Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Sinh thái môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 28 trang )

Dù ở bất kì thời đại nào môi trường đều rất quan trọng đối với đời sống con người và
các loài sinh vật. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: môi
trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các
biến đổi môi trường. Thế nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh tế, môi trường đang bị
ô nhiễm và suy thoái dần bởi bàn tay của chính con người. Đối với Việt Nam – một đất
nước mà ngành kinh tế nông nghiệp đang chiếm giữ vai trò chủ đạo thì vấn đề môi trường
nông nghiệp càng trở nên bức thiết hơn hết. Chính vì vậy, có những hiểu biết cơ bản về môi
trường và chung tay bảo vệ môi trường sống nói chung và môi trường nông nghiệp nói riêng
là trách nhiệm của toàn thể cộng đồng.
I. MÔI TRƯỜNG LÀ GÌ?
1.1. Định nghĩa
Môi trường là một khái niệm rất rộng và được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Tuỳ thuộc vào từng đối tượng và mục đích nghiên cứu mà người ta đưa ra các khái niệm cụ
thể về môi trường.
Theo Điều 1, chương I, Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam (2014) thì “Môi trường
bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao
quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người
và thiên nhiên.”.
Theo định nghĩa của UNESCO “Môi trường của con người bao gồm toàn bộ các hệ
thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (tập quán, niềm
tin…), trong đó con người sống và lao động, họ khai thác các tài nguyên thiên nhiên và
nhân tạo nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.”.

1


Hình 1.1. Môi trường sống
Như vậy, hiểu một cách chung nhất, môi trường là tất cả những gì có xung quanh
chúng ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển như ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không
khí, động, thực vật, đất, nước...
1.2. Phân loại môi trường


Tuỳ theo đối tượng và mục đích nghiên cứu cụ thể có thể nêu ra một số cách phân môi
trường theo các dấu hiệu đặc trưng như sau:

Dựa trên các cách phân loại trên, có thể phân chia môi trường thành 3 loại dựa theo
chức năng hoạt động của nó, bao gồm:
- Môi trường tự nhiên: Bao gồm các yếu tố tự nhiên tồn tại khách quan bao quanh
con người như: đất đai, không khí, nước, động thực vật... Môi trường tự nhiên cung cấp các
nguồn tài nguyên thiên nhiên cho quá trình sản xuất nhằm tạo ra của cải, vật chất cho xã hội
và tiếp nhận, đồng hoá các loại phế thải phát sinh trong quá trình sản xuất và tiêu thụ.
- Môi trường xã hội: Là tổng thể các quan hệ giữa con người với con người, tạo nên
sự thuận lợi hoặc trở ngại cho sự phát triển của các cá nhân hoặc từng cộng đồng dân cư. Đó
là các luật lệ, thể chế, cam kết, qui định... nhằm hướng con người tuân theo một khuôn khổ
2


nhất định tạo ra sự phát triển của xã hội và làm cho cuộc sống của con người khác với các
sinh vật khác.
- Môi trường nhân tạo: Là tập hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội do con người tạo
nên và chịu sự chi phối của con người như nhà ở, môi trường đô thị, môi trường, môi trường
nông thôn, công viên, trường học, khu giải trí...
***
II. CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA MÔI TRƯỜNG
Đối với sinh vật nói chung và con người nói riêng, môi trường có các chức năng cơ
bản sau:
2.1. Môi trường là không gian sống của con người và các loài sinh vật
Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn cần một khoảng không gian nhất định để
phục vụ cho các hoạt động sống như: nhà ở, nơi để sản xuất lương thực… Càng phát triển,
con người càng đòi hỏi không gian sống có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu về tiện nghi
sinh hoạt, sức khoẻ, thẩm mỹ và trạng thái tâm sinh lý của con người. Mỗi ngày, con người
cần tối thiểu 4m3 không khí sạch để thở, 2,5 lít nước để uống và một lượng lương thực

tương ứng với 2000 - 2500 calo. Như vậy, chức năng này đòi hỏi môi trường phải có một
phạm vi không gian thích hợp cho mỗi con người, không gian này phải đạt đủ những tiêu
chuẩn nhất định về các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học, cảnh quan và xã hội. Yêu cầu về
không gian sống của con người thay đổi tùy theo trình độ khoa học, công nghệ. Con người
có thể gia tăng không gian sống cần thiết cho mình bằng việc khai phá và chuyển đổi các
chức năng sử dụng của các loại không gian khác như khai hoang, phá rừng, cải tạo đất và
vùng nước mới… Tuy nhiên trong việc sử dụng không gian sống và quan hệ với thế giới tự
nhiên có 2 tính chất mà con người cần chú ý là tính tự cân bằng nghĩa là khả năng của các
hệ sinh thái có thể gánh chịu trong điều kiện khó khăn nhất và tính bền vững của hệ sinh
thái. Việc khai thác quá mức không gian và các dạng tài nguyên thiên nhiên có thể làm chất
lượng không gian sống mất đi khả năng tự phục hồi.
Cũng như con người, các loài động thực vật trên Trái đất cũng cần những không gian
để tồn tại và phát triển. Tuỳ thuộc vào đặc điểm, tính chất và điều kiện sinh lý của các loài
mà cần những môi trường và không gian sống cụ thể.
Ví dụ: Cá chỉ sống ở trong môi trường nước, tuy nhiên cá nước ngọt chỉ sống trong
môi trường nước ngọt mà không thể sống trong biển, đại dương và ngược lại; các loại cây lá
3


kim chỉ sống trong khu vực có điều kiện khí hậu lạnh giá; sự di cư của các loài chim để tìm
điều kiện khí hậu sống phù hợp; sự khác biệt giữa những khu vực khí hậu dẫn đến các điều
kiện sống cũng thay đổi như cùng một loài gấu mà sống ở những điều kiện khác nhau từ
nhiệt đới nóng ẩm đến những vùng khí hậu ôn đới và cả ở Nam cực thì điều kiện và phương
thức sống khác nhau…
2.2. Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động
sản xuất của con người
Trong lịch sử phát triển, loài người đã trải qua nhiều giai đoạn. Bắt đầu từ khi con
người biết canh tác cách đây khoảng 14 - 15 nghìn năm, vào thời kỳ đồ đá giữa cho đến khi
phát minh ra máy hơi nước vào thế kỷ thứ XVIII, đánh dấu sự khởi đầu của công cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật trong mọi lĩnh vực. Nhu cầu của con người về các nguồn tài

