Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

skkn chỉ đạo đổi mới một số biện pháp để nâng cao chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.59 KB, 15 trang )

CNG HềA X HI CH NGHA VIT NAM
c lp T do Hnh phỳc

N YấU CU CễNG NHN SNG KIN
Kớnh gi: Hi ng sỏng kin tnh Ninh Bỡnh
Chỳng tụi gm:

S
TT

Ngy
H v tờn

thỏng
nm sinh

Trỡnh
Ni cụng tỏc
( hoc ni thng trỳ)

Chc danh


chuyờn
mụn

T l (%)
úng gúp
vo vic
to ra
sỏng kin



1

Phm Th Thờu

01/11/1973

Trng MN Tõn Thnh

Hiu trng

HSP

50%

2

Phm Th Thm

08/11/1983

Trng MN Tõn Thnh

P. hiu trng

HSP

20%

3


V Th Mai Hng

25/05/1986

Trng MN Tõn Thnh

P. hiu trng

HSP

30%

- L nhúm tỏc gi ngh xột cụng nhn sỏng kin: Ch o i mi mt s bin
phỏp nõng cao cht lng v sinh an ton thc phm trong trng mm
non.
- Ch u t to ra sỏng kin: Phm Th Thờu, Phm Th Thm, V Th Mai
Hng.
- Lnh vc ỏp dng sỏng kin: Qun lý ch o nõng cao cht lng m bo an
ton v sinh thc phm trong trng mm non.
- Ngy sỏng kin c ỏp dng ln u: Thỏng 10 nm 2014.
1. Mụ t v bn cht ca sỏng kin:
1.1.Ni dung sỏng kin:
Nh- chúng ta đã biết, dinh d-ỡng của trẻ trong
những năm đầu đời là tiền đề, là điều kiện cần và đủ
cho sự phát triển về mọi mặt sau này của đứa trẻ. Tr
em tui mầm non còn nhỏ nên gần nh- hoàn toàn phải
dựa vào sự giúp đỡ, phục vụ của
ỡnh v các cô giáo.


1

ngi thõn trong gia


Hin nay, vn v sinh an ton thc phm ang l mi quan tõm ln nht
ca ton xó hi, m bo cht lng v sinh an ton thc phm cú ý ngha vụ cựng
quan trng liờn quan n c quỏ trỡnh t khõu sn xut n khõu tiờu dựng, nờn
cụng tỏc ny ũi hi phi cú tớnh liờn ngnh cao v l cụng vic ca ton dõn, ton
xó hi.Vi ngnh giỏo dc núi chung v bc hc Mm non núi riờng mang mt
trỏch nhim rt ln, vỡ thi gian tr n lp nhiu hn thi gian nh, tr c n
bỏn trỳ ti trng. i vi cỏc c s giỏo dc mm non l ni tp trung ụng tr,
bn thõn tr cũn yu t, cha ch ng, cha ý thc c y v dinh dng v
v sinh an ton thc phm, nu xy ra ng c thc phm trong cỏc c s giỏo
dc mm non thỡ hu qu s rt ln. Tr em hụm nay, th gii ngy mai Mun
cú c nhng ch nhõn tng lai ca t nc kho mnh, c chm súc nuụi
dng ngay t khi cũn nh c bit l tr em trong tui mm non thỡ ba n
ca tr ti trng mm non cn phi c xõy dng theo ỳng khu phn n, ỳng
thc n, cỏc mún n thng xuyờn c thay i theo ngy, theo tun, theo mựa
giỳp tr n ngon ming, tng s tiờu hoỏ, hp thu giỳp tr phỏt trin tt gim t
l tr em b suy dinh dng. Vỡ vy, m bo cht lng v sinh an ton thc
phm cú vai trò ht sc quan trọng V sinh an ton thc phm l s quan
tõm ln nht ca mi ngi trong xó hi núi chung v trng mm non núi
riờng. Nhn thc rừ tm quan trng ú chỳng tụi chn ti Ch o i mi
mt s bin phỏp nõng cao cht lng v sinh an ton thc phm trong
trng mm non. õy l mt thụng ip luụn nhc mi ngi trong cng ng
hóy quan tõm n sc kho ca mỡnh, ca mi ngi v cựng nhau thc hin m
bo v sinh an ton thc phm c bit l thc hin tt vic m bo v sinh an
ton thc phm ti trng mm non.
1.2. Giải pháp cũ th-ờng làm.

