Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

skkn rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh trong dạy học địa lí lớp 10 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.17 MB, 78 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HƯNG YÊN
TRƯỜNG THPT TRẦN QUANG KHẢI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG
DẠY HỌC ĐỊA LÍ LỚP 10 – TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Lĩnh vực/Môn: Địa lí
Họ và tên: Vũ Thị Cúc
Giáo viên: Môn Địa lí

NĂM HỌC 2013 - 2014
Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

1


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT

1

BSL

Bảng số liệu



2

CN

Công nghiệp

3

CNTT

Công nghệ thông tin

4

GV

Giáo viên

5

HS

Học sinh

6

KN

Kỹ năng


7

PP

Phương pháp

8

SĐTD

Sơ đồ tư duy

9

THPT

Trung học phổ thông

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

2


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

MỤC LỤC
Số

trang
MỞ ĐẦU

1

1.Đặt vấn đề

1

2.Mục đích, nhiệm vụ đề tài

3

3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3

4.Phương pháp nghiên cứu

3

NỘI DUNG

5

I.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ LỚP 10 –
THPT

5


1.1.Cơ sở lý luận

5

1.2.Cơ sở thực tiễn

6

II.RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY
HỌC ĐỊA LÝ LỚP 10 – THPT

9

2.1.Quy trình rèn luyện kĩ năng tự học

9

2.1.Tổ chức rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh qua môn Địa lí

10

2.2.1.Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trên lớp

10

2.2.2.Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh ngoài lớp

39


2.2.3.Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh ở nhà

44

III. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM

66

3.1.Chuẩn bị thực nghiệm

66

3.2.Đánh giá thực nghiệm

66

KẾT LUẬN

71

KIẾN NGHỊ

72

TÀI LIỆU THAM KHẢO

73

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải


3


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

MỞ ĐẦU
1.Đặt vấn đề.
Chúng ta đang sống trong thời đại của hai cuộc cách mạng lớn: cách mạng
khoa học - công nghệ và cách mạng xã hội. Những cuộc cách mạng này đang
phát triển như vũ bão với tốc độ nhanh chưa từng có trong lịch sử loài người,
thúc đẩy nhiều lĩnh vực có những bước tiến mạnh mẽ và đang mở ra những triển
vọng lớn lao khi nhân loại bước sang thế kỷ XXI. Nhưng, song hành với đó là
nhiều thách thức mà loài người cần vượt qua. Thực tế đó đòi hỏi con người,
trong bất cứ môi trường nào cũng cần có đủ năng lực, sáng tạo, tinh thần tự chủ,
ý chí vươn lên, có KN vững chắc, ý thức nghề nghiệp để giải quyết “trúng,
nhanh, sáng tạo” các nhiệm vụ thực tiễn đặt ra.
Thời đại đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới nền giáo dục “biến quá trình đào
tạo thành quá trình tự đào tạo, đây là quy luật cơ bản nhất để đạt được mục tiêu
đào tạo. Về triết học đó là sự biến tác động từ bên ngoài thành động lực tự thân
vận động trong nhân cách HS”(1)
Đảng ta đã ý thức sâu sắc về sức mạnh nội lực của con người và coi việc
giáo dục phát triển nguồn lực con người là “quốc sách hàng đầu” như chủ Tịch
Hồ Chí Minh đã nói “Vì hạnh phúc mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm phải trồng người”. Đổi mới nền giáo dục nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả giáo dục mà quy luật của chất lượng là phát huy tối đa nội lực. Trong các
văn kiện Đại Hội VIII (12-1995), Đảng đã xác định rõ “Đổi mới nội dung,
chương trình, PP giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tăng cường
giáo dục tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tu dưỡng đạo đức, tự tạo việc làm”.

Nhằm thực hiện mục tiêu “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài”. Để tạo ra “những con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo” đáp ứng
được yêu cầu của thời đại, có tri thức khoa học cao, có KN hành động và tư duy
thực tiễn, có PP tự học. Nghị quyết trung ương 2 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII ghi đậm những câu sau “Đổi mới mạnh mẽ PP giáo dục - đào
tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học…Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo”. Điểm 2, điều 4,
chương I của Luật giáo dục có ghi “PP giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự
Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải
(1) Các Mác – Ăng ghen – LêNin – Xtalin (1980), trang 12, Bàn về giáo dục.

4


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng
say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm tới phát huy “nội lực” của người học
trong đó lấy tự học làm cốt - đây là con đường cơ bản và đúng đắn, phục vụ đắc
lực cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Ta cũng đã quan tâm đầu tư cho giáo
dục, đào tạo tuy nhiên, “bây giờ so với nhiều nước trong khu vực thì phải thừa
nhận sự phát triển giáo dục nước ta còn nhiều mặt thua kém, đang có nguy cơ
tụt hậu. Kết quả thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, chương trình, PP
đào tạo còn có những hạn chế” (2). Thực tế trong dạy học nói chung, dạy và học
Địa lí lớp 10 –THPT nói riêng chưa phát huy tốt nội lực của người học. HS vẫn
học theo lối ghi máy móc, học thuộc, học nhồi nhét, học thụ động, khả năng “tự
học”- một nội lực phi thường ở HS vẫn tồn tại dưới dạng tiềm năng. Một trong

những nguyên nhân quan trọng của thực trạng đó là nhiều GV chưa chú ý hướng
dẫn cho HS cách tự học, chưa chú trọng giáo dục rèn luyện KN tự học cho HS.
Đặc trưng của môn Địa lí trong nhà trường phổ thông mang tính chất
tổng hợp và có tính liên ngành, kiến thức Địa lí rộng nhưng thời gian học trên
lớp chỉ có giới hạn. Vậy nên, việc rèn luyện cho HS KN tự học có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng giúp giải quyết nghịch lý trên, làm khơi dậy tiềm năng đang ẩn
trong từng con người “giống như cây về mùa đông, tuy trụi lá nhưng nhựa
sống vẫn còn đó, chỉ đợi hơi ấm mùa xuân là sẽ vận chuyển trong cây, làm cho
cây đâm trồi nảy lộc”(3).
Đối với HS lớp 10, việc rèn luyện cho các em KN tự học nhằm biến “quá
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập
môn Địa lí, từ đó nâng cao “năng lực tự học”, phục vụ đắc lực không chỉ trong
quá trình học tập mà còn cho hoạt động lao động, sản xuất.
Như vậy, rèn luyện KN tự học cho HS trong dạy học Địa lí cũng như
những môn học khác có vai trò quan trọng, góp phần thực hiện hiệu quả chủ
trương của Đảng, Nhà nước. Vậy nên, tôi lựa chọn đề tài: “Rèn luyện KN tự
học cho HS trong dạy học Địa lí lớp 10 – THPT”. Với mong muốn góp sức
mình vào việc rèn luyện kĩ năng tự học của học sinh – cơ sở hình thành năng lực
tự học.