nguyên không ngừng tăng lên về cả số lượng, chất lượng và mức độ phức tạp theo trình độ
phát triển của xã hội. Chức năng này của môi trường còn gọi là nhóm chức năng sản xuất tự
nhiên gồm:
- Rừng tự nhiên: có chức năng cung cấp nước, bảo tồn tính đa dạng sinh học và độ phì nhiêu của đất,
nguồn gỗ củi, dược liệu và cải thiện điều kiện sinh thái.
- Các thuỷ vực: có chức năng cung cấp nước, dinh dưỡng, nơi vui chơi giải trí và các nguồn thuỷ hải
sản.
- Động - thực vật: cung cấp lương thực, thực phẩm và các nguồn gen quý hiếm.
- Không khí, nhiệt độ, năng lượng mặt trời, nước, gió: có chức năng duy trì các hoạt động trao đổi
chất.
- Các loại quặng, dầu mỏ: cung cấp năng lượng và nguyên liệu cho các hoạt động sản xuất...
- Các sản phẩm công, nông, ngư nghiệp và văn hóa, du lịch đều bắt nguồn từ các dạng vật chất tồn
tại trên trái đất và không gian bao quanh trái đất.

4


Hình 2.1. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên
Đối với các sinh vật khác, nguồn tài nguyên có thể là thức ăn, điều kiện sống… để
sinh vật tồn tại và phát triển. Ví dụ: thực vật cần ánh sáng mặt trời để quang hợp, nước và
muối khoáng để phát triển. Các sinh vật sản xuất trong chuỗi thức ăn trở thành nguồn tài
nguyên cho các sinh vật tiêu thụ.
Có 2 loại tài nguyên là tài nguyên tái tạo và tài nguyên không tái tạo:
- Các nguồn năng lượng, vật liệu, thông tin sau mỗi lần sử dụng đều được tuần hoàn
quay trở lại dạng ban đầu được gọi là tài nguyên tái tạo như nước ngọt, đất, sinh vật…
- Trái lại các nguồn năng lượng, vật liệu, thông tin bị mất mát, biến đổi hoặc suy thoái,
không trở lại dạng ban đầu được gọi là tài nguyên không tái tạo như khoáng sản, gen di
truyền…
2.3. Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong
cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình

Tiếp nhận, chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong các hoạt động là một
chức năng quan trọng của môi trường. Trong quá trình sống, con người luôn đào thải các
chất thải vào môi trường. Tại đây các chất thải dưới tác động của vi sinh vật và các yếu tố
môi trường khác sẽ bị phân huỷ, biến đổi từ phức tạp thành đơn giản và tham gia vào hàng
loạt các quá trình sinh địa hoá phức tạp. Trong thời kỳ sơ khai, khi dân số của nhân loại còn
ít, chủ yếu do các quá trình phân huỷ tự nhiên làm cho chất thải sau một thời gian biến đổi
nhất định lại trở lại trạng thái nguyên liệu của tự nhiên. Sự gia tăng dân số thế giới nhanh

5


chóng, quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá làm số lượng chất thải tăng lên không ngừng
dẫn đến nhiều nơi, nhiều chỗ trở nên quá tải, gây ô nhiễm môi trường.
Khả năng tiếp nhận và phân huỷ chất thải trong một khu vực nhất định gọi là khả năng
đệm của khu vực đó. Khi lượng chất thải lớn hơn khả năng đệm, hoặc thành phần chất thải
có nhiều chất độc, vi sinh vật gặp nhiều khó khăn trong quá trình phân huỷ thì chất lượng
môi trường sẽ giảm và môi trường có thể bị ô nhiễm. Chức năng này có thể phân loại chi
tiết như sau:
- Chức năng biến đổi lý - hoá học (phân huỷ hoá học nhờ ánh sáng, hấp thụ, tách chiết
các vật thải và độc tố).
- Chức năng biến đổi sinh hoá (sự hấp thụ các chất dư thừa, chu trình nitơ và cacbon,
khử các chất độc bằng con đường sinh hoá).
- Chức năng biến đổi sinh học (khoáng hoá các chất thải hữu cơ, mùn hoá, amôn hoá,
nitrat hoá và phản nitrat hoá).
Tài nguyên

Quá trình sản xuất

Quá trình tiêu thụ


CHẤT THẢI
Tái sử dụng
MÔI TRƯỜNG

Hình 2.2 Môi trường - nơi chứa đựng các chất thải
2.4. Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người
và sinh vật trên trái đất
Mưa, gió, bão lụt… là những hiện tượng tự nhiên diễn ra có quy luật hoặc không quy
luật. Con người bảo vệ rừng, trồng rừng để chắn gió, chắn cát, ngăn chặn sự xâm nhập của
biển, giữ được nguồn nước ngọt…
6


Các thành phần trong môi trường còn có vai trò trong việc bảo vệ cho đời sống của
con người và sinh vật tránh khỏi những tác động từ bên ngoài như: tầng Ozon trong khí
quyển có nhiệm vụ hấp thụ và phản xạ trở lại các tia cực tím từ năng lượng mặt trời.
2.5. Chức năng lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người
Môi trường trái đất được xem là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người. Bởi
vì chính môi trường trái đất là nơi:
- Cung cấp sự ghi chép và lưu trữ lịch sử trái đất, lịch sử tiến hoá của vật chất và sinh
vật, lịch sử xuất hiện và phát triển văn hoá của loài người.
- Cung cấp các chỉ thị không gian và tạm thời mang tín chất tín hiệu và báo động sớm
các hiểm hoạ đối với con người và sinh vật sống trên trái đất như phản ứng sinh lý của cơ
thể sống trước khi xảy ra các tai biến tự nhiên và các hiện tượng tai biến tự nhiên, đặc biệt
như bão, động đất, núi lửa...
- Cung cấp và lưu giữ cho con người các nguồn gen, các loài động thực vật, các hệ
sinh thái tự nhiên và nhân tạo, các vẻ đẹp, cảnh quan có giá trị thẩm mĩ để thưởng ngoạn,
tôn giáo và văn hoá khác.
III. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
3.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường

