Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Đổi mới phương pháp dạy học hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua bài giảng trên lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 116 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HƯNG YÊN
TRƯỜNG THPT TRƯNG VƯƠNG
====****====

ĐỀ TÀI KHOA HỌC:

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC :
HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC, TỰ ĐỌC
THÔNG QUA BÀI GIẢNG TRÊN LỚP
Chủ nhiệm đề tài :

Nguyễn Văn Tuynh (Hiệu trưởng )

Phó chủ nhiệm đề tài :

Nguyễn Thị Thu Hiền (Hiệu phó)

Các ủy viên:

Đào Trà Giang (Tổ trưởng tổ Văn)
Phan Quốc Anh ( TT tổ Hóa – Sinh )
Đỗ Thị Thiết ( TT tổ Lý – Công – Thể)
Nguyễn Thị Thu Thủy ( TT tổ Toán)
Đỗ Thị Cúc ( TT tổ Xã hội)
Nguyễn Thị Vân ( TT tổ Anh Văn)
Đơn vị: Trường THPT Trưng Vương

Năm học 2012 - 2013


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp



MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ.....................................................................2
I. Cơ sở lý luận ............................................................................................... 2
II. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................... 8
III. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 10
IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .......................................................... …11

PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI .......................................................12
Chương I. Các hình thức tổ chức dạy học nhằm hình thành năng lực tự học cho
học sinh (Thực nghiệm ở Tổ Văn) ................................................................ 12
Chương II. Hướng dẫn học sinh tự học thông qua bài thí nghiệm – Thực hành
(Tổ Hóa – Sinh) ............................................................................................ 41
Chương III. Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc bằng cách yêu cầu học sinh tự
sáng tạo bài tập mới (Tổ Toán – Tin)............................................................ 56
Chương IV. Hướng dẫn học sinh tự học thông qua làm bài tập thực nghiệm (Tổ
Lý – Công – Thể) ......................................................................................... 68
Chương V. Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc bằng cách luyện kỹ năng nói (Tổ
Anh). ............................................................................................................ 82
Chương VI. Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua tìm kiếm tư liệu lịch
sử qua Internet, tư liệu giáo khoa. ............................................................... 101

PHẦN III: KẾT LUẬN .................................................................111
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................114

1


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp


ĐỀ TÀI:
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC : HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ
HỌC, TỰ ĐỌC THÔNG QUA BÀI GIẢNG TRÊN LỚP

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
“Biết cách học là chứng tỏ bạn thông thái”
(Henrry Brooks Adams)
Vấn đề tự học của học sinh là một vấn đề quan trọng vì đó là một khâu trong
quá trình thống nhất của việc dạy học nhằm phát huy năng lực học tập tư duy của
các em trên lớp cũng như ở nhà. Vì vậy, vấn đề tự học của học sinh hiện nay hết
sức cấp thiết. Vậy xuất phát từ cơ sở nào mà vấn đề tự học hiện nay lại trở nên
quan trọng và cần thiết như vậy ?
I. Cơ sở lý luận
Trước thực trạng và tình hình thực tiễn của giáo dục Việt Nam, nhu cầu của
người học và sự bùng nổ tri thức của thế giới. Đảng ta đã xây dựng chiến lược phát
triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2001 – 2010. Trong đó vấn đề “đổi mới và hiện
đại hóa phương pháp giáo dục. Chuyển từ truyền đạt tri thức thụ động thầy giảng trò ghi sang hướng dẫn người đọc chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức,
dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ
thống, có tư duy phân tích, tổng hợp, phát triển năng lực của mỗi cá nhân, tăng
cường tính chủ động, tính tích cực chủ động của học sinh trong quá trình học tập”.
(Báo giáo dục thời đại, số 25 ngày 26/3/2002).
Vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh đã được đặt ra trong ngành giáo
dục Việt Nam từ những năm 1960. Ở thời điểm này các trường sư phạm đã có khẩu
hiệu: “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo” Trong cuộc cải cách giáo

2


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp


dục lần thứ hai năm 1980, phát huy tính tích cực đã là một trong những phương
hướng cải cách, nhằm đào tạo những người lao động sáng tạo, làm chủ đất nước.
Từ đó, trong nhà trường xuất hiện ngày càng nhiều tiết dạy tốt của các giáo viên
giỏi, theo hướng tổ chức cho học sinh hoạt động, tự lực chiếm lĩnh tri thức mới. Sự
nghiệp công nghiệp hóa đất nước, hiện đại hóa đất nước, sự thách thức của quá
trình hội nhập kinh tế toàn cầu đòi hỏi phài có nguồn nhân lực, người lao động có
đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của xã hội trong giai đoạn mới. Người
lao động phải có khả năng thích ứng, khả năng thu nhận và vận dụng linh hoạt,
sáng tạo tri thức của nhân loại vào điều kiện hoàn cảnh thực tế, tạo ra những sản
phẩm đáp ứng yêu cầu của xã hội. Để có nguồn nhân lực trên, yêu cầu đặt ra là phải
đổi mới giáo dục, trong đó có đổi mới mục tiêu giáo dục, đổi mới nội dung giáo
dục và phương pháp dạy và học. Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã
được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa (VII 1-1993), Nghị quyết trung
ương 2 khóa VIII (12-1996) và được thể chế hóa trong Luật Giáo dục sửa đổi ban
hành ngày 27/ 6/ 2005, điều 2.4, đã ghi “ Phương pháp giáo dục phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; Bồi dưỡng cho người
học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.
Giáo dục hiện nay luôn được quan tâm hàng đầu.Việc đổi mới phương pháp
dạy học trong nhà trường phổ thông trong đó có đổi mới phương pháp dạy học văn
theo tinh thần khoa học hiện đại đã, đang diễn ra sôi động và thu được nhiều kết
quả đáng mừng. Với yêu cầu đổi mới, phương pháp giáo dục đã đánh giá lại vai trò
của học sinh, coi học sinh là chủ thể tiếp nhận, là trung tâm của quá trình tiếp nhận
và là bạn đọc sáng tạo trong quá trình dạy học văn. Nó không chỉ đòi hỏi kiến thức
mà còn cả tài năng nghệ thuật sư phạm của người giáo viên. Thầy cô giáo giống
như kiến trúc sư trước mỗi công trình nghệ thuật. Dưới bàn tay của nhà chạm khắc,
nó mang dấu ấn cảm thụ riêng hàm chứa tầng sâu ý nghĩa.
Giáo dục trong thế kỷ XXI phải thực hiện được sứ mệnh nhân văn, giáo dục
đóng một vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng của
mỗi đất nước và tạo cơ hội học tập cho mỗi người dân. Trong xu thế dạy học ngày
3



Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

nay, thực hiện dạy học theo phương pháp hiện đại người ta nghĩ ngay đến đổi mới
trong nhà trường phổ thông . Đổi mới phưong pháp dạy học là một trọng tâm của
đổi mới giáo dục THPT (trung học phổ thông). Luật Giáo dục điều 28 yêu cầu:
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động ,
sáng tạo của HS, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”. Bồi dưỡng năng
lực tự học cho học sinh là việc làm rất quan trọng và cần thiết trong điều kiện hiện
nay. Có thể khẳng định thời gian tự học là lúc học sinh có điều kiện tự nghiền
ngẫm vấn đề học tập theo một yêu cầu, phong cách riêng và với tốc độ thích hợp,
điều đó không chỉ giúp các em nắm vấn đề một cách chắc chắn và bền vững mà
còn là dịp tốt để các em rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động sáng tạo. Đây là
phẩm chất mà không ai cung cấp được nếu các em không thông qua hoạt động bản
thân, nó là vấn đề cần thiết cho sự phát triển và thành đạt lâu dài của mỗi con
người. Trong quá trình dạy học phải hướng dẫn học sinh phương pháp tự học, duy
trì sự hứng thú lôi cuốn các em say mê trong học tập, tạo ra những tiết học thoải
mái, có nhiều hoạt động kích thích học sinh tư duy, thực hành, áp dụng kiến thức
vào cuộc sống thông qua các câu hỏi gợi mở, những thí nghiệm hướng cho người
đọc sự tìm tòi, nghiên cứu để rút ra các kết luận. Ngoài ra, phải động viên khen
ngợi học sinhh đúng lúc, tạo mối quan hệ thân thiết với người học, tình cảm với
học sinh chia sẻ những khó khăn, vướng mắc tâm tư nguyện vọng của học sinh, tạo
cho học sinh các hoạt động vui chơi lồng nghép với trang bị kiến thức, lắng nghe
và trao đổi với học sinh. Có thể nói, hướng dẫn học sinh phương pháp tự học cho
học sinh trong giờ giảng dạy đã thu được nhiều kết quả và tạo nên sự chuyển biến
trong dạy học, đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành giáo dục, tiếp cận được xu
thế dạy học hiện đại của thế kỷ XXI.

Trong Nghị quyết Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đã chỉ rõ chúng ta
phải “Đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục, đào tạo : Đó là thực hiện đồng bộ
các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương
4


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng
hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý
tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng
tạo, kỹ thuật thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội ......”
Trước hết cần quan niệm như thế nào về tự học cho đúng ?
Rubakkin trong cuốn “Tự học như thế nào” đã kết luận rằng: “Hãy mạnh dạn
tự tôi đặt câu hỏi rồi tự tôi tìm lấy câu trả lời đó là phương pháp tự học”. Ông cho
rằng tự học không chỉ làm xem sách mà phải biết so sánh cái viết trong sách với
thực tế cuộc sống, biết so sánh cái khoa học với cái không khoa học, biết liên hệ
giữa các môn khoa học. Không nên sợ bất đồng với ý kiến người khác, không
nghiên cứu cái chung chung mà phải nghiên cứu vấn đề đang tranh luận, những vấn
đề tất yếu của thời đại mở rộng tầm nhìn cho bản thân. Ông còn đưa ra một nguyên
tắc tự học là”. Hãy làm tất cả những gì có thể làm được và hãy cố gắng làm sao để
làm được nhiều nhất.
Từ ngàn xưa đến nay chúng ta có thể trích ra nhiều câu danh ngôn về việc tự
học. Trong đời sống văn hóa, văn học trong và ngoài nước, xưa và nay cũng có thể
dẫn ra không biết bao nhiêu tấm gương tự học của các danh nhân chính trị, nhà văn
hóa hay khoa học lớn thành nhân và thành danh phần quan trọng là nhờ tự học.
Nguyễn Kỳ cho rằng : “Tự học là tự đặt mình và tình huống học, vào vị trí của
người tự nghiên cứu, xử lý các tình huống, giải quyết các vấn đề đặt ra cho mình,
nhận thức vấn đề, thu thập xử lý thông tin, tái hiện kiến thức cũ, xây dựng các giải
pháp, giải pháp vấn đề, xử lý tình huống, thử nghiệm các giải pháp, kết quả kiến

thức mới đã tự lực mình tìm ra, tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”.
Chu Mạnh Nguyên cho rằng : “Tự học, tự nghiên cứu là một quá trình,
trong đó mỗi người tự suy nghĩ, tự sử dụng các năng lực trí tuệ và các phẩm chất
của bản thân, khai thác vận dụng những điều kiện vật chất có thể để biến một kiến
thức nào đó của người khác thành kiến thức sở hữu của mình, vận dụng một kiến
thức nào đó của người để làm cho công việc của bản thân có hiệu quả hơn”

5


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn đã đưa ra một quan niệm về tự học có thể xem
khá hoàn chỉnh : “Tự học là tự mình dùng các giác quan để thu nhận thông tin rồi
tự mình động não, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng
hợp và có khi cả cơ bắp khi phải sử dụng công cụ) cùng với các phẩm chất của
mình, rồi động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh cho
được một lĩnh vực hiểu biết nào đó, một số phẩm chất nào đó của nhân loại hay
cộng đồng biến chúng thành sở hữu của mình”.
Tự học có ba cấp độ:
+ Tự học không có thầy hoặc có thầy nhưng không gặp mặt thầy trong phần
lớn thời gian học tập.
+ Tự học có hướng dẫn, tức là học không giáp mặt thầy nhưng nhận được sự
hướng dẫn giúp đỡ từ xa.
+ Tự học, học mà không có thầy
Trong nhà trường phổ thông nói chung tự học là vấn đề hết sức quan trọng.
Rèn luyện năng lực tự học cho học sinh đặt lên vai người giáo viên, nhà trường,
không chỉ dạy cho học sinh kiến thức mà còn dạy cho các em cách tự học. Vậy tựu
chung lại vấn đề tự học xuất phát từ cơ sở lý luận nào ?
Xuất phát từ nguyên tắc dạy học nhà trường gắn liền với đời sống và nguyên

tắc chuyển quá trình dạy học sang quá trình tự học. Nguyên tắc này đòi hỏi phải
hình thành cho người học có nhu cầu, năng lực, phẩm chất tự học để chuyển dần
quá trình dạy học sang quá trình tự học. Nghĩa là người học có thể tự mình tìm ra
hình thức cùng với cách khai thác hoạt động của chính mình, tự thể hiện mình và
hợp tác với bạn, tự tổ chức hoạt động của mình, tự kiểm tra đánh giá, tự điều chỉnh
hoạt động học của mình để biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Gắn liền với nhu cầu đòi hỏi của thời đại khi mà cuộc cách mạng khoa học
công nghệ và phát triển hiện nay đã dẫn tới sự bùng nổ thông tin và làm cho tri
thức ở từng người trở nên lạc hậu nhanh chóng. “Sự bùng nổ của tri thức khoa học
và công nghệ đòi hỏi không những khoa học mà cả kỹ thuật và công nghệ phải trở
thành một yếu tố không thể thiếu trong cấu trúc nhân cách của con người hiện đại
6


