hàng đầu tư
(Investment bank) là một định chế đóng vai trò như một trung gian tài chính để thực hiện

hàng loạt các dịch vụ liên quan tới tài chính như bảo lãnh: làm trung gian giữa các tổ
chức phát hành chứng khoán và nhà đầu tư, tư vấn giúp dàn xếp các thương vụ mua lại và
sáp nhập cùng các hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp khác và môi giới cho khách hàng là
các tổ chức.
Chúng ta thấy rằng, đối tượng khách hàng chính của ngân hàng đầu tư thường là các
tổ chức, công ty và chính phủ không phải là khách hàng cá nhân. Khi đó, hoạt động chủ
yếu của ngân hàng đầu tư là trao đổi, mua bán các sản phẩm tài chính. Một ngân hàng
đầu tư thường được phân ra làm 3 bộ phận chính: front office, middle office và back
office.
-

Front office:



Ngân hàng đầu tư



Quản lý đầu tư



Ngân hàng thương mại



Nghiên cứu thị trường




Tư vấn chiến lược

-

Middle Office:



Quản lý rủi ro



Quản lý tài chính



Tư vấn luật pháp

-

Back Office:



Operations



Kỹ thuật

Các Tập đoàn tài chính – ngân hàng trên thế giới đều thể hiện tham vọng trong việc
thực hiện vai trò của ngân hàng đầu tư, đây là một trong những tiền đề để phát triển tập
đoàn. Nó thể hiện rõ trong cơ cấu tổ chức cũng như Hệ thống sản phẩm của tập đoàn.
Bên cạnh những thế mạnh mà tập đoàn đạt được trong việc thể hiện vai trò của một ngân
19


hàng đầu tư thì nó cũng bộc lộ những điểm yếu về sự “an toàn” và “lành mạnh” trong
hoạt động. Theo Wilmarth cũng chỉ ra rằng: “Việc tập trung hoạt động của các Tập đoàn
tài chính – ngân hàng vào đầu tư chỉ ra các sai sót trong chính sách quản lý các tập đoàn
tài chính khổng lồ (Too big to fail – TBTF) ở Mỹ và ở Anh trong khoảng hai thập kỉ gần
đây gây làm suy yếu sự “an toàn” và “lành mạnh” của các tổ chức tài chính nói riêng và
làm xói mòn sự ổn định của thị trường tài chính và nền kinh tế nói chung.”
Câu 5: Giải pháp phát triển Tập đoàn Tài chính – ngân hàng tại Việt Nam.
5.1. Thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành Tập đoàn tài chính – ngân hàng
tại Việt Nam.
Qua đánh giá xu phát triển Tập đoàn Tài chính – ngân hàng tại Việt Nam thấy được
đây là xu thế tất yếu trong tình hình phát triển của Hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, trong bối cảnh của ngành tài chính – ngân hàng Việt Nam hiện nay, để hình
thành nên một Tập đoàn tài chính – ngân hàng hiện nay sẽ phải đối mặt với các thuận lợi
và khó khăn nhất định.

-

Thuận lợi:
Với đà tăng trưởng của thị trường chứng khoán Việt Nam thì lĩnh vực ngân hàng cũng
phát triển nóng lên đặc biệt ở khâu giao dịch thanh toán, nhưng nhìn chung hoạt động
ngân hàng ở Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn phát triển ban đầu. Nhưng với cái nhìn lạc
quan của các nhà đầu tư về tương lại phát triển của kinh tế Việt Nam thì thị trường chứng


-

khoán sẽ tăng trưởng trở lên trong tương lai.
Với dân số cao, và quá trình đô thị hóa nhanh chóng với số dân thành thị tăng nhanh, điều
đó mở ra cơ hội khai thác tiềm năng thị trường đáng kể trong lĩnh vực ngân hàng và dịch

-

vụ tài chính của Việt Nam.
Hệ thống NHTM Việt Nam đã và đang phát triển hoạt động theo chiều ngang với các
công ty con thành viên trực thuộc ngân hàng mẹ. Hầu hết các NHTM Nhà nước đang sở

