Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Câu hỏi nhận định về phần chung tư pháp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.97 KB, 13 trang )

Câu hỏi nhận định về phần chung tư pháp quốc tế
Những
nhận
định
sau
đây
đúng
hay
sai?

sao?
1- Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ giữa các bên có quốc tịch khác nhau.
Nhận định trên là sai theo điều 758 Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân
sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là
công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó
theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ
đó

nước
ngoài.
2- Tư pháp quốc tế thực chất là ngành luật dân sự có yếu tố nước ngoài.
Nhận định trên là sai vì tư pháp quốc tế là ngành luật điều chỉnh mang bản chất dân sự

yếu
tố
nước
ngoài.
3- Tất cả các quan hệ có yếu tố nước ngoài đều thuộc đối tượng điều chỉnh tư pháp
quốc
tế


Nhận định trên là sai chỉ có các quan hệ mang bản chất dân sự có yếu tố nước ngoài
mới
thuộc
đối
tượng
điều
chỉnh

pháp
quốc
tế
4- Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ có tài sản liên quan đến quan hệ nằm

nước
ngoài.
Nhận định trên là sai ngoài quan hệ có tài sản liên quan đến quan hệ nằm ở nước ngoài
còn có các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng
căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh
tại
nước
ngoài
.
5- Tất cả các quan hệ dân sự đều thuộc đối tượng điều chỉnh tư pháp quốc tế.
Nhận định trên là sai Tất cả các quan hệ dân sự mang yếu tố nước ngoài đều thuộc đối
tượng
điều
chỉnh

pháp
quốc

tế.
6- Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài luôn được hiểu là quan hệ dân sự có ít nhất một
trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định


nước
ngoài.
Nhận định trên là sai theo điều 758 Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân
sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là
công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó
theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ
đó

nước
ngoài


7- Quan hệ dân sự giữa công dân, tổ chức Việt Nam không thể chịu sự điều chỉnh của

pháp
quốc
tế
Việt
Nam
Nhận định trên là sai quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt
Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước
ngoài, phát sinh tại nước ngoài điều thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế
Việt
Nam

8- Xung đột pháp luật phát sinh khi các bên trong quan hệ dân sự có quôc tịch khác
nhau.
Nhận định trên là sai xung đột pháp luật phát sinh khi có đủ 2 điều kiện sau:
- Phải có quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh trên thực tế cần điều chỉnh
- Phải có sự khác biệt về nội dung cụ thể giữa các hệ thống pháp luật có liên quan.
Nhận đinh trên chưa thỏa mãn đầy đủ 2 điều kiện trên để phát sinh xung đột pháp luật
9- Xung đột pháp luật phát sinh khi tài sản liên quan đến quan hệ dân sự nằm ở nước
ngoài.
Nhận định trên là sai Xung đột pháp luật phát sinh khi tài sản liên quan đến quan hệ dân
sự nằm ở nước ngoài và Phải có sự khác biệt về nội dung cụ thể giữa các hệ thống pháp
luật

liên
quan
10- Sự tồn tại của quy phạm thực chất trong điều ước quốc tế làm mất đi hiện tượng
xung
đột.
Nhận định trên là sai hiện tượng xung đột mất đi khi không còn điều kiện làm phát sinh
xung
đột.
11- Quy phạm xung đột một bên không thừa nhận việc áp dụng pháp luật nước ngoài
Nhận định trên là đúng quy phạm xung đột một bên là quy phạm chỉ ra việc áp dụng
pháp luật của chính quốc gia ban hành ra quy phạm đo đó quy phạm xung đột một bên
không
thừa
nhận
việc
áp
dụng
pháp

luật
nước
ngoài
12- Luật do các bên được lựa chọn đương nhiên được áp dụng.
Nhận định trên là sai Luật do các bên được lựa chọn đương nhiên được áp dụng khi hội
đủ
các
điều
kiện
sau
Phái

sự
thỏa
thuận
giữa
các
bên.
- Luật do các bên thỏa thuận không được trái với các nguyên tắc cơ bản của điều ước
quốc tế mà các bên là thành viên, không trái với pháp luật quốc gia mà các bên mang
quốc
tịch.


