Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tình hình đầu tư trực tiếp của mỹ vào việt nam thực trạng và một số giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.48 KB, 20 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế liên kết và hoà nhập với nền kinh tế thế giới thành một
chỉnh thể thống nhất, hầu hết các nƣớc trên thế giới đều tham gia ngày càng
tích cực vào quá trình phân công lao động quốc tế.
Việt nam cũng đang trên đà phát triển tiến tới hội nhập với nền kinh tế
thế giới. Để thực hiện đƣợc điều này, chúng ta cần một lƣợng vốn lớn để
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vốn trong nƣớc là quyết định, vốn nƣớc
ngoài là quan trọng. Do đó, để bổ sung vào sự thiếu hụt vốn để phát triển
kinh tế thì không thể không kể đến vai trò của nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài. Vấn đề đặt ra phải làm sao để tăng cƣờng thu hút vốn đầu tƣ
trực tiếp nƣớc ngoài vào Việt nam.
Với hàng trăm công ty đa quốc gia quy mô lớn, hoạt động trên nhiều
lĩnh vực, Mỹ là chủ đầu tƣ của nhiều nƣớc. Đặc biệt đối với các nƣớc đang
phát triển ở Châu Á - Thái Bình Dƣơng, Mỹ vốn có truyền thống đầu tƣ vài
ba chục năm ở các nƣớc này, nhất là các nƣớc NICs, ASEAN. Trong bối
cảnh chung đó, do nhiều lý do khác nhau mà đầu tƣ của Mỹ vào Việt nam
còn quá ít, chƣa tƣơng xứng với tiềm năng một cƣờng quốc số một về kinh
tế, chƣa khai thác hết lợi thế của một vùng đất mà Mỹ đã và đang có mặt. Để
tìm hiểu rõ hơn việc Mỹ đầu tƣ trực tiếp vào Việt nam và muốn góp phần
thúc đẩy đầu tƣ của Mỹ vào Việt nam, nên em chọn đề tài: "Tình hình đầu
tƣ trực tiếp của Mỹ vào Việt nam-Thực trạng và một số giải pháp".
Đề tài gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Phần II: Thực trạng đầu tƣ trực tiếp của Mỹ ở Việt nam giai đoạn
từ 1994 đến nay
Phần III: Phƣơng hƣớng và một số giải pháp nhằm thu hút đầu tƣ
trực tiếp của Mỹ vào Việt nam

Trang 1



PHẦN I
LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP
NƢỚC NGOÀI
I. KHÁI NIỆM ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI

1. Khái niệm đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Trƣớc hết ta đi vào tìm hiểu khái niệm đầu tƣ, đầu tƣ nƣớc ngoài:
Đầu tư là việc bỏ vốn hoặc chi dùng vốn cùng với các nguồn lực khác
trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó (tạo ra hoặc khai thác sử
dụng một tài sản) nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai.
Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển các nguồn lực từ nước này sang
nước khác để thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm tối đa hoá lợi nhuận trên
phạm vi toàn cầu.
Từ đó ta đi vào khái niệm đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hoạt động đầu tư mà chủ đầu tư
tham gia trực tiếp vào quá trình quản lý, điều hành cũng như sử dụng vốn.
Đây là hình thức đầu tƣ trong đó ngƣời bỏ vốn đầu tƣ và ngƣời sử
dụng vốn là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá nhân ngƣời
nƣớc ngoài (các chủ đầu tƣ) trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử
dụng vốn đầu tƣ và vận hành các kết quả đầu tƣ nhằm thu hồi đủ vốn đã bỏ
ra.
Về thực chất, FDI là sự đầu tƣ của các công ty nhằm xây dựng các cơ
sở, chi nhánh ở nƣớc ngoài và làm chủ toàn bộ hay một phần cơ sở đó. Đây
là hình thức đầu tƣ mà chủ đầu tƣ nƣớc ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn
vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ.
2. Phân loại đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
 Dựa vào tỉ lệ sở hữu vốn, FDI đƣợc thực hiện dƣới các dạng sau:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh là loại hình đầu tƣ, trong đó các bên
tham gia hợp đồng ký kết thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động
sản xuất kinh doanh ở nƣớc nhận đầu tƣ, trên cơ sở qui định rõ đối tƣợng,

Trang 2


nội dung kinh doanh, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các
bên tham gia.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên
hợp doanh ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và
đƣợc cơ quan có thẩm quyền của nƣớc nhận đầu tƣ chuẩn y.
Đây là loại hình đầu tƣ không thành lập pháp nhân mới, lợi nhuận và
rủi ro phân chia theo tỉ lệ góp vốn của mỗi bên. Tuy nhiên, thời gian thực
hiện ngắn, lợi nhuận không cao.
- Liên doanh là hình thức đầu tƣ trong đó các bên nƣớc ngoài và nƣớc
chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hƣởng lợi nhuận và chia sẻ rủi
ro theo tỉ lệ góp vốn.
Hình thức này thành lập pháp nhân mới, hoạt động theo luật đầu tƣ
nƣớc ngoài của nƣớc nhận đầu tƣ, tuỳ theo luật pháp của mỗi nƣớc quy định
tỉ lệ phần trăm vốn góp của bên nƣớc ngoài vào liên doanh. Loại hình này
khắc phục đƣợc sự thiếu vốn và trong quá trình đầu tƣ nƣớc chủ nhà tiếp thu
đƣợc nhiều thành tựu tiên tiến do chủ đầu tƣ nƣớc ngoài chuyển giao hoặc
bàn giao công nghệ. Tuy nhiên, liên doanh sẽ dần chuyển thành đầu tƣ nƣớc
ngoài.
Hình thức này đƣợc nƣớc chủ nhà ƣa chuộng vì có điều kiện để học
tập kinh nghiệm quản lý, đào tạo lao động, gián tiếp nhanh chóng có chỗ
đứng trên thị trƣờng thế giới. Loại hình đầu tƣ này đƣợc nƣớc chủ nhà áp
dụng đối với các công cuộc đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng xã hội vì sự phát
huy tác dụng của các kết quả đầu tƣ này đòi hỏi phải đƣợc kiểm soát chặt
chẽ. Khi áp dụng hình thức này, đòi hỏi phải có khả năng góp vốn, có đủ
trình độ tham gia quản lý doanh nghiệp với ngƣời nƣớc ngoài thì nƣớc chủ
nhà mới đạt đƣợc hiệu quả mong muốn.
- 100% vốn nước ngoài là hình thức đầu tƣ, trong đó chủ đầu tƣ nƣớc

ngoài đầu tƣ 100% vốn tại nƣớc sở tại, có quyền điều hành và chịu hoàn
toàn trách nhiệm về hiệu quả hoạt động của dự án. Chủ đầu tƣ chỉ có một
trách nhiệm với nƣớc sở tại là nộp thuế. Do đó, nƣớc sở tại không mất vốn