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

thì mới đảm bảo sự thích nghi với xã hội và khả năng đóng góp vào sự phát triển
của cộng đồng”. Để thích ứng với cuộc sống, mỗi người phải tự học liên tục, học
suốt đời. Hồ Chí Minh một tấm gương sáng về tự học đã từng nói” “Học tập là
công việc phải tiếp tục suốt đời... Không ai có thể tự cho mình biết đủ rồi, biết hết
rồi. Thế giới ngày nay đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ cho nên chúng ta
phải tiếp tục học và hành để đuổi kịp nhân dân” ; “Lấy tự học làm cốt, có thảo luận
và chỉ đạo giúp vào”.
Xuất phát từ nhận thức của bản thân về vấn đề tự học : Tự học là con đường
khắc phục khó khăn thử thách rèn luyện, ý chí vươn lên, tạo tri thức bền vững cho
mỗi người trên con đường phát triển học vấn và phát triển nhân cách suốt đời. Tự
học là biểu hiện của trí lớn lập nghiệp. Tự học là công việc tất yếu của mỗi người
và là công việc suốt cả cuộc đời. Trong quá trình tự học, con người sẽ tự lớn lên cả
về tri thức lẫn nhân cách, tâm hồn và vị trí xã hội. Tự học là một truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta, luôn được Đảng và Nhà nước chú trọng. Xuất phát từ yêu cầu

của công cuộc đổi mới dạy học: nói phương pháp dạy học tới thì cốt lõi là phương
pháp tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học.
“Tạo ra năng lực tự học sáng tạo của học sinh”, đó là tư tưởng chiến lược cơ bản
của Đảng, lấy nội lực, năng lực tự học làm nhân tố quyết định sự phát triển của bản
thân người học và giáo dục đào tạo, làm cho giáo dục đào tạo sớm trở thành khâu
phát huy năng lực nội sinh của dân tộc đưa đất nước tiến nhanh lên công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Xuất phát từ nguyên tắc dạy học nêu vấn đề : Một trong những
con đường nhằm khắc phục tình trạng dạy học nhồi nhét kiến thức, phát huy trí
thông minh, năng lực độc lập trong nhận thức của học sinh là dạy học nêu vấn đề.
Nhà giáo dục Distervery người Đức đã nói : “Người thầy giáo tồi truyền đạt chân
lý, người thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra chân lý”, phương pháp dạy học nêu vấn đề
chủ yếu nắm kiến thức, song không phải chỉ để ghi nhớ thuộc lòng, mà tự sự kiện
cần biết tự tạo nên tình huống có vấn đề để giải quyết. Như vậy sẽ nhớ lâu, hiểu kĩ
sự kiện hơn. Phương pháp nêu vấn đề sẽ gây hứng thú học tập, phát huy tích cực tư
duy học sinh và tạo cho học sinh biết tư duy, suy nghĩ.
7


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

Theo M.I. Macmutop: “Dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề đó là trở
ngại về trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta chưa biết cách giải thích hiện
tượng, sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức
hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người tìm tòi cách giải thích
hay hành động mới, tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức sáng
tạo có hiệu quả”. “Nhiệm vụ của người thầy giáo không phải là truyền đạt kiến mà
dạy cho học sinh biết suy nghĩ”.
II. Cơ sở thực tiễn
Nhìn rộng ra thế giới chúng ta cũng thấy rằng: Không phải ngẫu nhiên
Singapore chỉ có khoảng 2 triệu dân mà dám chi ra hàng tỷ đô la cho việc cải cách

giáo dục ở nhà trường phổ thông. Cũng không phải tùy hứng mà Pie Lena, giáo sư
vật lý thiên văn, viện sĩ Viện hàn lâm Khoa học Pháp được Giải thưởng Noben năm
1992 đã đề xướng phong trào “bàn tay nặn bột” nhằm phát triển tư duy sáng tạo
ngay từ bậc tiểu học.
Đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường để xóa bỏ phương pháp dạy
học giáo điều là một đòi hỏi cấp bách nhằm giải phòng và phát huy tiềm năng sáng
tạo cho người học ngay từ trên ghế nhà trường. Thế kỷ XXI là thế kỷ của chất xám,
của trí tuệ, của nền văn minh hậu công nghiệp. Con người muốn tồn tại, muốn hòa
nhập, muốn tự khẳng định mình thì nhất định phải là những thành viên năng động
sáng tạo.
Vấn đề tự học từ xưa tới nay đều hết sức được đề cao. Lê nin nói “Học, học
nữa, học mãi”. Hồ Chí Minh cũng đề cao : “Lấy tự học làm cốt”. Einstein nói
“Kiến thức chỉ có được qua tư duy của con người”. Một nhà khoa học Pháp cũng
nói: “Văn hóa không nhận được từ bên ngoài mà là kết quả của việc làm từ bên
trong, một việc làm của mình với mình”...
Đánh giá một cách khách quan cho thấy rằng với phương pháp đổi mới dạy
học hiện nay, học sinh đã tiếp cận có hiệu quả việc tự học, đổi mới trong tư duy để
phát huy tính độc lập, sáng tạo và chủ động của mình. Rất nhiều em đã hình thành