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải
(2) Nguyễn Cảnh Toàn, (2001), trang 197, Tuyển tập tác phẩm tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu - tập 1.
(3):Nguyễn Cảnh Toàn, (2001), trang 97, Truyển tập tác phẩm tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu – tập 2

5


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014


2.Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
2.1. Mục đích.
Rèn luyện KN tự học cho HS trong dạy học Địa lí lớp 10 – THPT nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS, góp phần nâng cao hiệu
quả học tập môn Địa lí ở nhà trường phổ thông.
2.2. Nhiệm vụ.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc rèn luyện KN tự học cho HS
trong dạy học Địa lí lớp 10.
- Đưa ra quy trình rèn luyện kỹ năng tự học.
- Tổ chức rèn luyện KN tự học cho HS trong dạy học Địa lí lớp 10.
- Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm nghiệm việc rèn luyện KN tự học cho HS.
- Từ kết quả đạt được đề tài đưa ra các kiến nghị, đề xuất.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng.
Kỹ năng tự học Địa lí cho HS lớp 10 – THPT.
3.2. Phạm vi.
- Đối tượng là HS lớp 10 – THPT.
- Chương trình Địa lí lớp 10 (chương trình cơ bản).
- Tập trung nghiên cứu tự học của HS trên lớp, ngoài lớp và ở nhà.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập, xử lý thông tin
Tài liệu được thu thập từ các nguồn khác nhau như: SGK, sách tham khảo,
khóa luận tốt nghiệp, các trang web có nội dung liên quan, các tạp chí giáo
dục…sau đó tiến hành phân tích, so sánh, chọn lọc nội dung phù hợp để giải
quyết các nhiệm vụ. Thời gian tiến hành: từ 8/2/2013 – 3/3/2014.
4.2. Phương pháp quan sát, điều tra thực tế
Tổ chức điều tra thực tế bằng phiếu hỏi (150 phiếu hỏi được phát cho 150
HS lớp 12) và quan sát thực tế trong các tiết dự giờ. Nhằm đưa ra những luận
chứng quan trọng, khách quan, chính xác về thực trạng tự học của HS lớp 10


Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

6


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

Địa điểm quan sát, điều tra: trường THPT Trần Quang Khải – tỉnh Hưng
Yên, trường THPT Lê Qúy Đôn – tỉnh Thái Bình.
Thời gian thực hiện: từ 8/2/2013-29/3/2013 tại trường THPT Lê Qúy Đôn –
tỉnh Thái Bình và từ ngày 12/1/2014 – 3/3/2014 tại trường THPT Trần Quang
Khải – tỉnh Hưng Yên.
5.3. Phương pháp toán học
Sử dụng các công thức toán thống kê để xử lí các kết quả thu được từ thực
nghiệm sư phạm, điều tra, nhằm làm tăng tính chính xác, khách quan, tính
thuyết phục cho kết quả nghiên cứu.
5.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
PP được sử dụng để đánh giá tính khả thi của đề tài. Tác giả thực nghiệm
tại trường THPT Lê Qúy Đôn – tỉnh Thái Bình từ ngày 8/2/2013 - 29/3/2013 và
trường THPT Trần Quang Khải – tỉnh Hưng Yên từ ngày12/1/2014 – 3/3/2014.
Sau đó phân tích cả định tính và định lượng kết quả thực nghiệm sư phạm và rút
ra kết luận của đề tài.
Kế hoạch thực hiện các phương pháp trên, đặc biệt là phương pháp
thực nghiệm tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu trong những năm tiếp theo.

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải


7


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ
HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 10 – THPT.
1.1.Cơ sở lý luận.
Khái niệm hoạt động học, tự học, kĩ năng tự học.
Trên cơ sở các quan điểm về hoạt động học, tự học, kĩ năng tự học của
nhiều chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước về lĩnh vực này, tác giả đưa ra
quan điểm của mình về hoạt động học, tự học, kĩ năng tự học.
- Hoạt động học: là hoạt động được tổ chức một cách độc đáo, được điều
khiển bởi mục đích tự giác nhằm lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kĩ xảo, những hành
vi xác định để hình thành khối lượng tri thức khoa học nhằm phát triển toàn diện
nhân cách người học.
- Tự học: cốt lõi của “học” là “tự học”, nhờ tự học mà “nội lực” được
phát huy mạnh mẽ. Tự học là quá trình cá nhân người học tự lực, tự giác, tích
cực, độc lập, nhằm chiếm lĩnh tri thức, kinh nghiệm ở một lĩnh vực nào đó trong
học tập nhằm hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách. Tự học là một
hình thức học tập có tính độc lập cao và đậm sắc thái cá nhân nhưng có quan hệ
chặt chẽ với quá trình dạy học. Nội dung của tự học rất phong phú, bao gồm
toàn bộ những công việc học tập do cá nhân và có khi cả tập thể HS tiến hành
ngoài giờ, hoặc do bản thân HS tiến hành ngay trong giờ học trên lớp như: đọc
sách, làm bài tập, làm thí nghiệm, tự suy nghĩ, tự “động não”…
- Kỹ năng tự học: là hệ thống phương thức hành động thể hiện hành động
tự học, những thao tác tự học được người học sử dụng một cách có ý thức tự

lực, độc lập trên cơ sở lựa chọn và vận dụng những tri thức kinh nghiệm đã có
để thực hiện có kết quả mục tiêu học tập đề ra và phù hợp với những điều kiện
cho phép.
Hệ thống KN tự học như: KN lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch, đọc sách,
ghi chép, hệ thống hóa, KN làm các bài tập, tự kiểm tra đánh giá, KN ôn tập,
kiểm tra, KN vận dụng kiến thức vào thực tiễn…

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

8


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

KN Địa lí: là hệ thống phương thức hành động mà HS hoàn thành một
cách có ý thức, trên cơ sở những kiến thức Địa lí đã có.
Trong học tập bộ môn Địa lý ở nhà trường phổ thông có nhiều KN như:
+

Kỹ năng sử dụng BĐ, biểu đồ, BSL, tranh ảnh.

+

Kỹ năng đọc – ghi chép sách, tài liệu tham khảo.

+

Kỹ năng làm việc với các tài liệu tham khảo (sách, báo, tạp chí…).