* Gii phỏp 1: Hng nm nh trng xõy dng k hoch ch o cỏc ch
em trong t nuụi tham gia cỏc lp tp hun v v sinh an ton thc phm.
cc c- T chc phõn cụng cụng vic c th cho cỏc ng chớ trong t nuụi. To
iu kin cho giỏo viờn nuụi i khỏm sc khe v xột nghim phõn 2 ln/nm.
vcv* Gii phỏp 2: Ch o t trng phõn cụng giỏo viờn trong t n sm
quột dn, v sinh nh bp v dng c n ung. Thc hin vic giao nhn thc
phm tay ba, thc phm sau khi nhn c nht, ra sch, i vo ch bin v
c thc hin theo quy trỡnh bp mt chiu.
* u im ca gii phỏp c:
2


Việc thực hiện công việc hằng ngày diễn ra bình thường không mất nhiều thời
gian, công sức.
Các loại thực phầm: Rau, củ, quả, cá, tôm, thịt các loại, sau khi nhận
được rửa sạch và chế biến.
* Nhược điểm :
Nhận thức của giáo viên còn hạn chế trong việc hiểu biết về kiến thức vệ sinh
ATTP chưa phát huy hết khả năng của mình.
2. Giải pháp mới.
Vào đầu năm học 2014-2015 chúng tôi trong ban giám hiệu nhà trường xây
dựng kế hoạch chỉ đạo tổ dinh dưỡng bố trí cho giáo viên nuôi dưỡng được tham
gia các lớp tập huấn bồi dưỡng về kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm, tổ chức
cho giáo viên đi khám sức khỏe 2 lần/năm ( 6 tháng /1 lần). Nhận thức rõ vai trò
của mình trong việc đảm bảo tuyệt đối an toàn VSTP trong trường mầm non, làm
thế nào để thực hiện tốt nhiệm vụ đó. Câu hỏi trên làm chúng tôi suy nghĩ và trăn
trở. Cần phải đổi mới cho mình những giải pháp cụ thể hơn nữa để thực hiện tốt
việc quản lý và chỉ đạo nâng cao chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trong
trường mầm non. Chúng tôi đã tiến hành đổi mới một số biện pháp sau :
* Biện pháp 1: Ban giám hiệu chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch

thực hiện công tác VSATTP – Bồi dưỡng kiến thức về vệ sinh an toàn thực
phẩm cho bản thân:
Sau khi kết thúc năm học 2013-2014 chúng tôi đã chủ động xây dựng kế
hoạch thực hiện công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho năm học 20142015 để chỉ đạo tổ dinh dưỡng cần làm gì và sau đó thực hiện như thế nào?
Bám sát vào kế hoạch chỉ đạo của nhà trường chúng tôi đã vận dụng và cụ thể
hoá vào kế hoạch từng tháng, từng tuần. Từ đó đưa ra những yêu cầu và chỉ tiêu,
nhiệm vụ cụ thể. Phân công 1 đồng chí trong ban giám hiệu trực tiếp theo dõi, chỉ
đạo và kiểm tra các công việc hằng ngày. Chỉ đạo tổ dinh dưỡng phân công giáo
viên trong tổ kết hợp với các giáo viên trực tiếp đứng lớp tuyên truyền vận động
phụ huynh đưa trẻ đến trường đạt tỷ lệ: Nhà trẻ: 60%; Mẫu giáo: 99,5%.
Xây dựng thực đơn theo tuần phù hợp theo mùa, tính khẩu phần theo ngày.
Thực hiện đúng theo quy trình bếp một chiều. Phấn đấu đảm bảo tuyệt đối
VSATTP không để xảy ra ngộ độc thức ăn trong nhà trường, giảm tỷ lệ trẻ suy
dinh dưỡng cuối năm còn 2%.

3


Để có kiến thức tốt về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm chúng tôi thừơng
xuyên nghiên cứu tài liệu trong các sách báo, nghiên cứu qua mạng Intrnet, mặt
khác chúng tôi thường xuyên chỉ đạo giáo viên nuôi tham gia các lớp tập huấn về
vệ sinh an toàn thực phẩm do Trung tâm y tế Thành phố Ninh Bình tổ chức. Đồng
thời tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn của nhà trường, hướng dẫn giáo viên
tham khảo, học tập qua sách báo, các tài liệu có liên quan. Thăm quan học tập kinh
nghiệm ở một số đơn vị trường chuẩn trong tỉnh và ngoài tỉnh để bổ xung kiến
thức cho giáo viên.