Theo khoản 8, điều 3, Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam (2014) “Ô nhiễm môi
trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật
môi trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật.”.
Các tác nhân gây ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước
thải), rắn (chất thải rắn) chứa hóa chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng
lượng như nhiệt độ, bức xạ.
Thảm họa hạt nhân Chernobyn xảy ra ở Ukraine vào năm 1986 là một ví dụ điển hình
về tình trạng môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng do sự rò rỉ các chất phóng xạ. Vụ nổ làm
cho một diện tích rộng lớn ở phía tây Liên bang Xô Viết, Đông và Tây Âu, Anh quốc và cả
phía đông nước Mĩ bị ảnh hưởng. Các chất phóng xạ ngấm vào đất không chỉ làm quá trình
sản xuất nông nghiệp không thể diễn ra được nữa mà còn là nguyên nhân gây ra những căn
bệnh hiểm nghèo cho con người. Theo tính toán của các chuyên gia ít nhất 3.000 năm nữa
con người mới có thể trở lại sinh sống bình thường trên vùng đất này.
3.2. Các loại ô nhiễm môi trường
7


Có 3 loại ô nhiễm môi trường chính:
3.2.1. Ô nhiễm không khí
Ô nhiễm môi trường không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan
trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây mùi khó chịu,
giảm thị lực khi nhìn xa do bụi.Việc xả khói chứa bụi và các chất hóa học vào bầu không
khí là nguyên nhân dẫn đến không khí bị ô nhiễm như: cacbon oxít, lưu huỳnh đioxit, các
chất cloroflorocacbon (CFCs), và ôxít nitơ là chất thải của công nghiệp và xe cộ.
Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cả thế giới chứ không
phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang có nhiều biến đổi rõ rệt và có
ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh vật. Ô nhiễm khí đến từ con người lẫn tự nhiên.
Hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời
cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất thải khác nhau như: chất thải sinh
hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên

nhanh chóng.
Ô nhiễm môi trường khí quyển tạo nên sự ngột ngạt và "sương mù", gây nhiều bệnh
cho con người. Nó còn tạo ra các cơn mưa axít làm huỷ diệt các khu rừng và các cánh đồng.
Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí độc như: CO 2, đã gây
hiệu ứng nhà kính.
Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện tượng lỗ thủng tầng ôzôn. CFC là "kẻ
phá hoại" chính của tầng ôzôn. Sau khi chịu tác động của khí CFC và một số loại chất độc
hại khác thì tầng ôzôn sẽ bị mỏng dần rồi thủng.

Hình 3.1. Không khí bị ô nhiễm
8


3.2.2. Ô nhiễm nước
Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều tiêu cực của các tính chất vật lý – hoá học –
sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên
độc hại với con người và sinh vật. Hiện tượng này xảy ra khi nước bề mặt chảy qua rác thải
sinh hoạt, nước rác công nghiệp, các chất ô nhiễm trên mặt đất, rồi thấm xuống nước ngầm,
làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì
ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất.

Hình 3.2. Nguồn nước bị ô nhiễm
Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các loại nước, hóa chất, chất thải từ các nhà máy
công nghiệp được thải ra lưu vực các con sông mà chưa qua xử lí đúng mức; các loại phân
bón hoá học và thuốc trừ sâu dư thừa trên đồng ruộng ngấm vào nguồn nước ngầm và nước
ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân cư ven sông gây ô nhiễm trầm trọng,
ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân, sinh vật trong khu vực. Các loại chất độc hại đó lại
bị đưa ra biển xa hơn nữa là nguyên nhân xảy ra hiện tượng "thủy triều đỏ", gây ô nhiễm
nặng nề và làm chết ngạt các sinh vật sống ở môi trường nước.
3.2.3. Ô nhiễm đất

Ô nhiễm môi trường đất là hậu quả các hoạt động của con người làm thay đổi các
nhân tố sinh thái vượt qua những giới hạn sinh thái của các quần xã sống trong đất. Ô nhiễm
đất xảy ra khi đất bị nhiễm các chất hóa học độc hại (hàm lượng vượt quá giới hạn thông
thường) do các hoạt động chủ động của con người như khai thác khoáng sản, sản xuất công
nghiệp, sử dụng phân bón hóa học hoặc thuốc trừ sâu quá nhiều,... hoặc do bị rò rỉ từ các
thùng chứa ngầm. Phổ biến nhất trong các loại chất ô nhiễm đất là hydrocacbon, kim loại
9


nặng, MTBE, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu và các hydrocacbon clo hóa. Môi trường đất là nơi
trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là nền móng cho các công trình xây dựng
dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con người. Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con
người sử dụng tài nguyên đất vào hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung
cấp lương thực thực phẩm cho con người. Nhưng với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ phát
triển công nghiệp và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng
bị thu hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái, diện tích đất bình quân đầu người giảm.
Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài nguyên đất là rất đáng lo ngại và nghiêm
trọng.

Hình 3.3. Đất bạc màu
3.3. Suy thoái môi trường
Suy thoái môi trường là sự làm thay đổi chất lượng và số lượng của thành phần môi
trường, gây ảnh hưởng xấu cho đời sống của con người và thiên nhiên. Trong đó, thành
phần môi trường được hiểu là các yếu tố tạo thành môi trường: không khí, nước, đất, âm
thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng, sông, hồ biển, sinh vật, các hệ sinh thái, các khu dân
cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di
tích lịch sử và các hình thái vật chất khác.
3.4. Tiêu chuẩn môi trường
Theo Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam (2014) "Tiêu chuẩn môi trường là những
chuẩn mức, giới hạn cho phép, được quy định dùng làm căn cứ để quản lý môi trường".