-

hữu các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư, công ty leasing…
Các đối tác chiến lược nước ngoài của ngân hàng sẽ hỗ trợ kinh nghiệm quản trị điều

hành những mảng lĩnh vực kinh doanh chủ chốt, tạo điều kiện phát triển tập đoàn.
• Khó khăn:
20


-

Hạn chế từ yếu tố pháp lý
Một trong những hạn chế khách quan là sự hạn chế xuất phát từ các yếu tố pháp lý
hay sự thừa nhận của pháp luật. Chính phủ nhiều lần kêu gọi các ngành kinh tế cơ bản
hình thành nhiều tập đoàn, yêu cầu các NHTM, nòng cốt là các NHTM nhà nước phát
triển thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng vững mạnh, đủ sức cạnh tranh với các tập
đoàn tài chính – ngân hàng khác trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên cho đến hiện

tại vẫn chưa có quy chế chính thức về việc quy định cơ cấu, tổ chức tập đoàn tài chính –
ngân hàng. Nhà nước vẫn chưa ban hành bất kỳ văn bản hay hướng dẫn nào để khái niệm
hoặc đề xuất về tập đoàn tài chính – ngân hàng, vì vậy gần như các NHTM CP dù có định
hướng trở thành một ngân hàng thương mại lớn hơn, một tập đoàn tài chính – ngân hàng
mạnh hơn cũng chưa biết nên bắt đầu từ đâu. Gần nhất là quyết định 254/QĐ-TTg thông
qua Đề án tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng cũng chỉ nhắm đến vai trò nòng cốt của
hướng đến xây dựng 1-2 NHTM tầm cỡ khu vực về quy mô, công nghệ, quản trị và khả
năng cạnh tranh.

-

Hạn chế về thị trường tài chính tiền tệ
Mặc dù Nhà nước rất nổ lực để xây dựng thị trường tài chính tiền tệ hoàn chỉnh làm
bệ phóng cho nền kinh tế nhưng vẫn còn nhiều hạn chế nhất định. Trước hết là hệ thống
văn bản pháp lý, kế đến là trình độ phát triển, tính chuyên nghiệp, công tác dự báo của
NHNN. Công cụ quản lý thị trường chứng khoán chưa đủ sức răn đe hoặc kiểm soát chặt
chẽ. Hiện nay thị trường tài chính tuy đã hình thành với các cấu thành cơ bản nhưng vẫn
thiếu một số định chế tài chính quan trọng như: quỹ đầu tư hỗ trợ, quỹ đầu tư mạo hiểm,
công ty định mức tín nhiệm, … và các công cụ tài chính phái sinh chưa phát triển mạnh
mẽ.

-

Hạn chế về cơ cấu tổ chức, nhân sự
Về cơ cấu tổ chức, đa số các NHTM Việt Nam có cơ cấu tổ chức theo mô hình
truyền thống. Theo đó, việc phân định các phòng ban theo loại hình nghiệp vụ như:
phòng tín dụng, phòng kế toán, phòng kinh doanh ngoại hối, phòng thanh toán quốc tế,…
21



trong khi theo mô hình của các tập đoàn tài chính – ngân hàng trên thế giới, mô hình tổ
chức được cấu trúc theo đối tượng khách hàng, lấy khách hàng làm trung tâm phục vụ.
-

