Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Tình hình đầu tư trực tiếp của mỹ vào việt nam thực trạng và một số giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.96 KB, 46 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế liên kết và hoà nhập với nền kinh tế thế giới thành một
chỉnh thể thống nhất, hầu hết các nước trên thế giới đều tham gia ngày càng
tích cực vào quá trình phân công lao động quốc tế.
Việt nam cũng đang trên đà phát triển tiến tới hội nhập với nền kinh tế
thế giới. Để thực hiện được điều này, chúng ta cần một lượng vốn lớn để
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vốn trong nước là quyết định, vốn nước
ngoài là quan trọng. Do đó, để bổ sung vào sự thiếu hụt vốn để phát triển
kinh tế thì không thể không kể đến vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Vấn đề đặt ra phải làm sao để tăng cường thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt nam.
Với hàng trăm công ty đa quốc gia quy mô lớn, hoạt động trên nhiều
lĩnh vực, Mỹ là chủ đầu tư của nhiều nước. Đặc biệt đối với các nước đang
phát triển ở Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ vốn có truyền thống đầu tư vài
ba chục năm ở các nước này, nhất là các nước NICs, ASEAN. Trong bối
cảnh chung đó, do nhiều lý do khác nhau mà đầu tư của Mỹ vào Việt nam
còn quá ít, chưa tương xứng với tiềm năng một cường quốc số một về kinh
tế, chưa khai thác hết lợi thế của một vùng đất mà Mỹ đã và đang có mặt. Để
tìm hiểu rõ hơn việc Mỹ đầu tư trực tiếp vào Việt nam và muốn góp phần
thúc đẩy đầu tư của Mỹ vào Việt nam, nên em chọn đề tài: "Tình hình đầu
tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam-Thực trạng và một số giải pháp".
Đề tài gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Phần II: Thực trạng đầu tư trực tiếp của Mỹ ở Việt nam giai đoạn
từ 1994 đến nay
Phần III: Phương hướng và một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư
trực tiếp của Mỹ vào Việt nam

Trang 1



PHẦN I
LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI
I. KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trước hết ta đi vào tìm hiểu khái niệm đầu tư, đầu tư nước ngoài:
Đầu tư là việc bỏ vốn hoặc chi dùng vốn cùng với các nguồn lực khác
trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó (tạo ra hoặc khai thác sử
dụng một tài sản) nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai.
Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển các nguồn lực từ nước này sang
nước khác để thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm tối đa hoá lợi nhuận
trên phạm vi toàn cầu.
Từ đó ta đi vào khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hoạt động đầu tư mà chủ đầu tư
tham gia trực tiếp vào quá trình quản lý, điều hành cũng như sử dụng vốn.
Đây là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sử
dụng vốn là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá nhân người
nước ngoài (các chủ đầu tư) trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử
dụng vốn đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi đủ vốn đã bỏ
ra.
Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ
sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay một phần cơ sở đó. Đây
là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn
vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ.
2. Phân loại đầu tư trực tiếp nước ngoài
• Dựa vào tỉ lệ sở hữu vốn, FDI được thực hiện dưới các dạng sau:

Trang 2



- Hợp đồng hợp tác kinh doanh là loại hình đầu tư, trong đó các bên
tham gia hợp đồng ký kết thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động
sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trên cơ sở qui định rõ đối tượng,
nội dung kinh doanh, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các
bên tham gia.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên
hợp doanh ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và
được cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y.
Đây là loại hình đầu tư không thành lập pháp nhân mới, lợi nhuận và
rủi ro phân chia theo tỉ lệ góp vốn của mỗi bên. Tuy nhiên, thời gian thực
hiện ngắn, lợi nhuận không cao.
- Liên doanh là hình thức đầu tư trong đó các bên nước ngoài và nước
chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi
ro theo tỉ lệ góp vốn.
Hình thức này thành lập pháp nhân mới, hoạt động theo luật đầu tư
nước ngoài của nước nhận đầu tư, tuỳ theo luật pháp của mỗi nước quy định
tỉ lệ phần trăm vốn góp của bên nước ngoài vào liên doanh. Loại hình này
khắc phục được sự thiếu vốn và trong quá trình đầu tư nước chủ nhà tiếp thu
được nhiều thành tựu tiên tiến do chủ đầu tư nước ngoài chuyển giao hoặc
bàn giao công nghệ. Tuy nhiên, liên doanh sẽ dần chuyển thành đầu tư nước
ngoài.
Hình thức này được nước chủ nhà ưa chuộng vì có điều kiện để học
tập kinh nghiệm quản lý, đào tạo lao động, gián tiếp nhanh chóng có chỗ
đứng trên thị trường thế giới. Loại hình đầu tư này được nước chủ nhà áp
dụng đối với các công cuộc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng xã hội vì sự phát
huy tác dụng của các kết quả đầu tư này đòi hỏi phải được kiểm soát chặt
chẽ. Khi áp dụng hình thức này, đòi hỏi phải có khả năng góp vốn, có đủ
trình độ tham gia quản lý doanh nghiệp với người nước ngoài thì nước chủ
nhà mới đạt được hiệu quả mong muốn.

- 100% vốn nước ngoài là hình thức đầu tư, trong đó chủ đầu tư nước
ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại, có quyền điều hành và chịu hoàn

Trang 3


toàn trách nhiệm về hiệu quả hoạt động của dự án. Chủ đầu tư chỉ có một
trách nhiệm với nước sở tại là nộp thuế. Do đó, nước sở tại không mất vốn
mà lại thu được thuế. Tuy nhiên, nước nhận đầu tư không kiểm soát được
hoạt động đầu tư và việc chuyển giao công nghệ không được thực hiện.
- Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT): loại hình này
tập trung vào dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Các chủ đầu tư chịu
trách nhiệm tiến hành xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian
đủ để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Sau khi dự án kết thúc, toàn
bộ công trình sẽ được chuyển giao cho nước chủ nhà mà không thu bất cứ
một khoản tiền nào.
• Theo phương thức thực hiện đầu tư, FDI được chia ra thành:
- Đầu tư mới là hình thức đầu tư, trong đó chủ đầu tư nước ngoài bỏ
vốn ra hoặc kết hợp với nước chủ nhà thành lập nên một cơ sở sản xuất kinh
doanh mới. Đầu tư mới tạo nhiều việc làm, tạo nhiều cơ sở sản xuất kinh
doanh, dịch chuyển cơ cấu đầu tư.
- Mua lại và sát nhập (M&A) là hình thức đầu tư trong đó hai hoặc
nhiều công ty sát nhập lại thành một công ty lớn.
Hình thức này không ảnh hưởng đến cơ cấu đầu tư. Với nước nhận
đầu tư, M&A không làm tăng cơ sở hạ tầng, không tăng việc làm, thậm chí
còn giảm.
• Theo mục đích đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài chia thành:
- Đầu tư theo chiều dọc là đầu tư để chiếm lĩnh thị trường trong nước,
dần dần tiêu diệt các cơ sở trong nước.
- Đầu tư theo chiều ngang là đầu tư sản xuất một số sản phẩm, linh

kiện ở các nước khác và xuất khẩu sang các nước khác để khai thác tối đa lợi
thế so sánh của nhiều nước một lúc tạo ra sản phẩm với chi phí tối thiểu.
II. CÁC LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