10


Vì vậy, tiêu chuẩn môi trường có quan hệ mật thiết với sự phát triển bền vững của mỗi
quốc gia. Hệ thống tiêu chuẩn môi trường là một công trình khoa học liên ngành, nó phản
ánh trình độ khoa học, công nghệ, tổ chức quản lý và tiềm lực kinh tế - xã hội có tính đến
dự báo phát triển. Cơ cấu của hệ thống tiêu chuẩn môi trường bao gồm các nhóm chính sau:
Tiêu chuẩn nước, bao gồm nước mặt nội địa, nước ngầm, nước biển và ven biển, nước
thải v.v...
Tiêu chuẩn không khí, bao gồm khói bụi, khí thải (các chất thải) v.v...
Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ đất canh tác, sử dụng phân bón trong sản xuất nông
nghiệp.
Tiêu chuẩn về bảo vệ thực vật, sử dụng thuốc trừ sâu, diệt cỏ.
Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ các nguồn gen, động thực vật, đa dạng sinh học.
Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử, văn hoá.
Tiêu chuẩn liên quan đến môi trường do các hoạt động khai thác khoáng sản trong
lòng đất, ngoài biển v.v...
***
IV. MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
4.1. Khái niệm về sự phát triển bền vững
Có thể nói rằng mọi vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển. Nhưng con
người cũng như tất cả mọi sinh vật khác không thể đình chỉ tiến hoá và ngừng sự phát triển
của mình. Con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp
nhận phát triển, nhưng giữ sao cho phát triển không tác động một cách tiêu cực tới môi
trường. Do đó, năm 1987 Uỷ ban Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc đã đưa ra
khái niệm Phát triển bền vững: "Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các
nhu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ
tương lai".
Để xây dựng một xã hội phát triển bền vững, Chương trình Môi trường Liên Hợp

Quốc đã đề ra 9 nguyên tắc:
1. Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.
2. Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người.
3. Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất.
4. Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được.
11


5. Tôn trọng khả năng chịu đựng được của Trái đất.
6. Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân.
7. Để cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình.
8.

Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và bảo

vệ.
9. Xây dựng một khối liên minh toàn cầu.
4.2. Hiệu ứng nhà kính
Hiệu ứng nhà kính diễn ra khi khí quyển chứa khí đã hấp thụ tia cực quang. Khi hơi
nóng từ mặt trời vô Trái Đất đã bị giữ lại ở tầng đối lưu, tạo ra hiệu ứng nhà kính ở bề mặt
các hành tinh hoặc các Vệ tinh. Hiện này thế kỷ thứ 21 loài người đang phải đối mặt với
tình trạng ấm lên do con người gây ra, gây ra nhiều tác hại nguy hiểm.

Hình 4.1. Hiệu ứng nhà kính
Sau đây là một số hậu quả liên đới với việc thay đổi khí hậu do hiệu ứng này có thể
gây ra:
Các nguồn nước: Chất lượng và số lượng của nước uống, nước tưới tiêu, nước cho kỹ
nghệ và cho các máy phát điện, và sức khỏe của các loài thủy sản có thể bị ảnh hưởng
nghiêm trọng bởi sự thay đổi của các trận mưa rào và bởi sự tăng khí bốc hơi. Mưa tăng có


12


thể gây lụt lội thường xuyên hơn. Khí hậu thay đổi có thể làm đầy các lòng chảo nối với
sông ngòi trên thế giới.
Các tài nguyên bờ biển: Chỉ tại riêng Hoa Kỳ, mực nước biển dự đoán tăng 50 cm vào
năm 2100, có thể làm mất đi 5.000 dặm vuông đất khô ráo và 4.000 dặm vuông đất ướt.
Sức khỏe: Số người chết vì nóng có thể tăng do nhiệt độ cao trong những chu kì dài
hơn trước. Sự thay đổi lượng mưa và nhiệt độ có thể đẩy mạnh các bệnh truyền nhiễm.
Nhiệt độ tăng lên làm tăng các quá trình chuyển hóa sinh học cũng như hóa học trong
cơ thể sống, gây nên sự mất cân bằng.
Lâm nghiệp: Nhiệt độ cao hơn tạo điều kiện cho nạn cháy rừng dễ xảy ra hơn.
Năng lượng và vận chuyển: Nhiệt độ ấm hơn tăng nhu cầu làm lạnh và giảm nhu cầu
làm nóng. Sẽ có ít sự hư hại do vận chuyển trong mùa đông hơn, nhưng vận chuyển đường
thủy có thể bị ảnh hưởng bởi số trận lụt tăng hay bởi sự giảm mực nước sông.
4.3. Biến đổi khí hậu
4.3.1. Biến đổi khí hậu là gì?

"Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quy

Hình 4.2. Môi trường trước đây

Môi trường hiện tại
13


4.3.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra
các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính như
sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí

hậu, Nghị định thư Kyoto nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm:
CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6.
4.3.3. Các biểu hiện của biến đổi khí hậu
Sự nóng lên của khí quyển và Trái đất nói chung.
Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con
người và các sinh vật trên Trái đất.
Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng đất thấp, các
đảo nhỏ trên biển.
Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của
Trái đất dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động
của con người.
Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn
nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ
quyển, sinh quyển, các địa quyển.
4.3.4. Thực trạng và hậu quả của việc biến đổi khí hậu
Theo số liệu thống kê, Việt Nam đứng thứ 7 trên toàn cầu trung bình mỗi năm Việt
Nam có 392 người chết và thiệt hại hơn 1% GDP do các thảm họa liên quan đến biến đổi
khí hậu. Với địa hình đa dạng, đường bờ biển dài và các đồng bằng sông rộng lớn, hoạt
động nông nghiệp Việt Nam đang chịu ảnh hưởng lớn từ những thay đổi của khí hậu cùng
các thảm họa tự nhiên như bão, lụt, hạn hán.
Đặc biệt, do ảnh hưởng của El Nino kéo dài, trong suốt năm 2015 và tháng đầu năm
2016, người dân đã phải hứng chịu nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan như mưa, bão, dông,
lốc, rét đậm, rét hại… gây ra thiệt hại nặng nề cho người dân Việt Nam. Chỉ tính từ đầu năm
đến nay, nắng nóng gay gắt với nền nhiệt cao kỷ lục ở Bắc Bộ đến Nam Trung Bộ khiến
hơn 190.000 ha bị hán hán và hơn 44.000 gia súc, gia cầm bị chết.
14


