Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

ĐÁNH GIÁ RỦI RO CỦA THỰC VẬT BIẾN ĐỔI GEN TỚI SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI VÀ ĐỘNG VẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (772.59 KB, 30 trang )

Công ty TNHH Bayer
Việt Nam.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BÁO CÁO TÓM TẮT ĐÁNH GIÁ RỦI RO CỦA
THỰC VẬT BIẾN ĐỔI GEN TỚI SỨC KHỎE CỦA CON
NGƯỜI VÀ ĐỘNG VẬT

Cải dầu (Brassica napus) RF3 chống chịu thuốc trừ cỏ
Glufosinate Ammonium

CTY TNHH BAYER VIỆT NAM
Tháng 02, 2016
Toàn bộ dữ liệu và số liệu trong hồ sơ đăng ký này được bảo vệ bản quyền và không được sử dụng,
sao chép hay đưa cho bên thứ ba nếu không có được sự đồng ý của các tác giả


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

TÓM TẮT
Cải dầu Brassica napus L. oleifera,được biết đến với các tên khác nhau và được
gọi là Canola tại một số quốc gia, là loại cải thuộc họ Brassicaceae. Các nhà chọn tạo
giống đã tìm kiếm cách lai tạo cải dầu từ khá lâu nhưng vẫn chưa thành công. Cây lai F1
của các giống cải dầu được dự tính có thể tăng thêm 20 – 25% lượng hạt so với các giống
thụ phấn tự do tốt nhất. Hơn nữa, tính đồng đều của cây lai là một ưu điểm đối với các
ruộng thương mại, tại điều kiện cho việc thu hoạch và quảng bá.
Bayer CropScience (BCS) đã phát triển hệ thống lai tạo cho phép sản xuất 100%
cây lai; con số mà không có một hệ thống lai tạo cải dầu nào có thể đạt được. Cải dầu có


thể tự thụ tới 70% và thụ phấn chéo (30%). Việc kiểm soát thụ phấn đối với cây cải dầu
là điều tiên quyết với việc sản xuất cây lai F1 để đạt được độ thuần cần thiết cho việc
thương mại hóa. Cho tới nay, các nhà chọn tạo giống cải dầu đã tập trung nghiên cứu việc
lai tạo với các dòng cytoplasmic mã hóa việc bất dục đực có mặt trong một số dòng
Brassica. Tuy nhiên, hầu hết các hệ thống này đều không đạt mức tin cậy 100% đối với
ruộng thương mai của các chương trình phát triển.
Trong hệ thống lai tạo BCS, bất dục đực được tạo ra do việc biểu hiện trực tiếp
của gen barnase mã hóa đối với ribonuclease (RNase). Barnase, tại giai đoạn đặc trưng
trong quá trình phát triển nhị trong một lớp tế bào đặc biệt của nhị hoa. Việc phục hồi khả
năng sinh sản được thiết lập sau khi lai dòng bất dục đực (dòng MS) với một dòng phục
hồi (RF) có biểu hiện của gen barstar mã hóa cho protein Barstar, là một chất ức chế đặc
hiệu tạo ra bởi RNAse. Hệ thống lai tạo mới với cấu trúc đơn giản và hài hòa của nhân
cho phép việc lai tạo và đảm bảo tính độc lập của kiểu gen. Sự liên kết của các thành
phần trong hệ thống lai tạo mới và gen chỉ thị (bar) có khả năng chống chịu thuốc trừ cỏ
ammonium glufosinate thiết lập một công cụ thuận lợi cho việc kiểm soát việc tích hợp
của hệ thống lai tạo và việc sản xuất hạt bằng cách kiểm tra sự có mặt của gen mong
muốn trước khi cây ra hoa để biểu hiện kiểu hình.
Thêm vào đó, việc kết hợp với gen bar cung cấp cho người trồng cải dầu một công
cụ để kiểm soát cỏ dại. Thuốc trừ cỏ ammonium glufosinate mang các đặc điểm thân
thiện với môi trường; có khả năng phân hủy sinh học cao, không có các hoạt tính tồn dư
và có độc tính thấp đối với con người và sinh vật hoang dã.
Các thành phần di truyền của hệ thống lai được tìm hiểu chi tiết và đã công bố chi
tiết trong các nghiên cứu (Mariani et al., 1990; Mariani et al., 1992). Các gen chức năng
đã được phân lập từ vi khuẩn và các hoạt tính của chúng trong nền tự nhiên đã được ghi
lại đầy đủ. Không phát hiện được bất kỳ chỉ thị liên quan của các gen này đối với khả
năng gây dị ứng, gây bệnh, hay độc tính.


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi


Phương pháp chuyển gen được sử dụng dể chuyển hệ thống lai vào cây trồng có
nguồn gốc từ hệ thống chuyển gen Agrobacterium tumefaciens. Hệ thống chuyển gen này
dẫn đến việc kết hợp đơn giản của các gen chức năng trong nhân của các vật liệu di
truyền và đã được nghiên cứu chi tiết (De Block et al., 1989). Đoạn T-DNA chèn vào
được phân tích chi tiết và mô tả về các thành phần chức năng được cung cấp đầy đủ trong
báo cáo. Chức năng của các thành phần trong hệ lai trong cây, bao gồm cả các trình tự
kiểm soát cũng được xem xét. Việc đánh giá xem xét cho thấy:
- Gen bar, biểu hiện trong các mô xanh của thực vật và được điều khiển bởi
promoter PssuAra được tách từ vi khuẩn Arabidopsis thaliana, cho phép việc
chọn lọc có hiệu quả trên cánh đồng thông qua khả năng chống chịu lại thuốc
trừ cỏ glufosinate-ammonium
- Gen barstar mã hóa cho protein Barstar, là chất ức chế của protein Barnase,
chỉ biểu hiện ở các tế bào tapetum dẫn đến việc phục hồi sinh sản sau khi lai
tạo với dòng bất dục đực.
- Không có dữ liệu mới nào được tìm thấy về tác động ảnh hưởng đến các kết
luận của đánh giá an toàn trước đó. Các điểm chính về đánh giá an toàn gồm
có:
1. Một đoạn DNA đơn mang một bản sao của cassette biểu hiện gen bar và
cassette biểu hiện gen barnase được đưa vào giống cải dầu Drakkar bằng phương pháp
chuyển gen qua vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens. Các phần của khung vecto không
có mặt trong cây.
2. Gen bar được tách từ hệ DNA của vi khuẩn Streptomyces hygroscopicus, một
loại vi khuẩn đất thông thường, được biết đến là vi khuẩn không gây bệnh cho người,
động vật và thực vật. Gen barstar có nguồn gốc từ vi khuẩn Bacillus amyloliquefaciens,
là một chủng Bacillus không sản sinh racác độc tố.
3. Gen bar mã hóa enzyme đặc hiệu, phosphinothricin acetyltransferase (PAT) có
tác dụng acetyl hóa ammonium glufosinate và do đó giải độc của thuốc trừ cỏ đối với
cây. Gen barstar dẫn tới biểu hiện của Barstar, là chất ức chế của ribonuclease.
4. Các gen được chèn vào được phân tích đặc điểm của đoạn chèn qua phân tích

lai Southern và các thử nghiệm PCR. Cả đoạn ADN chèn vào cũng như đoạn bờ giữa
đoạn chèn và bộ gen cây cải đầu đều được phân tích trình tự. ADN chèn vào trong cải
dầu RF3 chỉ mang PSsuAra-bar-3'g7 và PTA29-barstar-3'nos.
5. Các gen chèn vào được di truyền lại như một tính trạng trội đơn lẻ. Sự ổn định
của đoạn chèn được chứng minh bằng các phân tích lai Southern và định luật lai Menden
6. Promoter TA29 kiểm soát sự biểu hiện của gen barstar. Promoter TA29 đặc
hiệu cho bao phấn. Promoter SsuAra kiểm soát sự biểu hiện của gen bar. Promoter này
hoạt động trong các mô xanh của cây.