Trang 3


mà lại thu đƣợc thuế. Tuy nhiên, nƣớc nhận đầu tƣ không kiểm soát đƣợc
hoạt động đầu tƣ và việc chuyển giao công nghệ không đƣợc thực hiện.
- Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT): loại hình này
tập trung vào dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Các chủ đầu tƣ chịu
trách nhiệm tiến hành xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian
đủ để thu hồi vốn đầu tƣ và có lợi nhuận hợp lý. Sau khi dự án kết thúc, toàn
bộ công trình sẽ đƣợc chuyển giao cho nƣớc chủ nhà mà không thu bất cứ
một khoản tiền nào.
 Theo phƣơng thức thực hiện đầu tƣ, FDI đƣợc chia ra thành:
- Đầu tư mới là hình thức đầu tƣ, trong đó chủ đầu tƣ nƣớc ngoài bỏ
vốn ra hoặc kết hợp với nƣớc chủ nhà thành lập nên một cơ sở sản xuất kinh
doanh mới. Đầu tƣ mới tạo nhiều việc làm, tạo nhiều cơ sở sản xuất kinh
doanh, dịch chuyển cơ cấu đầu tƣ.
- Mua lại và sát nhập (M&A) là hình thức đầu tƣ trong đó hai hoặc
nhiều công ty sát nhập lại thành một công ty lớn.
Hình thức này không ảnh hƣởng đến cơ cấu đầu tƣ. Với nƣớc nhận
đầu tƣ, M&A không làm tăng cơ sở hạ tầng, không tăng việc làm, thậm chí
còn giảm.
 Theo mục đích đầu tƣ, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài chia thành:
- Đầu tư theo chiều dọc là đầu tƣ để chiếm lĩnh thị trƣờng trong nƣớc,
dần dần tiêu diệt các cơ sở trong nƣớc.
- Đầu tư theo chiều ngang là đầu tƣ sản xuất một số sản phẩm, linh
kiện ở các nƣớc khác và xuất khẩu sang các nƣớc khác để khai thác tối đa lợi

thế so sánh của nhiều nƣớc một lúc tạo ra sản phẩm với chi phí tối thiểu.
II. CÁC LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI

Với các phƣơng thức tiếp cận và mục tiêu nghiên cứu khác nhau, các
tác giả đã đƣa ra nhiều mô hình và quan điểm lý thuyết về nguyên nhân hình
thành và ảnh hƣởng của FDI đến nền kinh tế thế giới, trong đó đặc biệt là
đối với các nƣớc đang phát triển.
Lý thuyết FDI có thể đƣợc chia thành 2 nhóm:
Trang 4


1. Các lý thuyết kinh tế vĩ mô về FDI
Nhóm lý thuyết này đƣợc phân tích dựa trên cơ sở của quy luật lợi thế
so sánh phân công lao động quốc tế và đƣợc coi là lý thuyết cơ bản của FDI.
Các nhà kinh tế lý thuyết đã sử dụng nhiều mô hình khác nhau để
phân tích nguyên nhân và ảnh hƣởng của FDI đối với các nƣớc tham gia đầu
tƣ, trong đó nổi bật là các mô hình của Heckcher-Ohlin-Samuelson và mô
hình của MacDougall-Kemp.
1.1. Mô hình Heckcher-Ohlin-Samuelson (HOS)
Lý thuyết di chuyển vốn quốc tế hoặc FDI là một phần của lý thuyết
thƣơng mại quốc tế. Lý thuyết này chủ yếu dựa trên cơ sở phân tích mô hình
HOS để đƣa ra các nhận định về nguyên nhân di chuyển vốn là có sự chênh
lệch về tỉ suất lợi nhuận so sánh giữa các nƣớc, và sự di chuyển đó tạo ra
tăng sản lƣợng cho nền kinh tế thế giới và các nƣớc tham gia đầu tƣ.
Để đơn giản cho sự phân tích, mô hình HOS đƣợc xây dựng trên các
giả định: Hai nƣớc tham gia trao đổi hàng hoá hoặc đầu tƣ (nƣớc I và nƣớc
II-phần còn lại của thế giới), hai yếu tố sản xuất (lao động-L và vốn-K), hai
hàng hoá(X và Y), trình độ kỹ thuật sản xuất, thị hiếu và hiệu quả kinh tế
theo quy mô ở hai nƣớc nhƣ nhau, không có chi phí vận tải, can thiệp của
chính sách, hoạt động của thị trƣờng hai nƣớc là hoàn hảo và không có sự di

chuyển các yếu tố sản xuất giữa các nƣớc. Với những giả định này, mô hình
HOS phân tích tỷ lệ chi phí của các yếu tố sản xuất (L, K) ở hai nƣớc I và II.
Mô hình HOS đã chỉ ra rằng sản lƣợng của hai nƣớc sẽ tăng lên nếu
mỗi nƣớc tập trung sản xuất để xuất khẩu những hàng hoá sử dụng yếu tố
sản xuất dƣ thừa và tiết kiệm yếu tố sản xuất khan hiếm. Ngƣợc lại, nhập
khẩu những hàng hoá dùng nhiều yếu tố khan hiếm và ít hàm lƣợng yếu tố
dƣ thừa. Nhƣ vậy, sự khác biệt trong chi phí sản xuất hàng hoá và lợi thế so
sánh giữa các nƣớc đƣợc lý thuyết HOS phân tích từ sự khác biệt giữa tính
dƣ thừa và khan hiếm của các yếu tố sản xuất, vì thế mô hình này còn đƣợc
gọi là lý thuyết các yếu tố sản xuất.
1.2. Mô hình Mac Dougall-Kemp