Biến đổi khí hậu dẫn tới những hậu quả vô cùng nghiêm trọng:


Hình 4.4. Hậu quả của biến đổi khí hậu
4.4. Khái niệm về tầng Ozon
Khí Ozon gồm 3 nguyên tử oxy. Tầng bình lưu nằm trên tầng đối lưu với ranh giới
trên dao động trong khoảng độ cao 50 km. Ở độ cao khoảng 25 km trong tầng bình lưu tồn
tại một lớp không khí giàu khí Ozon (O 3) thường được gọi là tầng Ozon. Hàm lượng khí
Ozon trong không khí rất thấp, chiếm một phần triệu, chỉ ở độ cao 25 - 30 km, khí Ozon

15


mới đậm đặc hơn (chiếm tỉ lệ 1/100.000 trong khí quyển). Người ta gọi tầng khí quyển ở độ
cao này là tầng Ozon.
Nếu tầng Ozon bị thủng, một lượng lớn tia tử ngoại sẽ chiếu thẳng xuống Trái đất.
Con người sống trên Trái đất sẽ mắc bệnh ung thư da, thực vật không chịu nổi nhiều tia tử
ngoại chiếu vào sẽ bị mất dần khả năng miễn dịch, các sinh vật dưới biển bị tổn thương và
chết dần. Bởi vậy các nước trên thế giới đều rất lo sợ trước hiện tượng thủng tầng Ozon.
Nguyên nhân dẫn đến thủng tầng Ozon
Tháng 10 năm 1985, các nhà khoa học Anh phát hiện thấy tầng khí ozon trên không
trung Nam cực xuất hiện một "lỗ thủng" rất lớn, bằng diện tích nước Mỹ. Năm 1987, các
nhà khoa học Ðức lại phát hiện tầng khí ozon ở vùng trời Bắc cực có hiện tượng mỏng dần,
có nghĩa là chẳng bao lâu nữa tầng ozon ở Bắc cực cũng sẽ bị thủng. Tin này nhanh chóng
được truyền khắp thế giới và làm chấn động dư luận.
Các nhà khoa học đều cho rằng, nguyên nhân này có liên quan tới việc sản xuất và sử
dụng tủ lạnh trên thế giới. Sở dĩ tủ lạnh có thể làm lạnh và bảo quản thực phẩm được lâu là
vì trong hệ thống ống dẫn khép kín phía sau tủ lạnh có chứa loại dung dịch freon thể lỏng
(thường gọi là "gas"). Nhờ có dung dịch hoá học này tủ lạnh mới làm lạnh được. Dung dịch
freon có thể bay hơi thành thể khí. Khi chuyển sang thể khí, freon bốc thẳng lên tầng ozon
trong khí quyển Trái đất và phá vỡ kết cầu tầng này, làm giảm nồng độ khí ozon.
Không những tủ lạnh, máy lạnh cần dùng đến freon mà trong dung dịch giặt tẩy, bình

cứu hoả cũng sử dụng freon và các chất thuộc dạng freon. Trong quá trình sản xuất và sử
dụng các hoá chất đó không tránh khỏi thất thoát một lượng lớn hoát chất dạng freon bốc
hơi bay lên phá huỷ tầng ozon. Qua đó chúng ta thấy rằng, tầng zon bị thủng chính là do các
chất khí thuộc dạng freon gây ra, các hoá chất đó không tự có trong thiên nhiên mà do con
người tạo ra. Rõ ràng, con người là thủ phạm làm thủng tầng ozon, đe doạ sức khoẻ của
chính mình.
Sớm ngừng sản xuất và sử dụng các hoá chất dạng freon là biện pháp hữu hiệu nhất để
cứu tầng ozon. Nhiều hội thảo quốc tế đã bàn tính các biện pháp khắc phục nguy cơ thủng
rộng tầng ozon. 112 nước thuộc khối Cộng đồng Châu Âu (EEC) đã nhất trí đến cuối thế kỷ
này sẽ chấm dứt sản xuất và sử dụng các hoá chất thuộc dạng freon. Vì vậy các nhà khoa
học đang nghiên cứu sản xuất loại hoá chất khác thay thế các hoá chất ở dạng freon, đồng
thời sẽ chuyển giao công nghệ sản xuất cho các nước đang phát triển. Có như vậy, việc
16


ngừng sản xuất freon mới trở thành hiện thực. Muốn đạt được yêu cầu thiết thực này, không
chỉ riêng một vài nước mà cả thế giới đều phải cố gắng thì mới có thể bảo vệ được tầng
ozon của Trái đất.
***
V. TRÁCH NHIỆM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Theo khoản 3, điều 3, chương I, Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam (2014) thì
“Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu
đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục
hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường
trong lành.”
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn dân. Nhà nước tạo điều kiện,
khuyến khích những hoạt động bảo vệ môi trường sau:
1. Truyền thông, giáo dục và vận động mọi người tham gia bảo vệ môi trường, giữ gìn
vệ sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học.
2. Bảo vệ, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.