8


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

cho mình thói quen tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi và nắm vững kiến thức một cách
chính xác, suy nghĩ và vận dụng một cách thành tạo. Không thể phủ nhận rằng rất
nhiều giờ học mà học sinh hăng hái phát biểu xây dựng bài, thể hiện hiểu biết của
các em. Giáo viên chỉ cần nêu vấn đề và học sinh qua quá trình tìm hiểu sẽ tự trả
lời. Nhìn ra thế giới nền giáo dục của một số nước như: Mĩ, Anh, Pháp, Phần Lan,
Đan Mạch...nằm ở tốp đầu trong bảng xếp hạng các nền giáo dục thế giới và hãy

nhìn cách học của họ. Phần lớn là học sinh tự học, thời gian lên lớp không nhiều.
Cách học như vậy phát huy được khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh, sinh
viên rất lớn.
Tuy nhiên, về phía giáo viên vẫn còn tồn tại một số quan niệm, biện pháp có
ảnh hưởng không tốt đến việc giáo dưỡng, giáo dục học sinh như: giới hạn hoạt
động nhận thức của học sinh ở việc ghi nhớ một số điểm cơ bản, tóm tắt rất sơ lược
nội dung sách giáo khoa, giới thiệu một số sự kiện chung chung mà không cụ thể
về sự kiện ... Hậu quả của những việc làm này làm nghèo nội dung, hạ thấp chất
lượng và hứng thú của học sinh.
Về phía học sinh : Học sinh đã có sự chuẩn bị là đọc sách giáo khoa nhưng
vẫn thụ động, chỉ biết thuộc lòng không biết cách đặt vấn đề, tìm hiểu sâu hơn
những kiến thức trong sách giáo khoa.
Học sinh ngồi nghe giảng bài mà không biết tiến hành những hoạt động tư
duy độc lập trong việc lựa chọn những điều nghe được để ghi chép, nảy sinh những
vấn đề mới cần giải quyết hay có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn những điều giáo viên
trình bày.
Vì vậy, nghiên cứu đề tài về vấn đề việc tự học hiện nay là hết sức cần thiết.
Tự học trong quá trình học tập của học sinh là việc các em độc lập hoàn thành
những nhiệm vụ được giao, với sự giúp đỡ, hướng dẫn, kiểm tra của giáo viên.
Việc tự học như vậy bao gồm cả việc tập dượt nghiên cứu (tìm tòi, nghiên cứu từng
phần). Nó gây hứng thú học tập, sự cố gắng của học sinh (nhất là học sinh cuối
cấp) và đóng góp phần nào với xã hội (chủ yếu là công tác xã hội). Việc tự học của
học sinh diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau :
9


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

- Những hoạt động tự nhận thức khi nghe giảng trên lớp (biết tự điều chỉnh để
nghe giảng, chọn lọc kiến thức để ghi chép, tự trả lời câu hỏi của giáo viên nêu

ra...)
- Tự học sách giáo khoa theo các bước:
+ Đọc và tự ghi tóm tắt những vấn đề cơ bản của bài viết
+ Ghi lại những nội dung khó hiểu, đặc biệt là các thuật ngữ, khái niệm
+ Hoàn thành bài tập, câu hỏi sách giáo khoa
+ Tự làm việc với bản đồ, tranh ảnh ngoài sách giáo khoa
+ Tự đọc thêm các tài liệu, văn học trong các sách tư liệu tham khảo, sách đọc
thêm...nhằm hiểu rõ hơn kiến thức đã học, mở rộng sự hiểu biết.
+ Tự ôn tập dưới sự hướng dẫn của thầy.
Như thế chuyện tự học của học sinh không phải là vấn đề mới lạ. Có lạ chăng
là sự khôn ngoan đã từng giúp ích cho con người khôn lớn nhưng nhiều khi chính
con người lại bỏ quên những kinh nghiệm quý giá đó, biến nó thành thứ kho báu
chìm lãng trong lớp bụi thời gian.
Không ai thành đạt mà không có chí lớn. Chí làm chính trị cứu nước cứu dân,
chí làm khoa học, làm kinh tế... Muốn nâng cao học vấn thì ngoài việc học tập tại
các trường học phải thường xuyên tự học. Tự học là biểu hiện của chí lớn lập
nghiệp của mỗi con người trên con đường hòa nhập vào cộng đồng. Chúng ta còn
nhớ cảnh tự học ngoại ngữ của Bác Hồ hồi còn trẻ, những ngày Người phải lênh
đênh kiếm sống trên tàu nơi biển cả hay trong những này xúc tuyết ở Luân Đôn.
III. Mục đích nghiên cứu
- Bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn.
- Rèn luyện cho HS tính tự lực, sáng tạo, ham học hỏi, tìm tòi khám phá tự
nhiên, học sinh có niềm tin vào bản thân,
- Đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh,

10


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp


* Với giáo viên : Trong quá trình dạy học, người thầy đóng vai trò chủ đạo
trong việc tổ chức, điều khiển, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích cực
giữa người dạy và người học, khuyến khích sự tham gia chủ động, sáng tạo và ngày
càng độc lập của học sinh vào quá trình học tập.
* Với học sinh : Giúp các em học sinh trong mỗi giờ dạy sẽ có sự hứng thú
khi học, khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm
lĩnh tri thức. Lĩnh hội những tri thức của loài người đồng thời tìm kiếm, khám phá
ra những hiểu biết mới cho bản thân. Qua đó sẽ thông hiểu, ghi nhớ những gì nắm
được qua hoạt động chủ động, nỗ lực của chính mình
IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Các tổ bộ môn trong Trường THPT Trưng Vương.
Thời gian nghiên cứu 2 năm: Năm học 2012-2013 và 2013 - 2014

11


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

PHẦN II : NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Sau đây chúng tôi trình bầy những nội dung nghiên cứu của các tổ chuyên môn về
các nội dung yêu cầu của đề tài.
CHƯƠNG I
Các hình thức tổ chức dạy học nhằm hình thành năng lực tự học cho học sinh
(Thực nghiệm ở Tổ Văn)
1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà
1.1. Hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa và trả lời câu hỏi trong sách
giáo khoa
Sách giáo khoa là sự cụ thể hóa chương trình, là nguồn tri thức thống nhất và
là chỗ dựa cơ bản cho giáo viên khi dạy học. Ở nước ta sách giáo khoa có vai trò vô

cùng quan trọng. Điều 25 của Luật Giáo dục đã khẳng địnhh: “Sách giáo khoa để
sử dụng chính thức, thống nhất, ổn định trong giảng dạy, học tập ở nhà trường và
các cơ sở giáo dục khác”. Đã từ lâu, các nhà nghiên cứu lí luận dạy học đã khẳng
định vai trò quan trọng của Sách giáo khoa trong quá trình học tập của học sinh.
Sách giáo khoa là nguồn cung cấp tri thức đúng đắn, khoa học và thống nhất trong
nền giáo dục quốc dân. Tri thức được đưa vào Sách giáo khoa có tính tinh giản, cô
đọng, súc tích phong phú. Để giúp học sinh có phương pháp tự học tự nghiên cứu
giáo viên cần có những định hướng cho học sinh trong các hoạt động tiếp xúc với
Sách giáo khoa, tập trung cho các em biết gia công tìm tòi, sáng tạo trong quá trình
lĩnh hội tri thức. Đối với học sinh, việc soạn bài ở nhà yêu cầu không thể thiếu là
phải đọc văn bản nhưng cốt yếu giáo viên hướng dẫn HS khi đọc phải thực hiện các
công việc sau:
- Đọc âm vang và cả đọc thầm để tưởng tượng
- Đọc và ghi lại những cảm nhận, những ấn tượng ban đầu về tác phẩm
- Đọc để tìm nội dung chính, xác định những kiến thức cơ bản trọng tâm.