Trang 5


Khác với mô hình HOS, mô hình này phân tích ảnh hƣởng kinh tế vĩ
mô của FDI với nền kinh tế thế giới và các nƣớc tham gia đầu tƣ. Mô hình
này đƣợc xây dựng trên các giả định: Nền kinh tế thế giới chỉ có hai nƣớc
(nƣớc đầu tƣ-I và phần còn lại là nƣớc đầu tƣ-II), trƣớc khi di chuyển vốn
quốc tế thì năng suất cận biên của vốn đầu tƣ nƣớc I thấp hơn nƣớc II (nƣớc
I dƣ thừa và nƣớc II khan hiếm vốn), cạnh tranh hoàn hảo ở hai nƣớc, quy
luật năng suất cận biên của vốn giảm dần và giá cả sử dụng vốn đƣợc quyết
định bởi quy luật này.
Từ các giả định trên, các tác giả đã đi đến kết luận về nguyên nhân
hình thành FDI là do có sự chênh lệch năng suất cận biên của vốn đầu tƣ
giữa các nƣớc và ảnh hƣởng của nó làm tăng sản lƣợng thế giới (nhờ vào
tăng sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sản xuất) và các nƣớc tham gia đầu
tƣ đều có lợi. Mô hình này cũng phân tích FDI tạo ra ảnh hƣởng rất khác
nhau ở nƣớc đầu tƣ và nƣớc chủ nhà. Đối với nƣớc I, thu nhập từ sử dụng
vốn tăng lên do năng suất cận biên của vốn tăng khi vốn đầu tƣ chuyển sang

nƣớc II, trong khi đó thu nhập từ lao động lại giảm đi vì mất lƣợng vốn đầu
tƣ đã chuyển sang nƣớc II. Đối với nƣớc II, thu nhập từ vốn và lao động diễn
ra theo chiều hƣớng ngƣợc lại với nƣớc I.
Những kết luận từ phân tích mô hình này đã có ý nghĩa quan trọng
đến sự phát triển của lý thuyết FDI, trong đó đặc biệt là lý thuyết thuế tối ƣu
của đầu tƣ nƣớc ngoài. Lý thuyết này đƣợc phát triển bởi nhiều tác giả, trong
đó chủ yếu phân tích ảnh hƣởng của mức thuế FDI đến việc phân chia phần
giá trị gia tăng giữa các nƣớc tham gia đầu tƣ và hiệu quả sử dụng các nguồn
lực sản xuất của hai nƣớc. Khi nƣớc chủ nhà đánh thuế FDI ở tỷ lệ thích hợp
(tối ƣu) thì mặc dù tổng sản lƣợng có giảm, nhƣng thu nhập quốc dân thực
tế- thu nhập gia tăng từ thuế- sẽ cao hơn trong trƣờng hợp không đánh thuế
(trong trƣờng hợp tự do di chuuyển vốn, tuy tổng sản lƣợng lớn, nhƣng phần
sản lƣợng gia tăng lại chuyển về nƣớc đầu tƣ nhiều hơn, vì thế làm cho thu
nhập quốc dân của nƣớc chủ nhà thấp). Phân tích tình hình tƣơng tự nhƣ
vậy, đối với nƣớc đầu tƣ sẽ đạt đƣợc thu nhập tối đa khi có tỉ lệ thuế tối ƣu
để giới hạn xuất khẩu vốn đến mức không làm suy giảm lớn thu nhập từ lao
động.

Trang 6


1.3Lý thuyết phân tán rủi ro - Salvatore
Ở các nƣớc, mức độ rủi ro đầu tƣ khác nhau. Một nƣớc đầu tƣ ra
nhiều nƣớc khác, mất vốn nƣớc này sẽ còn vốn nƣớc kia.

Trang 7


1.4..Lý thuyết của Krugman
Theo Krugman, có hành động đầu tƣ ra nƣớc ngoài là do có chính

sách kinh tế vĩ mô khác nhau: chính sách tiền tệ, chính sách tài chính… Đầu
tƣ ra nƣớc ngoài để tìm môi trƣờng thuận lợi hơn.
1.5. Lý thuyết của Kojima
Theo Kojima, nguyên nhân có đầu tƣ nƣớc ngoài là do có sự chênh
lệch về tỷ suất lợi nhuận, là do các nƣớc có lợi thế so sánh khác nhau.
2. Các lý thuyết kinh tế vi mô về FDI
Có nhiều quan điểm lý thuyết kinh tế vi mô để giải thích hoạt động
đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài.
2.1. Lý thuyết chiết trung
Lý thuyết này giải thích hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài là do:
- Có đƣợc lợi thế độc quyền so với các công ty cùng ngành của nƣớc
nhận đầu tƣ.
- Các công ty độc quyền phải sử dụng đƣợc ít nhất một yếu tố sản xuất
tại nƣớc nhận đầu tƣ.
2.2. Lý thuyết nội vi hoá
Lý thuyết này xây dựng trên 3 giả định: TNCs tối đa hoá lợi nhuận
trong điều kiện cạnh tranh không hoàn hảo, tính không hoàn hảo của thị
trƣờng bán thành phẩm và TNCs tạo ra quốc tế hoá thị trƣờng. Từ những giả
định này, lý thuyết đã chỉ ra nguyên nhân đầu tiên hình thành và phát triển
của các TNCs là do tác động của thị trƣờng cạnh tranh không hoàn hảo. Hơn
nữa, TNCs còn đƣợc xem nhƣ giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề của
thị trƣờng thông qua việc mở rộng quy mô ra bên ngoài để sản xuất và phân
phối các sản phẩm một cách có hiệu quả.
2.3. Lý thuyết tổ chức công nghiệp
Các nhà kinh tế giải thích có sự đầu tƣ ra nƣớc ngoài là để khai thác
lợi thế độc quyền, mở rộng quy mô sản xuất từ đó tối đa hoá lợi nhuận.