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

7. Tương đương cơ bản đã được chứng minh đối với các phần của hạt có nguồn
gốc từ cải dầu sự kiện RF3. Các mẫu hạt được thu về từ nhiều điểm khảo nghiệm. Các
dòng chuyển gen được trồng bằng các phương pháp canh tác thông dụng có sử dụng
thuốc trừ cỏ thông thường hay thuốc trừ cỏ ammonium glufosinate (Liberty®). Cải dầu
không chuyển gen được trồng bằng phương pháp truyền thống có sử dụng thuốc trừ cỏ.
Việc so sánh các thành phần của các chất dinh dưỡng chính giữa cải dầu chuyển gen và
cải dầu truyền thống khẳng định sự tương đương. Các yếu tố chống dinh dưỡng được biết
của cải dầu (như glucosinolates, axit erucic) đều nằm trong khoảng của các dòng cải dầu
hiện đang được thương mại hóa. Đồng thời không xác định được bất kỳ quan ngại nào về
độc tố hay chống dinh dưỡng.
8. Sự tương đương cơ bản được biểu hiện đối với kiểu hình của cây thông qua so
sánh từng điểm với đối chứng truyền thống cận huyết, giống cải dầu B.napus Drakkar.
Thêm vào đó, do các sự kiện chuyển gen được lai tạo với giống truyền thống khác để đưa
tính trạng mới vào, không một chỉ tiêu về kiểu hình nào khi xem xét có kết quả nằm
ngoài khoảng của các giống cải dầu B.napus đang được trồng để sản xuất. Không có biểu
hiện nào của các ảnh hưởng không chủ đích ảnh hưởng đến việc thay đổi di truyền được
tìm thấy

9. Nghiên cứu về đặc tính tự nhiên của protein PAT không cho thấy bất kỳ quan
ngại nào về tính an toàn. Sự có mặt với một lượng nhỏ của protein PAT trong chuỗi cung
ứng thực phẩm và thức ăn chăn nuôi không đại diện cho bất kỳ nguy cơ rủi ro nào. Các
đặc tính enzyme đều nằm trong phổ chức năng sinh học và đặc hiệu cao với cơ chất là
thuốc trừ cỏ ammonium glufosinate. Một bộ kiểm nghiệm đã được xây dựng để đánh giá
protein PAT qua các đặc điểm liên kết với dị ứng thực phẩm và độc tố không cho thấy
bất kỳ vấn đề quan ngại nào. Trình tự của protein PAT không tương đồng với các chất
gây dị ứng hay độc tố đã biến nào và protein này không bền trong môi trường tiêu hóa.
Nghiên cứu độ độc cấp tính đối với chuột không tìm thấy bất kỳ ảnh hưởng bất lợi nào
khi phải tiếp xúc với một lượng lớn protein PAT. Việc đánh giá tính an toàn của protein
PAT ở nhiều quốc gia cũng như ở EU đều cho thấy tính an toàn của protein này.
10. Không có đặc tính quan ngại mới nào được xác định liên quan đến các protein
mới, Barstar và PAT hay với các vai trò đã biết của cải dầu trong chế độ dinh dưỡng của
con người. Không có chất mới hay sự thay đổi trong độc tố được tìm thấy trong RF3.
11. Các dòng cải dầu RF3 và MS8xRF3 được thương mại hóa đầu tiên tại Canada
năm 2000. Sự kiện này đã có một lịch sử sử dụng an toàn từ thời điểm đó và không có bất
kỳ một ảnh hưởng bất lợi nào liên kết với sự kiện này.


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

PHẦN I. THÔNG TIN CHUNG
1. Thông tin cá nhân đăng ký:
-

Tên tổ chức đăng ký: Công ty TNHH Bayer Việt Nam
Người đại diện của tổ chức: Tổng Giám đốc – Kohei Sakata
Đầu mối liên lạc của tổ chức: T.S Đặng Ngọc Chi – Giám đốc đăng ký
Địa chỉ: Lô 118/4, Khu Công Nghiệp Amata, phường Long Bình, Thành Phố

Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai
Điện thoại: (+ 84 61) 8 877 120
Fax: (+ 84 61) 3 936 951
Email:

2. Tên thực vật biến đổi gen: Cải dầu sự kiện RF3
- Tên thông thường: Cải dầu
- Tên khoa học: Brassica napus L.
- Tên thương mại: không
- Sự kiện chuyển gen: RF3
- Tính trạng mới liên quan đến gen chuyển: Cải dầu B.napus phục hồi bất
dục đực và chống chịu thuốc trừ cỏ glufosinate ammonium
- Mã nhận diện duy nhất (nếu có): ACS-BNØØ3-6


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

PHẦN II. THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÂY CHỦ NHẬN GEN
1. Tên cây chủ nhận gen
(a) Tên khoa học: Brassica napus L.
(b) Tên thông thường: Oilseed rape, canola
(c) Vị trí phân loại:
- Họ: Cruciferae
- Giống: Brassica
- Loài: napus
- Họ phụ: oleifera

2. Thông tin liên quan đến cây chủ nhận gen
Lịch sử canh tác và phát triển

Brassica napus L. là một thành viên của họ phụ Brassicinae, thuộc họ Brassiceae,
họ thập tự Cruciferous (Brassicaceae), đôi khi còn được gọi là họ mù tạt. Tên gọi “thập
tự - cruciferous” xuất phát từ hình dạng hoa, với 4 cánh xếp đối xứng theo hình chữ thập.
Bộ lá màu xanh đậm của cải dầu B. napus có phấn, trơn hoặc có một số ít lông thưa nằm
gần mép lá và đan vào nhau. Thân cây phân nhánh, mặc dù lượng nhánh phụ thuộc vào
giống và các điều kiện môi trường; các nhánh có nguồn gốc từ chồi của các lá cao nhất
trên thân và mỗi nhánh kết thúc bằng một chùm hoa. Hoa là cấu trúc chùm hoa dài, hoa
có màu vàng, phân cành từ đỉnh nhưng không cao hơn chồi trên cùng và nở về phía trên
từ đế của chùm hoa (Musil, 1950).
Có hai loại cải B. napus: 1) cải thập (oleiferous) có chất luợng dầu cao, trong đó
có một nhánh có các đặc điểm chất lượng đặc biệt và được gọi là "canola" (tên bản xứ),
và 2) cải có dạng củ như cải củ Thụy Điển hay rutabaga. Loại cải dầu oleiferous có thể
được phân tiếp thành phân nhóm phụ là loại xuân và đông. Các bản viết tiếng Phạn vào
những năm 2000 đến năm 1500 truớc công nguyên đã miêu tả trực tiếp các loại cải dầu
oleiferous B. napus (sarson types) và mù tạt. Ghi chép của Hy lạp, người La Mã và Trung
Quốc những năm 500 đến 200 trước công nguyên có nói đến các loại cải thuộc nhóm
rapiferous của B. rapa (Downey and Röbbelen, 1989). Tại châu Âu, việc thuần hoá cải
được cho là xảy ra vào đầu thời kỳ Trung cổ. Việc trồng trọt thương mại hoá của cải dầu
được ghi nhận ở Hà Lan vào đầu những năm của thế kỷ thứ 16. Vào thời điểm đó, dầu cải
được sử dụng chủ yếu cho việc đốt đèn.
Sau này, dầu cải được sử dụng chủ yếu làm dầu nhớt trong các động cơ hơi nước.
Mặc dù được sử dụng rộng rãi là dầu ăn ở Châu Á, thông qua chọn tạo giống để nâng cao
chất lượng dầu và phát triển các kỹ thuật chế biến đã giúp cho dầu cải có vai trò quan
trọng ở các nước phương Tây. Kể từ Thế chiến thứ hai, sản phẩm dầu cải tại châu Âu và
Canada đã tăng đột biến do chất lượng dầu và khô dầu đã được cải thiện đáng kể. Các kỹ
thuật hiện đại của việc chuyển gen và phân loại kiểu gen sử dụng isozyme, chỉ thị RFLP,
hay các chỉ thị RAPDs là các công cụ đầy đủ của chọn tạo giống truyền thống cho việc
sản xuất các dòng cải tiến (Buzza, 1995). Trung Quốc, Ấn độ, Châu Âu và Canada hiện
tại là các quốc gia sản xuất hàng đầu đối với cải dầu, mặc dù cây trồng này cũng được
trồng thành công tại Hoa Kỳ, Nam Mỹ và Úc, với sản luợng tăng vọt hàng năm trong thời

gian qua.


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

Lịch sử phát triển chọn tạo giống
Ngày nay, hai loại cải của Brassica đã có những giống thương mại hoá với đặc
tính “hai thấp”, tức là có hàm lượng axit erucic trong thành phần axit béo thấp và có
thành phần glucosinolate trong khô dầu rất thấp, các đặc điểm này rất thích hợp với dầu
thực vật chất lượng cao cũng như thức ăn chăn nuôi chất lượng cao. Tại Bắc Mỹ, các
giống này (B. napus và B. rapa) được gọi là "canola" chất lượng, mặc dù B. rapa trên
thực tế không còn được trồng ở Bắc Mỹ nữa. Tại một số quốc gia khác, B. napus được
trồng như cây vụ đông hàng năm tại các khu vực có nhiệt độ vào mùa đông không quá
thấp, khiến cây trồng không thể sinh truởng được. Các dạng sinh học điển hình của các
giống này yêu cầu phải có xuân hoá trước khi thân bắt đầu kéo dài, chùm hoa phát triển,
bắt đầu vào hoa và hạt. Tại Bắc Mỹ và phía bắc của Châu Âu, loại hình mùa xuân của B.
napus không yêu cầu phải xuân hoá trước khi có hoa nhưng lại yêu cầu ít thời gian hơn
để hoàn thành 1 vòng đời. Loại oleiferous B. napus mùa xuân, thường được trồng vào
mùa mát, không có khả năng chống chịu hạn. Loại cây này rất thích hợp và có biểu hiện
tốt khi trồng trên nhiều phổ đất khác nhau khi được cung cấp đủ ẩm và dinh dưỡng thích
hợp. Nhiệt độ không khí và nhiệt độ đất ảnh huởng đến sinh truờng và năng suất cây
trồng. Nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng và phát triển nhất của cải dầu loại mùa
xuân là khoảng 20°C, trong đó cây sinh trưởng tốt trong khoảng nhiệt độ từ 12°C đến
30°C. Nhiệt độ mát thích hợp cho cây con từ sau khi nảy mầm đến khi ra hoa; nhiệt độ
cao giai đoạn ra hoa thúc đẩy quá trình phát triển của cây, giảm thời gian từ lúc ra hoa
cho đến khi chín. Trong các giống canh tác, các giống Brassica có yêu cầu cao về nhất về
dinh dưỡng đối với lưu huỳnh.
Do các vấn đề về đất được quan tâm nhiều, việc sản xuất B. napus trong điều kiện
làm đất tối thiểu hoặc không làm đất được khuyến cáo. Đây là biện pháp mà hầu như toàn