12


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

Chuẩn bị bài là một yêu cầu bắt buôc đối với học sinh khi hoạt động dạy học
Ngữ văn tiến hành theo tư tưởng đổi mới : học sinh là tích cực chủ thể trong giờ
họcHướng dẫn học sinh soạn bài ở nhà trước hết và quan trọng nhất vẫn là yêu cầu
các em trả lời câu hỏi ở phần Hướng dẫn học bài, hướng các em vào những ý trọng
tâm, câu hỏi trọng tâm điều này rất có ích trong việc đọc văn bản trên lớp Muốn
làm được điều này giáo viên phải có đầu tư suy nghĩ trước một bước.
Và như vậy, việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà sẽ mang lại hiệu quả
cao hơn. Chẳng hạn khi soạn bài Hai đứa trẻ (Thạch Lam) giáo viên yêu cầu các
em chú ý và trả lời kỹ những vấn đề sau: Anh (chị) có ấn tượng sâu sắc với nhân

vật nào,vơí chi tiết nghệ thuật nào trong truyện Hai đứa trẻ? Vì sao?
Như vậy việc Hướng dẫn học sinh đọc Sách giáo khoa và trả lời câu hỏi là
việc làm vô cùng quan trọng, bởi đây là bước chuẩn bị trước làm cơ sở cho việc
đọc tác phẩm trên lớp, giúp giờ học sôi nổi và đạt hiệu quả cao hơn
1.2 Hướng dẫn học sinh lập graph, lập dàn ý khái quát cho bài học
Từ những hiểu biết của bản thân, học sinh tự lập thành sơ đồ, thành những
dàn ý theo suy nghĩ của mình. Ghi chép tóm tắt những gì và như thế nào là phụ
thuộc vào hiểu biết và kinh nghiệm của từng người. Có nhiều cách ghi tóm tắt, sau
đây là một số cách ghi mà học sinh có thể dùng trong khi học môn Ngữ văn:
-Trình bày dưới dạng dàn bài
Ví dụ:
I/…………..
1)………….
2)…………..
II /………….
1)………….
2)………….
-Trình bày dưới dạng bảng biểu
Ví dụ :

13


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

Tác phẩm

Nội dung

Nghệ thuật


-Trình bày dưới dạng sơ đồ:
Ví dụ: Bài Trích đoạn Chí khí anh hùng-Truyện Kiều của Nguyễn Du
Nhân vật Từ Hải

Ngôn ngữ tác giả

Khát vọng lớn lao

Thủ pháp ước lệ

Tầm vóc vũ trụ

Ngôn ngữ nhân vật

Phẩm chất phi thường

H×nh t-îng ng-êi anh hïng

1.3 Tổ chức phân công từng vấn đề cụ thể cho từng nhóm học sinh
Sau khi kết thúc một giờ học công việc thường thấy từ trước đến nay là giáo
viên dặn dò học sinh về nhà học bài và chuẩn bị bài mới cho giờ học tiếp theo. Vì
vậy, tổ chức phân công vấn đề cho học sinh chuẩn bị trước là bước đệm rất quan
trọng cho bài học mới đạt kết quả. Để làm việc này có chất lượng giáo viên phải
thực hiện những bước sau:

14


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp


- Giáo viên chuẩn bị trước các vấn đề
- Chia nhóm
- Phân công vấn đề cụ thể cho từng nhóm
- Thời gian: giáo viên dành khoảng 5 phút cuối mỗi giờ học để làm việc này.
Chẳng hạn khi dạy bài Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân ngoài việc HS
chuẩn bị bài theo phần hướng dẫn trong sách giáo khoa, GV có thể chuẩn bị trước
các vấn đề sau giao cho HS và yêu cầu mỗi nhóm phải chuẩn bị kĩ phần việc của
nhóm mình
- Phong cách tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân qua truyện ngắn Chữ người
tử tù?
- Thông qua việc phân tích nhân vật Quản ngục trong Chữ người tử tù hãy
làm rõ quan điểm về cái Đẹp và thái độ đề cao “thiên lương”của Nguyễn Tuân
- Phân tích ý nghĩa của những tương phản trong đoạn tả cảnh Huấn Cao cho
chữ trong nhà giam
GVchia làm 3 nhóm mỗi nhóm đều có nhóm trưởng, nhóm phó để đôn đốc
các thành viên và chịu trách nhiệm chung cho cả nhóm của mình. Nếu công việc
này GV làm một cách đều đặn và tâm huyết thì khả năng tự học tự nghiên cứu của
HS sẽ được nâng cao. Đây cũng là một trong những hình thức tốt để nâng cao chất
lượng dạy học tác phẩm văn chương ở trường phổ thông. Bởi bất cứ một công việc
gì khi đã có sự hợp tác chuẩn bị kĩ lưỡng từ hai phía thì chắc chắn sẽ hiệu quả tốt
hơn. Ưu điểm của cách làm này là tiết kiệm thời gian khi lên lớp, phát huy được
cách học hợp tác, vấn đề trọng tâm của bài học sẽ được mổ xẻ một cách sâu sắc
hơn. Quan trọng khi thực hiện điều này, GV phải nắm sát đối tượng để khuyến
khích, động viên một cách kịp thời, chân thành kể cả học sinh làm tốt và học sinh
chưa làm tốt
1.4 Hướng dẫn, phân công học sinh sưu tầm và khai thác nguồn tài liệu học
tập khác.
Ngoài Sách giáo khoa, tài liệu học tập cho môn Ngữ văn vô cùng phong phú.
Đây là phương tiện rất cần thiết đối với người học văn, ngoài các loại sách tham