+

Kỹ năng làm các bài tập Địa lý.

+

Kỹ năng lập kế hoạch.

+

Kỹ năng sử dụng CNTT.

+

Kỹ năng ôn tập – kiểm tra.

+

Kỹ năng trình bày thông tin Địa lí, xây dựng báo cáo Địa lí…

Rèn luyện kỹ năng tự học nhằm hướng tới cái đích cao hơn là hình thành
năng lực tự học, đáp ứng những đòi hỏi của xã hội, giúp HS có thể học mọi lúc,
mọi nơi, mọi hoàn cảnh và tự học suốt đời như lời khẳng định của Lê nin “học,
học nữa, học mãi”.
Tác giả còn dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước trong đổi mới
phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông nói chung; môn Địa lí nói riêng;
mô hình “dạy – tự học” của giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn…làm cơ sở lý luận.
1.2.Cơ sở thực tiễn.
Ngoài cơ sở thực tiễn là mục tiêu, cấu trúc, nội dung chương trình Địa lí

lớp 10 - THPT; đặc điểm tâm, sinh lý, nhận thức của học sinh lớp 10; tác giả
còn tiến hành dự giờ tiết học, phát phiếu hỏi cho HS tại trường THPT Trần
Quang Khải và trường THPT Lê Qúy Đôn – tỉnh Thái Bình để thăm dò ý kiến
và khảo sát kỹ năng tự học của các em, kết quả nhận thấy:
Quan sát thấy trong các giờ học, GV còn ít áp dụng các PP, kĩ thuật dạy
học hiện đại, chủ yếu sử dụng PP diễn giảng; PP đặt câu hỏi được sử dụng
nhưng với lượng thời gian không nhiều.
Theo quan sát thấy: mỗi lần GV đặt câu hỏi, HS vội nhìn SGK tìm đúng
chỗ GV hỏi, để khi được gọi đứng lên thì đọc nguyên văn và không có ý kiến cá

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

9


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

nhân, không có sự sáng tạo. Tuy những câu hỏi mang tính chất tái hiện là không
thể thiếu nhưng không thể chỉ dừng lại ở đó. Tái hiện để làm gì? Đó mới là điều
cần phải có. Với hệ thống câu hỏi còn thiên về nêu, trình bày vấn đề, GV khó có
thể tạo cho HS tính tích cực, hứng thú học tập và khơi dậy óc sáng tạo, khó
khuyến khích HS tự làm việc với SGK, tự tìm hiểu qua những tư liệu liên quan
đến bài học để hôm sau cùng cô giáo, bạn bè tranh luận. Vì thế, GV càng khó
hình thành cho các em ý thức tự học, tự đọc, tự nghiên cứu bài học bằng khả
năng của mình một cách khoa học và hệ thống.
Cũng qua quan sát thấy: sự trao đổi thảo luận giữa HS – GV, HS – HS
còn hạn chế. Chính điều này khiến HS thờ ơ với giờ học, hình thành thói quen ỷ
lại, lười suy nghĩ. GV chỉ đưa ra một câu hỏi chệch SGK đòi hỏi tư duy là nhiều

em không trả lời được. Trong trường hợp HS không trả lời được thì GV cần dẫn
dắt các em để chính HS tìm ra câu trả lời nhưng ngược lại, GV lại cho HS ngồi
xuống và tự thuyết trình. Kết quả này cốt lõi bắt nguồn từ việc người thầy chưa
khơi dạy đúng nhu cầu và nguyện vọng của HS để cuốn các em vào cuộc và khai
thác được tiềm năng trong mỗi người học.
Nghe và ghi chép là công việc chủ yếu của HS trong các giờ học, nhưng
có em cả giờ chỉ chép được những đề mục cô giáo ghi trên bảng. Các em không
biết ghi gì trong chuỗi lời giảng của thầy hoặc thầy đọc nhanh các em không kịp
chép. Nắm được bài học theo cách này đã khó, thì các em khó có hứng thú để
tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu sâu hơn bài học của mình để mở rộng kiến thức.
Đối với những câu hỏi của GV đưa ra trong các giờ học, HS phần lớn
được chỉ định để trả lời. Sự miễn cưỡng khi phải đứng lên trả lời khiến các em
trả lời qua loa và chống đối. Không phải không có những HS xung phong phát
biểu và trả lời xuất sắc. Nhưng, những trường hợp đó gần như cá biệt, vào
những câu hỏi tái hiện các em chỉ việc đọc lại SGK. Còn những câu hỏi yêu cầu
có sự suy nghĩ, tư duy, phân tích thì hầu như các em đứng yên hoặc nếu có trả
lời thì nhanh cho xong. Có lẽ GV chưa gợi được hứng thú học tập cho các em,
chưa tạo được tâm thế hứng khởi cho giờ học, chưa khuyến khích được sự tích

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

10


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

cực, năng động trong tư duy của HS. Các em chưa phát huy hết khả năng sáng
tạo và kinh nghiệm của mình trong tiếp nhận bài học .

HS lười học bài cũ, không chuẩn bị bài mới là trường hợp phổ biến. Có
HS cho biết chưa từng đọc trước bài. Nếu có học bài cũ thì cũng chỉ cần học
thuộc phần GV cho ghi…Một trong những nguyên nhân cũng xuất phát từ phía
GV: khi soạn giáo án chưa chú trọng tới “hoạt động nối tiếp” và cũng không
hướng dẫn HS cách ghi nhớ, ôn bài…
Cách dạy và học như vậy nên các KN tự học môn Địa lí của HS còn nhiều
hạn chế.
Bảng: Mức độ thực hiện các kỹ năng tự học
Đơn vị (%)
Các kỹ năng tự học

Mực 4

Mức 3

Mức 2

Mức 1

Kỹ năng lập kế hoạch tự học

0

10

30

60

Kỹ năng đọc sách, tài liệu


0

30

50

20

Kỹ năng ghi chép bài

30

50

20

0

Kỹ năng sử dụng SĐTD

0

0

20

80

Kỹ năng ôn tập


20

50

20

10

Kỹ năng ghi nhớ

0

20

50

30

Kỹ năng hoàn thiện các bài tập

20

40

20

20

Kỹ năng làm đề cương bài học


10

40

20

20

Kỹ năng làm đề cương bài học

10

20

20

50

Kỹ năng thu thập tài liệu học tập

5

30

20

45

Kỹ năng sử dụng BĐ, biểu đồ, BSL


35

35

20

10

Kỹ năng sử dụng CNTT khi tự học

5

20

50

25

(Mức 4 là mức cao nhất)
Rất nhiều KN quan trọng nhưng các em vẫn chỉ dừng ở mức 1, mức 2 đặc
biệt là KN lập kế hoạch tự học, KN sử dụng SĐTD, làm đề cương bài học, thu
thập tài liệu học tập, sử dụng CNTT khi tự học…Nhiều em cho biết chúng em
chưa bao giờ lập kế hoạch tự học, cũng không biết SĐTD là sơ đồ như thế nào.
Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