bộ tồn dư của cây trồng và gốc cây được để lại trên bề mặt đất để giữ lớp tuyết không bị
tan nhanh, giảm thiểu được xói mòn đất do gió và nước, tăng khả năng giữ nước của đất.
Các phương thức canh tác giảm thiểu làm đất chỉ phát huy tác dụng khi có kết hợp với
một phương án kiểm soát cỏ dại tốt. Cải dầu vụ đông che phủ dất trong vòng 10 – 11
tháng, yêu cầu dinh dưỡng cho cây cao vào mùa thu và làm giảm xói mòn đất vào mùa
đông.
Cỏ dại là một trong những chỉ tiêu làm hạn chế nhất năng suất của cải dầu. Các
nhóm cỏ dại có liên quan đến họ thập tự, như mù tạt dại (Sinapis arvensis), cỏ hôi
(Thlaspi arvense), cỏ tâm giác (Capsella bursa-pastoris), mù tạt quả (Neslia paniculata),
cỏ linh lăng (Descurainia sophia), mù tạt dầu giun (Erysimum cheiranthoides), mù tạt tai
thỏ (Coringia orientalis), cỏ tiêu thông thường (Lepidium densifolium) v.v…., là những
nhóm cỏ ảnh hưởng nhiều đến sản xuất cải dầu. Cải dầu vụ xuân không thể cạnh tranh tốt
với cỏ dại trong giai đoạn đầu, do cây phát triển chậm và chậm che phủ đất. Việc kiểm
soát cỏ dại sớm giúp giảm thiểu mất mát năng suất do kết quả của việc cạnh tranh. Mặc
dù cải dầu bị nhiễm một số loại sâu hại, việc kiểm soát sâu hại cần phải được thiết kế cẩn
thận để giảm thiểu chi phí cho việc sử dụng thuốc trừ sâu, tạo cơ hội cho việc hình thành
tính kháng trong côn trùng và gây hại đến ong mật và đến các loài các loài côn trùng thụ
phấn tự nhiên. Bệnh cây có thể nhiễm trầm trọng tại các khu vực sản xuất lớn và bị ảnh
hưởng nhiều do biện pháp canh tác cũng như các yếu tố môi trường, do đó, các chương
trình quản lý bệnh cần được xem xét kỹ lưỡng.
Thông tin về sự an toàn của cây nhận gen


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

Mặc dù được sử dụng rộng rãi tại châu Á làm dầu thực phẩm nhưng phải thông
qua quá trình lai tạo cải thiện chất lượng dầu và nhờ sự phát triển của công nghệ chế biến
thì cải dầu mới trở nên quan trọng ở các quốc gia phương Tây. Kể từ sau thế chiến thứ 2,
sản xuất cải dầu ở Châu Âu và Canada tăng mạnh mẽ nhờ năng suất và chất lượng được

cải thiện. Các kỹ thuật chuyển gen hiện đại cho cây trồng và xác định kiểu gen bằng
isozymes, chỉ thị RFLP hay các chỉ thị nhân đa hình ngẫu nhiên DMA (RAPDs) hỗ trợ
cho chọn tạo giống truyền thống để có những dòng sản xuất được cải tiến (Buzza, 1995).
Trung Quốc, Ấn độ, Châu Âu và Canada là các quốc gia đứng đầu trên thế giới, cây cải
dầu có thể được trồng khá tốt tại Hoa Kỳ, Nam Mỹ và Úc với sản lượng hàng năm tăng
vọt trong những năm vừa qua.
Cải dầu đứng vị trí thứ 3 trong các cây lấy dầu quan trọng trên thế giới, sau đậu
tương và cọ. Cải dầu được phát triển như một cây trồng đa mục đích. Dầu cải công
nghiệp với hàm lượng axit erucic cao được sử dụng làm dầu bôi trơn và có thể thay thế 1
phần cho dầu nhớt trong nhiên liệu sinh học. Ngược lại, dầu cải sử dụng làm thực phẩm
với hàm lượng axit erucic thấp cũng như có hàm lượng glucosinalate trong khô dầu thấp.
Do đó, nó được gọi là các giống “2 lần thấp” của cả hai loại Brassica napus và Brassica
rapa chiếm lĩnh các vùng sản xuất cải dầu ở các quốc gia phát triển. Ở Bắc Mỹ, các giống
này được gọi chung là các giống canola chất lượng.
Cải dầu truyền thống không phải là nguồn thực phẩm thích hợp cho con
người hay động vật do sự có mặt của hai chất độc tự nhiên trong hạt là axit erucic và
glucosinolates. Không ghi nhận được các phản ứng dị ứng đối với con người của các chất
béo (bao gồm các loại dầu cải). Các phản ứng dị ứng miễn dịch đối với dầu cải có thể xảy
ra ở phổi (thông qua việc hít phấn hoa) hoặc qua tiếp xúc với da (bằng việc vận chuyển).
Tỷ lệ xuất hiện dị ứng và/ hoặc tỷ lệ phát bệnh xuyễn đo được trong vụ mùa trồng cải dầu
tại châu Âu cao vào thời điểm hoa nở (Bugur & Arner 1978). Các nghiên cứu khác được
tiến hành ở Châu Âu cho thấy mối liên quan thấp giữa hạt phấn cải dầu và dị ứng (thấp
hơn 0.2%) trừ khi nghiên cứu liên quan đến việc tiếp xúc. Các tác động đó với 1 ngoại lệ
đã sẵn có viêm và dị ứng với các loại phấn hoa khác (Fell et al. 1992). Các thành phần
hữu cơ bay hơi của cây cải dầu cho thấy chúng đóng vai trò trong dịch nhầy hô hấp và
sung tấy màng nhầy liên quan đến ngộ độc không khí thải ra từ ruộng trồng cải dầu
(Butcher et al. 1994). Dữ liệu thu được về dị ứng với phấn cải dầu thường được tìm thấy
cùng với hoa của các loại cây khác, đa phần là cỏ, là những loài có thời gian nở hoa gần
giống nhau. Soutar và cộng sư (1995) nhận thấy những người than phiền về các triệu
chứng liên quan đến hoa của cải dầu thuờng rất hiếm khi bị dị ứng với cây và ít hơn 1

nửa số này bị viêm. Tuy nhiên, họ thuờng có các phản ứng ở cuống phổi tang trong mùa
cây ra hoa, mà nguyên nhân có thể là do một số truờng hợp phản ứng với loại dị ứng khác
trong khi một số khác lại phản ứng với các tác nhân kích thích không xác định của không
khí. Không có bằng chứng nào về các phản ứng chéo giữa phấn của cải dầu và cỏ (Welch
et al. 2000). Các dị ứng liên quan đến cây trồng có thể là phản ứng mạnh ngay lập tức
hoặc chậm tới. Tỷ lệ xuất hiện của loại sau là do kết quả của việc vận chuyển vật liệu cây
trồng và thuờng là biểu hiện viêm da tiếp xúc. Tuy nhiên các nghiên cứu này cho thấy sự
tiếp xúc với bột cải dầu (có mặt trong thức ăn thô của động vật) có thể là một nguyên
nhân gây ra bệnh hen trong nông dân (Alvarez et al. 2001). Tất cả các nguy cơ từ phấn
hoa gồm cả dân số nông thôn nói chung và các công nhân làm tại trang trại nói riêng. .