Với các phương thức tiếp cận và mục tiêu nghiên cứu khác nhau, các
tác giả đã đưa ra nhiều mô hình và quan điểm lý thuyết về nguyên nhân hình

Trang 4


thành và ảnh hưởng của FDI đến nền kinh tế thế giới, trong đó đặc biệt là
đối với các nước đang phát triển.
Lý thuyết FDI có thể được chia thành 2 nhóm:

Trang 5


1. Các lý thuyết kinh tế vĩ mô về FDI
Nhóm lý thuyết này được phân tích dựa trên cơ sở của quy luật lợi thế
so sánh phân công lao động quốc tế và được coi là lý thuyết cơ bản của FDI.
Các nhà kinh tế lý thuyết đã sử dụng nhiều mô hình khác nhau để
phân tích nguyên nhân và ảnh hưởng của FDI đối với các nước tham gia đầu
tư, trong đó nổi bật là các mô hình của Heckcher-Ohlin-Samuelson và mô
hình của MacDougall-Kemp.
1.1. Mô hình Heckcher-Ohlin-Samuelson (HOS)
Lý thuyết di chuyển vốn quốc tế hoặc FDI là một phần của lý thuyết
thương mại quốc tế. Lý thuyết này chủ yếu dựa trên cơ sở phân tích mô hình
HOS để đưa ra các nhận định về nguyên nhân di chuyển vốn là có sự chênh
lệch về tỉ suất lợi nhuận so sánh giữa các nước, và sự di chuyển đó tạo ra
tăng sản lượng cho nền kinh tế thế giới và các nước tham gia đầu tư.

Để đơn giản cho sự phân tích, mô hình HOS được xây dựng trên các
giả định: Hai nước tham gia trao đổi hàng hoá hoặc đầu tư (nước I và nước
II-phần còn lại của thế giới), hai yếu tố sản xuất (lao động-L và vốn-K), hai
hàng hoá(X và Y), trình độ kỹ thuật sản xuất, thị hiếu và hiệu quả kinh tế
theo quy mô ở hai nước như nhau, không có chi phí vận tải, can thiệp của
chính sách, hoạt động của thị trường hai nước là hoàn hảo và không có sự di
chuyển các yếu tố sản xuất giữa các nước. Với những giả định này, mô hình
HOS phân tích tỷ lệ chi phí của các yếu tố sản xuất (L, K) ở hai nước I và II.
Mô hình HOS đã chỉ ra rằng sản lượng của hai nước sẽ tăng lên nếu
mỗi nước tập trung sản xuất để xuất khẩu những hàng hoá sử dụng yếu tố
sản xuất dư thừa và tiết kiệm yếu tố sản xuất khan hiếm. Ngược lại, nhập
khẩu những hàng hoá dùng nhiều yếu tố khan hiếm và ít hàm lượng yếu tố
dư thừa. Như vậy, sự khác biệt trong chi phí sản xuất hàng hoá và lợi thế so
sánh giữa các nước được lý thuyết HOS phân tích từ sự khác biệt giữa tính
dư thừa và khan hiếm của các yếu tố sản xuất, vì thế mô hình này còn được
gọi là lý thuyết các yếu tố sản xuất.
1.2. Mô hình Mac Dougall-Kemp

Trang 6


Khác với mô hình HOS, mô hình này phân tích ảnh hưởng kinh tế vĩ
mô của FDI với nền kinh tế thế giới và các nước tham gia đầu tư. Mô hình
này được xây dựng trên các giả định: Nền kinh tế thế giới chỉ có hai nước
(nước đầu tư-I và phần còn lại là nước đầu tư-II), trước khi di chuyển vốn
quốc tế thì năng suất cận biên của vốn đầu tư nước I thấp hơn nước II (nước
I dư thừa và nước II khan hiếm vốn), cạnh tranh hoàn hảo ở hai nước, quy
luật năng suất cận biên của vốn giảm dần và giá cả sử dụng vốn được quyết
định bởi quy luật này.
Từ các giả định trên, các tác giả đã đi đến kết luận về nguyên nhân

hình thành FDI là do có sự chênh lệch năng suất cận biên của vốn đầu tư
giữa các nước và ảnh hưởng của nó làm tăng sản lượng thế giới (nhờ vào
tăng sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sản xuất) và các nước tham gia đầu
tư đều có lợi. Mô hình này cũng phân tích FDI tạo ra ảnh hưởng rất khác
nhau ở nước đầu tư và nước chủ nhà. Đối với nước I, thu nhập từ sử dụng
vốn tăng lên do năng suất cận biên của vốn tăng khi vốn đầu tư chuyển sang
nước II, trong khi đó thu nhập từ lao động lại giảm đi vì mất lượng vốn đầu
tư đã chuyển sang nước II. Đối với nước II, thu nhập từ vốn và lao động diễn
ra theo chiều hướng ngược lại với nước I.
Những kết luận từ phân tích mô hình này đã có ý nghĩa quan trọng
đến sự phát triển của lý thuyết FDI, trong đó đặc biệt là lý thuyết thuế tối ưu
của đầu tư nước ngoài. Lý thuyết này được phát triển bởi nhiều tác giả, trong
đó chủ yếu phân tích ảnh hưởng của mức thuế FDI đến việc phân chia phần
giá trị gia tăng giữa các nước tham gia đầu tư và hiệu quả sử dụng các nguồn
lực sản xuất của hai nước. Khi nước chủ nhà đánh thuế FDI ở tỷ lệ thích hợp
(tối ưu) thì mặc dù tổng sản lượng có giảm, nhưng thu nhập quốc dân thực
tế- thu nhập gia tăng từ thuế- sẽ cao hơn trong trường hợp không đánh thuế
(trong trường hợp tự do di chuuyển vốn, tuy tổng sản lượng lớn, nhưng phần
sản lượng gia tăng lại chuyển về nước đầu tư nhiều hơn, vì thế làm cho thu
nhập quốc dân của nước chủ nhà thấp). Phân tích tình hình tương tự như
vậy, đối với nước đầu tư sẽ đạt được thu nhập tối đa khi có tỉ lệ thuế tối ưu
để giới hạn xuất khẩu vốn đến mức không làm suy giảm lớn thu nhập từ lao
động.