Hạn chế về năng lực tài chính của các NHTM
Với quy mô vốn nhỏ, mức vốn tự có trung bình của một NHTM CP khoảng 5.000 –
10.000 tỷ đồng, tức tương đương khoảng 500 triệu USD. Tổng số vốn điều lệ của hệ
thống NHTM CP tại thành phố Hồ Chí Minh tương đương 8 tỷ USD, trong khi đó riêng
Maybank của Malaysia có vốn khoảng 4 tỷ USD, Bangkok Thái Lan khoảng 9 tỷ USD
hay ngân hàng DBS của Singapore cũng hơn 9 tỷ USD. Nếu xét theo tổng tài sản thì tổng
tài sản của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên GDP chỉ khoảng 70%, thấp xa so với Thái
Lan (145,8%), Malaysia (193,5%) và chỉ bằng 1/3 của Trung Quốc (211,1%). Khi đó, nếu
lấy NHTM làm hạt nhân nòng cốt thì khi hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng, khả
năng vốn tự có của cả tập đoàn cộng lại vẫn chưa thể đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn
tài chính - ngân hàng trong khu vực.

-

Hạn chế về sản phẩm dịch vụ ngân hàng
So với trước đây, hệ thống sản phẩm dịch vụ ngân hàng hàng ngày càng tăng cả chất
lượng lẫn số lượng nhưng chưa thể so sánh với sản phẩm dịch vụ của các nước trong khu
vực và các nước phát triển khác.
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn nặng về hình thức giao dịch, rườm rà thủ tục là
điểm yếu của các NHTM CP hiện nay. Về số lượng thì một số ngân hàng lớn như ACB,
Sacombank chỉ có hơn 100 sản phẩm dịch vụ ngân hàng, vừa truyền thống vẫn chỉ có hơn
100 sản phẩm dịch vụ ngân hàng, vừa truyền thống lẫn phái sinh. Với số lượng như vậy
vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước cũng như khả năng để cạnh tranh với ngân hàng
nước ngoài, vì bản thân các ngân hàng này có đến hơn 1.000 sản phẩm dịch vụ khác
nhau.
Các ngân hàng trong nước chưa có sự liên kết chặt chẽ trong việc cung ứng các sản

phẩm dịch vụ, dịch vụ ngân hàng bán lẻ, đặc biệt là các sản phẩm thẻ. Mặc dù gần các

22


ngân hàng đã tham gia banknet, smartline để sử dụng hệ thống thanh toán thẻ chung
nhưng trước đó thì bất cập bởi phần mềm và dữ liệu chưa tương thích.
-

Hạn chế về ứng dụng công nghệ thông tin
Trong những năm qua, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao trình độ kỹ
thuật, áp dụng thành tựu công nghệ thông tin hiện đại, nhưng nhìn chung, công nghệ và
kỹ thuật kinh doanh còn hạn chế, trình độ quản trị điều hành chưa cao, thiếu thông tin thị
trường, khả năng tiếp cận thị trường còn hạn chế… Trong khi các ngân hàng nước ngoài
có mặt tại Việt Nam đều từ những quốc gia có nền kinh tế phát triển lâu đời và khoa học
công nghệ tiên tiến, nên có ưu thế vượt trội so với các NHTM Việt Nam về công nghệ,
trình độ quản lý, khả năng tiếp cận thị trường…

-

Hạn chế về hệ thống mạng lưới và hợp tác quốc tế
Mạng lưới của các NHTM gần như chỉ tập trung trong nước hoặc mở chi nhánh
sang Lào và Campuchia. Điều đó cho thấy hầu hết chỉ mới đủ sức hoạt động trong nước
mà chưa đủ lực để mở rộng ra khu vực với các nước khác.
Bên cạnh đó mạng lưới cũng chỉ tập trung tại các khu đông dân cư, tại các thành
phố lớn hoặc thị tứ nên cũng không phát huy tác dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng và
cũng không khai thác hết năng lực đầu tư. So sánh với HSBC sở hữu hơn 10.000 văn
phòng, 312.000 nhân viên tại 83 quốc gia tại 5 khu vực Châu Âu, Hồng Kông, các nước
khác thuộc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, bao gồm cả khu vực Trung Đông và
Châu Phi; Bắc Mỹ và Nam Mỹ.