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

Yêu cầu nâng cao chất lượng dinh dưỡng đối với dầu cải và khô dầu cải được quan
tâm nhiều từ những năm cuối của thập niên 1940, nhưng phải đến nửa cuối những năm
50 thì phương pháp nhanh và chính xác cho việc đo đạt các thành phần của dầu và khô
dầu mới được phát triển. Từ đó đến nay, các yếu tố dinh dưỡng của dầu cải được quan
tâm nhiều, đặc biệt là hàm lượng eicosenoic cao và axit béo erucic. Trong cùng thời
điểm, việc nâng cao chất lượng của khô cải dầu được bắt đầu khi giải quyết được vấn
đền thành phần của glucosinolate, là thành phần xẩy ra các vấn đề liên quan đến dinh
dưỡng và tiêu hóa cho gia súc và gia cầm (Scarisbrick & Daniels, 1986; Niewiadomski,
1990; Canola Growers Manual, 1991; Shahidi, 1990).
Dầu cải tinh luyện chứa hàm lượng axit erucic thấp được sử dụng nhiều trong các
sản phẩm dầu ăn. Đối với dạng lỏng trong các sản phẩm như salad, dressing hay chiên
rán, dầu thường không cần trải qua thêm công đoạn chế biến nào khác. Dầu béo thu từ
phương pháp ép lạnh được bán trực tiếp cho người tiêu dùng và không được chế biến
thêm. Trong sản xuất bơ thực vật (margarine), shortening và các sản phẩm khác, quá
trình hydro hoá làm chuyển trạng thái dầu từ lỏng sang rắn. Dầu cải có thể được chế biến

thành dạng rắn hơn sử dụng phương pháp nội ester hoá, trong đó có sự phối trộn với loại
dầu khác như dầu cọ.
Dầu với hàm lượng axit erucic cao được sử dụng trong công nghiệp làm dầu bôi
trơn, phụ gia cao su, nylon, nhiên liệu và thuốc trừ sâu. Sau quá trình trích ly với hexane,
khô dầu còn lại được loại dung môi bằng nhiệt độ. Quá trình này tiếp tục làm giảm hàm
lượng glucosinolate và giảm thiểu sự nhiễm tạp vi sinh. Khô dầu được sấy tới độ ẩm dưới
14% và được làm nguội để bảo quản.


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

PHẦN III. THÔNG TIN VỀ SINH VẬT CHO GEN
1. Tên của sinh vật cho gen
Cải dầu MS8 (dòng bất dục đực) mang gen barnase (có nguồn gốc từ Bacillus
amyloliquefaciens) mã hóa cho một ribonuclease, Barnase. Cải dầu MS8 cũng mang gen
bar (có nguồn gốc từ Streptomyces hygroscopicus) mã hóa cho enzyme chuyển gốc
acetyl hoá vào phosphinnothricin (phosphinothricin acetyl transferase, PAT), tạo cho cây
có khả năng chống chịu lại thuốc trừ cỏ mang hoạt chất ammonium glufosinate.
1.1. Sinh vật cho gen barnase
a. Tên thông thường:
Bacillus
b. Tên khoa học: Bacillus amyloliquefaciens
c. Vị trí phân loại:
Giới: Bacteria
Lớp: Bacilli
Họ: Bacillaceae
Chi: Bacillus
Loài: B. amyloliquefaciens
1.2. Sinh vật cho gen bar

a. Tên thông thường: Streptomyces
b. Tên khoa học: Streptomyces hygroscopius
c. Vị trí phân loại:
- Giới: Bacteria
- Lớp: Actinobacteria
- Họ: Streptomycetaceae
- Chi: Streptomyces
- Loài: Streptomyces hygroscopius

2. Thông tin liên quan đến sinh vật cho gen.
Gen bar có nguồn gốc từ vi khuẩn đất thông thường Streptomyces hygroscopicus,
tuy nhiên loại vi khuẩn này có thể tìm thấy trong môi trường nước. Loại vi khuẩn này
không được sử dụng trong ngành công nghiệp thực phẩm.
S. hygroscopicus có lịch sử sử dụng an toàn và được tổng hợp trong báo cáo của
Herouet và cộng sự (2005) đăng trên tạp chí khoa học. Con người đã tiếp xúc với
Streptomyces từ rất lâu và đây là nhóm vi khuẩn phổ biến có mặt khắp nơi trong tự nhiên
(Kutzner, 1981), đặc biệt là thông qua các loại rau củ. Hơn nữa, không có bằng chứng
nào chứng tỏ được ảnh hưởng bất lợi của việc tiếp xúc với các chủng vi khuẩn này.
Nguồn cho gen barnase là vi khuẩn Bacillus amyloliquefaciens là loại vi khuẩn
hiếu khí tạo bào tử thường được tìm thấy trong đất. Vi khuẩn B. amyloliquefaciens được
sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp thực phẩm như một nguồn sản sinh các
enzyme dùng trong Công nghiệp Thực phẩm.


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

S. hygroscopicus về bản chất không phải là vi khuẩn gây bệnh cho con người hay
có các yếu tố liên quan gây ảnh hưởng đến sức khỏe của con người (ví dụ như là tạo các
sản phẩm độc tố) (Locci, 1995 M-135197-01-1). Streptomyceteae được phân bố rộng rãi

trong đất và nước. Hầu hết đều là các vi khuẩn hoại sinh nghiêm ngặt. Vai trò của
Streptomycetes trong môi trường tự nhiên vẫn chưa được hiểu rõ, tuy nhiên sự có mặt và
số lượng loài đã được hiểu rõ. Đất, thức ăn thô, ủ là nguồn chính của Streptomycetes. Tuy
nhiên một số loài Streptomyceteae có thể tồn tại ở dạng ký sinh trên cây trồng và động
vật.
Mặc dù Streptomyceteae thường được cho là vi khuẩn ưa khí hoàn toàn, nhưng
chúng vẫn có thể sinh trưởng trong đất với nồng độ oxy thấp, trừ khi lượng khí CO2 vượt
quá 10%. Trong đất khô, tỷ lệ tế bào sinh dưỡng Streptomycete bị giảm xuống nhưng
chúng lại tồn tại ở dạng bào tử, thường có thể chống chịu tốt hơn với khô hạn so với dạng
sinh dưỡng của vi khuẩn này.
Sinh vật cho Bacillus amyloquefaciens là một loại vi khuẩn đất thông thường được
biết đến là không gây bệnh cho con người và động vật. Gen barnase được cấu thành từ
các axit nucleic cơ bản được tìm thấy trong bất kỳ DNA nào từ các nguồn thực phẩm mà
con người hay động vật sử dụng trong chế độ dinh dưỡng.
- Nhóm các protein ribonuclease rất phổ biến trong tự nhiên và chức năng
của nhóm này cũng được nghiên cứu sâu.
- Ứng dụng của nhóm Protein Barnase trong nhiều lĩnh vực khác nhau cho
thấy những protein này là những protein đã được biết đến nhiều, đặc biệt
trong các lĩnh nghiên cứu protein, nông nghiệp, y tế. Qua những nghiên
cứu như vậy, những thông tin đa chiều về nhóm protein này được làm rõ
một cách hoàn chỉnh.
Trong các phân tích tổng thể về sản phẩm gen, sinh vật cho gen cũng như gen mã
hóa cho thấy chúng không gây bệnh cho động vật có vú và các protein này không mang
các đặc điểm có liên quan với các chất gây dị ứng. Do đó có lý do chính đáng để thấy
rằng protein này không gây độc cho động vật có vú và con người.
Các thành viên khác của chi này rất hữu hiệu để sản xuất các loại thuốc kháng sinh
trong chữa bệnh (Freyssinet, 2002, M-085622-01-2).
Một số loại Streptomyces được phân lập từ nguồn người và động vật và khả năng
gây bệnh đối với vật chủ không phải là đặc tính cơ bản của các vi khuẩn nhóm này. Điều
này cũng hoàn toàn đúng với khả năng gây bệnh của nhóm vi khuẩn này với thực vật: có

rất ít nhóm vi khuẩn được loài Streptomyces spp. được biết đến là vi khuẩn gây bệnh cây
(Kutzner, 1981 M-204308-01-1).
S. hygroscopicus và các loài Streptomyces khác là rất phổ biến trong tự nhiên.
Chúng là một phần thông thường của sinh quyển sự sống trên khắp thế giới và chỉ có một
số rất nhỏ các loài Streptomyces có liên kết gây bệnh cho con người, động vật và thực
vật. Có rất nhiều loài Streptomyces tương tự nhue S. hygroscopicus và rất nhiều loài khác
mang gen bar/pat. Không loại nào được báo cáo là gây bệnh hay dị ứng cho con người
hay động vật, theo Kutzner (1981, M-204308-01-1).


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

Gen barnase được phân lập từ nguồn vi khuẩn Bacillus amyloliquefaciens là vi
khuẩn yếm khí, tạo bào tử thông thường trong đất. B. amyloliquefaciens được sử dụng
rộng rãi trong công nghiệp thực phẩm như một nguồn tạo ra các enzyme.