- Luật được lựa chọn phải là những qui phạm trực tiếp giải quyết vấn đề.
13- Luật do các bên lựa chọn để giải quyết vấn đề quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp
đồng
đương
nhiên
được

áp
dụng.
Nhận định trên là sai Luật do các bên lựa chọn để giải quyết vấn đề quyền và nghĩa vụ
các
bên
trong
hợp
đồng
phải
- Luật do các bên thỏa thuận không được trái với các nguyên tắc cơ bản của điều ước
quốc tế mà các bên là thành viên, không trái với pháp luật quốc gia mà các bên mang
quốc
tịch.
- Luật được lựa chọn phải là những qui phạm trực tiếp giải quyết vấn đề.
14- Theo tư pháp quốc tế Việt Nam bồi thường ngoài hợp đồng luôn được pháp luật của
nước xảy ra hành vi vi phạm hoặc nơi hiện diện hậu quả hành vi.
Nhận định trên là sai theo Điều 773 BLDS Việt Nam: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng "1. Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật của
nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây
thiệt
hại.
2. Việc bồi thường thiệt hại do tàu bay, tàu biển gây ra ở không phận quốc tế hoặc biển
cả được xác định theo pháp luật của nước mà tàu bay, tàu biển mang quốc tịch, trừ
trường hợp pháp luật về hàng không dân dụng và pháp luật về hàng hải của Cộng hoà

hội
chủ
nghĩa
Việt
Nam


quy
định
khác.
3. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại xảy ra ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam mà người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều là công dân hoặc
pháp nhân Việt Nam thì áp dụng pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam."
15- Các điều ước về tư pháp quôc tế mà Việt Nam là thành viên là nguồn có hiệu lực
pháp

cao
nhất
của

pháp
quốc
tế
Việt
Nam
Nhận định trên là đúng theo khỏan 2 điều 759 BLDS 2. Trong trường hợp điều ước
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với
quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
16- Chỉ cần áp dụng 1 hệ thuộc trong việc giải quyết xung đột pháp luật
Nhận định trên là sai vì mỗi hệ thuộc chỉ có 1 phạm vi áp dụng nhất định do đó việc giải
quyết xung đột pháp luật áp dụng nhiều hệ thuộc khác nhau
17- Phải áp dụng tất cả các hệ thuộc trong việc giải quyết xung đột pháp luật
Nhận
định
trên


sai


18- Không có hệ thuộc nào là quan trọng nhất trong việc giải quyết xung đột pháp luật
Nhận định trên đúng vì mỗi hệ thuộc chỉ có 1 phạm vi áp dụng khác nhau nên Không có
hệ thuộc nào là quan trọng nhất trong việc giải quyết xung đột pháp luật
19- Khi pháp luật các nước quy định khác nhau về một vấn đề cụ thể sẽ làm phát sinh
xung
đột
pháp
luật
Nhận định trên là sai xung đột pháp luật phát sinh khi có đủ 2 điều kiện sau:
- Phải có quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh trên thực tế cần điều chỉnh
- Phải có sự khác biệt về nội dung cụ thể giữa các hệ thống pháp luật có liên quan.
Do đó Khi pháp luật các nước quy định khác nhau về một vấn đề cụ thể giữa các hệ
thống pháp luật có liên quan về các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mới phát sinh
xung đột pháp luật. Pháp luật các nước quy định khác nhau một vấn đề cụ thể về quan
hệ hành chính, quan hệ hình sự thì không làm phát sinh xung đột pháp luật.

20- Chỉ khi nào áp dụng quy phạm xung đột mới làm phát sinh xung đột pháp luật
Nhận định trên là sai xung đột pháp luật phát sinh khi có đủ 2 điều kiện sau:
- Phải có quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh trên thực tế cần điều chỉnh
- Phải có sự khác biệt về nội dung cụ thể giữa các hệ thống pháp luật có liên quan.
21- Trong các kiểu hệ thuộc cơ bản hệ thuộc nhân thân là quan trọng nhất
Nhận định trên là sai Trong các kiểu hệ thuộc cơ bản không có hệ thuộc nào quan trọng
nhất.
22- Hệ thuộc nhân thân chỉ được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ nhân thân
Nhận định trên là sai Hệ thuộc nhân thân được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ nhân
than


quan
hệ
thừa
kế
23- Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng luôn được xác định theo pháp luật nơi xảy
ra
hành
vi
gây
thiệt
hại
Nhận định trên là sai theo Điều 773 BLDS Việt Nam: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng "1. Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật của
nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây
thiệt
hại
24- Khi giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài Tòa án chỉ áp dụng quy phạm
xung
đột
trong
pháp
luật
nước
mình
Nhận định trên là sai ngoài ra còn áp dụng các quy phạm xung đột được các quốc gia
thỏa thuận xây dựng trong các điều ước quốc tế hoặc qua thừa nhận các tập quán quốc


tế
25- Khi áp dụng quy phạm xung đột để giải quyết xung đột pháp luật thì quy phạm