Trang 7


1.3Lý thuyết phân tán rủi ro - Salvatore
Ở các nước, mức độ rủi ro đầu tư khác nhau. Một nước đầu tư ra
nhiều nước khác, mất vốn nước này sẽ còn vốn nước kia.


Trang 8


1.4..Lý thuyết của Krugman
Theo Krugman, có hành động đầu tư ra nước ngoài là do có chính
sách kinh tế vĩ mô khác nhau: chính sách tiền tệ, chính sách tài chính… Đầu
tư ra nước ngoài để tìm môi trường thuận lợi hơn.
1.5. Lý thuyết của Kojima
Theo Kojima, nguyên nhân có đầu tư nước ngoài là do có sự chênh
lệch về tỷ suất lợi nhuận, là do các nước có lợi thế so sánh khác nhau.
2. Các lý thuyết kinh tế vi mô về FDI
Có nhiều quan điểm lý thuyết kinh tế vi mô để giải thích hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2.1. Lý thuyết chiết trung
Lý thuyết này giải thích hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là do:
- Có được lợi thế độc quyền so với các công ty cùng ngành của nước
nhận đầu tư.
- Các công ty độc quyền phải sử dụng được ít nhất một yếu tố sản xuất
tại nước nhận đầu tư.
2.2. Lý thuyết nội vi hoá
Lý thuyết này xây dựng trên 3 giả định: TNCs tối đa hoá lợi nhuận
trong điều kiện cạnh tranh không hoàn hảo, tính không hoàn hảo của thị
trường bán thành phẩm và TNCs tạo ra quốc tế hoá thị trường. Từ những giả
định này, lý thuyết đã chỉ ra nguyên nhân đầu tiên hình thành và phát triển
của các TNCs là do tác động của thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Hơn
nữa, TNCs còn được xem như giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề của
thị trường thông qua việc mở rộng quy mô ra bên ngoài để sản xuất và phân
phối các sản phẩm một cách có hiệu quả.
2.3. Lý thuyết tổ chức công nghiệp

Các nhà kinh tế giải thích có sự đầu tư ra nước ngoài là để khai thác
lợi thế độc quyền, mở rộng quy mô sản xuất từ đó tối đa hoá lợi nhuận.

Trang 9


2.4. Lý thuyết địa điểm công nghiệp
Nguyên nhân có đầu tư nước ngoài là do có địa điểm công nghiệp
thuận lợi nhằm hạ chi phí đầu vào và tiêu thụ sản phẩm. Từ đó giảm chi phí
vận tải và chi phí sản xuất.
2.5. Lý thuyết xuất khẩu tư bản
Theo lý thuyết này, có hoạt động đầu tư ra nước ngoài là do giá trị
thặng dư trong nước mang lại bị hạn chế (lợi nhuận ít). Do đó, tìm cách
chuyển sản xuất ra nước ngoài, đặc biệt từ những nước phát triển sang
những nước đang phát triển vì những nước đang phát triển có thị trường tiêu
thụ bị bỏ ngõ, chi phí lao động còn thấp, nguyên vật liệu đầu vào chưa được
khai thác hết.
2.6. Lý thuyết chênh lệch chi phí sản xuất
Lý thuyết này giải thích có hoạt động đầu tư ra nước ngoài là do:
- Chi phí sản xuất ở trong nước và nước ngoài khác nhau (chi phí sản
xuất ở nước ngoài > chi phí sản xuất ở trong nước)
- Quy mô thị trường đạt ở một mức nào đó.

M

P

M
AC'


AC
C
0
Q1 Q2
Q
Giả sử chi phí sản xuất trực tiếp cho 1 sản phẩm là như nhau ở hai
nước (AC)
C: đường chi phí thêm cho 1 sản phẩm ở nước ngoài
Do đó, tổng chi phí sản xuất 1sản phẩm ở nước ngoài là AC'= AC + C
Với AC': đường chi phí sản xuất ở nước ngoài.
Giá bán sản phẩm trên thị trường khi có thuế nhập khẩu là MM
Trang 10


Lúc này sẽ xảy ra các trường hợp sau:
- Nếu quy mô thị trường trong nước II < OQ1 thì nước I sẽ không đầu tư
sang nước II, mà chỉ sản xuất trong nước và xuất khẩu sang nước II.
- Nếu quy mô thị trường trong nước II nằm trong đoạn Q 1Q2 thì nước I
hoặc sẽ vẫn sản xuất trong nước, hoặc cho nước II thuê lợi thế độc
quyền để sản xuất.
- Chỉ khi nào quy mô thị trường trong nước II > OQ 2 thì mới có hoạt
động FDI.
2.7. Lý thuyết chu kỳ sản phẩm - Vernon
Lý thuyết này giải thích sự phát triển của TNCs theo 3 giai đoạn phát
triển của sản phẩm: đổi mới, tăng trưởng và bão hoà. Vernon đã phân tích
giai đoạn đổi mới sản phẩm chỉ diễn ra ở các nước phát triển (Mỹ), vì thu
nhập cao có ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng tiêu thụ sản phẩm mới.
Cũng chỉ ở các nước phát triển, kỹ thuật sản xuất tiên tiến với đặc trưng sử
dụng nhiều vốn và các điều kiện sản xuất (tương đương với các nước đầu tư)
mới phát huy được hiệu suất cao. Kết quả là sản xuất tăng nhanh theo quy

mô lớn, năng suất lao động cao và các sản phẩm mới đã đạt đến mức bão
hoà.
Để sản xuất tiếp tục được phát triển, công ty phải mở rộng thị trường
tiêu thụ ở nước ngoài, nhưng việc bán sản phẩm ra nước ngoài đã nhanh
chóng bị hạn chế bởi hàng rào thuế quan hoặc hạn ngạch. Thêm vào đó,
cước phí vận tải và chi phí nguyên vật liệu, lao động rẻ ở các nước đang phát
triển là động lực quan trọng thúc đẩy TNCs đầu tư ra nước ngoài.
Theo Vernon, hầu hết các TNCs như là các tổ chức độc quyền bán và
chia làm 3 giai đoạn phát triển: độc quyền trên cơ sở đổi mới, độc quyền bảo
hoà và độc quyền suy yếu. Giai đoạn 1 với đặc trưng là dựa vào ưu thế vê kỹ
thuật tiên tiến để tạo ra các sản phẩm mới và thu được lợi nhuận độc quyền.
Giai đoạn tiếp theo là đạt đến mức độc quyền tối đa so với các đối thủ về
quy mô sản xuất, tiếp thị, nghiên cứu và triển khai (marketing và R&D).
Giai đoạn cuối cùng là các yếu tố đổi mới và quy mô kinh tế đã mất vị trí
độc quyền. Từ đó tác giả đã đi đến kết luận về nguyên nhân hình thành FDI
như là kết quả của quá trình bảo vệ thị trường độc quyền của TNCs.