Trang 8



2.4. Lý thuyết địa điểm công nghiệp
Nguyên nhân có đầu tƣ nƣớc ngoài là do có địa điểm công nghiệp
thuận lợi nhằm hạ chi phí đầu vào và tiêu thụ sản phẩm. Từ đó giảm chi phí
vận tải và chi phí sản xuất.
2.5. Lý thuyết xuất khẩu tư bản
Theo lý thuyết này, có hoạt động đầu tƣ ra nƣớc ngoài là do giá trị
thặng dƣ trong nƣớc mang lại bị hạn chế (lợi nhuận ít). Do đó, tìm cách
chuyển sản xuất ra nƣớc ngoài, đặc biệt từ những nƣớc phát triển sang
những nƣớc đang phát triển vì những nƣớc đang phát triển có thị trƣờng tiêu
thụ bị bỏ ngõ, chi phí lao động còn thấp, nguyên vật liệu đầu vào chƣa đƣợc
khai thác hết.
2.6. Lý thuyết chênh lệch chi phí sản xuất
Lý thuyết này giải thích có hoạt động đầu tƣ ra nƣớc ngoài là do:
- Chi phí sản xuất ở trong nƣớc và nƣớc ngoài khác nhau (chi phí sản
xuất ở nƣớc ngoài > chi phí sản xuất ở trong nƣớc)
- Quy mô thị trƣờng đạt ở một mức nào đó.

P

M

M
AC'
AC
C
0
Q1 Q2
Q
Giả sử chi phí sản xuất trực tiếp cho 1 sản phẩm là nhƣ nhau ở hai
nƣớc (AC)

C: đƣờng chi phí thêm cho 1 sản phẩm ở nƣớc ngoài
Do đó, tổng chi phí sản xuất 1sản phẩm ở nƣớc ngoài là AC'= AC + C
Với AC': đƣờng chi phí sản xuất ở nƣớc ngoài.
Giá bán sản phẩm trên thị trƣờng khi có thuế nhập khẩu là MM
Lúc này sẽ xảy ra các trƣờng hợp sau:

Trang 9


- Nếu quy mô thị trƣờng trong nƣớc II < OQ1 thì nƣớc I sẽ không đầu
tƣ sang nƣớc II, mà chỉ sản xuất trong nƣớc và xuất khẩu sang nƣớc
II.
- Nếu quy mô thị trƣờng trong nƣớc II nằm trong đoạn Q1Q2 thì nƣớc I
hoặc sẽ vẫn sản xuất trong nƣớc, hoặc cho nƣớc II thuê lợi thế độc
quyền để sản xuất.
- Chỉ khi nào quy mô thị trƣờng trong nƣớc II > OQ 2 thì mới có hoạt
động FDI.
2.7. Lý thuyết chu kỳ sản phẩm - Vernon
Lý thuyết này giải thích sự phát triển của TNCs theo 3 giai đoạn phát
triển của sản phẩm: đổi mới, tăng trƣởng và bão hoà. Vernon đã phân tích
giai đoạn đổi mới sản phẩm chỉ diễn ra ở các nƣớc phát triển (Mỹ), vì thu
nhập cao có ảnh hƣởng đến nhu cầu và khả năng tiêu thụ sản phẩm mới.
Cũng chỉ ở các nƣớc phát triển, kỹ thuật sản xuất tiên tiến với đặc trƣng sử
dụng nhiều vốn và các điều kiện sản xuất (tƣơng đƣơng với các nƣớc đầu tƣ)
mới phát huy đƣợc hiệu suất cao. Kết quả là sản xuất tăng nhanh theo quy
mô lớn, năng suất lao động cao và các sản phẩm mới đã đạt đến mức bão
hoà.
Để sản xuất tiếp tục đƣợc phát triển, công ty phải mở rộng thị trƣờng
tiêu thụ ở nƣớc ngoài, nhƣng việc bán sản phẩm ra nƣớc ngoài đã nhanh
chóng bị hạn chế bởi hàng rào thuế quan hoặc hạn ngạch. Thêm vào đó,

cƣớc phí vận tải và chi phí nguyên vật liệu, lao động rẻ ở các nƣớc đang phát
triển là động lực quan trọng thúc đẩy TNCs đầu tƣ ra nƣớc ngoài.
Theo Vernon, hầu hết các TNCs nhƣ là các tổ chức độc quyền bán và
chia làm 3 giai đoạn phát triển: độc quyền trên cơ sở đổi mới, độc quyền bảo
hoà và độc quyền suy yếu. Giai đoạn 1 với đặc trƣng là dựa vào ƣu thế vê kỹ
thuật tiên tiến để tạo ra các sản phẩm mới và thu đƣợc lợi nhuận độc quyền.
Giai đoạn tiếp theo là đạt đến mức độc quyền tối đa so với các đối thủ về
quy mô sản xuất, tiếp thị, nghiên cứu và triển khai (marketing và R&D).
Giai đoạn cuối cùng là các yếu tố đổi mới và quy mô kinh tế đã mất vị trí
độc quyền. Từ đó tác giả đã đi đến kết luận về nguyên nhân hình thành FDI
nhƣ là kết quả của quá trình bảo vệ thị trƣờng độc quyền của TNCs.