pháp luật xung đột sẽ dẫn chiếu đến quy phạm thực chất hoặc quy phạm pháp luật trong
nước.
Nhận định trên là sai các quy phạm pháp luật quốc gia được áp dụng để điều chỉnh quan
hệ của tư pháp quốc tế khi có sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột của tư pháp quôc tế.
Còn các quy phạm thực chất của tư pháp quốc tế trực tiếp được áp dụng nhằm điều
chỉnh quan hệ tư pháp quôc tế mà không cần sự chỉ dẫn của quy phạm xung đột.
26- Việc áp dụng pháp luật nước ngoài là kết quả của việc áp dụng quy phạm xung đột
để
chọn
luật
áp
dụng
Nhận định trên là sai, về nguyên tắc khi quy phạm xung đột trong pháp luật quốc gia
hoặc quy phạm xung đột trong điều ước quốc tế dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài thì
thì pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng. tuy nhiên pháp luật nước ngoài chỉ được áp
dụng trong các trường hợp trên nếu hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài đó
không làm ảnh hưởng đến trật tự công cộng của quốc gia. Nếu hậu quả của việc áp dụng
pháp luật nước ngoài ảnh hưởng đến trậ tự công cộng của quốc gia thì cơ quan có thẩm
quyền của quốc gia phải từ chối áp dụng pháp luật nước ngoài

BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VÀ HIỆP ĐỊNH TRIPs: MỘT SỐ THÁCH
THỨC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

ThS. Trần Hồng Minh - Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Tư liệu
Nguyễn Hương Giang - Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương - Bộ Kế hoạch
và Đầu tư

I.

BẢO


HỘ

QUYỀN

SỞ

HỮU

TRÍ

TUỆ

THEO

CÁC

CÔNG

ƯỚC

QUỐC

TẾ

Hệ thống pháp luật quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) được hình thành từ cuối thế
kỷ 19 với sự ra đời của hai điều ước nền tảng là Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công
nghiệp (năm 1883) và Công ước Bern về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật (năm
1886). Tiếp đó, hàng loạt các công ước quốc tế về các vấn đề khác liên quan đến quyền
SHTT đã được ký kết như: Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế đối với nhãn hiệu

(năm 1891), Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và các


tổ chức phát sóng (năm 1961), Công ước về bảo hộ giống cây trồng mới (năm 1961),
Hiệp định hợp tác về bằng phát minh sáng chế (năm 1970), Công ước Brussels về việc
phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh (năm 1974),… Sự ra đời của
các điều ước quốc tế nói trên ngày càng khẳng định vai trò của quyền SHTT đối với các
hoạt động đầu tư, sản xuất và thương mại ở từng quốc gia cũng như trong quan hệ kinh
tế quốc tế, đóng góp đáng kể vào việc đặt nền tảng và sự phát triển của hệ thống bảo hộ
quyền SHTT trên phạm vi toàn cầu. Song, do đặc thù của các công ước là tính cưỡng
chế yếu nên trên thực tế, các công ước đã được phê chuẩn vẫn không thể thực hiện có
hiệu quả mục tiêu bảo hộ quyền SHTT. Nguyên do là: thứ nhất, các công ước quốc tế
phần lớn chỉ đề cập tới trình tự bảo hộ quyền SHTT quốc tế, còn yêu cầu pháp lý đối
với các quốc gia lại hạn chến nên đã không đưa ra được một tiêu chuẩn quốc tế về bảo
hộ quyền SHTT cụ thể; thứ hai, các công ước quốc tế phần lớn chỉ chế định quyền
SHTT đối với một loại hình tài sản trí tuệ nhất định mà không có những quy định toàn
diện phạm vi hiệu lực về quyền SHTT; và thứ ba, phần lớn các công ước quốc tế về
quyền SHTT không hề đề cập đến các biện pháp giải quyết tranh chấp về quyền SHTT.
Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thực thi quyền SHTT và là
một trong những tiền đề dẫn tới sự hình thành Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến
thương mại của quyền SHTT (TRIPs) trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO).
II.

1.

BẢO

HỘ


Bối

QUYỀN

cảnh

SỞ

HỮU

ra

TRÍ

đời

TUỆ

THEO

Hiệp

HIỆP

định

ĐỊNH

TRIPS


TRIPs

Từ những năm 1980, quyền SHTT bắt đầu trở thành mối quan tâm thường xuyên và có
ảnh hưởng trực tiếp tới các thể chế thương mại quốc tế. Hệ thống bảo hộ quyền SHTT
của các quốc gia khác nhau đã được đánh giá lại và đòi hỏi phải tuân thủ các tiêu chuẩn
thống nhất có tính chất quốc tế. Sự đóng góp ngày càng tăng của tài sản trí tuệ vào tăng
trưởng kinh tế và tạo ra tri thức một cách nhanh chóng, bao gồm sự xuất hiện của những
công nghệ mới, đã dẫn đến sự thay đổi chính sách về quyền SHTT và sự lựa chọn cách
thức quản lý mới đối với tài sản trí tuệ. Bên cạnh đó, khuynh hướng sử dụng trái phép
các tài sản trí tuệ đã và đang diễn ra ngày một phổ biến và trầm trọng với vấn nạn hàng
giả, hàng nhái bùng nổ trên toàn cầu. Việc bắt chước, sao chép để sản xuất và bán các
sản phẩm có chứa các thành quả sáng tạo đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành
mạnh, đẩy những người đã bỏ công sức đầu tư thực sự ra khỏi thị trường. Thực tế này
đã khiến họ không có khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận cần thiết để tiếp tục các hoạt
động sáng tạo. Do vậy, một số nước phát triển đã bắt đầu sử dụng những biện pháp
thương mại nhằm kiềm chế nạn đánh cắp tài sản trí tuệ ở nước ngoài. Tuy nhiên, trong


thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế, mức độ bảo hộ quyền SHTT ở các quốc gia là
khác nhau, nên thường dẫn tới tình trạng các tranh chấp thương mại không được giải
quyết
theo
tiêu
chí
thống
nhất.
Trong bối cảnh đó, việc tạo lập một hệ thống bảo hộ quyền SHTT có tính bắt buộc trên
phạm vi quốc tế nhằm ngăn chặn việc sử dụng trái phép tài sản trí tuệ và khuyến khích,
thúc đẩy hoạt động sáng tạo đang ngày càng trở nên bức thiết. Phần lớn các quốc gia
đều nhất trí rằng cần phải nghiên cứu, thảo luận nhằm hình thành một công ước mới

điều tiết các vấn đề về quyền SHTT. Hiệp định TRIPs của WTO (được ký kết năm 1994
và chính thức có hiệu lực vào tháng 1/1995) đã ra đời nhằm giải quyết một cách toàn
diện vấn đề bảo hộ quyền SHTT. Với Hiệp định này, lần đầu tiên những quy định về
quyền SHTT được đưa vào hệ thống thương mại đa biên và người ta kỳ vọng rằng Hiệp
định sẽ “góp phần thúc đẩy việc cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại
lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng công nghệ cũng như lợi ích kinh tế - xã
hội nói chung và đảm bảo sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ” (Điều 7, Hiệp định
TRIPs).
2.

Nội

dung



bản

của

Hiệp

định

TRIPs

Các quy định mới điều chỉnh những vấn đề liên quan đến thương mại của quyền SHTT
thông qua Hiệp định TRIPs đã trở thành một phương tiện giúp củng cố trật tự, cũng như
giải quyết tranh chấp một cách có hệ thống hơn trên phạm vi toàn cầu. Hiệp định nêu ra
các nguyên tắc và ấn định mức độ bảo hộ tối thiểu mà mỗi quốc gia thành viên phải bảo

đảm cho quyền SHTT của các quốc gia thành viên khác. Trên cơ sở đó, Hiệp định tạo ra
sự cân bằng giữa lợi ích lâu dài và chi phí ngắn hạn đối với xã hội. Cũng như trong các
hiệp định khác của WTO, Hiệp định TRIPs dựa trên một số nguyên tắc cơ bản, đó là
nguyên tắc đối xử quốc gia [1], đối xử tối huệ quốc [2] và bảo hộ cân bằng [3]. Các
nguyên tắc này không chỉ áp dụng đối với các tiêu chuẩn về nội dung bảo hộ mà còn áp
dụng cả đối với những vấn đề liên quan đến khả năng đạt được, xác lập phạm vi, duy trì

thực
thi
quyền
SHTT.
Hiệp định TRIPs đề cập chi tiết đến các quyền SHTT khác nhau và cách thức bảo hộ.
Các thành viên của WTO đều bắt buộc phải xây dựng hệ thống bảo hộ quyền SHTT
quốc gia nhằm đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiểu được nêu trong Hiệp định theo
hai chuẩn mực cơ bản về bảo hộ, đó là tính đầy đủ và tính hiệu quả của hệ thống pháp
luật về quyền SHTT hiện hành. Nền tảng của Hiệp định là những nghĩa vụ được nêu
trong các hiệp định quốc tế ký kết trong khuôn khổ Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới
(WIPO) như Công ước Paris, Công ước Bern. Ngoài ra, Hiệp định TRIPs còn bổ sung


một số lượng lớn các quy định mới. Cụ thể, các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của
Hiệp định TRIPs bao gồm: quyền tác giả và quyền liên quan; nhãn hiệu hàng hóa và
thương hiệu; chỉ dẫn địa lý; bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp; bằng sáng chế; sơ đồ bố
trí
mạch
tích
hợp

bảo
vệ

thông
tin

mật.
a.