Trang 11


2.8. Lý thuyết chu kỳ sản phẩm bắt kịp - Akamatsu
Theo Akamatsu, sản phẩm mới được phát minh và ra đời ở nước đầu
tư, sau đó được xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Tại nước nhập khẩu, do ưu
điểm của sản phẩm mới và nhu cầu thị trường nội địa tăng lên, chính phủ
nước nhập khẩu đã tăng cường sản xuất thay thế sản phẩm nhập khẩu này
bằng cách dựa vào vốn, kỹ thuật… của nước ngoài. Đến khi nhu cầu thị
trường nội địa về sản phẩm mới được sản xuất trong nước đạt đến sự bão
hoà, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện và cứ theo chu kỳ như vậy mà dẫn đến
việc hình thành FDI.
Lý thuyết kinh tế FDI là sự phát triển liên tục của các quan điểm khác

nhau trong quá trình phân tích và giải thích sự tăng trưởng của đầu tư nước
ngoài. Việc kết hợp hài hoà giữa các mô hình lý thuyết và các quan điểm vi
mô là phương pháp tốt nhất để hiểu biết về cơ sở lý thuyết của FDI.
III. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

FDI có tác động tích cực đến cả nước nhận đầu tư cũng như như nước
đi đầu tư. Tuy nhiên, trong bài viết này tôi chỉ đề cập tới vai trò của FDI tới
nước nhận đầu tư.
Đối với nước nhận đầu tư, FDI có vai trò quan trọng
1. FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước chủ nhà để phát
triển kinh tế.
Vốn cho đầu tư phát triển kinh tế gồm nguồn vốn trong nước và vốn
từ nước ngoài. Đối với các nước lạc hậu, nguồn vốn tích luỹ từ trong nước
còn hạn hẹp thì vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với quá trình phát triển nền kinh tế. Trong điều kiện hiện nay, khi mà trên
thế giới có nhiều nước đang nắm trong tay một khối lượng vốn khổng lồ và
có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài thì đó là cơ hội để các nước đang phát triển
có thể tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào việc phát triển kinh tế.
Ở nhiều nước đang phát triển, vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỉ lệ đáng
kể trong tổng vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế. Nó có vai trò to lớn đối với
sự phát triển kinh tế. Các nhà nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng vốn FDI
chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong GDP thì tốc độ tăng trưởng GDP thực tế
càng cao. Điều này cho thấy FDI có ý nghĩa quyết định đến tăng trưởng kinh
Trang 12


tế của các nước này. Bên cạnh đó, nguồn thu FDI còn là nguồn bổ sung quan
trọng để các nước này thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đối với các nước công nghiệp phát triển, đây là những nước xuất khẩu
vốn FDI nhiều nhất, nhưng cũng là nước tiếp nhận vốn FDI nhiều nhất hiện

nay. FDI vẫn là nguồn bổ sung vốn quan trọng và có ý nghĩa to lớn cho quá
trình phát triển nền kinh tế của những quốc gia này
2. FDI với việc chuyển giao công nghệ và tăng cường năng lực công
nghệ
Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào
nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết
bị, nguyên vật liệu, nhà xưởng… (hay còn gọi là phần cứng) và vốn vô hình
như chuyên gia kỹ thuật công nghệ, tri thức khoa học, tổ chức, bí quyết,
quản lý, năng lực tiếp cận thị trường… (hay còn gọi là phần mềm).Thông
qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình chuyển giao công nghệ
được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên đầu tư cũng
như bên nhận đầu tư.
Một trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển kinh tế của hầu hết
các nước đang phát triển là trình độ kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu. Con
đường nhanh nhất để phát triển khoa học kỹ thuật và trình độ sản xuất của
các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay là: phải biết tận dụng được
những thành tựu kỹ thuật công nghệ tiên tiến của nước ngoài thông qua
chuyển giao công nghệ. Tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài là một
phương thức cho phép các nước đang phát triển tiếp thu được trình độ kỹ
thuật công nghệ hiện đại trên thế giới. Trong điều kiện hiện nay, trên thế
giới có nhiều công ty của nhiều quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra
nước ngoài và thực hiện chuyển giao công nghệ cho nước nào tiếp nhận đầu
tư. Thì đây là cơ hội cho các nước đang phát triển có thể tiếp thu được kỹ
thuật công nghệ thuận lợi nhất. Nhưng không phải các nước đang phát triển
được "đi xe miễn phí", mà họ cũng phải trả một khoản "học phí' không nhỏ
cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này.
Các nước phát triển, mặc dù đã có trình độ sản xuất hiện đại, khoa học
kỹ thuật tiên tiến nhưng không thể nào toàn diện được. Để đạt hiệu quả kinh
Trang 13



tế cao, mỗi nước chỉ tập trung vào một số lĩnh vực nào mà họ có ưu thế hơn
và ngược lại chính sự tập trung đó cho phép họ có khả năng phát triển vượt
trội lên ở một hay một số lĩnh vực nào đó, điều đó càng củng cố thêm địa vị
và quyền lợi kinh tế của họ trên thế giới.
Mặc dù sự chuyển giao này còn nhiều hạn chế do những yếu tố chủ
quan và khách quan chi phối, song điều không thể phủ nhận là chính nhờ có
sự chuyển giao đó mà các nước chủ nhà có được kỹ thuật tiên tiến (trong đó
có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn
thuần), kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing, đội ngũ lao động được đào
tạo, bồi dưỡng, rèn luyện về nhiều mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp làm
việc, kỷ luật lao động,…).
Trong quá trình tiếp thu công nghệ, các nhà khoa học trong nước cải
biến công nghệ cho phù hợp với tình hình thực tế. Việc luôn cọ sát với công
nghệ tiên tiến hơn trên thế giới khiến năng lực công nghệ của các cơ sở
trong nước phát triển hơn.
3. FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản
thân sự phát triển nội tại nền kinh tế, mà nó còn là đòi hỏi của xu hướng
quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Để hội nhập
vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế
giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi từng quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh
tế trong nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung
trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Ngược lại thì chính đầu tư trực tiếp nước ngoài lại góp phần thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
4. FDI góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm nhiều việc làm
mới
Các dự án FDI có yêu cầu cao về chất lượng nguồn lao động, do đó sự

phát triển của FDI ở các nước sở tại đã đặt ra yêu cầu khách quan phải nâng
cao chất lượng về ngoại ngữ,trình độ chuyên môn của người lao động. Mặt

Trang 14


khác, chính các chủ đầu tư nước ngoài cũng đã góp phần tích cực bồi dưỡng,
đào tạo đội ngũ lao động ở nước sở tại. Đó chính là đội ngũ nòng cốt trong
việc học tập, tiếp thu kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, năng lực quản lý điều
hành tiên tiến của nước ngoài. Các dự án FDI cũng góp phần thu hút một
lượng lớn lao động, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp.