15


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

khảo như : Học tốt Ngữ văn, Các bài văn hay lớp 10,11,12 HS còn có thể tìm thấy
những tài liệu về văn học trên các tờ báo, tạp chí văn học, trên mạng Internet… Các
tài liệu này là nguồn tri thức bổ sung vô cùng quan trọng đối với người học. Tìm
các tài liệu liên quan đến bài học một mặt giúp HS tìm hiểu và giải quyết các vấn
đề trong quá trình soạn bài, mặt khác nó góp phần rèn luyện, trau dồi và năng cao ý
thức tự học, tự nghiên cứu ở các em. Dưới đây, chúng tôi xin nêu ra một số cách để
giúp HS tìm và sử dụng tài liệu vào việc chuẩn bị bài cho giờ đọc văn
- Giới thiệu cụ thể tên sách tham khảo, các bài viết, các tài liệu có liên quan trực
tiếp đến bài học. Hướng dẫn học sinh tìm sách, tài liệu tham khảo ở những địa chỉ:
thư viện trường, nhà sách trên địa bàn, ở thầy cô giáo…..
- Cung cấp cho HS một số địa chỉ (trang Web) trên mạng Internet. Với Internet,
HS có thể khai mở kho thông tin khổng lồ và phong phú nhất trong lịch sử nhân
loại ở nhiều lịnh vực khác nhau của đời sống. Chẳng hạn chỉ cần vào một số trang
Web như:
www.vietnamwebsite.net / ebook /vanhocvietnam
www/thưquan.net;
www.thovn.vn...
Là học sinh đã có thể tìm kiếm những thông tin văn học mình cần sử dụng chúng
vào việc học tập.
- Hướng dẫn học sinh xử lí tài liệu bằng cách đọc kĩ, tóm tắt ý chính, tách nội
dung liên quan để minh họa cho bài học. Ví dụ khi đọc Ca dao than thân, yêu
thương, tình nghĩa giáo viên có thể hướng dẫn HS tìm một số bài ca dao khác để
thấy được vẻ đẹp tình nghĩa của nhân dân ta trong ca dao
Tóm lại, để giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
người giáo viên phải hướng dẫn, và quan trọng hơn là xây dựng ở các em ý thức,

thói quen đi tìm tài liệu liên quan đến bài học. Điều này rất quan trọng đối với việc
bổ trợ thêm kiến thức, bồi dưỡng niềm say mê đọc sách, rèn luyện tác phong làm
việc nghiêm túc khoa học cho học sinh khi đứng trước một vấn đề cần giải quyết.

16


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

2. Tổ chức cho học sinh học tập trên lớp
2.1. Nêu vấn đề của bài học
Mở đầu bài học, giáo viên khuyến khích, động viên, tạo động lực học tập, sao cho
học sinh học tập với tinh thần tích cực, tự giác và hứng thú nhất. Bởi chỉ có như
vậy giờ học mới đạt hiệu quả cao. Muốn thực hiện điều này, GV phải biết sử dụng
những thủ thuật sau:
Tạo ra tình huống có vấn đề, trong đó có những mâu thuẫn về nhận thức mà HS
hứng thú, thỏa mãn nhu cầu và phù hợp với năng lực của họ. Để tạo ra một tình
huống như thế đòi hỏi giáo viên phải có tri thức, kinh nghiệm, có sự nhạy cảm cần
thiết, nắm được nhu cầu nguyện vọng của HS; có tinh thần trách nhiệm và sự dày
công trong khâu chuẩn bị bài
Nêu lên mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể mà các em phải có trách nhiệm hoàn thành
qua giờ học. Làm rõ ý nghĩa, tầm quan trọng về mặt khoa học và xã hội của hệ
thống tri thức mà các em cần nắm vững trong bài học.
2.2. Tổ chức cho học sinh giải quyết tốt các vấn đề của bài học
Giáo viên căn cứ vào bài học, tiết học, lớp học cụ thể để đưa ra những cách thức,
biện pháp tổ chức hoạt động phù hợp để học sinh chiếm lĩnh bài học một cách hiệu
quả nhất. Tuy nhiên cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động của thầy và của trò
Hoạt động của thầy


Hoạt động của trò

- Tạo tình huống để HS rõ vấn đề, thấy

-Nghe, tiếp thu, chuyển mâu thuẫn

mâu thuẫn cần giải quyết

bên ngoài thành mâu thuẫn bên trong,
có nhu cầu giải quyết mâu thuẫn

- Giao nhiệm vụ học tập(đặt câu hỏi, ra
bài tập…)

- Tiếp nhận nhiệm vụ qua câu hỏi,
bài tập…

- Hướng dẫn HS hoạt động( đọc giáo
trình, nghiên cứu tài liệu, tổ chức thảo luận
- Theo dõi sự tự học của các em, tổ

17

- Đọc giáo trình, tái hiện , suy nghĩ,
sáng tạo, trả lời câu hỏi, thảo luận….
- Phát huy tính tích cực, sự nỗ lực


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp


chức nhóm thảo luận, đặt câu hỏi bổ sung sáng tạo, trao đổi bạn bè để thảo luận
khi cần thiết

giải quyết nhiệm vụ học tập.

- Giải đáp câu hỏi

- Nêu câu hỏi

- Phân tích, bổ sung, khẳng định những

- Sửa chữa, hoàn thiện, hệ thống hóa

điểm đúng, uốn nắn những sai lầm, thiếu sót tri thức, kĩ năng
- Phối hợp hiệu quả các phương pháp dạy học
Phương pháp
1. Diễn giảng nêu vấn đề

Nội dung hoạt động
- Tạo ra tình huống có vấn đề.
- Thầy trò cùng giải quyết các vấn đề qua
các thủ thuật như: đặt câu hỏi; thuyết trình;
nêu vấn đề để các em trao đổi tìm cách giải
quyết.

2.Tự đọc

- HS đọc giáo trình, tài liệu.
- Viết tóm tắt, lập sơ đồ, bảng biểu.


3. Thảo luận nhóm

- HS được chia thành nhiều nhóm để thảo
luận một vấn đề do GV nêu lên.
- Đại diện các nhóm trình bày trước lớp
- Gv định hướng, tổng kết.

4. Phương pháp trực quan

- Xem băng hình.
- Thảo luận.
- GV định hướng, tổng kết.

5. Làm bài tập, thực hành

- Làm bài tập, thực hành
- Thảo luận, kết luận.