CBGV tham gia lớp tập huấn
* Biện pháp 2: Làm tốt công tác xã hội hóa, tham mưu với các cấp lãnh
đạo đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị, đồ dùng phục vụ nấu ăn cho trẻ.

Năm học 2014-2015 chúng tôi trong ban giám hiệu nhà trường tích cực làm
tốt công tác xã hội hóa vận động các bậc phụ huynh ủng hộ kinh phí để mua sắm
bổ xung một số trang thiết bị, đồ dùng phục vụ cho việc nuôi dưỡng còn thiếu,
một số không phù hợp trong quá trình thực hiện như bếp ga công nghiệp, nồi cơm
ga, máy xay thịt, máy sục ozôn... Mặt khác chúng tôi còn làm tốt công tác tham
mưu với các cấp lãnh đạo đặc biệt là lãnh đạo phường Tân Thành đầu tư kinh sửa
chữa cơ sở vật chất đã bị xuống cấp như: nơi nấu ăn cho trẻn (bệ để bếp nấu ăn
quá cao, mỗi khi khiêng nồi thức ăn rất vất vả cho giáo viên nuôi dưỡng). Qua
thực hiện công việc hằng ngày, chúng tôi thấy trước đây bếp ăn chỉ có những
xoong nhỏ, chảo nhỏ, vì vậy khi chế biến thức ăn phải nấu nhiều lần, kéo dài thời
gian chế biến và vào mùa đông đôi khi món ăn hơi nguội. Chúng tôi đã mua bổ
sung một số xoong nồi và chảo to hơn, giúp cho các cô thuận tiện trong quá trình
4


chế biến, đảm bảo tốt hơn trong quá trình thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm.
Mua sắm thùng ủ nước ấm, đồ dùng cá nhân cho trẻ bằng inox, đảm bảo đúng
quy định. May trang phục đồng bộ như: mũ, quần áo, ủng để đảm bảo vệ sinh
trong quá trình chế biến thức ăn cho trẻ.

Giáo viên nuôi đang sử dụng máy Ozôn để rửa rau
So với yêu cầu và với một số đơn vị trường chuẩn trong Thành phố thì cơ sở
vật chất của nhà trường còn nhiều thiếu thốn, xong bước đầu với sự mạnh dạn đề
xuất ý kiến của các cô trong tổ nuôi và sự quan tâm tạo điều kiện của lãnh đạo các
cấp với phương châm: Cần dành những gì tốt đ p nhất cho trẻ. Đến nay đồ dùng,
dụng cụ chế biến thực phẩm và dụng cụ ăn uống của trẻ đã tương đối đầy đủ, đảm
bảo yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm.
* Biện pháp 3: Nhà trường ký hợp đồng thực phẩm với cơ sở có nguồn
gốc, phối hợp với Công đoàn nhà trường phân công các bộ phận nhóm lớp
trồng rau sạch phục vụ các bữa ăn hàng ngày cho trẻ.

Để làm tốt công tác vệ sinh ATTP ngoài trang thiết bị đảm bảo đúng quy định
thì việc lựa chọn ký kết hợp đồng thực phẩm sạch là rất quan trọng.
Đầu năm nhà trường đã ký kết hợp thực phẩm với các cá nhân có độ tin cậy
nhằm được cung cấp thực phẩm đảm bảo chất lượng về vệ sinh ATTP một cách
thường xuyên, được đảm bảo bằng sự cam đoan và có tính pháp lý trước pháp luật.
Qua thực tế, thực phẩm cung cấp cho nhà trường bằng mắt thường nhìn thấy
đảm bảo chất lượng, tươi ngon. Nhưng với cơ chế thị trường như hiện nay, nếu
không có sự kiểm định chuyên ngành, đôi khi mỗi chúng ta đều khó phát hiện
được thực phẩm không đảm bảo VSATTP. Bằng các mối quan hệ gần gũi với các
5