Trang 15


5. Những tác động khác
Ngoài những tác động trên đây, FDI còn có một số tác động khác như
mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, thúc đẩy quá trình xuất nhập khẩu, nâng
cao tính cạnh, đóng góp đáng kể vào nguồn thu của ngân sách nhà nước
thông qua việc nộp thuế của các đơn vị đầu tư nước ngoài và tiền thu từ việc
cho thuê đất,…; góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế…
IV. MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA FDI

FDI không phải khi nào và bất cứ ở đâu cũng phát huy tác động tích
cực đối với đời sống kinh tế xã hội của nước chủ nhà. Nó chỉ có thể phát huy
tác dụng tốt trong môi trường kinh tế, chính trị xã hội ổn định và đặc biệt là
nước nhận đầu tư biết sử dụng và phát huy vai trò quản lý của mình. Tuy
nhiên, qua nhiều công trình nghiên cứu và thực tế quá trình thu hút FDI của
nhiều nước đã chỉ ra rằng FDI có không ít những mặt hạn chế. Cụ thể:
- Nguồn vốn FDI mang lại cho nước chủ nhà song trên thực tế do chủ

đầu tư quản lý trực tiếp và sử dụng theo những mục tiêu cụ thể của mình.
- Nhiều nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài đã lợi dụng chỗ sơ hở trong
luật pháp và trong công tác quản lý của nước chủ nhà để trốn thuế, gây tác
hại đến môi trường sinh thái và lợi ích của nước chủ nhà.
- Chuyển giao công nghệ là mặt tác động lớn của FDI, song còn tồn
tại nhiều hạn chế và nhiều tiêu cực, trong đó có việc chuyển giao nhỏ giọt,
từng phần và thông thường là công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm… với giá
cao hơn mặt bằng quốc tế.
- Trong số các nhà đầu tư nước ngoài không phải không có trường
hợp hoạt động tình báo, gây rối an ninh, chính trị,…
Nêu lên những hạn chế của FDI không có nghĩa là phủ nhận tác dụng
của nó mà chỉ muốn lưu ý rằng không nên quá ảo tưởng về nó và cần có
những biện pháp kiểm tra, kiểm soát và đối sách hữu hiệu để phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của FDI.

Trang 16


V. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI

Hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư phát triển của các quốc gia rất lớn và
ngày một tăng, nhưng khả năng cung cấp vốn đầu tư rất hạn chế, do đó quan
hệ cung cầu về vốn trên thế giới rất căng thẳng. Khả năng thu hút vốn đầu tư
của các quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó, các nhân tố cơ bản
là xu hướng vận động có tính quy luật của các dòng vốn FDI trên thế giới,
chiến lược đầu tư và phát triển của các tập đoàn đa quốc gia, môi trường đầu
tư và khả năng cạnh tranh thu hút vốn FDI của các nước tiếp nhận đầu tư.
1. Xu hướng vận động của vốn FDI trên thế giới hiện nay
- Dòng vốn FDI trên thế giới ngày một gia tăng và chịu sự chi phối chủ

yếu của các nước công nghiệp phát triển.
- Đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh
công ty ở nước ngoài (M&A) đã bùng nổ trong những năm gần đây, trở
thành chiến lược hợp tác phát triển chính của các công ty xuyên quốc gia
(TNCs).
- Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới
- Các nước Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật chi phối dòng vận động chính của
vốn FDI (vào, ra) trên thế giới.
- Các tập đoàn xuyên quốc gia đóng vai trò rất quan trọng trong đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài và đang đẩy mạnh quá trình đầu tư ra nước ngoài.
- Dòng vốn FDI đổ vào các nước đang phát triển đang gia tăng mạnh mẽ,
đặc biệt là các nước đang phát triển ở Châu Á
Các xu hướng trên có ảnh hưởng to lớn tới việc thu hút FDI của tất cả
các quốc gia trên thế giới.
2. Chiến lược đầu tư phát triển của các TNCs
Từ đầu thập kỷ 80 đến nay các TNCs đã dần trở thành lực lượng chủ yếu,
nòng cốt thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới
thông qua tác động to lớn của các TNCs trong việc phân bố nguồn lực của
nền kinh tế thế giới, thúc đẩy quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế ở các
Trang 17


quốc gia, chi phối lưu chuyển hàng hoá của thương mại quốc tế. Các TNCs
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển tải kỹ thuật, công nghệ thúc
đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở những nước đang phát triển.
Do đó, chiến lược đầu tư phát triển của các TNCs có tác động rất lớn đến
dòng và xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3. Môi trường đầu tư và khả năng cạnh tranh thu hút vốn FDI của các
nước tiếp nhận đầu tư.
Dòng FDI chỉ thực sự mở rộng và ưa tìm đến những nơi có môi trường đầu

tư đảm bảo cho dòng vốn sinh sôi nảy nở. Môi trường đầu tư hấp dẫn, có sức
cạnh tranh để thu hút FDI trước hết bao gồm các nhân tố:
- Sự ổn định về kinh tế và chính trị - xã hội và luật pháp đầu tư
- Sự mềm dẻo và hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư
nước ngoài.
- Sự phát triển của cơ sở hạ tầng
- Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa học - công nghệ và
hệ thống doanh nghiệp trong nước và trên địa bàn.
- Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự án FDI
đã triển khai
Tóm lại, FDI đã, đang và sẽ tìm đến quốc gia và địa phương nào có
nền kinh tế - chính trị - xã hội ổn định, hệ thống pháp luật đầu tư đầy đủ, cởi
mở, tin cậy và mang tính chuẩn mực quốc tế cao; chính sách ưu đãi đầu tư
linh hoạt và hấp dẫn,…. Đặc biệt việc các quốc gia đó tham gia vào các tổ
chức kinh tế khu vực và quốc tế, cũng như tuân thủ nghiêm túc các công
ước, quy định về luật pháp đầu tư và thông lệ đối xử quốc tế… sẽ là những
yếu tố đảm bảo lòng tin và hấp dẫn các dòng FDI thậm chí còn mạnh hơn
việc đưa ra các ưu đãi tài chính cao… nghĩa là dòng FDI chỉ ưa tìm đến
những nơi đầu tư an toàn, đồng vốn được sử dụng có hiệu quả, quay vòng
nhanh và ít rủi ro.