11


Sáng kiến kinh nghiệm


Năm học 2013-1014

Đối với môn Địa, khi kiểm tra thì chỉ cần học thuộc trong vở cô cho ghi nên
không phải lập đề cương ôn tập…Rất ít HS có KN tự học môn Địa lí đạt ở mức
4.
Xét một cách tổng thể, dựa trên quan điểm dạy học hiện đại, dạy học tích
cực lấy HS làm trung tâm, từ khái niệm, tầm quan trọng của tự học trong việc
phát huy nội lực con người và thực trạng tự học của HS trong học tập môn Địa
lý, kết hợp với nghiên cứu đặc điểm tâm, sinh lý, đặc điểm học tập và nhận thức
của HS lớp 10 – THPT…Cho thấy tính khả thi và rất cấp thiết cần phải rèn
luyện kỹ năng tự học cho HS thông qua dạy học Địa lí lớp 10 - THPT để biến
“quá trình đào tạo trong nhà trường thành quá trình tự đào tạo”.
II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY
HỌC ĐỊA LÍ LỚP 10 – THPT.
2.1. Quy trình rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh.
Theo từ điển Tiếng Việt “Rèn luyện là luyện tập nhiều trong thực tế để
đạt tới những phẩm chất hay trình độ vững vàng thông thạo”
Một kỹ năng được hình thành theo tác giả cần trải
qua nhiều giai đoạn: quan sát mẫu, làm thử và cuối cùng
là tiến hành luyện tập. Nói một cách khác, để có được
một kỹ năng, phải trải qua 3 giai đoạn: hình thành, phát
triển, luyện tập. Rèn luyện là một hoạt động tiến hành
đan xen, đồng thời với 3 giai đoạn này. Muốn hình thành
một kỹ năng nói chung, kỹ năng tự học nói riêng, HS
phải làm thử, làm đi làm lại nhiều lần. Khi kỹ năng bước
đầu hình thành, tiến hành rèn luyện nhiều lần trong một thời gian nhất định thì
kỹ năng mới ổn định và phát triển. Sau đó, phải tiến hành rèn luyện thường
xuyên, đều đặn thì kỹ năng mới phát triển thuần thục, tạo cơ sở phát triển thành
kỹ xảo. Việc rèn luyện đạt kết quả cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố,

trong đó sự nỗ lực của người học, gữa vai trò quyết định.

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

12


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

Từng kỹ năng tự học rèn luyện cho HS cần được cụ thể hóa thành các
bước vì chỉ khi rèn luyện theo các bước mới có cở sở để hình thành, phát triển
và luyện tập kỹ năng.
2.2. Tổ chức rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh qua môn Địa lí 10.
2.2.1.Rèn luyện kỹ năng tự học ở trên lớp.
Người dạy tổ chức cho HS tự lĩnh hội nền văn hóa xã hội chứ không làm
thay HS trong việc lĩnh hội đó. Sự giúp đỡ của GV đối với HS trong dạy học là
giúp đỡ về PP học, GV giúp HS về cách thức tự học. Như vậy, bản chất của hoạt
động dạy học để HS tự học là dạy cách học, các kỹ năng tự học.
Người thầy phải biết cách tổ chức các hoạt động học tập nhằm tích cực
hóa tính tự lực, sáng tạo, chủ động phát hiện và tìm ra kiến thức của người học.
Muốn vậy người thầy phải “đổi mới phong cách dạy”, điều này chỉ thực hiện
được khi tích cực hóa các PP, kĩ thuật, cách đánh giá theo quan điểm đổi mới
của Đảng và Nhà nước.
2.2.1.1.Rèn luyện kỹ năng tự học theo cá nhân.
Rèn luyện kỹ năng tự học theo cá nhân GV cần giảm tối đa PP độc thoại
thuyết trình “lấy người dạy là trung tâm”, thay vào đó là sử dụng các PP, kĩ
thuật tăng cường hoạt động độc lập nhận thức của bản thân từng HS để các em
tích cực “động não”, tự lực suy nghĩ phát hiện và giả quyết vấn đề.

 Phương pháp đàm thoại gợi mở.
Định nghĩa: “ PP đàm thoại gợi mở là
PP GV khéo léo đặt hệ thống câu hỏi để HS
trả lơi nhằm gợi mở cho HS sáng tỏ những
vấn đề mới bằng sự tái hiện những tài liệu đã
học hoặc từ những kinh nghiệm đã tích lũy được trong cuộc sống, nhằm giúp HS
củng cố, mở rộng, đào sâu, tổng kết, hệ thống hóa tri thức đã tiếp thu được
nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá và giúp HS tự kiểm tra, đánh giá việc lĩnh hội
tri thức, kỹ năng, kĩ xảo trong quá trình học.” (4).
- Những yêu cầu cơ bản trong việc sử dụng PP đàm thoại.

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải
(4) Đặng Văn Đức, (1999), trang 101, Kĩ thuật dạy học Địa lí ở trường THPT.

13


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

+ GV cần sử dụng linh hoạt các hình thức đàm thoại phù hợp với thời gian,
không gian, mục đích, nội dung giáo dục. Khi kết thúc đàm thoại, HS “có vẻ”
như tìm ra chân lý và chính khía cạnh này đã tạo ra cho người học niềm vui
sướng của nhận thức, một tình cảm tốt đẹp cần phát triển ở người học.
+ Kĩ thuật đặt câu hỏi phải đảm bảo những yêu cầu sau:
 GV phải đạt câu hỏi như thế nào để đòi hỏi HS phải tích cực hóa tài liệu
đã lĩnh hội trước đây, vạch ra ý nghĩa cơ bản của tri thức đã học.
 Câu hỏi không đơn thuần đòi hỏi HS tái hiện tài liệu mà phải vận dụng
những tri thức đã nắm trước đây để giải quyết vấn đề mới. Điều này có