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

PHẦN IV. THÔNG TIN VỀ THỰC VẬT BIẾN ĐỔI GEN
1. Thông tin về phương pháp được sử dụng để chuyển gen
Cải dầu B.napus biến đổi gen sự kiện RF3 mang gen barstar (có nguồn gốc từ
Bacillus amyloliquefaciens) mã hóa cho protein Barstar có tác dụng ức chế enzyme
Barnase, chỉ biểu hiện trong các tế bào tapetum trong quá trình phát triển bao phấn, dẫn
tới việc phục hồi khả năng sinh sản sau khi lai với dòng bất dục đực, và một gen bar (có
nguồn gốc từ Streptomyces hygroscopicus) mã hóa cho phosphinothricin acetyl
transferase (PAT) được sử dụng như một chỉ thị để nhận biết nhờ khả năng chống chịu
với thuốc trừ cỏ có chứa glufosinate ammonium. Gen bar được điều khiển bởi một

promoter thực vật hoạt động trong tất cả các mô xanh của cây. Gen bar khi biểu hiện cho
phép sản phẩm của enzyme là Phosphinothricin-Acetyl-Transferase (PAT) acetyl hóa Lglufosinate ammonium và do đó có khả năng chống chịu với các loại thuốc trừ cỏ có gốc
glufosinate ammonium. Đối với việc chuyển gen của cải dầu, sử dụng hệ thống vector
chuyển được Deblaere et al. (1985, 1987).
Hạt cải dầu Brassica napus giống Drakkar được nảy mầm trên dung dịch nảy mầm
lỏng. Các phần của lá mầm từ cây con cải dầu Brassica napus được chia ra và ủ trong
môi trường lỏng có thay đổi của Murashige & Skoog (MS) để hình thành callus. Callus
được phân lập từ các điểm sẹo của lá mầm và được chuyển sang cùng một môi trường để
phát triển callus phôi. Các khối nhỏ của phôi được chuyển cùng với vector pTHW118 sử
dụng hệ vector đã được Deblaere và cộng sự (1987) mô tả. Sau khi cùng nuôi cấy, các mô
sẹo được chuyển được chọn tạo trên môi trường có bổ sung glufosinate ammonium. Sau
khi hình thành phôi sinh dưỡng và tái sinh thành cây con, cây con được chuyển ra nhà
lưới cho tới khi ra hoa, tạo hạt và được phân tích xa hơn (Criel I., 2008. )
Vector pTHW118 có nguồn gốc từ pGSC1700 (Cornelissen and Vandewiele,
1989). Vùng khung vector bao gồm các nguyên tố di truyền sau:
- Phần lõi plasmid bao gồm 2 vùng khởi đầu quá trình tái bản plasmid: 1 lấy từ
plasmid pBR322 (Bolivar et al., 1977) cho phép plasmid có thể tái bản được
trong Escherichia coli (ORI ColE1) và 1 lấy từ plasmid pVS1 của
Pseudomonas (Itoh et al., 1984) giúp plasmid tái bản trong được Agrobacterium
tumefaciens (ORI pVS1).
- Gen chọn lọc tạo khả năng kháng streptomycin và spectinomycin (aadA), giúp
chọn lọc plasmid trong Escherichia coli và Agrobacterium tumefaciens.
Gen barstar (Hartley, 1988) với các tín hiệu điều hoà để có thể biểu hiện trong
Escherichia coli.
2. Nêu những tính trạng và đặc điểm mới của thực vật biến đổi gen so với loài
thực vật thông thường tương ứng.


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi


Dòng cải dầu RF3 khác với các dòng khác ở hai đặc điểm: khả năng phục hồi khả
năng sinh sản và tính chống chịu với thuốc trừ cỏ glufosinate ammonium. Hai tính trạng
này là kết quả của việc chuyển 2 gen bar và barstar vào hệ gen của cây chủ.
Gen barstar
Gen Barstar, được hợp nhất vào trong hệ gen cải dầu B.napus. Gen barstar được
tách từ vi khuẩn Bacillus amyloliquefaciens. Nó mã hoá cho một protein nhỏ mạch đơn,
được gọi là Barstar. Barstar là tên của một thành phần ức chế enzyme Barnase. Như vậy,
chức năng của Barstar là bảo vệ vi khuẩn Bacillus amyloliquefaciens khỏi ảnh hưởng của
Barnase. Tác động ức chế của Barstar đối với Barnase có tính đặc hiệu cao. Cả 2 protein
này để được nghiên cứu chi tiết từ nhiều năm nay. Do đây là các protein nhỏ, có cấu trúc
đơn giản nên chúng (đặc biệt là Barnase) được sử dụng như các model chuẩn cho nghiên
cứu sự cuộn xoắn protein (protein folding). Dưới sự kiểm soát của promoter đặc hiệu cho
cây trồng, chỉ cho phép sự biểu hiện của gen barstar trong lớp tế bào tapetal trong quá
trình hình thành bao phấn, do vậy gen barstar được sử dụng để phát triển hệ thống lai tạo
mới cho cải dầu B.napus (Mariani et al., 1990; Mariani et al., 1992; De Block &
Debrouwer 1993).
Gen bar và tính chống chịu với thuốc trừ cỏ glufosinate ammonium
Cùng với gen barstar gen bar mã hoá cho enzyme phosphinothricin acetyl
transferase (PAT), cũng được hợp nhất vào hệ gen cây chủ. Gen bar được phân lập từ
Streptomyces hygroscopicus, một loài vi sinh vật có thể tạo ra bialaphos. Bialaphos và
các sản phẩm tổng hợp chứa glufosinate ammonium được phân vào nhóm các thuốc trừ
cỏ mới, trong đó phosphinothricin là hợp chất có hoạt tính trừ cỏ. Phosphinothricin sẽ ức
chế quá trình sinh tổng hợp một axit amin cụ thể thông qua việc ức chế enzyme tổng hợp
glutamin glutamine synthetase (GS), đây là một enzyme quan trong trong việc đồng hoá
ammonia và kiểm soát quá trình trao đổi chất nito trong cây trồng. Các thuốc trừ cỏ chứa
Phosphinothricin đều có hoạt tính mạnh lên cây trồng nhưng an toàn với con người và
động vật, hơn thế nữa chúng sẽ bị phân giải sinh học một cách nhanh chóng trong môi
trường. Sản phẩm phiên mã dịch mã từ gen bar, protein PAT, có thể chuyển hoá
phosphinothricin sang dạng dẫn xuất bị acetyl hoá không hoạt động (De Block et al.,

1987, Freyssinet, 2002).
Cải dầu B.napus trồng trong nông nghiệp cần được kiểm soát cỏ dại. Việc kiểm
soát cỏ dại thành công phụ thuộc vào sự kết hợp giữa các biện pháp quản lý, trong đó bao
gồm cả việc sử dụng một hay nhiều loại thuốc trừ cỏ. Với cải dầu LibertyLink® B.napus
cho phép: 1) quay vòng thuốc trừ cỏ để đảm bảo kiểm soát tính chống chịu, 2) kiểm soát
sự giảm tính mẫn cảm hoặc những vấn đề khó khăn trong việc kiểm soát cỏ dại (đặc biệt
với các loại cỏ dại có cùng họ thập tự).
Ngoài ra không có gen chỉ thị nào khác được sử dụng. Hơn thế nữa, T-DNA trong
sự kiện RF3 không mang theo trình tự khởi đầu tái bản nào có nguồn gốc từ vi khuẩn và
hệ gen tự nhiên của cải dầu Brassica napus


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

Qua các nghiên cứu và lịch sử khảo nghiệm đồng ruộng, không có gen nào khác bị
ảnh hưởng bởi quá trình chuyển gen. Không có sự khác biệt về mặt hình thái và trong khả
năng kháng sâu bệnh so với đối chứng cận huyết. Việc đánh giá định lượng và một số
đánh giá định tính (nảy mầm, tính bền, ảnh hưởng của sử dụng thuốc trừ cỏ, độ khỏe, thời
gian ra hoa, chiều cao cây cũng như thành phần dầu, protein và glucosinolate) đã được
tiến hành tại nhiều vùng trồng

Lịch sử cấp phép và sử dụng thực vật biến đổi gen trên thế giới
RF3 được công nhận làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi lần đầu tiên vào năm
1996 tại Canada. Cho tới nay, RF3 đã được xem xét một cách toàn diện và được đánh giá
tính an toàn tại nhiều quốc gia:
Danh sách các quốc gia đã phê chuẩn cho cải dầu B. napus RF3
Quốc gia
Năm


Thực
phẩm
Australia/New
Zealand
Canada
China
European Union
Japan
Mexico
Korea
South Africa
Taiwan
India
USA
Viết tắt:

Cơ quan

Phê chuẩn

 2002












Thức ăn chăn Năm
nuôi

2003

1997
2004
2005
2003
2004
2001
2001
2015
2015
1998

FDA: Bộ Dược phẩm và thực phẩm Hoa Kỳ
USDA: Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ
MFDS: Bộ an toàn thực phẩm và dược phẩm, Hàn
Quốc
(tên gốc là KFDA: Korea Food and Drug
Administration)
RDA: Bộ Nông nghiệp và nông thôn Hàn Quốc
SA-DA: Bộ Nông nghiệp Nam Phi
SENASA: Cơ quan dịch vụ NN Argentina
MHLW: Bộ Lao động, sức khỏe và phúc lợi
MAFF: Bộ nông, lâm nghiệp và nghề cá
FSANZ: Cơ quan tiêu chuẩn thực phẩm Australia

New Zealand
MOA: Bộ nông nghiệp
CFIA: Cơ quan giám sát thực phẩm Canada











1996
2004
2005
2003
2004
2001
2001
2015
1998

FSANZ
HC
MOA
EFSA
MHLW, MAFF
COFEPRIS

MFDS, RDA
NDA
TFDA
MEFCC
USDA

HC: Bộ y tế Canada
PhDA: Bộ NN Philippine
TFDA – Cơ quan thực phẩm và dược phẩm Đài Loan
MHCSP:Bộ chăm sóc sức khỏe và vấn đề xã hội
DOH: Bộ Y tế
EFSA: Cơ quan an toàn thực phẩm EU
COFEPRIS – Comision Federal Para La Proteccion
Contra Riesgos Sanitarios

NDA – Bộ nông nghiệp
MEFCC – Bộ môi trường, lâm nghiệp và biến đổi khí
hậu.