phụ huynh, với nhân dân trong tổ dân phố, chúng tôi biết được một số gia đình có
vườn rộng và trồng các loại rau theo mùa, chủ yếu để phục vụ gia đình và bà con
xung quanh, chứ không phải kinh doanh bán ở chợ. Chúng tôi, đã gần gũi trò
chuyện và động viên gia đình tập trung chăm sóc, mở rộng diện tích trồng rau và
ký hợp đồng với nhà trường, phục vụ rau sạch theo mùa cho trẻ, đảm bảo chất
lượng như: Rau ngót, rau cải các loại. đu đủ, chuối tiêu. Để có rau thường xuyên
cung cấp cho nhà trường chúng tôi đã trao đổi với gia đình nên trồng luân phiên,
chia ra từng đợt. Đầu tiên, các bác cũng thấy ngại vì bảo phải ký cam kết, hợp
đồng với nhà trường có khi không đáp ứng được. Chúng tôi đã phân tích cho các
bác hiểu nhà trường rất mong sự ủng hộ nhiệt tình của các bác, mỗi gia đình giúp
đỡ một chút là các cháu có nguồn thực phẩm sạch. Vì công tác vệ sinh an toàn
thực phẩm là trách nhiệm của nhà trường và toàn thể nhân dân.
Để gắn chặt thêm trách nhiệm, chúng tôi đã cùng ban chấp hành công đoàn
rau sạch phục vụ bữa ăn hang ngày của trẻ. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo các
nhóm lớp tổ chức cho trẻ thăm quan vườn rau nhà trường phân công cho các nhóm
lớp trong rau trong trường cung cấp nguồn của nhà trường.

iới thiệu cho trẻ


biết được đó là rau sạch, qua đó kết hợp lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường,
giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Ngoài rau sạch, chúng tôi còn giới thiệu nhà trường hợp đồng trứng vịt, bánh
đa phở với gia đình nhà anh em ở dưới quê, sản phẩm đảm bảo không có chất phụ
gia ảnh hưởng đến sức khoẻ, trứng vịt không có thức ăn tăng trọng.
Thực phẩm cần cung cấp cho trẻ rất nhiều. Những thực phẩm nhà trường từng
ký kết hợp đồng có tính pháp lý, đều tin tưởng là đảm bảo VSATTP. Xong chỉ với
một việc làm nho nhỏ bằng chính công sức của mình chúng tôi cảm thấy phấn
khởi và nhận thức rõ hơn về trách nhiệm của mình. Mỗi khi nhận thực phẩm tại
nơi mình trực tiếp nhìn thấy, chúng tôi cảm thấy yên tâm hơn.

6


Cô và cháu chăm sóc vườn rau sạch
* Biện pháp 4: Chỉ đạo giáo viên nuôi vệ sinh dụng cụ, thực
hiện nghiêm túc việc sơ chế và chế biến thức ăn theo đúng quy trình bếp một
chiều.
Bếp ăn của trẻ ở các trường mầm non không khác gì bếp ăn người lớn ở các
xí nghiệp. Tuy nhiên trẻ có khả năng ngộ độc thực phẩm tập thể cao hơn vì sức đề
kháng của trẻ kém. Vì vậy, cần phải tuân thủ tuyệt đối trong việc vệ sinh đồ dung,
dụng cụ, lựa chon và chế biến thực phẩm.
Thường xuyên chỉ đạo giáo viên tổ dinh dưỡng trước khi vào công
việc của mình, tất cả chị em thay trang phục đồng bộ theo quy định: Quần, áo, mũ,
khẩu trang, ủng.

Chế biến thức ăn
Các chị em trong tổ nuôi thực hiện công việc một ngày theo bảng phân
công chức năng cô. Buổi sáng đến mở cửa thông thoáng, vệ sinh nhà bếp, đun

nước sôi để tráng dụng cụ, trang thiết bị, đồ dùng nấu ăn và đồ dùng của trẻ như:
Xoong, nồi, bát, thìa, ca, cốc.
Theo như quy chế, đồ dùng phục vụ cho ăn uống của trẻ phải được rửa sạch
dưới vòi nước chảy và tráng nước sôi, nhứng tráng nước sôi vào lúc nào và tráng
như thế nào để đảm bảo vệ sinh, sạch hết dầu, mỡ. Chỉ đun sôi nước và tráng qua
những chất dầu, mỡ không thể sạch hẳn và có thể những chất tẩy ở dung dịch nước
rửa bát nẫn còn dính lại trên bát thìa và dụng cụ đựng thức ăn.
Vì vậy, bằng mọi cách phải đảm bảo vệ sinh ngay từ đồ dùng và dụng cụ chế
biến. Chỉ bằng những việc nhỏ nhất như vậy cũng đã mang lại những lợi ích thiết
7