nghĩa là theo hướng phát triển trí thông minh, sáng tạo của HS thì GV nên
chú trọng tăng cường loại câu hỏi yêu cầu cao về mặt nhận thức (phải căn
cứ trình độ nhận thức của HS), song cũng không nên “coi thường” “câu
hỏi yêu cầu ở mức độ thấp”.
 Câu hỏi phải hướng trí tuệ của HS vào mặt bản chất của sự vật, hiện
tượng phải nghiên cứu, phải hình thành tư duy biện chứng cho HS.
 Câu hỏi phải đặt như thế nào để đòi hỏi HS xem xét những sự vật, hiện
tượng trong mối liên hệ với nhau, nhìn sự vật, hiện tượng theo chỉnh thể
toàn vẹn của chúng.
 Đặt câu hỏi theo quy tắc logic.
 Việc diễn đạt câu hỏi phải phù hợp với lứa tuổi, đặc điểm cá nhân, trình
độ hiểu biết và kinh nghiệm của HS.
 Câu hỏi có nội dung chính xác, rõ ràng, dễ hiểu thống nhất, không thể có
hai câu trả lời đều đúng, về hình thức phải ngắn gọn, sáng sủa.
+ Yêu cầu đối với việc vận dụng PP đàm thoại.
 GV phải đặt câu hỏi cho toàn lớp rồi mới chỉ định HS trả lời. Khi một HS
trả lời xong, cần yêu cầu những HS khác nhận xét, bổ sung, sửa chữa câu
trả lời nhằm thu hút sự chú ý lắng nghe câu trả lời của bạn với tinh thần phê
phán. Qua đó kích thích hoạt động chung của cả lớp.
 GV cần lắng nghe khi HS trả lời, nếu cầu thiết đặt thêm câu hỏi phụ, câu
hỏi mở dẫn dắt HS để trả lời câu hỏi chính được tốt hơn.
Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

14


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014


 Cần tôn trọng ý kiến của HS: Có thái độ bình tĩnh khi HS trả lời sai hoặc
thiếu chính xác, tránh thái độ nôn nóng, vội vàng, cắt ngang ý kiến của
HS khi không cần thiết. Chú ý nhận xét, uốn nắn, nhận xét, bổ sung câu
trả lời của HS, giúp HS hệ thống hóa tri thức tiếp thu được trong quá trình
đàm thoại.
 Không chỉ chú ý đến kết quả câu trả lời của HS mà còn chú ý đến cách diễn
đạt, đó là điều kiện quan trọng để phát triển tư duy logic ở HS.
 Cần chú ý sử dụng mọi biện pháp thúc đẩy HS mạnh dạn nêu thắc mắc và
khéo léo sử dụng thắc mắc đó để tạo nên tình huống vấn đề và thu hút toàn
lớp tham gia thảo luận, tranh luận để giải quyết vấn đề đó.
 Tạo ra không khí thoải mái trong lớp học để HS không quá lo ngại khi trả
lời, các HS kém không mặc cảm về trình độ của mình.
 Khuyến khích, động viên sự cố gắng của HS. Nếu GV tin ở sự cố gắng của
HS thì các em thêm nỗ lực phấn đấu, không nản chí.
 GV nên trân trọng mỗi tiến bộ dù chỉ rất nhỏ của HS song, không nên quá
lạm dụng lời khen.
- Các bước HS thường phải trải qua để trả lời câu hỏi yêu cầu cao về mặt
nhận thức.
Theo Gall, HS thường phải qua 5 bước để trả lời câu hỏi yêu cầu cao về
mặt nhận thức.
+ Bước 1: Chăm chú theo dõi câu hỏi.
+ Bước 2: Nắm vững nội dung yêu cầu của câu hỏi.
+ Bước 3: Trả lời thầm trong ý nghĩ (chưa thành lời).
+ Bước 4: Hình thành câu trả lời công khai.
+ Bước 5: Xem lại câu trả lời của chính mình khi nghe câu trả lời của bạn
hoặc nghe lời nhận xét của GV đối với câu trả lời của bạn.
Ví dụ: Trong bài 15 trang 56 SGK Địa lí 10: “Thủy quyển, một số nhân tố
ảnh hưởng tới chế độ nước sông, một số sông lớn trên Trái Đất” GV có thể đưa
ra câu hỏi ở các mức độ nhận thức khác nhau như:
Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải


15


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

Câu 1: Đọc SGK em hãy nêu khái niệm thủy quyển (câu hỏi yêu cầu thấp,
dừng ở mức biết vấn đề).
Câu 2: Dựa vào kiến thức đã học và bản đồ tự nhiên Việt Nam, em hãy
cho biết vì sao mực nước lũ ở các sông ngòi miền Trung nước ta thường lên rất
nhanh? (câu hỏi yêu cầu cao về nhận thức –HS phải vận dụng phối hợp những
kiến thức đã có để giải đáp câu hỏi này, thuộc mức “vận dụng” theo thang
Bloom).
 Phương pháp hướng dẫn HS khai thác tri thức từ BĐ.
Bản đồ là phương tiện trực quan, một nguồn tri thức địa lí quan trọng giúp cho
GV, HS có thể khai thác kiến thức phục vụ việc dạy và học địa lí có hiệu quả.
- Các biện pháp hình thành KN sử dụng BĐ.
+ Dạy HS hiểu BĐ:
Hiểu BĐ: nghĩa là có kiến thức về BĐ, biết BĐ là cái gì? đặc trưng, tính
chất của nó ra sao? nội dung, chức năng của nó, mỗi một kí hiệu quy ước trên
BĐ có nghĩa gì? cần phải sử dụng BĐ như thế nào và lợi ích nào được rút ra từ
việc này.
Dạy HS hiểu BĐ (về mặt kỹ năng) theo quy trình sau:
 Xác định mục đích của việc làm.
 Xác định kiến thức có liên quan cần dựa vào để tiến hành công việc
 Cách tiến hành công việc.
 Quy tắc về trình tự tiến hành công việc.
 Kiểm tra kết quả khi thực hiện.

Sau khi làm mẫu, GV yêu cầu HS giải thích, nhắc lại trình tự công việc đã
làm và ghi trình tự đó vào vở để về nhà thực hiện một bài tập tương tự theo mẫu
mà GV đã làm trên lớp.
+ Dạy HS đọc và vận dụng BĐ.
Theo N.N.Baranxki:“Đọc BĐ là thông qua những ký hiệu trên BĐ mà
phân tích và nhìn thấy những nét thực tế của khu vực bề mặt Trái Đất được biểu
hiện trên BĐ”(5)
Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải
(5) Lâm Quang Dốc, (2006), trang 11,Hướng dẫn sử dụng bản đồ, lược đồ trong SGK Địa lí ở nhà trường phổ thông.