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

PHẦN V. ĐÁNH GIÁ NGUY CƠ ẢNH HƯỞNG CỦA THỰC VẬT BIẾN
ĐỔI GEN ĐỐI VỚI SỨC KHOẺ CON NGƯỜI VÀ VẬT NUÔI
Yếu tố quan trọng trong đánh giá an toàn của thực phẩm và các nguyên liệu thực
phẩm có nguồn gốc từ thực vật biến đổi gen là việc đánh giá tính Tương đương cơ bản.
Khái niệm tương đương cơ bản là một hướng tiếp cận có cơ sở khoa học, trong đó, cây
trồng chuyển gen, là nguồn gốc của thực phẩm và nguyên liệu thực phẩm, được so sánh
với cây, chính xác là cây đối chứng cận huyết. Mục đích của việc so sánh này là để đảm

bảo rằng thực phẩm và thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ thực vật chuyển gen và nó an
toàn như thực phẩm và thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ đối chứng truyền thống và các
giống cải dầu lai Brassica napus hiện đang được thương mại hóa trên thị trường. Các
thành phần được lựa chọn cho phân tích dinh dưỡng và thành phần là những thành phần
cơ bản và quan trọng đối với cây cải dầu. Chúng gồm có proximate và các thành phần
chất xơ, các chất vi lượng như khoáng và tocopherol, các chất chống dinh dưỡng như
glucosinolate, axit phytic, axit erucic, tổng các axit amin và tổng các axit béo.
Phân tích thành phần và các chất dinh dưỡng được thực hiện đối với các vật liệu
nông nghiệp thô, hạt cải B.napus trồng tại 5 điểm khảo nghiệm tại Canada năm 2008
(Oberdorfer, 2010, M-390154-02-1)
Dữ liệu về thành phần từ tất cả các điểm khảo nghiệm được phân tích thông kê
bằng phân tích biến động sử dụng mô hình các nhân tố cố định với cải dầu thí nghiệm
(cải dầu mang sự kiện RF3 và đối chứng cận huyết không chuyển gen) và đối với điểm
cũng như tương tác giữa chúng. Dựa vào phân tích thống kê ANOVA của các loại cải dầu
khác nhau được dự tính và xem xét với khoảng tin cậy 95%. Trong các trường hợp có sự
tương tác giữa các điểm và loại cải dầu, các kết quả phân tích tại điểm được xem xét.
So sánh thành phần dinh dưỡng giữa cây chuyển gen và đối chứng không
chuyển gen tương ứng
Cây cải dầu B.napus (Brassica napus) có khả năng chống chịu glufosinate mang
sự kiện chuyển gen RF3, cùng với đối chứng cận huyết của nó và các giống cải dầu
B.napus lai thương mại được công ty Bayer thử nghiệm năm 2008. Các thử nghiệm được
tiến hành tại vùng Alberta và Saskatchewan, Canada, là các vùng điển hình trồng cải dầu
B.napus mùa hè tại Canada.
Phân tích sự khác biệt
Các phân tích mô tả: Đối với từng thành phần (chỉ tiêu) các giá trị trung bình, độ
lệch chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất được tính toán đối với cải dầu RF3 (thử nghiệm
13) và đối chứng cận huyết của nó (thử nghiệm 14) ở mỗi điểm và trên toàn bộ các điểm.


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3

đến sức khỏe con người và vật nuôi

Phân tích trên tất cả các điểm: Đối với dữ liệu của từ thành phần dược phân tích
với phương pháp ANOVA sử dụng mô hình nhân tố cố định là thử nghiệm (Entry) và
điểm (site) cũng như tương tác của chúng. Dựa vào phân tích ANOVA mô hình các thử
nghiệm khác nhau (13 so với 14) được ước lượng và trình bày cùng với khoảng tin cậy
95%. So sánh các thử nghiệm chỉ có giá trị trong trường hợp không có tương tác thử
nghiệm và điểm.
Phân tích từng điểm: Trong các trường hợp khi xác định được các tương tác giữa
nhân tố thử nghiệm và điểm trong phân tích toàn bộ các điểm (giá trị p- của phân tích
ANOVA E*S < 0.05), các kết quả phân tích từng điểm được sử dụng để thảo luận tiếp
tục. Đối với phân tích từng thành phần được tiến hành với phương pháp ANOVA bao
gồm nhân tố thử nghiện (Entry) được kiểm định bằng t-test (thử nghiệm13 so với 14).
Dựa vào ANOVA, khác nhau của thử nghiệm và khoảng tin cậy 95% được ước lượng.
Phân tích đặc điểm của cải dầu phục hồi bất dục sự kiện RF3 và các thế hệ sau của
nó cho thấy không có quan ngại trực tiếp nào liên quan đến an toàn thực phẩm và thức ăn
chăn nuôi. Trong quá trình chọn tạo, không xác định được nhân tố nào ảnh hưởng đến các
sản phẩm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi của cải dầu chuyển gen mai hai protein PAT
và BASTAR. Để chứng minh cho tính an toàn của dầu và khô dầu của cải dầu chuyển
gen và đối chứng cận huyết không chuyển gen, phân tích chi tiết và đa dạng đối với chất
lượng hạt đã được tiến hành.
Các đặc tính chế biến và chất lượng của hạt cải dầu có nguồn gốc từ cải dầu
chuyển gen (mang cấu trúc gen bất dục đực MS8 và cấu trúc phục hồi RF3) đều nằm
trong khoảng đặc trưng cho các sản phẩm cải dầu. Do đó, các phương pháp chế biến, sử
dụng và hấp thụ của cải dầu chuyển gen sẽ tương tự như cải dầu truyền thống sau khi
thương mại hóa của các dòng cải dầu chuyển gen. Chính vì vậy, hạt cải dầu chuyển gen
có thể được trộn lẫn trước khi chế biến, phân phối và bán cùng với hạt cải dầu không
chuyển gen khác.
Hơn nữa, hoạt tính của enzyme cũng không được tìm thấy. Trong trường hợp khó
có thể xảy ra là các protein này xuất hiện trong khô dầu của cải dầu chuyển gen, hai

protein này sẽ bị phân giải khi sử dụng các phương pháp chế biến gia nhiệt hay khi tiêu
hóa trong ruột của động vật.
Các phân tích thành phần của sản phẩm thô của cải dầu mang sự kiện RF3 đã được
tiến hành theo nghiên cứu của Oberdoerfer, 2011. Kết luận từ các phân tích này cho thấy
cải dầu mang sự kiện chuyển gen RF3 là tương đương cơ bản về thành phần và dinh
dưỡng với đối chứng truyền thống và với các giống lai hiện đang thương mại hóa. Không
có ảnh hưởng nào đến giá trị dinh dưỡng của cải dầu cũng như dầu có nguồn gốc từ cải
dầu sự kiện RF3.


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

Việc chèn thêm cassette gen mới vào bộ gen cải dầu không làm thay đổi chất
lượng dinh dưỡng của cải dầu. Do đó, về mặt dinh dưỡng, thực phẩm và thức ăn chăn
nuôi có nguồn gốc từ cải dầu RF3 là tương đương với thực phẩm và thức ăn chăn nuôi có
nguồn gốc từ cải dầu truyền thống.
Chi tiết về các phân tích dinh dưỡng được trình bày ở phần V.1 phía trên.
Đánh giá khả năng gây độc và gây dị ứng do sản phẩm của gen chuyển gây ra
Hai protein PAT và Barstar có lịch sử sử dụng an toàn và không cho thấy bất kỳ sự
tương đồng nào đối với các chất độc và chất gây dị ứng đã biết và do đó, không có khả
năng gây độc hay gây dị ứng cho con người và động vật.
Dầu cải là sản phẩm tiếp tục được chế biến để con người sử dụng. Bánh khô dầu
còn lại được loại dung môi bằng nhiệt. Quá trình này tiếp tục làm giảm đi hàm lượng các
glucosinolate. Sản phẩm này sau đó được làm nguội và nghiền thành bột khô dầu. Quá
trình này để lại từ 3-4% dầu trong khô dầu. Khô dầu được sử dụng trong thức ăn chăn
nuôi.
Để làm thực phẩm, dầu thô được tinh chế để loại bỏ các chất không mong muốn
như phospholipids, các chất keo, axit béo tự do, chất màu và các hạt lẫn từ khô dầu.
Thông thường, dầu được tinh chế bằng phương pháp dùng kiềm hoặc sử dụng biện pháp