Tiêu

chuẩn

bảo

hộ

- Quyền tác giả: Điều 9.1 Hiệp định TRIPs quy định các thành viên WTO phải tuân thủ
Công ước Bern từ Điều 1 đến Điều 21 và Phụ lục kèm theo. Quyền tác giả được bảo hộ
cho đến 50 năm sau khi tác giả qua đời. Hiệp định TRIPs quy định các chương trình
máy tính và cơ sở dữ liệu cũng được bảo vệ như các tác phẩm văn học theo đúng Công
ước
Bern.
- Nhãn hiệu hàng hóa: Điều 15 Hiệp định TRIPs quy định mọi dấu hiệu hoặc sự kết hợp
các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng
hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp khác đều có thể được bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa.
Trong hoạt động thương mại, chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa có quyền ngăn chặn bên
thứ ba sử dụng các dấu hiệu trùng hoặc tương tự đối với hàng hóa, dịch vụ giống hệt
hay tương tự với hàng hóa, dịch vụ đã được đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của mình nếu
việc này có nguy cơ gây nhầm lẫn. Điều 16 của Hiệp định quy định các thành viên
WTO phải tuân thủ Điều 6 bis của Công ước Paris liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng. Các thành viên WTO có thể quy định các điều kiện cấp phép và chuyển nhượng
nhãn hiệu hàng hóa, trong đó không được quy định việc cấp phép bắt buộc và chủ sở

hữu nhãn hiệu hàng hóa đã đăng ký có quyền chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hóa đó có
hoặc không kèm theo việc chuyển nhượng cơ sở kinh doanh mang nhãn hiệu hàng hóa
đó. Thời hạn bảo hộ một nhãn hiệu hàng hóa không dưới 7 năm và có thể được gia hạn
với
số
lần
không
hạn
chế.
-Chỉ dẫn địa lý: là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ một nước, khu vực hay địa
phương thuộc nước đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định do xuất xứ địa lý
quyết định (Điều 22). Các thành viên WTO phải quy định những biện pháp để các bên
liên quan ngăn chặn việc mô tả gây nhầm lẫn cho công chúng về xuất xứ địa lý của
hàng hóa hoặc tạo thành “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” theo điều 10 bis Công
ước
Paris.
- Bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp: Điều 25 Hiệp định TRIPs quy định các thành viên
WTO phải bảo hộ những kiểu dáng công nghiệp được sáng tạo một cách độc lập, có
tính mới hoặc tính sáng tạo ít nhất trong vòng 10 năm. Chủ sở hữu các bản vẽ được bảo


hộ có quyền ngăn cấm việc sản xuất, bán hoặc nhập khẩu các sản phẩm mang hoặc có
chứa hình vẽ giống với hình vẽ đã được bảo hộ. Hiệp định TRIPs cho phép các thành
viên tùy ý quyết định bảo hộ kiểu dáng hàng dệt bằng kiểu dáng công nghiệp hoặc bằng
quyền
tác
giả.
- Bằng sáng chế: Hiệp định quy định các sáng chế có thể được bảo hộ thông qua bằng
sáng chế trong vòng ít nhất 20 năm. Trong hầu hết các lĩnh vực công nghệ, cả sản phẩm
lẫn phương thức sản xuất đều được bảo hộ. Chính phủ các nước có thể từ chối cấp bằng

sáng chế nếu việc khai thác kinh doanh chúng bị cấm vì vi phạm trật tự công cộng hoặc
đạo đức. Hiệp định đề ra các quyền tối thiểu dành cho người sở hữu bằng sáng chế, tuy
nhiên, cũng quy định một số ngoại lệ để đối phó với trường hợp người sở hữu bằng
sáng chế lạm dụng quyền của mình (như không cung ứng sản phẩm cho thị trường).
Trong trường hợp này, theo một số điều kiện nhất định trong Hiệp định, chính phủ các
nước có thể cấp “giấy phép bắt buộc” cho phép các nhà sản xuất khác sản xuất sản
phẩm này hoặc được phép sử dụng quy trình sản xuất đã được bảo hộ. Một số quy định
mềm dẻo như vậy đặc biệt có ý nghĩa trong việc tiếp cận những sản phẩm thiết yếu,
nhất là đối với các nước đang phát triển và kém phát triển.
- Thiết kế bố trí mạch tích hợp: Hiệp định TRIPs quy định việc bảo hộ sơ đồ bố trí mạch
tích hợp trên cơ sở Hiệp định Washington về quyền SHTT trong lĩnh vực mạch tích
hợp. Theo điều 36, các hành vi nhập khẩu, bán hoặc phân phối nhằm mục đích thương
mại một thiết kế bố trí mạch tích hợp được bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu
được coi là bất hợp pháp. Điều 37 quy định, các thành viên sẽ không coi những hành vi
liên quan đến việc vi phạm quyền sở hữu một thiết kế bố trí mạch tích hợp do vô ý là
bất hợp pháp nhưng sẽ yêu cầu bồi thường cho chủ sở hữu thiết kế bố trí mạch tích hợp
sau
khi