16


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

Đọc BĐ thường có 3 mức độ khác nhau.
1.Mức sơ đẳng nhất: đọc được vị trí của các đối tượng địa lý, có được
biểu hiện về các đối tượng đó, thông qua hệ thống kí hiệu quy ước ghi trong
bảng chú giải.
2.Mức thứ hai cao hơn: Tìm ra những đặc điểm tương đối rõ ràng của
những đối tượng địa lí biểu hiện trên BĐ.
3.Mức thứ ba, cao nhất: là tìm ra những mối liên hệ giữa các kiến thức
đó, tìm ra những đặc điểm và tính chất địa lí của lãnh thổ mà BĐ không biểu
hiện trực tiếp.
Đối với GV hướng dẫn HS khai thác tri thức trên BĐ, chủ yếu là hướng
dẫn HS đọc được BĐ ở các mức độ trên, quan trọng nhất là hai mức độ sau.
- Ví dụ: bài 16, trang 70 SGK Địa lý 10.
Nhận xét sự phân bố các dòng biển nóng và các dòng biển lạnh trên thế

giới (hình 16.4 – Các dòng biển trên thế giới), SGK Địa lí 10 trang 61
GV yêu cầu HS tự làm việc rút ra các thông tin cần thiết theo hướng dẫn.
+ Mức độ 1: đọc BĐ dựa vào kí hiệu xác định được các dòng biển nóng và
dòng biển lạnh, vị trí phân bố của các dòng biển nóng và lạnh trên bản đồ.
+ Mức độ 2: rút ra một số nhận xét khái quát.
 Các dòng biển nóng thường phát sinh ở hai bên xích đạo chảy về phía cực.
 Dòng biển lạnh xuất phát từ khoảng vĩ tuyến 30 – 40o chảy về xích đạo.
 Dòng biển nóng và lạnh hợp với nhau tạo thành những vòng hoàn lưu.
Ở vĩ độ thấp hướng chảy của các vòng hoàn lưu ở bán cầu Bắc theo
chiều kim đồng hồ, ở bán cầu Nam theo chiều ngược lại.
 Ở bán cầu Bắc còn có những dòng biển lạnh men theo bờ tây đại dương
chảy về xích đạo.
 Các dòng biển nóng và lạnh đối xứng nhau qua bờ các đại dương.
+ Mức độ 3: rút ra những kết luận trên cơ sở phân tích các mối quan hệ.
Những kết luận này chỉ hoàn toàn có trong tư duy HS mà không có
trên BĐ.

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

17


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

Ví dụ:Ở các vĩ độ thấp hướng chảy của các vòng hoàn lưu ở bán cầu Bắc
theo chiều kim đồng hồ, ở bán cầu Nam theo chiều ngược lại có mối quan hệ
chặt chẽ với lực Côriolit (lực làm lệch hướng chuyển động của các vật thể - hệ
quả của chuyển động quay quanh trục của Trái Đất)

Các vùng vĩ độ thấp (xích đạo và gần xích đạo) nhận được lượng bức xạ
Mặt Trời lớn, nhiệt độ nước biển cao nên các dòng biển nóng xuất phát từ các vĩ
độ này rồi chảy về phía cực (nơi có nhiệt độ thấp) và ngược lại.
- Một số cách làm việc hiệu quả với rèn luyện kỹ năng BĐ cho HS.
+ Cách xác định vị trí và sự phân bố của các đối tượng địa lí trên BĐ.
Để thực hiện KN này HS phải dựa vào quy trình sau:
 Nắm được mục đích của việc làm.
 Đọc bản chú giải trên BĐ để biết được các kí hiệu quy ước.
 Tái hiện hiểu tượng địa lí dựa vào các kí hiệu quy ước.
 Tìm tên và đối tượng địa lý trên BĐ.
Như vậy khi nhìn trên BĐ, các em không chỉ biết được vị trí và đọc tên
các đối tượng địa lí mà còn xác định được sự phân bố của chúng.
Chẳng hạn nhìn vào BĐ “phân bố sản lượng điện năng thế giới thời kì
2000 – 2003” SGK trang 123, các em xác định được các nước có sản
lượng điện cao phân bố ở nhóm nước phát triển.
+ Cách ghi nhớ các đối tượng địa lí trên BĐ:
GV cần sử dụng một số biện pháp như:
 Khi nói đến địa danh, GV phải vừa chỉ vừa đọc nhiều lần một cách rõ
ràng, hoặc viết những địa danh cần nhớ lên bảng…
 Để giúp HS ghi nhớ vị trí các đối tượng địa lý trên BĐ, GV khi dạy có
thể dán các ký hiệu bằng giấy màu lên BĐ, đồng thời so sánh các đối
tượng trên BĐ với những sự vật cụ thể các em thường thấy để tạo biểu
tượng không gian hoặc vạch ra các mối tương quan giữa vị trí của đối
tượng này với đối tượng khác, vv…

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

18



Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

Ví dụ: để HS dễ nhớ vị trí TP.Việt Trì, GV có thể nói: “Việt Trì là thành phố
ngã ba sông”, nơi giao nhau của ba con sông lớn, S.Hồng, S.Đà và S.Lô.
 Cũng có trường hợp GV kết hợp với BĐ treo tường, vẽ lên bảng hình
vẽ biểu hiện riêng hình dáng vị trí của từng đối tượng để HS dễ nhận
hơn và nhớ kĩ hơn.
 Đối với một số địa danh, GV có thể giải thích hoặc nói rõ nguồn gốc
của chúng để gây một ấn tượng dễ nhớ.
Ví dụ: S.Mêkông chảy qua miền nam nước ta rồi đổ ra biển bằng 9 cửa
lớn, giống như 9 con rồng nên Mêkông còn được gọi là Cửu Long.
 Dạy học theo nguyên lý “học đi đôi với hành”. Vì vậy, muốn HS nhớ kỹ
các đối tượng Địa lí trên BĐ, GV phải cho HS thực hành nhiều trên BĐ.
+ Cách mô tả đối tượng địa lý trên BĐ.
Đặc điểm của đối tượng địa lí cần miêu tả bao gồm có: vị trí, sự phân bố,
các đặc điểm về hình dạng, kích thước như chiều dài, chiều rộng, các cực trị lớn
nhất, nhỏ nhất…Thực chất đây chính là một KN để hỗ trợ cho việc HS đọc BĐ
một cách đúng đắn và đầy đủ nhất.
Ví dụ:
Để mô tả “núi”, HS cần tiến hành theo quy trình sau:
 Dựa vào kí hiệu và cách biểu hiện tìm vị trí của núi trên BĐ.
 Xác định vị trí của nó trên lãnh thổ (ở phần nào của quốc gia hay khu vực…).
 Xác định hình dạng, hướng của núi dựa vào lưới tọa độ Địa lý.
 Trong trường hợp: núi nằm trong một dải núi thì chiều dài của dãy núi trên
BĐ và ngoài thực tế là bao nhiêu (căn cứ vào thước tỉ lệ của BĐ để tính).
 Xác định độ cao trung bình của núi hoặc dãy núi, chủ yếu bằng thang phân
tầng màu về độ cao (ngoài ra có thể dựa vào đường bình độ).
 Xác định trị số lớn nhất của dãy núi.