6. Tổ chức cho HS thuyết trình,
báo cáo

- HS báo cáo một vấn đề đã được chuẩn
bị trước
- Cả lớp nghe, trao đổi, thảo luận
- GV định hướng, tổng kết

18


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp


2.3. Hướng dẫn học sinh hệ thống hóa kiến thức bài học
Hệ thống hóa kiến thức bài học là một việc làm vô cùng quan trọng không
thể bỏ qua trong quá trình dạy học. Vì vậy GV phải rèn luyện cho HS có kĩ năng
này để đảm bảo tính hiệu quả của giờ dạy. Tuy nhiên khi hệ thống hóa kiến thức
Gv cần lưu ý HS phải làm theo ý riêng của mình, nghĩ là mỗi học sinh hệ thống
theo một kiểu mà các em thấy phù hợp với bản thân khi học. Nhưng yêu cầu phải
ngắn gọn sao cho dễ học và phải đảm bảo kiến thức trọng tâm
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh hệ thống hóa bài “ Lời tiễn dặn” (trích “Tiễn dặn
người yêu” dưới dạng dàn bài. GV yêu cầu HS khi hệ thống phải thể hiện được
những vấn đề sau:
Về nội dung
1 Tâm trạng của chàng trai ( và gián tiếp là tâm trạng của cô gái qua sự mô tả của
chàng trai trên đường tiễn dặn)
-Tâm trạng mâu thuẫn nủa như muốn chấp nhận sự thật đau xót là cô gái đã có
chồng, nủa như muốn níu kéo tình yêu, kéo dài giây phút bên nhau.
- Lòng quyết tâm giữu trọn tình yêu giữa chàng trai và cô gái
2. Cử chỉ, hành động và tâm trạng của chàng trai lúc ở nhà chồng của cô gái.
- Cử chỉ:
+ Vỗ về, an ủi lúc cô gái bị nhà chồng đánh đập, hắt hủi.
+ Làm thuốc cho cô gái uống.
- Tâm trạng:
+ Nỗi xót xa, niềm thương cảm mà chàng trai dành cho cô gái.
+ Ý chí mạnh liệt của chàng trai nhất quyết giành lại tình yêu để đoàn tụ cùng cô
gái.
Về nghệ thuật
- Kết hợp nghệ thuật trữ tình ( mô tả cảm xúc, tâm trạng) với nghệ thuật tự sự (kể
sự việc, hành động).
- Sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc: ẩn dụ, so sánh tương đồng, điệp từ, điệp
ngữ…

19


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

2.4 Hướng dẫn học sinh tự đánh giá kết quả của mình
Tự đánh giá kết quả học tập của mình sau mỗi buổi học là việc làm vô cùng cần
thiết đối với bản thân mỗi học sinh. Thông qua hoạt động này các em sẽ tự nhận
biết được khả năng của mình: thấy được điểm mạnh, điểm hạn chế để phát huy và
khắc phục. Cũng tự việc làm này mà HS sẽ tự lớn lên trên con đường học tập của
mình. Các em sẽ tự biết được năng lực của mình đạt đến đâu so với mục tiêu bài
học đặt ra ở cả ba phương diện: kiến thức, kĩ năng, thái độ.. Ở đây, các em sẽ có
một lượng thời gian nhất định để so sánh, đối chiếu giữa cái mình đã hệ thống qua
tiết học ở lớp và bài soạn của chính mình ở nhà. Với việc làm này, học sinh sẽ có
cái nhìn sâu sắc và khách quan hơn về tác phẩm, đồng thời cũng tự mình rút ra bài
học kinh nghiệm cho bản thân khi đứng trước công việc tìm hiểu và khám phá một
tác phẩm văn học.
II - ÁP DỤNG MỘT GIÁO ÁN CỤ THỂ
Yêu cầu chuẩn bị
a. Đối với giáo viên
Quá trình chuẩn bị bài giảng của giáo viên bao gồm hai việc chính : tìm hiểu
tác phẩm và soạn giáo án.
● Tìm hiểu tác phẩm
Bao gồm các việc sau:
- Tìm hiểu những tư liệu lịch sử - xã hội liên quan đến thế giới quan sáng tác
của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
- Tìm đọc những bài viết của những nhà nghiên cứu, phê bình... có liên quan
đến tác giả và tác phẩm.
- Tìm hiểu những văn bản cùng thể hiện nội dung cần đề cập của chính tác giả
và của các nhà văn khác.

Soạn giáo án
Nói chung, giáo án phải thể hiện một cách cụ thể quan điểm dạy học, phương
pháp lên lớp, cấu tạo giờ dạy, nội dung kiến thức cần truyền đạt, các hình thức
luyện tập... Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học văn hiện nay, một
20


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

giáo án tuy có nhiệm vụ chủ yếu là thể hiện sự vận dụng phương pháp đối thoại
trong dạy học một tác phẩm cụ thể nhưng giáo án đó vẫn phải có sự kết hợp hữu
cơ, sự vận dụng nhuần nhuyễn, hài hoà các phương pháp, biện pháp dạy học
truyền thống một cách hợp lí để từ đó dẫn dắt học sinh tìm tòi, khám phá, hình
thành, củng cố các đơn vị kiến thức của bài học một cách sinh động, linh hoạt.
b. Đối với học sinh
Chủ thể học sinh chiếm một vai trò quan trọng trong tiến trình dạy học, cho dù
sự chuẩn bị của giáo viên có công phu đến đâu mà học sinh không chuẩn bị thì
ý tưởng của giáo viên (mục đích, yêu cầu đặt ra trong bài) khó thành hiện thực.
Do vậy, giáo viên phải hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà cho tiết học sắp
tới thông qua câu hỏi gợi ý của giáo viên và một số câu hỏi hướng dẫn học bài
trong sách giáo khoa. Đây là bước đầu tiên giúp học sinh thâm nhập tác phẩm,
chuẩn bị tham gia phân tích và tiếp thu bài giảng trên lớp. Trong quá trình chuẩn
bị bài, học sinh phải đọc tác phẩm một cách nghiêm túc, tìm hiểu và nắm một số
từ ngữ, câu văn cần thiết, trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa; đặc biệt là các
câu hỏi hướng đến việc xây dựng những nội dung đối thoại do giáo viên yêu
cầu.
Qua sự chuẩn bị này, học sinh sẽ nắm được một phần nội dung của tác phẩm,
làm cơ sở để tham gia đối thoại về tác phẩm trên lớp dưới sự tổ chức, hướng dẫn
của giáo viên.
Tiết 52+53 Đọc văn