Trang 18


PHẦN II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA MỸ Ở VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN TỪ 1994 ĐẾN NAY
Mỹ là nước có tiềm lực kinh tế mạnh, với hàng trăm công ty đa quốc
gia quy mô lớn, hoạt động trên nhiều lĩnh vực, Mỹ là chủ đầu tư của nhiều
nước. Mỹ đầu tư nhiều nhất vào những nơi có cơ sở hạ tầng phát triển, trình

độ lao động có chuyên môn cao, luật pháp ổn định rõ ràng, mức độ rủi ro
thấp. Như vậy, những nước có nền kinh tế càng phát triển càng thu nhận
nhiều FDI. Và các nước ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (bao gồm cả
ASEAN) là địa chỉ hấp dẫn để thu hút FDI.
Năm 1998, dòng FDI của thế giới là 643.879 triệu USD. Trong đó,
riêng FDI ra nước ngoài của Mỹ là 121.644 triệu USD, chiếm 19% dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài của toàn thế giới.
Trong bối cảnh chung đó, để biết được Mỹ đầu tư vào Việt nam như
thế nào, ta đi vào xem xét thực trạng đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam.
I. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA MỸ VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
TỪ 1994 ĐẾN NAY

1. Đánh giá chung
Từ sau khi Mỹ chính thức xóa bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam vào
ngày 3/2/1994, hoạt động đầu tư trực tiếp của các công ty Mỹ vào Việt nam
đã có bước nhảy vọt. Nhiều công ty và tập đoàn kinh tế Mỹ vào Việt nam
với mục đích là thăm dò hoạt động đầu tư của thị trường này. Chỉ riêng năm
1994 - năm đầu tiên khi lệnh cấm vận được bải bỏ - số vốn đầu tư của Mỹ
vào Việt nam đã tăng vọt lên 120,310 triệu USD với 12 dự án, đưa nước này
lên vị trí thứ 14 trong danh sách các nhà đầu tư lớn nhất vào Việt nam. So
với cả giai đoạn 1988-1993, khi lệnh cấm vận còn hiệu lực, đầu tư trực tiếp
của Mỹ vào Việt nam với tổng số vốn đăng ký là 3,34 triệu USD. Điều này
cho thấy: trước khi Mỹ xoá bỏ cấm vận, các công ty của Mỹ đã rất sốt ruột
muốn được vào đầu tư kinh doanh tại Việt nam, để có cơ hội cạnh tranh với
các công ty của Nhật Bản, Châu Âu và các nước khác. Do đó khi huỷ bỏ
Trang 19


lệnh cấm vận, các công ty Mỹ đã "nhảy" vào đầu tư ở Việt nam. Cụ thể, sau
khi huỷ bỏ lệnh cấm vận 1 ngày, đã có 30 công ty mở văn phòng đại diện tại

Việt nam, "mở đầu cuộc đấu tranh để giành trái tim và ví tiền của người Việt
nam". Chỉ vài năm sau đó, nhất là khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao,
đầu tư của Mỹ tại Việt nam đã tăng lên nhanh chóng. Cụ thể:

Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
10/2002
Tổng cộng

Bảng 1: Đầu tư của Mỹ tại Việt nam
(Tính đến tháng 10/2002 - các dự án còn hiệu lực)
Số dự
Tổng số vốn đầu tư
Tỷ trọng
Quy mô dự án
án
(triệu USD)
(%)
(triệu USD)
12
120,310
8,57
10,03

19
397,871
28,34
20,94
16
159,722
11,38
9,98
12
98,544
7,02
8,21
15
306,955
21,87
20,46
14
66,352
4,73
4,74
12
95,275
6,79
7,94
23
110,8
7,89
4,82
19
144

1.403,680
100,00
9,75
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư

Với quy mô và tốc độ đầu tư tăng khá lớn vào Việt nam, chỉ 2 năm
sau khi lệnh cấm vận được dỡ bỏ, Mỹ đã vượt lên thứ 6 trong danh sách 10
nhà đầu tư lớn nhất vào Việt nam và chỉ sau Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc,
Xingapo và Thuỵ Điển. Năm 1995, đã tạo ra một bước đột biến mới với 19
dự án đầu tư của Mỹ với tổng số vốn đầu tư là 397,871 triệu USD. Đây là
năm đạt mức đầu tư cao kỷ lục cả về số lượng dự án lẫn số vốn đầu tư và
quy mô dự án, chiếm tới 28,34% tổng vốn đầu tư; 13,19% số dự án đầu tư,
với quy mô dự án bình quân đạt 20,94 triệu USD - mức cao nhất từ trước
đến giờ của đầu tư Mỹ vào Việt nam và cao hơn nhiều so với quy mô dự án
của cả giai đoạn (9,75 triệu USD). Điều đáng quan tâm là các công ty tầm cỡ
thế giới của Mỹ đã tham gia chính với những dự án quy mô lớn và có tầm
quan trọng đối với tương lai phát triển của nền kinh tế Việt nam. Chẳng hạn
như Mobil Oil với dự án dầu khí (Mỏ Thanh Long) 55 triệu USD, dự án khu
du lịch Non Nước của tập đoàn BBI China Beach Ltd 243 triệu USD…. Vị
trí này Mỹ tiếp tục giữ trong năm 1997, mặc dù cả số dự án lẫn tổng vốn đầu
tư của Mỹ vào Việt nam giảm mạnh (trong năm chỉ có thêm 12 dự án với
Trang 20


tổng số vốn 98,544 triệu USD). Tuy tốc độ đầu tư của Mỹ vào Việt nam hai
năm 1996-1997 có dấu hiệu chựng lại do tác động của nhiều nhân tố khách
quan như khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, môi trường, chính
sách đầu tư của Việt nam chưa ổn định, phức tạp, nhiều rủi ro, chậm thu lợi
nhuận, chính sách đối xử của Việt nam đối với các công ty nước ngoài nói
chung, công ty Mỹ nói riêng, còn nhiều phân biệt, chưa thuận cho cách làm