Ví dụ: theo quy trình này, HS có thể mô tả được các đặc điểm của dải núi
Hoàng Liên Sơn một cách đầy đủ như sau: “Dãy núi Hoàng Liên Sơn nằm ở
phía Tây Bắc của Tổ quốc, kéo dài từ biên giới phía tây bắc theo hướng tây bắc
– đông nam, với chiều dài trung bình trên 200 km ngoài thực địa, độ cao trung
bình là 1500 - 2500m, cao nhất là đỉnh Phanxipăng với độ cao 3143m.
Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

19


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

+ Một cách đọc BĐ tổng hợp khá hấp dẫn đối với HS là “du lịch trên BĐ”.
HS phải dựa trên những hiểu biết về BĐ để làm một cuộc “du lịch tưởng
tượng trên BĐ”, mô tả các miền đất đai, các thành phố, làng mạc sẽ đi qua theo
những tuyến vạch sẵn trên BĐ. Để thực hiện được những bài tập này, GV cần
hướng dẫn các em bằng cách đặt các câu hỏi gợi mở, dẫn dắt các em dựa vào đó
để trả lời, theo dàn ý nhất định.
Ví dụ: Em hãy tưởng tượng mình đã từng được đi du lịch ở môi trường
địa lí đới ôn hòa. Sau chuyến hành trình đó em hãy giới thiệu cho các bạn trong
lớp biết về khí hậu và sinh vật của môi trường địa lí mà em đã đi qua.
GV: hướng dẫn HS dựa vào bảng thông tin trong phần sự phân bố sinh vật
và đất theo vĩ độ; hình 19.1 – các kiểu thảm thực vật chính trên thế giới và các
hình ảnh trong SGK trang 71, 72 địa lí lớp 10.
+ Lập bảng nêu đặc trưng của các đối tượng được nghiên cứu trên cơ sở
đọc bản đồ. Biện pháp này tích cực hơn đòi hỏi HS phải tham gia nhiệt tình,
phát huy tính độc lập sáng tạo trong suy nghĩ và hành động. Đồng thời thông
qua đó rèn luyện được kỹ năng, kĩ xảo cho HS.

Ví dụ: Khi nghiên cứu sự phân bố sinh vật và đất trên trái đất trong bài 19,
các em sử dụng hình 19.1 – Các kiểu thảm thực vật chính trên thế giới và hình
19.2 – Các nhóm đất chính trên thế giới để hoàn thiện bảng sau:
Môi trường địa lí Kiểu
đới ôn hòa

chính

khí

hậu Kiểu thảm thực Nhóm đất chính
vật chính

+ Tổ chức các trò chơi có liên quan đến BĐ.
Thông qua việc tham gia các trò chơi có liên quan đến BĐ, HS sẽ cảm
thấy thích thú và hào hứng với môn Địa lí. Địa lý không còn là một môn học
đơn điệu và nghèo nàn, lớp học sẽ trở lên sinh động đồng thời đem lại hiệu quả
trong việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kỹ năng.
Ví dụ:

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

20


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

 GV chia lớp thành hai nhóm: nhóm A và nhóm B. Rồi yêu cầu các em

thi đua giữa 2 nhóm, bằng cách: mỗi HS nhóm A (hoặc nhóm B) phải chuẩn
bị một câu hỏi về đọc BĐ; HS của nhóm kia sẽ là người trả lời. Nhóm nào
đặt được nhiều câu hỏi tốt và trả lời đúng các câu hỏi của bên kia thì thắng.
Những câu hỏi này, GV có thể cho HS ghi vào vở và sử dụng để đố nhau
thường xuyên.
 Thi ghép mảnh BĐ: Mục đích của trò chơi là giúp HS ghi nhớ địa danh và
vị trí của mỗi vùng hoặc mỗi tỉnh trên BĐ. Để thực hiện trò chơi này, GV dựa
trên BĐ hành chính của cả nước hoặc một vùng nhất định (ĐBSH,…), cắt tờ
BĐ ra theo các đường biên giới của mỗi tỉnh rồi tổ chức cho HS thi “ghép
mảnh” có tính điểm theo thời gian, em nào hoặc nhóm nào ghép đúng và nhanh
nhất sẽ thắng.
 Trò chơi ô chữ: Để tránh nhàm chán khi học tập Địa lí, GV cũng có thể tổ
chức trò chơi ô chữ để tạo hứng thú cho HS khi học. Trò chơi này sẽ huy động
được tất cả các em trong lớp cùng tham gia, không khí học tập sẽ sôi nổi.
 Phương pháp/ kĩ thuật động não
Khái niệm: “Là loại PP dùng để giải quyết nhiều loại vấn đề khác nhau,
giúp người học trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả
định về một vấn đề nào đó” (6).
- Cách sử dụng.
+ Bước 1: GV lựa chọn và nêu vấn đề cần tìm hiểu cho HS.
+ Bước 2: Khích lệ HS phát biểu và đóng góp ý kiến.
+ Bước 3: Liệt kê tất cả mọi ý kiến của HS viết lên bảng hoặc giấy to,
không loại trừ một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp.
+ Bước 4: Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý.
+ Bước 5: Tổng hợp ý kiến từ mọi người xem có thắc mắc, bổ sung
gì không.

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải
(6) Đặng Văn Đức, (1999), trang 100, Kĩ thuật dạy học Địa lí ở nhà trường phổ thông.


21


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

Ví dụ: khi dạy bài 22 “Dân số và sự gia tăng dân số”, GV nêu vấn đề: Hậu quả
của sự gia tăng dân số quá nhanh và sự phát triển dân số không hợp lí của các
nước đang phát triển đối với sự phát triển kinh tế - xã hội – môi trường là gì?
Các ý kiến đưa ra có thể là:
1. Hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế.
2. Tiêu dùng nhiều lên nhưng tích lũy giảm xuống.
3. Sức ép lớn lên các vấn đề việc làm, y tế, giáo dục.
4. Nhiều vấn đề xã hội nảy sinh, đặc biệt là các tệ nạn xã hội.
6. Khó khăn cho nâng cao chất lượng cuộc sống.
7. Cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường….