3. Giảm thiểu, thu gom, tái sử dụng và tái chế chất thải.
4. Hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển, sử dụng năng lượng sạch, năng
lượng tái tạo; giảm thiểu phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính, phá hủy tầng ô-dôn.
5. Đăng ký cơ sở, sản phẩm thân thiện với môi trường; sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng
sản phẩm thân thiện với môi trường.
6. Nghiên cứu khoa học, chuyển giao, ứng dụng công nghệ xử lý, tái chế chất thải,
công nghệ thân thiện với môi trường.
7. Đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất thiết bị, dụng cụ bảo vệ môi trường; cung cấp dịch
vụ bảo vệ môi trường; thực hiện kiểm toán môi trường; tín dụng xanh; đầu tư xanh.
8. Bảo tồn và phát triển nguồn gen bản địa; lai tạo, nhập nội các nguồn gen có giá trị
kinh tế và có lợi cho môi trường.
9. Xây dựng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, khu dân cư thân thiện với môi
trường.
10. Phát triển các hình thức tự quản và tổ chức hoạt động dịch vụ giữ gìn vệ sinh môi
trường của cộng đồng dân cư.

17


11. Hình thành nếp sống, thói quen giữ gìn vệ sinh môi trường, xóa bỏ hủ tục gây hại
đến môi trường.
12. Đóng góp kiến thức, công sức, tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường; thực
hiện hợp tác công tư về bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, Luật Bảo vệ Môi trường cũng quy định cụ thể những hành vi bị nghiêm
cấm và biện pháp xử phạt đối với tất cả những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến môi trường
sống:
1. Phá hoại, khai thác trái phép nguồn tài nguyên thiên nhiên.
2. Khai thác nguồn tài nguyên sinh vật bằng phương tiện, công cụ, phương pháp hủy
diệt, không đúng thời vụ và sản lượng theo quy định của pháp luật.
3. Khai thác, kinh doanh, tiêu thụ các loài thực vật, động vật hoang dã thuộc danh mục

loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
4. Vận chuyển, chôn lấp chất độc, chất phóng xạ, chất thải và chất nguy hại khác
không đúng quy trình kỹ thuật về bảo vệ môi trường.
5. Thải chất thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; các chất độc,
chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước và không khí.
6. Đưa vào nguồn nước hóa chất độc hại, chất thải, vi sinh vật chưa được kiểm định và
tác nhân độc hại khác đối với con người và sinh vật.
7. Thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc hại vào không khí; phát tán bức xạ, phóng
xạ, các chất ion hóa vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
8. Gây tiếng ồn, độ rung vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
9. Nhập khẩu, quá cảnh chất thải từ nước ngoài dưới mọi hình thức.
10. Nhập khẩu, quá cảnh động vật, thực vật chưa qua kiểm dịch; vi sinh vật ngoài danh
mục cho phép.
11. Sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho con người, sinh vật và hệ sinh
thái; sản xuất, sử dụng nguyên liệu, vật liệu xây dựng chứa yếu tố độc hại vượt quá quy
chuẩn kỹ thuật môi trường.
12. Phá hoại, xâm chiếm trái phép di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên.
13. Xâm hại công trình, thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động bảo vệ môi trường.
14. Hoạt động trái phép, sinh sống ở khu vực được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xác định là khu vực cấm do mức độ đặc biệt nguy hiểm về môi trường đối với con người.
18


15. Che giấu hành vi hủy hoại môi trường, cản trở hoạt động bảo vệ môi trường, làm
sai lệch thông tin dẫn đến gây hậu quả xấu đối với môi trường.
16. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vượt quá quyền hạn hoặc thiếu trách nhiệm của
người có thẩm quyền để làm trái quy định về quản lý môi trường.
***
VI. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT, KHẮC PHỤC TRONG MÔI
TRƯỜNG NÔNG NGHIỆP HIỆN NAY

6.1. Thực trạng môi trường nông nghiệp Việt Nam nói chung và địa phương nói
riêng
6.1.1. Môi trường nông nghiệp ô nhiễm nghiêm trọng
Tài nguyên đất, nước, rừng và thủy sản của Việt Nam được đánh giá phong phú và
phân bố ở khắp các vùng, miền của đất nước. Trong đó đất nông nghiệp hiện có trên 26
triệu ha, đất lâm nghiệp trên 15 triệu ha, đất nuôi trồng thủy sản 690.000 ha; 3.450 con
sông, suối có chiều dài từ 10 km trở lên. Nhưng môi trường đất và không khí, đặc biệt là
nguồn nước mặt, nước ngầm ở nhiều khu vực nông thôn đã bị ô nhiễm. Một số nơi ô nhiễm
nghiêm trọng, có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe con người và kéo theo nhiều hệ lụy khác.
Hàng năm nước ta sử dụng trung bình 15.000 - 25.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật
(BVTV). Tuy nhiên, sử dụng không hợp lý, không tuân thủ theo đúng những quy định
nghiêm ngặt về quy trình sử dụng nên thuốc BVTV gây nhiều tác hại cho chính người sử
dụng và người tiêu dùng nông sản, thực phẩm có chứa dư lượng thuốc BVTV, đồng thời
ảnh hưởng đến môi trường sống. Theo Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường
cho thấy, mỗi năm hoạt động nông nghiệp phát sinh khoảng 9.000 tấn chất thải nông nghiệp
nguy hại, chủ yếu là thuốc BVTV, trong đó không ít loại thuốc có độ độc cao đã bị cấm sử
dụng. Ngoài ra, cả nước còn khoảng 50 tấn thuốc BVTV tồn lưu tại hàng chục kho bãi;
37.000 tấn hóa chất dùng trong nông nghiệp bị tịch thu đang được lưu giữ chờ xử lý. Có đến
60-65% lượng phân đạm không được cây trồng hấp thụ; hàng chục triệu tấn chất thải chăn
nuôi, 90% khối lượng chất thải rắn chưa được xử lý chủ yếu đổ ra ven đường làng, bờ kênh,
mương mỗi năm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng…Hiện có trên 60% số xã ở khu vực
nông thôn chưa tổ chức thu gom rác thải. Chất thải rắn vẫn chủ yếu được xử lý bằng chôn
lấp, trong khi có hơn 80% các bãi chôn lấp không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật và vệ sinh môi
trường. Chất thải nguy hại chưa được quản lý chặt chẽ, thiếu công nghệ, thiết bị nên xử lý
19


kém hiệu quả. Thực trạng này khiến cho môi trường nông thôn đang phải gánh chịu những
bất lợi từ hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay, việc quá lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kích thích tăng trưởng, các

loại phân bón hóa học, cộng với việc trình độ khoa học kỹ thuật trong canh tác, chăn nuôi
còn thấp, vấn đề xử lý nguồn thải còn mang tính giản đơn…đang là những nguyên nhân gây
nên hiện tượng ô nhiễm môi trường ở mức độ ngày càng trầm trọng. Gây ảnh hưởng đến
sức khỏe của người lao động vùng nông thôn, phát sinh nhiều bệnh dịch nguy hiểm.