thực trong việc thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm, tạo cảm giác ngon miệng cho
trẻ. Bởi vì, như chúng ta vẫn thường nói: “ Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”
Tất cả các quy trình nấu ăn đều được chúng tôi chú trọng. Thời
gian giao nhận thực phẩm khi sơ chế thực phẩm trong vòng 60 phút. Tất cả các
loại thực phẩm đều để trên bàn cao, không để trực tiếp xuống đất. Nếu để thực
phẩm trực tiếp xuống đất, có khi vô tình thực phẩm lại bị nhiễm bẩn.
Rửa các loại rau, củ, quả bao giờ chúng tôi cũng chỉ đạo rửa ít
nhất từ 3 nước trở lên, sau đó ngâm từ 15 – 30 phút. Làm như vậy để loại bỏ phần
nào các chất không đảm bảo vệ sinh trong rau, củ, quả.
Sau khi đã sơ chế thực phẩm xong, đi vào khâu chế biến thực
phẩm. Như trước đây, các loại thực phẩm như thịt, xương lợn, thịt gà, thịt bò…khi
nhận thực phẩm xong chúng tôi sơ chế rửa sạch và đưa vào chế biến ngay, nhìn bề
ngoài trông những miếng thịt rất tươi ngon, nhưng nấu ra rất nhiều nước và mùi
thịt không thơm. Đó là dư lượng của thức ăn công nghiệp mà những nhà chăn nuôi
lạm dụng. Tuy nhà trường đã ký hợp đồng với cơ sở tin cậy, nhưng với tốc độ phát
triển trong thời đại ngày nay, mọi người đang tìm mọi cách kinh doanh để thu lợi
nhuận, nên không tránh khỏi những thực phẩm chất lượng chưa cao.


Hằng

ngày, không thể không sử dụng các loại thực phẩm, mà điều quan trọng là người
sử dụng thực phẩm phải có kiến thức và biết cách để loại bỏ những gì không tốt
ảnh hưởng đến sức khỏe. Chính vì vậy, các loại xương, thịt sau khi rửa sạch chúng
tôi cho vào máy sục khử bằng ozôn sau đó mới chế biến các món ăn cho trẻ,
những chất tiết ra từ thịt, xương có màu xanh đuc, nhiều bọt. Nếu không làm như
vậy, những chất đó vẫn còn trong thực phẩm, khi chế biến món ăn sẽ ảnh hưởng
đến sức khỏe của trẻ, có thể không bị ngay mà nó sẽ tích tụ trong cơ thể và ảnh
hưởng lâu dài về sau này.
* Biện pháp 5: Chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác vệ sinh môi
trường, thu gom và xử lý rác thải
Nước và các chất thải là những yếu tố tác động rất lớn đến việc đảm bảo an
toàn vệ sinh thực phẩm trong trường mầm non, nhận thức rõ tầm quan trọng đó
chúng tôi đã chủ động kí hợp đồng với nhà máy nước để có nguồn nước sạch phục
vụ cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ. Thực hiện nghiêm túc việc đun
nước sôi cho trẻ uống, chỉ đạo giáo viên cọ rửa bình nước hàng ngày.
Phân công nhân viên y tế thường xuyên đi kiểm tra vệ sinh môi trường, vệ
sinh trong và ngoài nhóm lớp, thực hiện theo đúng lịch vệ sinh hàng ngày, hàng
8


tuần, hàng tháng. Thu gom rác thải để vào thùng rác có nắp đậy. Kí hợp đồng với
người thu gom rác thải của phường xử lý hàng ngày vì vậy vệ sinh trong và ngoài
nhà trường rất sạch sẽ và thoáng mát.

Cô và cháu tham gia vệ sinh môi trường
* Biện pháp 6: Làm tốt công tác tuyên truyền và phối
hợp tới các bậc phụ huynh để thực hiện tốt công tác vệ sinh an toàn thực
phẩm.