vật lý là hơi để giảm lượng hoá chất sử dụng. Tiếp đó dầu được loại phospholipids cũng
như các kim loại nặng. Quá trình khử màu để loại các chất tạo màu có ảnh hưởng không
tốt tới màu sắc của dầu và có thể dẫn tới sự ô xy hoá dầu khi có tác động của ánh
sángđồng thời cũng giảm ảnh hưởng tới quá trình làm no hoá dầu béo sau đó. Khử mùi là
công đoạn cuối cùng, trong đó hơi đưa vào sẽ loại các thành phần không mong muốn,
trong đó có các chất tạo mùi trong dầu. Nếu dầu được sử dụng dưới dạng lỏng như cho
salad, dressing, hay chiến rán thì không cần một công đoạn chế biến nào khác cần. Để sản
xuất bơ thực vật margarine, shortenings và các sản phẩm tương tự khác, quá trình no hoá
(hydro hoá) được thực hiện. Dầu cải tinh chế dùng cho thực phẩm bao gồm 96-97%
triglycerides (96-97%) không chứa protein ở ngưỡng có thể phát hiện (Yêu cầu chất
lượng với dầu thương mại là không được chứa protein), do đó thông thường sẽ không có
mặt các protein Barstar, PAT trong dầu tinh chế từ cải dầu B. napus RF3.
Ngoài ra, quá trình chế biến sẽ làm vô hoạt hoạt tính enzyme của các protein. Nhờ vậy,
sự tiếp xúc của con người với protein khi sử dụng dầu tinh chế từ cải dầu RF3 là không
thể. Do cải dầu RF3 được chỉ ra là tương đồng có nghĩa với cải dầu thông thường, chỉ
khác ở tính trạng được đưa thêm vào, do vậy không có sự hình thành các chất mới có khả
năng bệnh, độc tố hay các ảnh hưởng bất lợi tới con người và vật nuôi .


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

PHẦN VI. ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ RỦI RO TIỀM ẨN CỦA
THỰC PHẨM BIẾN ĐỔI GEN ĐỐI VỚI SỨC KHOẺ CON NGƯỜI VÀ
VẬT NUÔI
Công ty TNHH Bayer Vietnam đăng ký xin cấp giấy xác nhận cải dầu B. napus
mang sự kiện RF3 đủ điều kiện làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi. Bayer CropScience
đã tiến hành đánh giá an toàn thực phẩm và thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ sự kiện
RF3. Dựa vào các dữ liệu thu thập từ các nghiên cứu đánh giá, cho tới nay sự kiện cải
dầu không có khả năng gây ra bất kỳ nguy cơ tiềm ẩn nào.

Kết luận về đánh giá rủi ro đối với cải dầu B.napus mang sự kiện RF3 là an toàn
và có thành phần tương đương với đối chứng truyền thống. Cải dầu B.napus mang sự
kiện RF3 có đặc tính sinh học thích nghi cho việc trồng tại các vùng ôn đới. Khu vực
nhiệt đới như Việt Nam không phải là điều kiện thích hợp cho sinh trưởng của cải dầu
B.napus. Giống cải dầu B. napus RF3 được chọn tạo cho phù hợp với điều kiện trồng trọt
tại Bắc Mỹ không thể sinh trưởng và cạnh tranh tốt tại Việt Nam.
Các sản phẩm nông nghiệp thô của cải dầu B. napus thường không nhập khẩu vào
Việt Nam do việc hạn chế hoặc không có các thiết bị chế biến cho việc chiết xuất và tinh
luyện các sản phẩm dầu.
Việc hạt cải dầu, trong đó có hạt cải dầu mang sự kiện RF3 xuất hiện khi nhập
khẩu là gần như không xảy ra do cải dầu nhập khẩu vào Việt Nam hầu hết đã ở dạng chế
biến như dầu tinh hay khô dầu cải với một lượng hạn chế. Dầu cải là loại thực phẩm duy
nhất mà con người sử dụng làm thực phẩm. Trong khi đó, gần như không có loại protein
nào có mặt trong dầu tách chiết từ hạt, do vậy, con người không phơi nhiễm với bất kỳ
protein mới nào. Do chỉ có dầu chế biến từ cải dầu mang sự kiện RF3 được sử dụng cho
con người, quá trình chế biến loại bỏ các vật liệu protein, nên không có bất kỳ quan ngại
nào về độc tố hay dị ứng của sản phẩm này so với các loại cải dầu truyền thống khác.
Protein PAT và Barstar nhanh chóng bị phân hủy, không mang đặc điểm của bất kỳ loại
protein gây độc hay gây dị ứng nào. Hơn nữa, hàm lượng của protein này có mặt trong
khô dầu thức ăn chăn nuôi là quá thấp để gây ra quan ngại.
Kể từ thời điểm cấp phép lần đầu cho RF3 vào năm 1996, không tác động bất lợi,
cũng như rủi ro tiềm ẩn nào được tìm thấy và cải dầu mang sự kiện RF3 khó có khả năng
gây ra nguy cơ nào trong tương lai. Các nghiên cứu đã chứng minh, hạt cải dầu RF3 là
tương đương với cải dầu đối chứng không chuyển gen và với các loại cải dầu lai hiện
đang có mặt trên thị trường. Bayer là đơn vị phát triển sản phẩm cho sự kiện RF3 và
không trực tiếp liên quan đến việc thương mại và nhậ khẩu hạt cải dầu B.napus cũng như
các sản phẩm B.napus có nguồn gốc từ RF3.


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3

đến sức khỏe con người và vật nuôi

Do đó, kế hoạch quản lý rủi ro của cải dầu biến đổi gen mang sự kiện RF3 của
chúng tôi như sau:
-

Tuân thủ toàn bộ các quy định của Việt Nam trong việc đăng ký cho thực
phẩm và thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ thực vật biến đổi gen đối với
cải dầu mang sự kiện RF3 và cung cấp báo cáo quan trọng khi cần thiết.

-

Các chuyên gia thuộc nhánh Bayer CropScience sẽ chủ động sàng lọc thông
tin về sản phẩm được công bố, thông báo cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn của Việt Nam, Hội đồng An toàn thực phẩm và thức ăn chăn
nuôi có nguồn gốc từ thực vật biến đổi gen trong trường hợp có bất kỳ
thông tin nào liên quan đến thông tin khoa học mới về việc có thể gây ảnh
hưởng đến sức khỏe con người và vật nuôi. Phương pháp xác định sự có
mặt của cải dầu B.napus mang sự kiện RF3 đã được phát triển và trong
trường hợp cần thiết, có thể tìm thấy bất kỳ lúc nào.

Kế hoạch giám sát được đề xuất để kiểm soát việc giám sát chung các ảnh hưởng
bất lợi tiềm năng ngay lập tức hay chậm trễ, trực tiếp hay gián tiếp của cải dầu mang sự
kiện RF3 đến sức khỏe con người và vật nuôi. Tới thời điểm hiện tại, không có nguy cơ
nào liên quan đến cải dầu sự kiện RF3 cũng như không xác định được rủi ro nào liên
quan, do đó, kế hoạch giám sát sau thương mại hóa là không cần thiết.


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi


PHẦN VII. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Đối chứng truyền thống đã được sử dụng trong các phân tích so sánh. Việc biến
đổi di truyền có chủ đích là cải thiện đặc tính nông học, không làm thay đổi về thành
phần dinh dưỡng hay các giá trị. Thực phẩm và thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ cải
dầu mang sự kiện RF3 sẽ không được thương mại hóa như là một lựa chọn hay là thay
thế các sản phẩm thực phẩm hay thức ăn chăn nuôi truyền thống. Cải dầu RF3 không có
đặc điểm nào có thể làm tăng việc hấp thụ chế độ dinh dưỡng khi so sánh với cải dầu
B.napus truyền thống. Dựa vào các nghiên cứu cho tới nay, không có bằng chứng nào
cho các ảnh hưởng lâu dài về dinh dưỡng và sức khỏe khi thương mại hóa các sản phẩm
thực phẩm và thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ sự kiện MS8