Trang 10


2.8. Lý thuyết chu kỳ sản phẩm bắt kịp - Akamatsu
Theo Akamatsu, sản phẩm mới đƣợc phát minh và ra đời ở nƣớc đầu
tƣ, sau đó đƣợc xuất khẩu ra thị trƣờng quốc tế. Tại nƣớc nhập khẩu, do ƣu
điểm của sản phẩm mới và nhu cầu thị trƣờng nội địa tăng lên, chính phủ
nƣớc nhập khẩu đã tăng cƣờng sản xuất thay thế sản phẩm nhập khẩu này
bằng cách dựa vào vốn, kỹ thuật… của nƣớc ngoài. Đến khi nhu cầu thị
trƣờng nội địa về sản phẩm mới đƣợc sản xuất trong nƣớc đạt đến sự bão
hoà, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện và cứ theo chu kỳ nhƣ vậy mà dẫn đến
việc hình thành FDI.
Lý thuyết kinh tế FDI là sự phát triển liên tục của các quan điểm khác
nhau trong quá trình phân tích và giải thích sự tăng trƣởng của đầu tƣ nƣớc
ngoài. Việc kết hợp hài hoà giữa các mô hình lý thuyết và các quan điểm vi
mô là phƣơng pháp tốt nhất để hiểu biết về cơ sở lý thuyết của FDI.
III. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI


FDI có tác động tích cực đến cả nƣớc nhận đầu tƣ cũng nhƣ nhƣ nƣớc
đi đầu tƣ. Tuy nhiên, trong bài viết này tôi chỉ đề cập tới vai trò của FDI tới
nƣớc nhận đầu tƣ.
Đối với nƣớc nhận đầu tƣ, FDI có vai trò quan trọng
1. FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nƣớc chủ nhà để phát
triển kinh tế.
Vốn cho đầu tƣ phát triển kinh tế gồm nguồn vốn trong nƣớc và vốn
từ nƣớc ngoài. Đối với các nƣớc lạc hậu, nguồn vốn tích luỹ từ trong nƣớc
còn hạn hẹp thì vốn đầu tƣ nƣớc ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với quá trình phát triển nền kinh tế. Trong điều kiện hiện nay, khi mà trên
thế giới có nhiều nƣớc đang nắm trong tay một khối lƣợng vốn khổng lồ và
có nhu cầu đầu tƣ ra nƣớc ngoài thì đó là cơ hội để các nƣớc đang phát triển
có thể tranh thủ nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài vào việc phát triển kinh tế.
Ở nhiều nƣớc đang phát triển, vốn đầu tƣ nƣớc ngoài chiếm tỉ lệ đáng
kể trong tổng vốn đầu tƣ của toàn bộ nền kinh tế. Nó có vai trò to lớn đối với
sự phát triển kinh tế. Các nhà nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng vốn FDI
chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong GDP thì tốc độ tăng trƣởng GDP thực tế
càng cao. Điều này cho thấy FDI có ý nghĩa quyết định đến tăng trƣởng kinh
Trang 11


tế của các nƣớc này. Bên cạnh đó, nguồn thu FDI còn là nguồn bổ sung quan
trọng để các nƣớc này thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.
Đối với các nƣớc công nghiệp phát triển, đây là những nƣớc xuất khẩu
vốn FDI nhiều nhất, nhƣng cũng là nƣớc tiếp nhận vốn FDI nhiều nhất hiện
nay. FDI vẫn là nguồn bổ sung vốn quan trọng và có ý nghĩa to lớn cho quá
trình phát triển nền kinh tế của những quốc gia này
2. FDI với việc chuyển giao công nghệ và tăng cƣờng năng lực công
nghệ
Khi đầu tƣ vào một nƣớc nào đó, chủ đầu tƣ không chỉ chuyển vào

nƣớc đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật nhƣ máy móc, thiết
bị, nguyên vật liệu, nhà xƣởng… (hay còn gọi là phần cứng) và vốn vô hình
nhƣ chuyên gia kỹ thuật công nghệ, tri thức khoa học, tổ chức, bí quyết,
quản lý, năng lực tiếp cận thị trƣờng… (hay còn gọi là phần mềm).Thông
qua hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, quá trình chuyển giao công nghệ
đƣợc thực hiện tƣơng đối nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên đầu tƣ cũng
nhƣ bên nhận đầu tƣ.
Một trở ngại lớn nhất trên con đƣờng phát triển kinh tế của hầu hết
các nƣớc đang phát triển là trình độ kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu. Con
đƣờng nhanh nhất để phát triển khoa học kỹ thuật và trình độ sản xuất của
các nƣớc đang phát triển trong điều kiện hiện nay là: phải biết tận dụng đƣợc
những thành tựu kỹ thuật công nghệ tiên tiến của nƣớc ngoài thông qua
chuyển giao công nghệ. Tiếp nhận đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài là một
phƣơng thức cho phép các nƣớc đang phát triển tiếp thu đƣợc trình độ kỹ
thuật công nghệ hiện đại trên thế giới. Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới
có nhiều công ty của nhiều quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tƣ ra nƣớc
ngoài và thực hiện chuyển giao công nghệ cho nƣớc nào tiếp nhận đầu tƣ.
Thì đây là cơ hội cho các nƣớc đang phát triển có thể tiếp thu đƣợc kỹ thuật
công nghệ thuận lợi nhất. Nhƣng không phải các nƣớc đang phát triển đƣợc
"đi xe miễn phí", mà họ cũng phải trả một khoản "học phí' không nhỏ cho
việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này.
Các nƣớc phát triển, mặc dù đã có trình độ sản xuất hiện đại, khoa học
kỹ thuật tiên tiến nhƣng không thể nào toàn diện đƣợc. Để đạt hiệu quả kinh
Trang 12


tế cao, mỗi nƣớc chỉ tập trung vào một số lĩnh vực nào mà họ có ƣu thế hơn
và ngƣợc lại chính sự tập trung đó cho phép họ có khả năng phát triển vƣợt
trội lên ở một hay một số lĩnh vực nào đó, điều đó càng củng cố thêm địa vị
và quyền lợi kinh tế của họ trên thế giới.