5.2. Biện pháp phát triển Tập đoàn tài chính – ngân hàng tại Việt Nam.
Mặc dù, Việt Nam vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn trong việc thành lập Tập
đoàn tài chính – ngân hàng. Do đó, cần các biện pháp để khắc phục các hạn chế nhằm
hình thành các tiền đề hướng đến mục tiêu đạt được các đặc điểm của một Tập đoàn tài
chính – ngân hàng. Khi đó, tại Việt Nam sẽ đủ điều kiện để thành lập một Tập đoàn tài
chính – ngân hàng có khả năng sánh ngang với các nước trong khu vực.

23


-

Tăng cường năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam: Tăng vốn một cách an toàn
hiệu quả.
Nhu cầu tăng vốn là điều kiện tất yếu trong xu thế phát triển hiện đại. Bên cạnh việc
tăng vốn nhằm đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế và khả năng tài chính để tham gia các mặt
hoạt động tài chính quốc tế. Thì việc tăng vốn sẽ hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của
ngân hàng. Tuy nhiên, cần thận trọng trong quá trình tăng vốn nhằm đảm bảo an toàn
vốn.

-

Tăng cường phát triển Hệ thống mạng lưới và hợp tác quốc tế:
Tăng cường mở rộng mạng lưới thông qua mở rộng hoạt động trong các lĩnh vực
mới: Bảo hiểm, quản lý quỹ, dịch vụ tài chính,… Bên cạnh đó, mở rộng mạng lưới ra khu
vực, tăng cường sức ảnh hưởng trong khu vực. Lợi dụng những lợi thế đã có cùng nắm
bắt cơ hội từ quá trình mở cửa và hội nhập là những bước đi cơ bản trong việc mở rộng
mạng lưới.
Tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế là điều cần thiết trong giai đoạn này. Bên
cạnh việc tận dụng nguồn vốn mà trên hết là học hỏi nhằm tiếp thu kinh nghiệm từ các

Tập đoàn lớn trên thế giới. Từ đó, rút ra kinh nghiệm cho bản thân cho con đường tiến
lên Tập đoàn tài chính – ngân hàng của mỗi ngân hàng.

-

Đa dạng hóa sản phẩm:
Đa dạng hóa sản phẩm được coi là chiến lược kinh doanh quan trọng trong hoạt
động của ngành tài chính – ngân hàng. Tuy nhiên, việc đa dạng hóa cần đảm bảo cả mặt
lượng và chất thì mới thật sự hiệu quả. Việc hình thành nên sản phẩm của hệ thống là cần
thiết, phù hợp với yêu cầu của hiện tại.

-

Hoàn thiện Hệ thống pháp lý:
Việc hoàn thiện Hệ thống pháp lý là điều kiện bắt buộc tại mỗi quốc gia, tuy nhiên
Việt Nam cần phải nỗ lực nhiều hơn. Việt Nam cần xây dựng Bộ chuẩn mực về quản trị
rủi ro, quản lý tài sản – nợ, quản lý vốn, quản lý đầu tư, kiểm toán nội bộ phù hợp với
24


thông lệ quốc tế; xây dựng hệ thống kế toán theo chuẩn mực quốc tế, thiết lập các chỉ tiêu
tài chính phù hợp với khuyến nghị của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS), nhất là tiêu
chuẩn vốn và dự phòng rủi ro. Bên cạnh đó, việc hình thành một Quy định chuẩn về cơ
cấu, tổ chức tập đoàn tài chính – ngân hàng sẽ là tiền đề cho sự phát triển trong tương lai.
-

Tăng cường Hệ thống công nghệ thông tin:
Cần tăng cường phát triển Hệ thống công nghệ thông tin nhằm đảm bảo cung cấp
dịch vụ nhanh, tiện lợi và an toàn.
Nói tóm lại, phát triển thành Tập đoàn tài chính – ngân hàng là một xu thế tất yếu

của Hệ thống NHTM Việt Nam. Vì vậy, cả nhà quản lý và các NHTM đều phải tập trung
giải quyết còn tồn đọng nhằm bắt kịp với xu thế của thời đại.

25


×