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alvarez, M.J., J.L. Estrada, F. Gonzalo, F. Fernandez-Rojo and D. Barber
(2001), “Oilseed Rape Flour: Another Allergen causing Occupational
Asthma among Farmers”, Allergy Vol. 56, pp. 185-188.
2. Black, M.. 2014. PAT/bar protein – Acute toxicity by Oral Gavage in mice.
Bayer CropScience N.V. – 64 pages - # M-475319-01-1
3. Bednarczyk, A. 2012. Mass spectrometry characterization of a PAT/bar
protein sample purified from Brassica napus RF3 plants by molecular
weight determination of the intact sample, peptide mapping and N-terminal
sequencing – 16 pages. # M-445164-01-1
4. Bugur, I. & Arner, B. (1978). Rape pollen allergy. Scand J Respir Dis 59:
222-227.
5. Butcher, R.D., MacFarlane-Smith, W., Robertson, G.W., Griffiths, D.W.
(1994). The identification of potential aeroallergen/irritant(s) from oilseed

rape (Brassica napus spp. o/e/fera): volatile organic compounds emitted
during flowering progression. Clin Exp Allergy 24: 1105-1114.
6. Buzza, 1995 Plant breeding. In: Brassica oilseeds – Production and
utilization. D.S. Kimber and D.L McGregor, eds. Centre for Agriculture
and Biosciences, pp. 153-176
7. Bolivar F., Rodriguez R.L.., Greene P.J., Betlach M.C., Heyneker H.L.,
Boyer H.W. – 1977 - Construction and characterization of new cloning
vehicles. II. A multipurpose cloning system, Gene, 2, 95-113. # M-14799301-2
8. Canola Council Canada. 2005. Overview of Canada’s canola industry. 5
pages, />9. Capt A 2007 - Assessment of the toxicity and allergenicity of the PAT
protein (bar Gene)- Bayer CropScience - 41 pages - # M-216964-04-1
10. Capt A. 2015 - PAT/bar protein - Amino acid sequence homology search
with known allergens and known toxins - Bayer CropScience - 186 pages # M-084359-09-1
11. Community register of GM food and feed. 2005. Europe > European
Commission > DG Health and Consumer Protection>Overview > Food and
Feed
Safety>Event
MS8/RF3
/>12. CODEX STAN 210. 1999. Codex Alimentarius standards for “Named
vegetable oils” adopted 1999, amended 2001 and 2003,


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

/>co-op
recommendation data
13. Cornelissen M. and Vandewiele M. - 1989 - Nuclear transcriptional activity
of the tobacco plastid psbA promoter. Nucleic Acids Research, 17, 19-25. #
M-147994-01-2

14. Criel I., 2008. Description of the RF3 transformation methodology, M307438-02-1
15. Daniels R., Boffey C., Mogg R., Bond J., Clarke R. 2005. The potential for
dispersal of herbicide tolerance genes from genetically-modified, herbicidetolerant oilseed rape crops to wild relatives. CEH
16. Dorset, Winfrith Technology Centre, Dorchester, Final report to DEFRA.
23 pages
17. De Beuckeleer, M. - 2003a - Description of the amino acid sequence of the
PAT protein encoded from the bar gene - Bayer BioScience N.V. - 5 pages
- # C033148
18. De Beuckeleer, M. - 2003b - Description of the base pair sequence of the
bar gene – Bayer BioScience N.V. - 5 pages - # C033149
19. De Block, M. & Debrouwer, D. - 1993 - Engineered fertility control in
transgenic Brassica napus L.: Histochemical analysis of anther
development. Planta 189, 218-225.
20. De Block, M., Botterman, J., Vandewiele, M., Dockx, J., Thoen, C.,
Gosselé, V., Movva Rao, N., Thompson, C., Van Montagu, M., Leemans, J.
- 1987 - Engineering herbicide resistance in plants by expression of a
detoxifying enzyme. The EMBO Journal, 6(9), 2513-2518.
21. De Block, M., De Brouwer , D. & Tenning, P. - 1989 - Transformation of
Brassica napus and Brassica oleacea using Agrobacterium tumefaciens and
the expression of the bar and neo genes in the transgenic plants - Plant
Physiol - 8 pages - # M-147973-01-1
22. Deblaere R., Bytebier, B., De Greve, H., Deboeck, F., Schell, J. Van
Montagu, M. & Leemans J. -1985 - Efficient octopine Ti-plamsid derived
vectors for Agrobacterium mediated gene transfer to plants. Nucleic Acid
Research 13, 4777-4788
23. Deblaere, R., Reynaerts, A., Höfte, H., Hernalsteens, J.-P., Leemans, J. &
Van Montagu, M. - 1987 - Vectors for cloning in plant cells. Methods in
enzymology 153, 277-292



Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

24. Depicker A., Stachel S., Dhaese P., Zambryski P., Goodman H.M. – 1982 Nopaline synthase: transcript mapping and DNA sequence. Journal of
Molecular and Applied Genetics, 1, 561-573. # M- 131630-01-1
25. Dhaese P., De Greve H., Gielen J., Seurinck J., Van Montagu M., Schell J.
– 1983 - Identification of sequences involved in the polyadenylation of
higher plant nuclear transcripts using Agrobacterium T-DNA genes as
models. The EMBO Journal, 3, 419-426. # M-180190-01-1
26. Downey and Röbbelen, 1989. Brassica species. In: Roebbelen G, Downey
RK, Ashri A (eds) Oil crops of the world. McGraw-Hill, New York, pp
339-362
27. Dreesen R. 2013, Full DNA sequence of the transgenic and pre-insertion
locus of Brassica napus transformation event RF3. Bayer S.A.S., Bayer
CropScience. # M-458413-01-1
28. IP-07-416 - 2007 - GMO’s: Three oilseed rapes authorised for import and
processing in animal feed – European Commission – 2 pages
29. EFSA opinion, 2005. Opinion of the Scientific Panel on Genetically
Modified Organisms on a request from the Commission related to the
application (Reference C/BE/96/01) for the placing on the market of
glufosinatetolerant hybrid oilseed rape Ms8 x Rf3, derived from genetically
modified parental lines (Ms8, Rf3), for import and processing for feed and
industrial uses, under Part C of Directive 2001/18/EC from Bayer
CropScience.
30. Fell, P.J., Soulsby, S., Blight, M.M., Brostoff, J. (1992). Oilseed rape-a new
allergen? Clin Exp Allergy 22: 501-505
31. FAOStat; 2007a. Agriculture. Agricultural production. Crops primary.
Rapeseed production: area harvested (ha). http:/apps.fao.org/. Last accessed
March 2007. 3 pages.
32. FAOStat; 2007b. Agriculture. Agricultural production. Crops primary.

Food quantity/day/capita: rapeseed and mustard seed. http:/apps.fao.org/.
Last accessed March 2007. 1 page.
33. Fediol, 2007a; Consumption of vegetable oils
and fats
34. Fediol, 2007b; Consumption of meals and
production of compound feeding stuffs
35. Freyssinet, M. - 2002 - General description of the bacterial gene bar and its
gene product PAT as used for producing plants with a genetically-based


Tóm tắt báo cáo đánh giá rủi ro cải dầu mang sự kiện RF3
đến sức khỏe con người và vật nuôi

tolerance to Liberty® herbicide - Bayer CropScience - 24 pages - # M085622-01-2
36. Hartley R.W. - 1988 - Barnase and barstar, expression of its cloned
inhibitor permits expression of a cloned ribonuclease. Journal of Molecular
Biology, 202, 913-915. # M-180195-01-1
37. Hérouet, C. - 2004 - Assessment of the toxicity and allergenicity of the
Barnase and Barstar proteins - Bayer CropScience - 48 pages - # M227262-01-1
38. Hothorn, L.A., Oberdörfer, R. – 2006 – Statistical analysis used in the
nutritional assessment of novel food using the proof of safety. (Regulatory
Toxicology and Pharmacology 44 (2006) 125 – 135. 11 pages - M-28580101-1
39. Huehn, M. & Rakow, G. (1979) Einige experimented Ergebnisse zur
Fremdfruchtungstrate bei Winterraps (Brassica napus oleifera) in
Abhangigkeit von Sorte und Abstand. Z. Pflanzenzuchtg. 83: 289-307.
40. Itoh Y., Watson J.M., Haas D., Leisinger T. - 1984 - Genetic and molecular
characterization of the Pseudomonas plasmid pVS1. Plasmid, 11, 206-220.
# M-148001-01-1
41. JRC, 2007a. Event-specific method for quantification of oilseed rape line
MS8 using Real-time PCR protocol. 11 pages.

42. JRC, 2007b. Event-specific method for quantification of oilseed rape line
RF3 using Real-time PCR protocol. 11 pages.
43. Krebbers E., Seurinck J., Herdies L., Cashmore A.R., Timko M.P. - 1988 Four genes in two diverged subfamilies encode the ribulose-1,5bisphosphate carboxylase small subunit polypeptides of Arabidopsis
thaliana. Plant Molecular Biology, 11, 745-759. # M-180191-01-1
44. Kutzner H.J., 1987. The family Streptomycetaceae (Chapter 156). The
proparyots: a handbook on habitats, isolation and identification of bacteria.
M-204308-01-1
45. Lautraite S., 2012. Barstar protein in vitro digestibility study in human
simulated gastric fluid at pH 1.2. # M-429793-01-1
46. Locci R, 1995. Streptomycetes and Related Genera. #M-135197-02-1
47. MacDonald, R. - 2003 - Crop Biology: Brassica napus - Bayer BioScience
N.V. - 66 pages - # M-229339-01-1
48. Mariani, C., De Beuckeleer, M., Truettner, J., Leemans, J., Goldberg, RB. 1990 - Induction of male sterility in plants by a chimaeric ribonuclease
gene. Nature, 347, 737-741. A67563


×