ăn kinh doanh của họ,… Nhưng tác động tích cực của các nhân tố khác như
việc chính phủ Mỹ cho phép Cơ quan phát triển thương mại Mỹ (TDA)
chính thức mở các chương trình hỗ trợ đầu tư tại Việt nam, sự cấp phép hoạt
động tại Việt nam của ngân hàng xuất nhập khẩu và Tổ chức đầu tư tư nhân
hải ngoại (OPIC), cũng như hiệp định về bản quyền giữa chính phủ hai nước
được ngoại trưởng hai nước ký vào ngày 27/6/1997, đã tạo cơ sở pháp lý và
những tiền đề quan trọng trong việc phát triển quan hệ kinh tế hai nước nhất
là lĩnh vực đầu tư.
Sau hai năm theo xu hướng giảm sút, đầu tư của Mỹ vào Việt nam
năm 1998 lại tạo được bước tăng đột biến với số vốn đầu tư tăng hơn 3 lần
so với năm trước, đạt 306,955 triệu USD với 15 dự án. Điều này một phần là
do ngày 10/3/1998, tổng thống Mỹ B.Clinton đã tuyên bố bãi bỏ tù chính án
Jackson-Vanik đối với Việt nam, nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế với Việt
nam lên một bước mới. Phía Mỹ cho rằng, bỏ tù chính án Jackson-Vanik đối
với Việt nam là bước đầu cho việc thực hiện các chương trình bảo hiểm đầu
tư, tạo thế thuận lợi cho cả hai bên Việt-Mỹ, đồng thời tăng thêm niềm tin
đối với các công ty Mỹ vốn quan tâm tới việc hợp tác đầu tư vào Việt nam.
Mặc dù vốn đầu tư tăng song thứ hạng của Mỹ đã tụt xuống vị trí thứ 8 trong
danh sách 10 nhà đầu tư lớn nhất vào Việt nam.
Sang năm 1999 - năm ảm đạm nhất trong lĩnh vực thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt nam - đầu tư của Mỹ vào Việt nam cũng trong tình
trạng chung. Mặc dù số dự án đầu tư của Mỹ vào Việt nam giảm không đáng
kể so với năm trước, đạt 66,352 triệu USD. Nếu như năm 1995 được ghi
nhận là năm đạt mức cao kỷ lục về tổng vốn đầu tư, số dự án và quy mô dự
án thì năm 1999 đánh dấu mức thấp nhất về tổng vốn đầu tư và quy mô dự
án của vốn đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam. Quy mô trung bình một dự
án chỉ bằng 48,62% mức trung bình của cả giai đoạn và chỉ gần bằng 1/4 so
Trang 21



với mức tương ứng năm 1995. Sự giảm sút này đã đẩy Mỹ xuống vị trí cuối
cùng trong danh sách 10 nhà đầu tư lớn nhất vào Việt nam trong năm 1999.
Tính đến hết năm 2000, Mỹ chỉ chiếm 3,5% tổng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt nam, xếp thứ 9 trong tổng số 13 nước này.
Năm 1999-2000 đầu tư của Mỹ vào Việt nam đã giảm hẳn. Tìm hiểu
nguyên nhân suy giảm đầu tư của Mỹ vào Việt nam có thể đưa ra vài nhận
xét: Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nhiều nước đã lấy lại được
phong độ phát triển tốt, thay đổi chính sách đầu tư như Thái Lan, Hàn
Quốc… nên đã hút vốn nước ngoài nhiều hơn, trong đó có Mỹ, thay vì Mỹ
đầu tư vào Việt nam thì đầu tư vào các nước đó. Mặt khác, Trung Quốc là
nước láng giềng của Việt nam cũng có nhiều lợi thế hơn trong việc thu hút
các nhà đầu tư Mỹ vào Trung Quốc. Ngoài ra, phải kể đến, nền kinh tế Mỹ
bắt đầu suy thoái, các công ty Mỹ cần cơ cấu lại và họ sẵn sàng rút các dự án
đầu tư ở nước ngoài nếu nhắm thấy không có hiệu quả.
Tuy nhiên, số dự án đầu tư của Mỹ đang có chiều hướng tăng lên.
Năm 2000, luật đầu tư nước ngoài được sửa đổi đã chỉ rõ những ngành nghề
được nhà nước khuyến khích đầu tư: sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng kỹ
thuật cao, sử dụng nhiều lao động, tài nguyên sẵn có tại Việt nam, xây dựng
cơ sở hạ tầng,… Bên cạnh đó, Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được kí kết
vào ngày 13/7/2000 (giờ Hoa Kỳ) đánh dấu việc hoàn tất quá trình bình
thường hoá hoàn toàn quan hệ Việt-Mỹ. Theo các chuyên gia kinh tế đánh
giá thì hiệp định thương mại Việt-Mỹ được kí kết sẽ tạo môi trường thuận
lợi hơn để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt nam, đặc biệt là các
nhà đầu tư Mỹ. Do đó, năm 2001, đầu tư của Mỹ vào Việt nam được cải
thiện hơn với 23 dự án và tổng só vốn đầu tư là 110,8 triệu. Điều này đã đưa
Mỹ lên vị trí thứ 6 trong tổng số 10 nhà đầu tư lớn vào Việt nam năm 2001.
Mặc dù vậy, nếu so với các quốc gia khác như Hà Lan - nước dẫn đầu đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt nam năm 2001- thì tổng vốn đầu tư của Mỹ
chưa bằng 1/5 của Hà Lan.
Từ đầu năm 2002 đến nay, các doanh nghiệp Mỹ đã đầu tư vào Việt

nam khoảng 20 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 50 triệu USD, trở

Trang 22


thành 1 trong 6 nước và vùng lãnh thổ đầu tư nhiều nhất vào Việt nam trong
năm nay.
Hiện nay, Mỹ có khoảng 144 dự án còn hiệu lực tại Việt nam với tổng
vốn đăng ký trên 1 tỉ USD, đứng vị trí thứ 13 trong số các nước và vùng lãnh
thổ về FDI vào Việt nam. Trong đó, có 62 dự án với tổng vốn đầu tư 582
triệu USD đã đi vào sản xuất kinh doanh và 25 dự án với tổng vốn đăng ký
151 triệu USD đang xây dựng dự án.
Nếu so với nhiều đối tác đầu tư khác thì tình hình góp vốn của Mỹ,
tình hình thực hiện vốn đã đăng ký và tình hình thực hiện vốn pháp định đã
đăng ký của Mỹ là tương đối thấp. Và mặc dù là một nước lớn với nguồn
vốn dồi dào, nhưng các dự án của Mỹ đầu tư vào Việt nam đa số chỉ là
những dự án nhỏ, quy mô một dự án thấp hơn cả mức bình quân chung của
tất cả các đối tác đầu tư (Bảng 2)
Bảng 2: Tình hình thực hiện vốn và quy mô dự án
Các chỉ tiêu
Tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định đăng ký(%)
Tỷ lệ thực hiện vốn đầu tư đã đăng ký (%)
Tỷ lệ thực hiện vốn pháp định đã đăng ký (%)
Quy mô bình quân 1 dự án (triệu USD)

Mỹ
Bình quân chung
71
77
37

42
49
48
9,75
16,23
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư.