CHÍ PHÈO
(Nam Cao)
A. Mục tiêu bài học : Giúp học sinh
1. Về kiến thức
- Hiểu được hình tượng nhân vật Chí Phèo (những biến đổi về nhân hình, nhân
tính sau khi ở tù; nhất là tâm trạng và hành động của Chí sau khi gặp thị Nở cho
đến lúc tự sát).
- Giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của tác phẩm;
21


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

- Những nét đặc sắc trong nghệ thuật truyện ngắn Nam Cao như điển hình hóa
nhân vật, miêu tả tâm lí, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ nghệ thuật...
2. Về kĩ năng
- Rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại.
- Rèn luyện kĩ năng phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự.
3. Về thái độ
- Phê phán xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với đầy rẫy những bất
công, tàn bạo.
- Bồi dưỡng tinh thần nhân đạo, biết yêu thương và trân trọng nhân vật Chí Phèo nói
riêng và người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ nói chung.
B. CHUẨN BỊ BÀI HỌC
Sách giáo khoa Ngữ văn 11 (tập một) đã có bài giới thiệu tác giả Nam Cao.
Vì thế, những gì giáo viên chọn để trang bị cho học sinh về thể loại (truyện
ngắn), tác giả (Nam Cao), tác phẩm (Chí Phèo), trong phạm vi 2 tiết, phải thật
chọn lọc, thiết thực để tập trung vào các mục tiêu đọc - hiểu của bài học.
Giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị ở nhà các nội dung đối thoại xung quanh
những kiến thức về yếu tố ngoài văn bản và văn bản như sau:

- Tìm hiểu, nhận xét về nét đặc sắc của cây bút truyện ngắn Nam Cao; đặc điểm
nghệ thuật của truyện ngắn Chí Phèo.
- Tìm hiểu những vấn đề xã hội xung quanh việc ra đời của tác phẩm Chí Phèo
và sức khái quát xã hội của tác phẩm.
- Tìm hiểu các nhan đề khác nhau của truyện ngắn Chí Phèo và thử giải thích
vắn tắt ý nghĩa của các nhan đề ấy trong mối liên hệ với chủ đề tác phẩm.
Câu hỏi chuẩn bị:
- Nam Cao là tên thật hay là bút danh, nếu là bút danh thì tên thật của Nam Cao
là gì?
- Bút danh Nam Cao xuất hiện từ giai đoạn sáng tác nào của nhà văn? Bút danh
ấy xuất phát từ đâu
- Truyện ngắn Chí Phèo đã mấy lần đổi tên, đó là những tên nào?
22


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp

- Phát biểu suy nghĩ của em về những lí do đặt tên, đổi tên và mức độ phù hợp
của từng nhan đề cụ thể đối với chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
- Tìm hiểu đề tài sáng tác của truyện ngắn Chí Phèo bằng cách tìm những tác
phẩm của Nam Cao có cùng đề tài sáng tác với Chí Phèo và những tác giả, tác
phẩm trong giai đoạn có cùng đề tài sáng tác ấy. Qua đó nêu suy nghĩ của bản
thân về khả năng phản ánh của các tác giả về mảng đề tài này. (Vấn đề đặt ra
cho tất cả các đối tượng học sinh suy nghĩ, tìm tòi; đặc biệt dành cho những học
sinh khá giỏi, yêu thích môn học huy động, củng cố kiến thức đã học ở trung học
cơ sở, đồng thời tìm hiểu sâu, bao quát hơn về sáng tác của Nam Cao và văn học
giai đoạn về mảng đề tài này).
C. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định
2. Kiểm tra bài cũ

3. Nội dung bài mới
Đọc “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công
Hoan, người đọc tưởng chừng như không còn gì để nói thêm nữa về nỗi khổ của
người nông dân trướcCách mạng. Vậy mà khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ
những trang sách của Nam Cao, người đọc nhận thấy: đây mới là kẻ khốn cùng
nhất ở nông thôn ta ngày trước.
Với việc xây dựng hình tượng nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã thể
hiện giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật sâu sắc, mới mẻ.
Hôm nay cô- trò ta sẽ cùng nhau tìm hiểu điều đó.
* Nội dung bài mới
TG

Hoạt động của GV

Hoạt động

Nội dung

của HS
GV dẫn dắt: Hình tượng nhân vật Chí
Phèo có rất nhiều cách phân tích. Chí HS chú ý
Phèo thuộc kiểu nhân vật số phận. Vì lắng nghe

23

I- Giới thiệu chung


Đổi mới phương pháp dạy học : Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua các bài giảng trên lớp


vậy, cô sẽ hướng dẫn các em tìm hiểu

II- Đọc- hiểu văn

những bi kịch của cuộc đời Chí Phèo, từ

bản

đó thấy được những giá trị của tác phẩm.
GV cho HS xem đoạn video trích trong
phim Làng Vũ Đại ngày ấy
Đọc truyện, ngay đoạn mở đầu, chúng ta
đã thấy Chí Phèo xuất hiện với tiếng

HS

xem Hình tượng nhân

một

đoạn vật Chí Phèo
1. Tiếng chửi của

phim

chửi. Chúng ta hãy xem Chí Phèo chửi

Chí Phèo (nhánh 1-

như thế nào? -> GV đọc đoạn mở đầu.


sơ đồ tư duy)

? Hãy so sánh về ngôn từ trong tác phẩm
văn học với ngôn từ trong điện ảnh qua
đoạn phim vừa xem

HS

suy

nghĩ trả lời

- Đối tượng chửi:
trời- đời- cả làng
Vũ Đại- đứa không

5’

GV nhận xét và kết luận (GV NX&KL):

chửi nhau với hắn-

Ngôn ngữ trong điện ảnh chưa chuyển

đứa chết mẹ nào đẻ

tải hết được những câu từ của nhà văn. HS chú ý ra hắn
Chúng ta sẽ tìm hiểu về tiếng chửi của lắng nghe
-> trạng thái lưỡng

Chí Phèo ở đoạn mở đầu truyện
giữa say và tỉnh
suy
? Hãy nhận xét về tiếng chửi của Chí HS
nghĩ trả lời

Phèo
? Hãy cho biết đối tượng Chí
Phèo chửi và nhận xét

- Mục đích chửi: để
được giao tiếp với

GV NX&KL:

mọi người

Chí Phèo chửi tất cả nhưng vu vơ,
không động chạm đến ai. Có người cho HS chú ý
rằng hắn chửi vì hắn say rượu. Nhưng lắng nghe
chưa hoàn toàn đúng. Cách thu hẹp đối

24

- Kết quả: chỉ nhận
được một sự im lặng


×