thông
báo
vi
phạm.
- Bảo hộ thông tin bí mật: Hiệp định TRIPs không yêu cầu các thành viên phải bảo hộ
thông tin bí mật như một dạng sở hữu mà chỉ dành cho người có quyền kiểm soát thông
tin đó khả năng ngăn chặn việc người khác làm tiết lộ, chiếm đoạt hoặc sử dụng trái
phép thông tin này trái với hành vi thương mại trung thực. Điều 39 quy định các thành
viên không được phép tiết lộ những dữ liệu mật được nộp cho các cơ quan chính phủ để
xin phép lưu hành dược phẩm hoặc nông hóa phẩm (trừ trường hợp cần thiết nhằm bảo
vệ công chúng hoặc khi đã tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo các dữ liệu đó

không bị tiết lộ) nhằm mục tiêu thương mại không lành mạnh.
- Kiểm soát hành vi chống cạnh tranh trong hợp đồng chuyển giao quyền SHTT (Hợp
đồng lixăng): Chủ sở hữu quyền SHTT có thể cho phép người khác sản xuất hay sao


chép nhãn hiệu hàng hóa hoặc thương hiệu, tác phẩm, sáng chế, bản vẽ hoặc các mẫu
mã được bảo hộ. Hiệp định TRIPs thừa nhận trong số các điều kiện của hợp đồng
chuyển giao, người chủ sở hữu có thể hạn chế cạnh tranh hoặc cản trở việc chuyển giao
công nghệ. Hiệp định quy định chính phủ các nước, trong một số điều kiện nhất định,
có quyền áp dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa hành vi phản cạnh tranh và lạm dụng
quyền SHTT trong lĩnh vực nhượng bản quyền, và phải sẵn sàng tham khảo lẫn nhau
nhằm
chống
lại
các
hành
vi
này.
b.

Thực

thi

quyền

sở

hữu


trí

tuệ

Thực thi có hiệu quả quyền SHTT là vô cùng cần thiết. Chính vì vậy, ngoài việc quy
định các nội dung về quyền SHTT cần được bảo hộ, Hiệp định TRIPs đã dành một phần
không nhỏ quy định việc ban hành luật pháp về bảo hộ quyền SHTT và xử lý các
trường hợp vi phạm của chính phủ các nước thành viên. Điều 41 quy định các thành
viên WTO phải đảm bảo khả năng khiếu kiện có hiệu quả đối với mọi hành vi xâm
phạm các loại quyền SHTT được đề cập trong Hiệp định, trong đó có những chế tài
khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm cũng như không để các hành vi xâm
phạm tiếp diễn. Mặt khác, những thủ tục này phải được áp dụng theo cách thức tránh
tạo ra các hàng rào cản trở hoạt động thương mại hợp pháp. Theo Hiệp định, tòa án
quốc gia cần phải có những biện pháp hữu hiệu, kịp thời để bảo vệ các chứng cứ của
hành vi vi phạm quyền SHTT; sau khi đã xác định rõ chứng cứ vi phạm, tòa án phải ra
phán quyết yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại cho người nắm giữ quyền
SHTT. Hiệp định cũng kêu gọi các quốc gia cần lưu ý, trong trường hợp trên thị trường
xuất hiện hành vi ăn cắp bản quyền với quy mô lớn, theo khung hình phạt, người có
hành vi vi phạm bản quyền sẽ bị khởi tố, có thể bị phạt tù, hoặc chịu các hình phạt khác.
Các thủ tục và biện pháp chế tài theo quy định của Hiệp định TRIPs gồm 2 nhóm cơ
bản: các biện pháp chế tài dân sự, hành chính và hình sự.
Giải

quyết

tranh

chấp

Tranh chấp phát sinh liên quan đến Hiệp định TRIPs là quy định quan trọng nhất trong

lĩnh vực này và sẽ được giải quyết theo quy định của Cơ quan giải quyết tranh chấp của
WTO (DSB). Điều 63 yêu cầu các thành viên WTO phải công bố, hoặc ít nhất cho công
chúng tiếp cận bằng ngôn ngữ quốc gia, tất cả các luật, quy định, quyết định xét xử cuối
cùng và quyết định hành chính giải quyết vụ việc liên quan đến việc đăng ký, bảo hộ,
thực thi, ngăn chặn lạm dụng quyền SHTT. Ngoài ra, các thành viên phải công bố mọi
thỏa thuận đã ký với các thành viên WTO khác trong lĩnh vực quyền SHTT.