Tuy có những bước phát triển nhảy vọt, song hoạt động đầu tư trực
tiếp của Mỹ vào Việt nam còn dừng lại ở những kết quả khiêm tốn so với
tiềm năng của cả hai phía. Đến nay, Mỹ mới chiếm 3,2% tổng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt nam. Nếu so sánh vốn đầu tư của Mỹ vào Việt
nam với tổng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ thì con số này hết
sức nhỏ nhoi: trong suốt những năm qua tỷ lệ này chưa năm nào đạt nổi
0,5% (dao động trong khoảng từ 0,227% đến 0,456%).
Như vậy, qua nghiên cứu quá trình đầu tư của Mỹ vào Việt nam, ta
thấy đầu tư của Mỹ vào Việt nam lúc lên, lúc xuống không đều. Mỹ là quốc
gia có tiềm lực kinh tế mạnh, lượng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
Mỹ lớn, nhưng so với các quốc gia khác đầu tư vào Việt nam thì lượng vốn
FDI của Mỹ thu hút vào Việt nam là quá bé, chưa tương xứng với tiềm năng

Trang 23


là một cường quốc số một về kinh tế, chưa khai thác hết lợi thế của một
vùng đất mà Mỹ đã và đang có mặt.
2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam phân theo ngành kinh
tế
Cơ cấu FDI theo ngành phản ánh chiến lược phát triển kinh tế của đất
nước, phản ánh mức độ phù hợp giữa đầu tư và yêu cầu cân đối các ngành
trong nền kinh tế. Thời gian qua, các dự án đầu tư của Mỹ vào Việt nam

được thực hiện trên nhiều lĩnh vực nhưng mức độ khác nhau ở mỗi ngành.
Vốn đầu tư của Mỹ tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp. Đầu
tư vào các ngành này chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số lượng dự án lẫn tổng
vốn đầu tư. Với 85 dự án và tổng vốn đăng ký hoạt động trên 760 triệu USD.
Nếu so với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam, tỷ trọng vốn đầu tư
của Mỹ vào ngành công nghiệp cao hơn nhiều so với chỉ số tương ứng của
tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam: 54,17% so với 37,78%.
Điển hình Mỹ đầu tư vào ngành này là dự án sản xuất lắp ráp ôtô Ford với số
vốn đăng ký là102,6 triệu USD, dự án công ty sản xuất xà phòng, kem đánh
răng colgate Palmolive (40 triệu USD),… Tiếp đến là các dự án đầu tư vào
lĩnh vực dịch vụ (tài chính, ngân hàng, văn phòng cho thuê, dịch vụ phần
mềm, y tế, giáo dục,…) với 39 dự án và tổng vốn đầu tư đạt trên 400 triệu
USD chiếm 28,53% tổng vốn đầu tư của Mỹ vào Việt nam. Tuy tỷ trọng nhỏ
nhưng nông, lâm nghiệp cũng là lĩnh vực được các nhà đầu tư Mỹ chú ý hơn
các nhà đầu tư khác với 20 dự án, tổng vốn đầu tư đạt 242,811 triệu USD
(chiếm 17,3% vốn và 13,89% số dự án). Cụ thể:
STT
I

II

Bảng 3: Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam phân theo ngành kinh tế
(tính đến tháng 10/2002- các dự án còn hiệu lực)
Chuyên ngành
Số dự án
Tổng vốn đầu
Tỷ trọng

(%)
Công nghiệp

85
760.347.606
54,17
Công nghiệp dầu khí
6
153.800.000
10,96
Công nghiệp nhẹ
13
107.002.000
7,62
Công nghiệp nặng
47
346.213.606
24,66
Công nghiệp thực phẩm
11
63.120.000
4,50
Xây dựng
8
90.212.000
6,43
Nông, lâm nghiệp
20
242.811.798
17,30
Nông-Lâm nghiệp
14
178.838.686

12,74
Thuỷ sản
6
63.973.112
4,56

Trang 24


III

Dịch vụ
GTVT- Bưu điện
Tài chính - Ngân hàng
Văn hoá- Y tế- Giáo dục
XD văn phòng- Căn hộ
Dịch vụ
Tổng số

39
8
7
11
5
8
144

400.520.596
55.930.540
82.150.000

124.330.000
76.833.215
61.276.841
1.403.680.000

28,53
3,98
5,85
8,86
5,47
4,37
100,0

Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư.

Qua bảng trên cho thấy, đầu tư của Mỹ nhiều nhất là vào ngành công
nghiệp nặng với 47 dự án chiếm khoảng 1/3 số dự án đầu tư của Mỹ vào
Việt nam, với tổng số vốn đầu tư lên tới 346,213 triệu USD, chiếm 24,66%
tổng vốn đầu tư của Mỹ vào Việt nam. Các công ty Mỹ đầu tư vào Việt nam
như Microsoft, IBM, Hewlett-Parckard, APC, Oracle,… trong lĩnh vực tin
học; hãng hàng không Boeing và Airburs trong công nghiệp hàng không;
Chrysler, Ford trong công nghiệp chế tạo ôtô, P&G trong công nghiệp hoá
chất, Pepsi và Cola trong lĩnh vực nước giải khát… đã trở thành khá quen
thuộc đối với những đối tác đầu tư ở Việt nam. Ngành nông- lâm nghiệp
chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng vốn đầu tư. Tuy nhiên, tổng số vốn đầu
tư vào ngành này chiếm 12,74% trong tổng số vốn đầu tư của Mỹ vào Việt
nam với 178,838 triệu USD.
Các nhà đầu tư Mỹ cũng khá quan tâm tới ngành công nghiệp dầu
khí. Tuy chỉ có 8 dự án nhưng số vốn đầu tư lên tới 143,8 triệu USD chiếm
10,96%. Lí giải cho điều này, có thể nói Mỹ là một nước có nhu cầu khá lớn

về dầu khí, khoảng 50% dầu tiêu thụ Mỹ phải nhập khẩu từ bên ngoài. Mặt
khác, dầu khí vốn là thế mạnh xuất khẩu của Việt nam trong mấy năm qua,
mà Mỹ đã không mua được của Việt nam bao nhiêu. Do đó, các nhà đầu tư
Mỹ đã quan tâm đầu tư lĩnh vực này.
Văn hoá - Y tế - Giáo dục cũng là một lĩnh vực được các nhà đầu tư
Mỹ quan tâm với 124,33 triệu USD chiếm 8,86% tổng vốn đầu tư. Tiếp đến
là các ngành công nghiệp nhẹ với tổng vốn đầu tư 107,002 triệu USD chiếm
7,62%; tài chính, ngân hàng với 7 dự án, tổng vốn đầu tư 82,150 triệu USD
chiếm 5,8%; xây dựng có 8 dự án với tổng vốn đầu tư 90,212 triệu USD
chiếm 6,43%. Ngành giao thông vận tải - Bưu điện có tổng vốn đầu tư nhỏ
nhất với 55,93 triệu USD.
Trang 25


×