Hình 6.1. Thuốc bảo vệ thực vật – nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nông nghiệp
Chất lượng nguồn nước mặt đang có chiều hướng suy giảm. Phần lớn các hệ thống ao,
hồ, kênh, mương, các đoạn sông trong các khu dân cư đã bị ô nhiễm nghiêm trọng. Bên
cạnh đó, nước biển ven bờ cũng bắt đầu có dấu hiệu ô nhiễm. Nguồn nước dưới đất phần
lớn vẫn đạt chất lượng song một số nơi cũng đã có dấu hiệu bị ô nhiễm và nhiễm mặn.

Hình 6.2. Cá chết do nhiễm mặn
Đa dạng sinh học đang trên đà suy giảm nhanh. Diện tích các hệ sinh thái tự nhiên như
rừng ngập mặn ven biển, đất ngập nước, núi đá vôi, bãi bồi, cửa sông, cửa biển bị thu hẹp,
chất lượng xuống cấp. Số loài và số cá thể các loài hoang dã giảm mạnh. Một số giống cây
20


trồng, vật nuôi truyền thống là nguồn tài nguyên quý giá cho phát triển nông nghiệp bền
vững cũng đang bị suy giảm nghiêm trọng.

Hình 6.3. Thay đổi môi trường sống làm giảm số lượng các loài
6.1.2. Biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng lớn đến môi trường nông nghiệp
Nông nghiệp đã và đang chịu tác động rất lớn do biến đổi khí hậu. Tác động tiêu cực
của biến đổi khí hậu biểu hiện cụ thể là làm mất diện tích đất canh tác do sạt lở đất, lũ quét,
hạn hán, rét hại, xâm nhập mặn… làm giảm đáng kể sản lượng, năng suất cây trồng, vật
nuôi. Đợt rét hại, băng giá đầu năm 2016 đã gây thiệt hại nặng nề cho 14 tỉnh phía Bắc, làm
chết 9.000 con gia súc, trên 43.000 con gia cầm, cây trồng thiệt hại trên 27.000 ha.
Hiện tượng El Nino kéo dài trong gần 1 năm qua đã khiến nhiều vùng không đủ nước
để canh tác, nhiều diện tích hoa màu bị khô hạn do thiếu nước.

6.1.3. Quỹ đất nông nghiệp bị thu hẹp dần
Quỹ đất nông nghiệp tiếp tục suy giảm do công nghiệp hóa và đô thị hóa. Theo số liệu
của Tổng cục Quản lý đất, Bộ Tài nguyên Môi trường, bình quân mỗi năm đất nông nghiệp
giảm gần 100 nghìn hécta, đặc biệt năm 2007 giảm 120 nghìn hécta, trong khi mỗi năm số
lao động bước ra khỏi ruộng đồng chỉ vào khoảng 400 ngàn người. Hơn nữa, mức gia tăng
dân số ở nông thôn không giảm nhiều như mong đợi, khiến cho bình quân đất canh tác trên
đầu người ngày càng giảm mạnh. Hiện quỹ đất chưa sử dụng có thể tiếp tục khai thác ở
nước ta còn không đáng kể.

21


Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu cũng có khả năng làm cho diện tích đất có thể sử dụng
có nguy cơ bị thu hẹp.
6.1.4. Ý thức người dân trong việc bảo vệ môi trường chưa cao
Ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường của nông dân và cộng đồng dân cư nông thôn
chưa trở thành thói quen và nếp sống. Tại nhiều vùng nông thôn miền núi, đa số gia đình có
thói quen chăn nuôi gia súc, gia cầm thả rông, hoặc nuôi nhốt dưới gầm sàn và phân không
được thu gom cũng ảnh hưởng lớn đến môi trường sống.
Người nông dân lợi dụng thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp nhưng lại không có
ý thức, biện pháp để thu gom rác, vỏ chai, bao bì... để xử lý tránh gây ô nhiễm môi trường.
6.2. Một số giải pháp khắc phục
6.2.1. Khắc phục ô nhiễm môi trường

Hình 6.4. Chung tay bảo vệ môi trường
Giải quyết vấn đề xử lý ô nhiễm môi trường trong nông nghiệp bao hàm nhiều vấn
đề bảo vệ môi trường mà ngành nông nghiệp phải đảm trách: khắc phục ô nhiễm, suy
thoái, phục hồi cải thiện môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý các tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học...
Trước hết, nhà nước cần xây dựng bộ tiêu chuẩn về môi trường ngành nông nghiệp

để có thể quản lý được các vấn đề nảy sinh, tồn tại trong thực tế, phát triển các công
nghệ xử lý chất thải nông nghiệp cũng cần được quan tâm. Bên cạnh đó, cũng rất cần sự
phối hợp đồng bộ với các bộ, ngành liên quan như Bộ Tài nguyên và Môi trường. Các
22