Mặc dù sự chuyển giao này còn nhiều hạn chế do những yếu tố chủ
quan và khách quan chi phối, song điều không thể phủ nhận là chính nhờ có
sự chuyển giao đó mà các nƣớc chủ nhà có đƣợc kỹ thuật tiên tiến (trong đó
có những công nghệ không thể mua đƣợc bằng quan hệ thƣơng mại đơn
thuần), kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing, đội ngũ lao động đƣợc đào
tạo, bồi dƣỡng, rèn luyện về nhiều mặt (trình độ kỹ thuật, phƣơng pháp làm
việc, kỷ luật lao động,…).
Trong quá trình tiếp thu công nghệ, các nhà khoa học trong nƣớc cải
biến công nghệ cho phù hợp với tình hình thực tế. Việc luôn cọ sát với công
nghệ tiên tiến hơn trên thế giới khiến năng lực công nghệ của các cơ sở
trong nƣớc phát triển hơn.
3. FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản
thân sự phát triển nội tại nền kinh tế, mà nó còn là đòi hỏi của xu hƣớng
quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Để hội nhập
vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế
giữa các nƣớc trên thế giới, đòi hỏi từng quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh
tế trong nƣớc cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung
trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài. Ngƣợc lại thì chính đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài lại góp phần thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
4. FDI góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm nhiều việc làm
mới
Các dự án FDI có yêu cầu cao về chất lƣợng nguồn lao động, do đó sự
phát triển của FDI ở các nƣớc sở tại đã đặt ra yêu cầu khách quan phải nâng
cao chất lƣợng về ngoại ngữ,trình độ chuyên môn của ngƣời lao động. Mặt

Trang 13



khác, chính các chủ đầu tƣ nƣớc ngoài cũng đã góp phần tích cực bồi dƣỡng,
đào tạo đội ngũ lao động ở nƣớc sở tại. Đó chính là đội ngũ nòng cốt trong
việc học tập, tiếp thu kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, năng lực quản lý điều
hành tiên tiến của nƣớc ngoài. Các dự án FDI cũng góp phần thu hút một
lƣợng lớn lao động, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp.

Trang 14


5. Những tác động khác
Ngoài những tác động trên đây, FDI còn có một số tác động khác nhƣ
mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, thúc đẩy quá trình xuất nhập khẩu, nâng
cao tính cạnh, đóng góp đáng kể vào nguồn thu của ngân sách nhà nƣớc
thông qua việc nộp thuế của các đơn vị đầu tƣ nƣớc ngoài và tiền thu từ việc
cho thuê đất,…; góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế…
IV. MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA FDI

FDI không phải khi nào và bất cứ ở đâu cũng phát huy tác động tích
cực đối với đời sống kinh tế xã hội của nƣớc chủ nhà. Nó chỉ có thể phát huy
tác dụng tốt trong môi trƣờng kinh tế, chính trị xã hội ổn định và đặc biệt là
nƣớc nhận đầu tƣ biết sử dụng và phát huy vai trò quản lý của mình. Tuy
nhiên, qua nhiều công trình nghiên cứu và thực tế quá trình thu hút FDI của
nhiều nƣớc đã chỉ ra rằng FDI có không ít những mặt hạn chế. Cụ thể:
- Nguồn vốn FDI mang lại cho nƣớc chủ nhà song trên thực tế do chủ
đầu tƣ quản lý trực tiếp và sử dụng theo những mục tiêu cụ thể của mình.
- Nhiều nhà đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đã lợi dụng chỗ sơ hở trong
luật pháp và trong công tác quản lý của nƣớc chủ nhà để trốn thuế, gây tác
hại đến môi trƣờng sinh thái và lợi ích của nƣớc chủ nhà.
- Chuyển giao công nghệ là mặt tác động lớn của FDI, song còn tồn

tại nhiều hạn chế và nhiều tiêu cực, trong đó có việc chuyển giao nhỏ giọt,
từng phần và thông thƣờng là công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm… với giá
cao hơn mặt bằng quốc tế.
- Trong số các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài không phải không có trƣờng
hợp hoạt động tình báo, gây rối an ninh, chính trị,…
Nêu lên những hạn chế của FDI không có nghĩa là phủ nhận tác dụng
của nó mà chỉ muốn lƣu ý rằng không nên quá ảo tƣởng về nó và cần có
những biện pháp kiểm tra, kiểm soát và đối sách hữu hiệu để phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của FDI.

Trang 15


V. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ TRỰC
TIẾP NƢỚC NGOÀI

Hiện nay, nhu cầu vốn đầu tƣ phát triển của các quốc gia rất lớn và
ngày một tăng, nhƣng khả năng cung cấp vốn đầu tƣ rất hạn chế, do đó quan
hệ cung cầu về vốn trên thế giới rất căng thẳng. Khả năng thu hút vốn đầu tƣ
của các quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó, các nhân tố cơ bản
là xu hƣớng vận động có tính quy luật của các dòng vốn FDI trên thế giới,
chiến lƣợc đầu tƣ và phát triển của các tập đoàn đa quốc gia, môi trƣờng đầu
tƣ và khả năng cạnh tranh thu hút vốn FDI của các nƣớc tiếp nhận đầu tƣ.
1. Xu hƣớng vận động của vốn FDI trên thế giới hiện nay
- Dòng vốn FDI trên thế giới ngày một gia tăng và chịu sự chi phối chủ
yếu của các nƣớc công nghiệp phát triển.
- Đầu tƣ ra nƣớc ngoài dƣới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh
công ty ở nƣớc ngoài (M&A) đã bùng nổ trong những năm gần đây, trở
thành chiến lƣợc hợp tác phát triển chính của các công ty xuyên quốc gia
(TNCs).

- Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tƣ trên thế giới
- Các nƣớc Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật chi phối dòng vận động chính của
vốn FDI (vào, ra) trên thế giới.
- Các tập đoàn xuyên quốc gia đóng vai trò rất quan trọng trong đầu tƣ trực
tiếp ra nƣớc ngoài và đang đẩy mạnh quá trình đầu tƣ ra nƣớc ngoài.
- Dòng vốn FDI đổ vào các nƣớc đang phát triển đang gia tăng mạnh mẽ,
đặc biệt là các nƣớc đang phát triển ở Châu Á
Các xu hƣớng trên có ảnh hƣởng to lớn tới việc thu hút FDI của tất cả
các quốc gia trên thế giới.
2. Chiến lƣợc đầu tƣ phát triển của các TNCs
Từ đầu thập kỷ 80 đến nay các TNCs đã dần trở thành lực lƣợng chủ yếu,
nòng cốt thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới
thông qua tác động to lớn của các TNCs trong việc phân bố nguồn lực của
nền kinh tế thế giới, thúc đẩy quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế ở các
Trang 16


quốc gia, chi phối lƣu chuyển hàng hoá của thƣơng mại quốc tế. Các TNCs
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển tải kỹ thuật, công nghệ thúc
đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở những nƣớc đang phát triển.
Do đó, chiến lƣợc đầu tƣ phát triển của các TNCs có tác động rất lớn đến
dòng và xu hƣớng vận động của đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài.
3. Môi trƣờng đầu tƣ và khả năng cạnh tranh thu hút vốn FDI của các
nƣớc tiếp nhận đầu tƣ.
Dòng FDI chỉ thực sự mở rộng và ƣa tìm đến những nơi có môi trƣờng đầu
tƣ đảm bảo cho dòng vốn sinh sôi nảy nở. Môi trƣờng đầu tƣ hấp dẫn, có sức
cạnh tranh để thu hút FDI trƣớc hết bao gồm các nhân tố:
- Sự ổn định về kinh tế và chính trị - xã hội và luật pháp đầu tƣ
- Sự mềm dẻo và hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích đầu tƣ
nƣớc ngoài.

- Sự phát triển của cơ sở hạ tầng
- Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa học - công nghệ và
hệ thống doanh nghiệp trong nƣớc và trên địa bàn.
- Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự án FDI
đã triển khai
Tóm lại, FDI đã, đang và sẽ tìm đến quốc gia và địa phƣơng nào có
nền kinh tế - chính trị - xã hội ổn định, hệ thống pháp luật đầu tƣ đầy đủ, cởi
mở, tin cậy và mang tính chuẩn mực quốc tế cao; chính sách ƣu đãi đầu tƣ
linh hoạt và hấp dẫn,…. Đặc biệt việc các quốc gia đó tham gia vào các tổ
chức kinh tế khu vực và quốc tế, cũng nhƣ tuân thủ nghiêm túc các công
ƣớc, quy định về luật pháp đầu tƣ và thông lệ đối xử quốc tế… sẽ là những
yếu tố đảm bảo lòng tin và hấp dẫn các dòng FDI thậm chí còn mạnh hơn
việc đƣa ra các ƣu đãi tài chính cao… nghĩa là dòng FDI chỉ ƣa tìm đến
những nơi đầu tƣ an toàn, đồng vốn đƣợc sử dụng có hiệu quả, quay vòng
nhanh và ít rủi ro.

Trang 17


PHẦN II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP CỦA MỸ Ở VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN TỪ 1994 ĐẾN NAY
Mỹ là nƣớc có tiềm lực kinh tế mạnh, với hàng trăm công ty đa quốc
gia quy mô lớn, hoạt động trên nhiều lĩnh vực, Mỹ là chủ đầu tƣ của nhiều
nƣớc. Mỹ đầu tƣ nhiều nhất vào những nơi có cơ sở hạ tầng phát triển, trình
độ lao động có chuyên môn cao, luật pháp ổn định rõ ràng, mức độ rủi ro
thấp. Nhƣ vậy, những nƣớc có nền kinh tế càng phát triển càng thu nhận
nhiều FDI. Và các nƣớc ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng (bao gồm cả
ASEAN) là địa chỉ hấp dẫn để thu hút FDI.
Năm 1998, dòng FDI của thế giới là 643.879 triệu USD. Trong đó,

riêng FDI ra nƣớc ngoài của Mỹ là 121.644 triệu USD, chiếm 19% dòng vốn
đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài của toàn thế giới.
Trong bối cảnh chung đó, để biết đƣợc Mỹ đầu tƣ vào Việt nam nhƣ
thế nào, ta đi vào xem xét thực trạng đầu tƣ trực tiếp của Mỹ vào Việt nam.
I. THỰC TRẠNG ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP CỦA MỸ VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
TỪ 1994 ĐẾN NAY

1. Đánh giá chung
Từ sau khi Mỹ chính thức xóa bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam vào
ngày 3/2/1994, hoạt động đầu tƣ trực tiếp của các công ty Mỹ vào Việt nam
đã có bƣớc nhảy vọt. Nhiều công ty và tập đoàn kinh tế Mỹ vào Việt nam
với mục đích là thăm dò hoạt động đầu tƣ của thị trƣờng này. Chỉ riêng năm
1994 - năm đầu tiên khi lệnh cấm vận đƣợc bải bỏ - số vốn đầu tƣ của Mỹ
vào Việt nam đã tăng vọt lên 120,310 triệu USD với 12 dự án, đƣa nƣớc này
lên vị trí thứ 14 trong danh sách các nhà đầu tƣ lớn nhất vào Việt nam. So
với cả giai đoạn 1988-1993, khi lệnh cấm vận còn hiệu lực, đầu tƣ trực tiếp
của Mỹ vào Việt nam với tổng số vốn đăng ký là 3,34 triệu USD. Điều này
cho thấy: trƣớc khi Mỹ xoá bỏ cấm vận, các công ty của Mỹ đã rất sốt ruột
muốn đƣợc vào đầu tƣ kinh doanh tại Việt nam, để có cơ hội cạnh tranh với
các công ty của Nhật Bản, Châu Âu và các nƣớc khác. Do đó khi huỷ bỏ
Trang 18


lệnh cấm vận, các công ty Mỹ đã "nhảy" vào đầu tƣ ở Việt nam. Cụ thể, sau
khi huỷ bỏ lệnh cấm vận 1 ngày, đã có 30 công ty mở văn phòng đại diện tại
Việt nam, "mở đầu cuộc đấu tranh để giành trái tim và ví tiền của ngƣời Việt
nam". Chỉ vài năm sau đó, nhất là khi bình thƣờng hoá quan hệ ngoại giao,
đầu tƣ của Mỹ tại Việt nam đã tăng lên nhanh chóng. Cụ thể:

Năm

1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
10/2002
Tổng cộng

Bảng 1: Đầu tƣ của Mỹ tại Việt nam
(Tính đến tháng 10/2002 - các dự án còn hiệu lực)
Số dự
Tổng số vốn đầu tƣ
Tỷ trọng
Quy mô dự án
án
(triệu USD)
(%)
(triệu USD)
12
120,310
8,57
10,03
19
397,871
28,34
20,94
16

159,722
11,38
9,98
12
98,544
7,02
8,21
15
306,955
21,87
20,46
14
66,352
4,73
4,74
12
95,275
6,79
7,94
23
110,8
7,89
4,82
19
144
1.403,680
100,00
9,75
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư


Với quy mô và tốc độ đầu tƣ tăng khá lớn vào Việt nam, chỉ 2 năm
sau khi lệnh cấm vận đƣợc dỡ bỏ, Mỹ đã vƣợt lên thứ 6 trong danh sách 10
nhà đầu tƣ lớn nhất vào Việt nam và chỉ sau Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc,
Xingapo và Thuỵ Điển. Năm 1995, đã tạo ra một bƣớc đột biến mới với 19
dự án đầu tƣ của Mỹ với tổng số vốn đầu tƣ là 397,871 triệu USD. Đây là
năm đạt mức đầu tƣ cao kỷ lục cả về số lƣợng dự án lẫn số vốn đầu tƣ và
quy mô dự án, chiếm tới 28,34% tổng vốn đầu tƣ; 13,19% số dự án đầu tƣ,
với quy mô dự án bình quân đạt 20,94 triệu USD - mức cao nhất từ trƣớc
đến giờ của đầu tƣ Mỹ vào Việt nam và cao hơn nhiều so với quy mô dự án
của cả giai đoạn (9,75 triệu USD). Điều đáng quan tâm là các công ty tầm cỡ
thế giới của Mỹ đã tham gia chính với những dự án quy mô lớn và có tầm
quan trọng đối với tƣơng lai phát triển của nền kinh tế Việt nam. Chẳng hạn
nhƣ Mobil Oil với dự án dầu khí (Mỏ Thanh Long) 55 triệu USD, dự án khu
du lịch Non Nƣớc của tập đoàn BBI China Beach Ltd 243 triệu USD…. Vị
trí này Mỹ tiếp tục giữ trong năm 1997, mặc dù cả số dự án lẫn tổng vốn đầu
tƣ của Mỹ vào Việt nam giảm mạnh (trong năm chỉ có thêm 12 dự án với
Trang 19


tổng số vốn 98,544 triệu USD). Tuy tốc độ đầu tƣ của Mỹ vào Việt nam hai
năm 1996-1997 có dấu hiệu chựng lại do tác động của nhiều nhân tố khách
quan nhƣ khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, môi trƣờng, chính
sách đầu tƣ của Việt nam chƣa ổn định, phức tạp, nhiều rủi ro, chậm thu lợi
nhuận, chính sách đối xử của Việt nam đối với các công ty nƣớc ngoài nói
chung, công ty Mỹ nói riêng, còn nhiều phân biệt, chƣa thuận cho cách làm
ăn kinh doanh của họ,… Nhƣng tác động tích cực của các nhân tố khác nhƣ
việc chính phủ Mỹ cho phép Cơ quan phát triển thƣơng mại Mỹ (TDA)
chính thức mở các chƣơng trình hỗ trợ đầu tƣ tại Việt nam, sự cấp phép hoạt
động tại Việt nam của ngân hàng xuất nhập khẩu và Tổ chức đầu tƣ tƣ nhân
hải ngoại (OPIC), cũng nhƣ hiệp định về bản quyền giữa chính phủ hai nƣớc

đƣợc ngoại trƣởng hai nƣớc ký vào ngày 27/6/1997, đã tạo cơ sở pháp lý và
những tiền đề quan trọng trong việc phát triển quan hệ kinh tế hai nƣớc nhất
là lĩnh vực đầu tƣ.
Sau hai năm theo xu hƣớng giảm sút, đầu tƣ của Mỹ vào Việt nam
năm 1998 lại tạo đƣợc bƣớc tăng đột biến với số vốn đầu tƣ tăng hơn 3 lần
so với năm trƣớc, đạt 306,955 triệu USD với 15 dự án. Điều này một phần là
do ngày 10/3/1998, tổng thống Mỹ B.Clinton đã tuyên bố bãi bỏ tù chính án
Jackson-Vanik đối với Việt nam, nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế với Việt
nam lên một bƣớc mới. Phía Mỹ cho rằng, bỏ tù chính án Jackson-Vanik đối
với Việt nam là bƣớc đầu cho việc thực hiện các chƣơng trình bảo hiểm đầu
tƣ, tạo thế thuận lợi cho cả hai bên Việt-Mỹ, đồng thời tăng thêm niềm tin
đối với các công ty Mỹ vốn quan tâm tới việc hợp tác đầu tƣ vào Việt nam.
Mặc dù vốn đầu tƣ tăng song thứ hạng của Mỹ đã tụt xuống vị trí thứ 8 trong
danh sách 10 nhà đầu tƣ lớn nhất vào Việt nam.
Sang năm 1999 - năm ảm đạm nhất trong lĩnh vực thu hút đầu tƣ trực
tiếp nƣớc ngoài vào Việt nam - đầu tƣ của Mỹ vào Việt nam cũng trong tình
trạng chung. Mặc dù số dự án đầu tƣ của Mỹ vào Việt nam giảm không đáng
kể so với năm trƣớc, đạt 66,352 triệu USD. Nếu nhƣ năm 1995 đƣợc ghi
nhận là năm đạt mức cao kỷ lục về tổng vốn đầu tƣ, số dự án và quy mô dự
án thì năm 1999 đánh dấu mức thấp nhất về tổng vốn đầu tƣ và quy mô dự
án của vốn đầu tƣ trực tiếp của Mỹ vào Việt nam. Quy mô trung bình một dự
án chỉ bằng 48,62% mức trung bình của cả giai đoạn và chỉ gần bằng 1/4 so
Trang 20



×