3. Những thách thức đối với các nước đang phát triển khi thực hiện Hiệp định
TRIPs
Sự ra đời của Hiệp định TRIPs đã gây ra nhiều cuộc tranh luận về tác động của việc bảo
hộ quyền SHTT đối với các mục tiêu phát triển. Theo quan điểm của các nước công
nghiệp, việc bảo hộ quyền SHTT là một phần thưởng cho hoạt động sáng tạo và đổi
mới sản phẩm trí tuệ. Do vậy, hệ thống bảo hộ quyền SHTT theo Hiệp định TRIPs được
đánh
giá
tương
đối
tích
cực

các
nước
phát
triển.
Về phía các nước đang phát triển, chấp nhận Hiệp định TRIPs là một sự nhượng bộ để
đổi lấy việc đưa dệt may và nông nghiệp vào Vòng đàm phán Urugoay, bởi theo họ,
Hiệp định TRIPs chủ yếu bảo vệ quyền lợi của các nước phương Tây. Ở một chừng
mực nhất định, lo ngại này là hoàn toàn có cơ sở do việc chấp nhận các tiêu chuẩn cao
của Hiệp định TRIPs trước mắt sẽ tạo ra những thách thức lớn đối với mục tiêu phát

triển kinh tế - xã hội của các nước nghèo. Hiệp định đã không xem xét một cách thích
đáng sự khác biệt giữa hai khối quốc gia phát triển và đang phát triển trong quá trình
phát triển khoa học - công nghệ cũng như không có các biện pháp cụ thể nhằm rút ngắn
khoảng cách này. Không những thế, Hiệp định lại chỉ chú trọng đến quyền SHTT,
không đề cập đến trách nhiệm xã hội của quyền sở hữu này và như vậy vô hình chung
sẽ làm tăng thêm khoảng cách giữa hai khối quốc gia này. Mặc dù WTO đã lưu ý đến
mức độ phát triển thấp hơn của các nước đang phát triển, từ đó đề ra các biện pháp đối
xử đặc biệt và khác biệt (S&DT) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia nghèo
thực hiện các điều khoản đã cam kết, song các nước đang phát triển đã không thể khai
thác triệt để lợi thế này do tính chất không bắt buộc của các biện pháp ưu tiên đó.
Một số khó khăn khác mà Hiệp định TRIPs có thể gây ra cho các nước đang phát triển
thể
hiện

những
khía
cạnh
sau:
- Cơ chế bảo hộ quyền SHTT khắt khe tạo ra sự bất bình đẳng giữa các nền kinh tế tiên
tiến với các nền kinh tế nhỏ, lạc hậu và giữa các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp
nhỏ. Các nước đang phát triển đều có chung mối lo ngại nhất định khi cân nhắc việc
bảo hộ quyền SHTT. Mối lo ngại đầu tiên là các nhà phát triển công nghệ và chủ sở hữu
công nghệ thường ở các nước phát triển. Phần lớn các bằng sáng chế công nghệ được
cấp ở các nước đang phát triển đều nằm trong tay người nước ngoài [4]. Tình hình nói
trên cho thấy, các chủ thể của nước đang phát triển không có nhiều cơ hội sử dụng cơ
chế bảo hộ quyền SHTT của các nước khác, trong khi hệ thống bảo hộ quyền SHTT của
các nước này lại được các chủ thể nước ngoài khai thác với cơ hội lớn hơn rất nhiều.


Khả năng tài chính hạn hẹp và quy mô phần lớn là nhỏ của doanh nghiệp tại các nước

đang phát triển cũng là một hạn chế lớn để doanh nghiệp các nước phát triển khai thác
được cơ chế bảo hộ quyền SHTT ở các nước khác. Khi xảy ra tranh chấp về xâm phạm
quyền SHTT của các nước đang phát triển ở nước ngoài, thủ tục tư pháp phức tạp, chi
phí thuê luật sư cao,… đã khiến cho nhiều doanh nghiệp không đủ sức theo đuổi các vụ
kiện tụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Một vấn đề gây khó khăn nữa cho
các nước đang phát triển là việc các nước công nghiệp tiên tiến ngày càng lạm dụng
quyền SHTT để trừng phạt thương mại hay trả đũa trong hoạt động thương mại. Biểu
hiện mới này đang là yếu tố gây nhiều bất lợi cho các nước kém và đang phát triển, bởi
các nước đó chưa thể hoàn thiện hệ thống bảo hộ quyền SHTT ngang bằng với trình độ
chung
của
thế
giới.
- Ở một mức độ nhất định, Hiệp định TRIPs đã có tác động xấu đến mục tiêu phát triển
của các nước nghèo. Hiệp định chủ yếu thiên về những người nắm giữ bản quyền (phần
lớn từ các nước phát triển), trong khi làm tổn hại đến người tiêu dùng ở các quốc gia
đang
phát
triển
[5].
Hơn nữa, bảo hộ nghiêm ngặt quyền SHTT về công nghệ sẽ ngăn cản và hạn chế quá
trình truyền bá và phổ biến công nghệ - một quá trình rất cần thiết trong chính sách phát
triển, nhất là đối với các nước đang phát triển có trình độ công nghệ thấp. Do vậy, tình
trạng bảo hộ cứng rắn theo Hiệp định TRIPs đối với các quyền SHTT có thể gây ra hậu
quả nghiêm trọng: tạo thế độc quyền cho người nắm giữ quyền SHTT, gây nguy cơ
nâng giá bán sản phẩm và khống chế giá bất hợp lý, từ đó tạo ra sự khan hiếm hàng hóa,
làm nảy sinh tình trạng khó tiếp cận đối với hàng hóa, sản phẩm. Tình trạng này ngày
càng trở nên rõ rệt đối với các nước có trình độ phát triển công nghệ và mức sống thấp
như Việt Nam. Mặt khác, thời gian bảo hộ quyền SHTT theo Hiệp định TRIPs quá lâu
sẽ tăng cường quyền lực cho giới chủ của các nước giàu trong khi hạn chế doanh nhân