Ngay từ đầu năm học chúng tôi đã chủ động mời trạm y tế phường Tân
Thành, công ty máy sục ozôn đến trường tổ chức một buổi chuyên đề về vấn đề
VSATTP trong gia đình và trong trường mầm non đến 100% cán bộ giáo viên,
nhân viên trong trường và mời các bậc phụ huynh đến dự. Đây là một việc làm
mới so với các năm học trước. Buổi chuyên đề này rất có ý nghĩa và được các bậc
9


ph huynh tham gia ng h rt cao. Nh vy ể làm tốt công tác vệ
sinh an toàn thực phẩm, không phải chỉ riêng một cá
nhân, một đơn vị nhà tr-ờng mà cần có sự phối kết hợp
của các bậc phụ huynh và toàn thể xã hội. Bản thân chỳng
tôi cũng luôn tranh thủ thời gian gặp gỡ phụ huynh trao
đổi với họ về kiến thức chăm sóc, nuôi d-ỡng. Hng nm,
vo thỏng 11 chỳng tụi thng t chc hi thi cụ nuụi gii cp trng, qua hi thi
ó la chn c nhng cụ nuụi gii. Hi thi cụ nuụi gii cp trng din ra rt
sụi ni th hin qua phn thi hiu bit kin thc v phn thi thc hnh, chỳng tụi
ó mi cỏc bc ph huynh n d v chng kin ban giỏm kho chm thi tng
phn, t la chon thc phm, chúng tôi đã mời các bậc phụ huynh
đến dự v chứng kiến ban giám khảo chấm thi từng phần,
từ lựa chọn thực phẩm, vệ sinh dụng cụ, sơ chế, chế
biến thực phẩm và kết quả là tổ nuôi đã đạt 1 giải
nhất, 1 giải nhì và 1 giải ba.

BGK chm hi thi cụ nuụi gii cp trng
10


Mặt khác, chúng tôi còn trực tiếp mời một số phụ huynh có thời gian đến
thăm quan và theo dõi công việc của các cô nuôi: Từ khi giao nhận thực phẩm, sơ

chế, chế biến thực phẩm và chia ăn. Sau khi chế biến xong các cô trang trí và trình
bày món ăn đ p mắt. Các món ăn phong phú, phù hợp với trẻ mà ở nhà chưa bao
giờ phụ huynh làm được như vậy, chỉ với số tiền 17.000đ cho một xuất ăn của trẻ.

Món ăn: Xôi sen dừa, thịt bò sốt vang, Canh
chua cá quả

Món ăn: Thịt xào rau thập cẩm, Canh chua, Sóp rau cñ nghiÒn
Phụ huynh đã có những nhận xét và nói rằng: ở nhà chúng tôi không thể thực hiện
đầy đủ các bước và sắp xếp khoa học như các cô giáo, rau các loại, thịt…rửa sạch
và nấu luôn, không luộc thit trước khi nấu, không ngâm rau…
Chúng
tôi còn mời các bậc phụ huynh dự giờ ăn của trẻ, xem các cô giáo thao tác chia ăn,
giới thiệu món ăn và quản trẻ trong khi ăn.

11


Giờ ăn cơm tại lớp 5B trường MN Tân Thành
Ngoài những việc làm trên chúng tôi còn tuyên truyền nội dung đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm ở bảng tuyên truyền chung của nhà trường, tuyên truyền ở
các góc riêng của từng lớp, đưa nội dung giáo dục bảo vệ môi trường, đảm bảo an
toàn vệ sinh thực phẩm vào các hoạt động hàng ngày của trẻ qua đó rèn cho trẻ
một số thói quen vệ sinh cá nhân và một số hành vi văn minh, tạo môi trường thân
thiện trong trường mầm non.