địa phương cũng cần chủ động nguồn ngân sách cho công tác này, đồng thời có cơ chế
chính sách để toàn xã hội có thể tham gia giải quyết vấn đề môi trường.
Bên cạnh đó, việc quy định cụ thể trách nhiệm, trong đó có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, trách nhiệm phục hồi môi trường trong trường hợp các cơ sở sản xuất trong
lĩnh vực nông nghiệp gây ô nhiễm, làm thiệt hại tới môi trường cũng rất quan trọng. Nếu
thực hiện được đồng bộ các nhóm giải pháp này thì môi trường nông nghiệp nông thôn
mới sớm được cải thiện, nền nông nghiệp mới có thể phát triển theo hướng bền vững và
người nông dân mới đảm bảo sức khỏe và yên tâm làm việc, sinh sống.
Thứ hai, đặt vấn đề bảo vệ đất nông nghiệp lên hàng đầu, hạn chế và tránh được ô
nhiễm đất nông nghiệp là cách duy nhất để giữ vững sự phát triển ổn định của nền nông
nghiệp. Bởi thế cần phải:
- Nâng cao lợi ích của sản xuất nông nghiệp như đảm bảo một số lượng nông
nghiệp tương xứng, đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của người dân.
- Nghiêm cấm việc xả các chất thải, nước thải, nước hút bể phốt,... và một số chất
hóa học độc hại ra môi trường đất.
Thứ ba, có thể tăng năng suất nông nghiệp bằng cách sử dụng các kiểu gen cho
năng suất cao, chống chịu sâu bệnh để hạn chế việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tránh
sự ảnh hưởng đến môi trường đất. Đồng thời thích ứng được với các điều kiện khó khăn
của thời tiết, duy trì độ phì nhiêu của đất, tính đa dạng của cây trồng, áp dụng phương
luân canh luân cư, trồng đan xen kết hợp các loại cây ngắn hạn và dài hạn.

23



Hình 6.5. Xen cây cây trồng ngắn ngày và dài ngày
Thứ tư, phải bảo vệ và thường xuyên cải thiện môi trường sống, chống ô nhiễm nguồn
nước, giảm và loại bỏ sử dụng chất độc để trừ sâu bệnh, giảm sử dụng phân khoáng,..
Đặc biệt cũng cần phải áp dụng các biện pháp canh tác chống xói mòn như:
- Áp dụng hệ thống nông lâm kết hợp, lâm ngư kết hợp với các mô hình đa dạng và
phong phú.
- Kết hợp trồng trọt và chăn nuôi, tăng cường phát triển và mở rộng các mô hình kinh
tế vường rừng trại rừng

Hình 6.6. Mô hình VAC trong nông nghiệp
6.2.2. Ứng phó với biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu ở Việt Nam đã làm nguồn nước cho nông nghiệp thiếu hụt trầm
trọng. Tình trạng suy giảm nguồn nước đòi hỏi chúng ta phải nhận rõ những tồn tại, bất cập
và đề ra những giải pháp tổng thể, toàn diện và có hệ thống để bảo vệ, quản lý, sử dụng hợp lý,
hiệu quả, tiết kiệm và đa mục tiêu nguồn nước vốn hữu hạn lại dễ bị tổn thương ở nước ta.
Phát triển hồ chứa thủy điện, thủy lợi đã tạo bước tiến quan trọng trong sử dụng tài
nguyên nước phục vụ bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng và phát triển kinh tế - xã hội đất
nước nhưng cũng bộc lộ nhiều bất cập. Việc phát triển thủy điện thời gian qua do chịu sức ép
lớn của phát triển kinh tế - xã hội nay đang trở nên “quá nóng”. Trong một năm, có khi có hàng
chục công trình lớn, vừa, nhất là thủy điện nhỏ được xây dựng. Nhiều trường hợp, có tới 3 - 5
24


công trình thủy điện cùng đồng thời thi công xây dựng trên một lưu vực, gây ảnh hưởng rất lớn
đến tài nguyên nước, hủy hoại môi trường và đa dạng sinh học. Do vậy, đòi hỏi phải xem xét,
đánh giá toàn diện hơn quá trình phát triển thủy điện, thủy lợi, cân nhắc kỹ từ quy hoạch đến
thiết kế, thi công xây dựng, vận hành để phát huy tối đa mặt lợi, đồng thời giảm thiểu tác động
xấu tới tài nguyên nước và giảm tác hại do những thay đổi về nguồn nước gây ra đối với tài
nguyên, môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Các công trình tài nguyên nước dù được xây dựng từ nguồn vốn nào, nhưng nguồn nước

vẫn cần được xem là tài sản chung, vì lợi ích chung; sử dụng nguồn nước của quốc gia là phải
trả tiền hợp lý. Trong trường hợp thiếu nước, khan hiếm nước thì các nguồn nước trên lưu vực
phải được ưu tiên cho sinh hoạt, cho các nhu cầu thiết yếu khác. Các hồ chứa cần được bảo vệ,
quản lý và vận hành theo quy định chung được cấp có thẩm quyền phê duyệt; không để kéo dài
tình trạng vận hành hồ chứa mà thiếu quy trình, quy trình chưa hợp lý; cần chấm dứt kiểu vận
hành quá chú trọng đến lợi ích trước mắt hoặc chỉ vì lợi ích của một vài lĩnh vực riêng lẻ. Cần
có cơ chế phối hợp hoặc tổ chức đủ thẩm quyền để bảo đảm vận hành hiệu quả các hồ chứa sao
cho nguồn nước được sử dụng tiết kiệm, đa mục tiêu, nâng cao hiệu quả tổng hợp về kinh tế xã hội - môi trường. Xây dựng, tu sửa hệ thống kênh mương, thông cống tắc thoát nước, tưới
tiêu hợp lý,….

Hình 6.7. Hệ thống kênh mương trong nông nghiệp
Cần xây dựng một cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính, đầu tư thích hợp để bảo đảm
tài nguyên nước được quản lý, được bảo vệ và bảo đảm sử dụng đa mục tiêu, hiệu quả và
tiết kiệm. Cần sớm xác định nội dung và định hướng cụ thể các bước đi để làm rõ giá trị
kinh tế, giá trị hàng hóa (ngoài giá trị xã hội) và nâng cao giá trị đóng góp của tài nguyên
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×