nước nghèo tiếp nhận những tri thức thậm chí đã trở thành công cộng.
- Tác động xấu đến đời sống của người nông dân: Việc thực thi quyền SHTT thông qua
bảo hộ các loại giống cây trồng có thể dẫn đến việc người nông dân phải mua giống cây
từ các nhà sản xuất giống ở các quốc gia phát triển với mức giá cắt cổ. Điều này sẽ ảnh
hưởng tới ngành sản xuất giống cây và làm gia tăng chi phí sản xuất nông nghiệp cũng
như
giá
thành
của
các
loại
nông
sản
[6].
- Chi phí lớn cho việc thực hiện Hiệp định TRIPs: Việc bảo hộ quyền SHTT của Hiệp
định TRIPs theo những điều kiện ngặt nghèo của các nước phát triển đòi hỏi các nước


đang phát triển phải dành ra những nguồn lực không nhỏ trong tổng nguồn lực vốn đã
hạn chế của mình. Theo ước tính của WB, chi phí để thực hiện một hiệp định của WTO
có thể lên tới 100 triệu USD. Đây là thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển,
đặc biệt là các nước nghèo. Ở cấp độ vi mô, cơ chế bảo hộ quyền SHTT với tiêu chuẩn
cao theo Hiệp định TRIPs sẽ đặt các doanh nghiệp và các nhà đầu tư của các nước đang
phát triển vào một môi trường pháp lý phức tạp hơn, buộc họ phải chi phí nhiều hơn cho
việc sử dụng cơ chế này. Để sử dụng có hiệu quả cơ chế bảo hộ quyền SHTT, các
doanh nghiệp cần phải đầu tư thời gian học hỏi. Tất cả những điều này đã tạo thêm gánh
nặng, hình thành một loại rào cản đối với nỗ lực xâm nhập vào thị trường trong và
ngoài nước của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới. Như vậy, tại các
nước đang phát triển, việc tăng cường bảo hộ quyền SHTT có nguy cơ làm phương hại
đến các mục tiêu phát triển chung của họ. Với việc thực hiện các cam kết nhằm thúc

đẩy sự bảo hộ mạnh mẽ hơn đối với các tài sản trí tuệ, các nước đang phát triển sẽ bị
lâm vào tình thế hết sức bất lợi để duy trì sức cạnh tranh của nền kinh tế ngay trên sân
nhà cũng như trên thị trường toàn cầu. Nhìn toàn cục quá trình hình thành và nội dung
đã có hiệu lực của Hiệp định TRIPs, có thể thấy rằng các nước công nghiệp tiên tiến sẽ
có lợi hơn trong quá trình thực thi Hiệp định TRIPs và các nước đang phát triển trước
mắt

thể
chịu
một
phần
thua
thiệt.
Tuy nhiên, như đã phân tích, vấn đề bảo hộ quyền SHTT không thể tách rời thương mại
toàn cầu và quá trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển phụ thuộc rất nhiều
vào việc tiếp cận thị trường các nước phát triển. Bên cạnh đó, về trung và dài hạn, bảo
hộ quyền SHTT chắc chắn sẽ mang lại lợi ích cho cả những nước nghèo. Vì vậy, hầu
hết các nước đang phát triển đã dần chuyển sang thái độ chấp nhận việc bảo hộ quyền
SHTT. Trên thực tế, một số nước đang phát triển đã có thành công nhất định trong nỗ
lực thực hiện các quy định của Hiệp định TRIPs và hạn chế được những ảnh hưởng tiêu
cực của Hiệp định, bước đầu gặt hái được những lợi ích từ hệ thống bảo hộ SHTT./.



×