Một số hình ảnh vệ sinh rửa mặt, rửa tay
12



Từ những hạn chế của giải pháp cũ, qua một thời gian nghiên cứu chúng tôi
đã tìm ra những biện pháp đổi mới, nhằm góp một phần nhỏ để nâng cao chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhà trường cũng như cho gia đình của
mình. Chúng tôi thấy được những ưu điểm của giải pháp mới như sau:
* Ưu điểm của giải pháp mới:
Trẻ được sử dụng những loại thực phẩm sạch, rẻ tiền, an toàn đảm bảo
vệ sinh.
Nâng cao tay nghề, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ các cô nuôi, trong
việc thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm.
Tạo được niềm tin trong các bậc phụ huynh, từ đó họ thường xuyên
phối kết hợp với nhà trường thực hiện tốt hơn nữa công tác vệ sinh an toàn thực
phẩm.
3. Các điều kiện để áp dụng sáng kiến:
Thực hiện các biện pháp trên chúng tôi thấy đều phù hợp với tình hình
thực tế của nhà trường và đạt kết quả tốt. Chính vì vậy, chúng tôi thiết nghĩ, tất cả
các cô giáo đều có thể thực hiện được vào chương trình chăm sóc, nuôi dưỡng
giáo dục trẻ phù hợp theo từng độ tuổi để giám sát công tác vệ sinh nói chung, vệ
sinh an toàn thực phẩm nói riêng thường xuyên theo từng chủ đề cụ thể. Có thể áp
dụng ở tất cả các bếp ăn ở các trường mầm non và tại các gia đình để đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm và nâng cao bữa ăn cho trẻ.
Để nâng cao hơn những kiến thức về VSATTP, mỗi cô nuôi cần phải
không ngừng học tập trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về VSATTP.
Cập nhật và nắm bắt các thông tin về VSATTP hằng ngày, hằng giờ, để
từ đó áp dụng vào công việc của mình hiệu quả hơn.
Phải kiên trì, quan hệ với nhân dân và các bậc phụ huynh để từ đó phối hợp
thực hiện tốt công tác VSATTP.
4. Đánh giá lợi ích thu được từ sáng kiến:
4.1. Hiệu quả về kinh tế:
Những biện pháp mà tôi đã thực hiện, chủ yếu bằng sự kiên trì và đòi
hỏi phải có thời gian, không tốn kém nhiều về kinh tế.

+ Hiệu quả kinh tế từ hợp đồng nguồn rau sạch với phụ huynh và công đoàn
nhà trường: 2.700.000 đồng
+ Hiệu quả kinh tế từ hợp đồng thực phẩm: 3.150.000 đồng.

13


+ Hiệu quả kinh tế từ thực hiện tốt việc bảo quản đồ dùng dụng cụ, trang thiết
bị: 3.200.000 đồng.
Tổng kinh phí làm lợi từ nguồn rau sạch và bảo quản đồ dùng dụng cụ, trang
thiết bị, hợp đồng thực phẩm: 9.050.000 đồng (Chín triệu không trăm năm mươi
ngàn đồng)
4.2. Hiệu quả về xã hộii:
Sau khi tiến hành các biện pháp trên chúng tôi nhận thấy, kiến thức về vệ
sinh an toàn thực phẩm được củng cố và nâng cao, không những cho đội ngũ các
cô nuôi mà cho cả các cô giáo trong toàn trường, các bậc phụ huynh và trẻ mầm
non.
Giúp trẻ ăn ngon miệng, khỏe mạnh, cơ thể phát triển tốt.
Đổi mới biện pháp quản lý chỉ đạo nâng cao chất lượng vệ sinh an toàn
thực phẩm đáp ứng kịp thời với yêu cầu hiện nay. Qua đó, tạo sự chuyển biến cao
trong nhận thức của mọi người về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, tạo sự tin
tưởng của các bậc phụ huynh đối với nhà trường.
Chính vì làm tốt công tác vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhà trường, nên
trong đợt kiểm tra của đoàn kiểm tra VSATTP Thành phố, nhà trường đã được
đoàn đánh giá xếp loại tốt và được cấp giấy chứng nhận đảm bảo chất lượng vệ
sinh an toàn thực phẩm.
Trên đây là những kinh nghiệm thực tế mà qua quá trình làm việc chúng tôi
đã đúc rút ra, mong muốn lớn nhất của chúng tôi là làm sao để kiến thức đảm bảo
vệ sinh an toàn thực phẩm được phổ biến đến cho nhiều người, nâng cao ý thức
trách nhiệm về công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Bởi vì đảm bảo vệ

sinh an toàn thực phẩm đang là vấn đề thời sự không chỉ riêng ở Việt Nam mà còn
là vấn đề vô cùng quan trọng, cấp bách cần giải quyết kịp thời ở nhiều nước trên
thế giới.
Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực,
đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật..
Ninh Bình, ngày 15 tháng 4 năm 2015
Xác nhận của PGD&ĐT TP Ninh Bình

Người nộp đơn
Phạm Thị Thêu

14


Phạm Thị Thơm
Vũ Thị Mai Hương

15



×