-

Những điều cần lưu ý khi sử dụng PP này.
+ PP động não có thể dùng để lý giải một vấn đề nào đó song đặc biệt phù
hợp với các vấn đề ít nhiều đã quen thuộc trong thực tế của người học.
+ Các ý kiến phát biểu cần ngắn gọn, nê bằng một từ hay một câu ngắn .
+ Hoan nghênh tất cả mọi ý kiến, không phê phán, nhận định đúng, sai.
+ Cuối giờ động não, nên nhấn mạnh kết luận nào là kết quả của sự tham
gia chung của mọi người.
+ Các giờ hoc động não có thể bị quá trớn, trở nên om sòm và căng thẳng,
không được việc nào trọn vẹn trừ việc tạo ra nhiễu loạn. Vì vậy, yêu
cầu GV phải nghiêm khắc khi định áp dụng quy trình này và thiết lập

các chuẩn ngay từ đầu để HS hiểu rõ ràng.

 Sử dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy để rèn luyện kỹ năng tự học cho HS.
- Vai trò của SĐTD.
Phát hiện ban đầu của GS. Roger Sperry thuộc đại học California cho thấy
hai vỏ bán cầu não có khuynh hướng phân chia thành hai nhóm có chức năng tư
duy như hình vẽ.

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

22


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

Từ trước tới nay, trong
quá trình học tập hầu hết học
sinh mới chỉ sử dụng một nửa
của bộ não- não trái, mà rất ít
sử dụng các kỹ năng của não
phải nơi giúp người học xử lý
các thông tin về nhịp điệu,
màu sắc, không gian, sự mơ
mộng. Hay nói cách khác, HS
mới sử dụng 50% khả năng của bộ não khi ghi nhận thông tin. Sử dụng SĐTD
giúp người học tận dụng các chức năng của não trái lẫn não phải khi học. Đây là
một kĩ thuật hình họa đóng vai trò là “chìa khóa vạn năng để khai phá tiềm
năng của bộ não”. Theo Tony Buzan thì “một hình ảnh có giá trị hơn cả ngàn

từ” và “màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh. Màu sắc mang
đến cho SĐTD những rung động cộng hưởng, mang lại sức sống và năng lượng
vô tận cho tư duy sáng tạo” (7)

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải
(7): Câu nói của Tony Buzan trích dấn từ trang 13,(2010), Một số phương pháp và kĩ thuật dạy hoc của dự án Việt – Bỉ

23


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

Ưu điểm của cách ghi chép bằng SĐTD:
+ Logic, mạch lạc.
+ Trực quan, dễ nhìn, dễ hiểu, dễ nhớ do nó được thể hiện bởi màu sắc.
+ Nhìn thấy “bức tranh” tổng thể mà lại chi tiết.
+ Dễ dạy, dễ học, dễ nhớ.
+ Kích thích hứng thú học tập của HS.
+ Kích thích sáng tạo của HS.
+ Giúp mở rộng ý tưởng, đào sâu kiến thức.
+ Giúp hệ thống kiến thức.
+ Giúp ôn tập kiến thức.
+ Giúp ghi nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu kiến thức…
SĐTD có rất nhiều ưu điểm cho việc học, tự học. Tuy nhiên, chỉ khi nào
các em tự mình thiết lập SĐTD và sử dụng nó trong học tập thì mới phát huy
hiệu quả của nó. Đối với chức năng là một người thầy, GV cần rèn luyện cho
các em kỹ năng này ngay ở trên lớp, cho các em dần làm quen với kĩ thuật
SĐTD, kỹ thuật này sẽ rất tốt cho HS khi tóm tắt bài, chương, quyển sách, ghi

chép, ghi nhớ, tự học ở nhà…
- Kĩ thuật thiết kế SĐTD.
+ Làm quen với SĐTD.
GV có thể cho HS làm quen, đọc hiểu SĐTD bằng cách giới thiệu cho HS
một số SĐTD do mình tự thiết kế cùng với lời dẫn dắt của GV để các em nhận
biết. Cho HS nghiên cứu, quan sát, tìm hiểu một vài SĐTD do GV thiết kế phù
hợp với nội dung bài học…Tập đọc hiểu SĐTD, nghĩa là tập cho HS thuyết
trình, diễn giải mạch nội dung kiến thức hàm chứa trong SĐTD. Khi các em đã
thành thạo thì chỉ cần nhìn vào SĐTD, bất kì HS nào cũng thuyết minh được
một cách logic.
Có thể tập cho HS vẽ SĐTD bằng cách hoàn thiện các SĐTD do GV đã vẽ
sẵn: Các em dùng bút chì, bút màu để vẽ thêm nhánh, điền thêm kiến thức, vẽ
thêm hình ảnh liên tưởng…Khi HS đã quen với SĐTD, có thể tự thiết lập SĐTD

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

24


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013-1014

cho riêng mình GV yêu cầu HS tự vẽ SĐTD thông qua việc giao bài tập cho các
em: ví dụ “em hãy vẽ SĐTD tổng kết chương 1, hay bài 1…”.
+ Thực hành vẽ SĐTD trên giấy, vở, bìa, bảng phụ.
 Các bước thiết kế SĐTD.
Bước 1: Chọn từ trung tâm (hay còn gọi là từ khóa, Keyword) là tên của
một bài hay một chủ đề một nội dung kiến thức cần khai thác.
Ví dụ: thiết lập SĐTD bài 12 “Sự phân bố khí áp. Một số loại gió chính”- Địa

lý 10 (cơ bản).
Bắt đầu bằng cụm từ trung tâm “Phân bố
khí áp. Một số loại gió chính ”

Bước 2: Vẽ nhánh cấp 1.
Các nhánh cấp 1 là chính là các nội dung chính của bài học hay chủ đề
đó (hay tên các mục của SGK…)
Bài 12 có 2 mục là: Phân bố
khí áp và một số loại gió
chính. Như vậy thiết lập
SĐTD có 2 nhánh cấp 1
Bước 3: Vẽ nhánh cấp 2, 3, …
Các nhánh cấp 2, cấp 3,…chính là các nhanh con của nhánh con trước đó
(hay nói rõ hơn nhánh con cấp 2, 3,… là các ý triển khai của nhánh trước đó).
Ví dụ: nhánh cấp 2, 3,…của nhánh cấp 1 – Phân bố khí áp .

Giáo viên: Vũ Thị Cúc – Trường THPT Trần Quang Khải

25


×