Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ phần dịch vụ lỹ thuật bảo an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.48 KB, 76 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Hoà vào xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới với nhiều cam go và thử
thách một nền kinh tế năng động và mang nhiều tính cạnh tranh để bắt kịp nhịp độ
phát triển chung đấy, Việt Nam đang cố gắng nỗ lực xây dựng về vật lực để có một
nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế. Một trong những vấn đề mà Việt Nam
cần phải chú trọng đầu tư và phát triển đó là vốn.
Vốn có vai trò rất quan trọng nó là thứ không thể thiếu được của nền kinh tế
thế giới, của quốc gia, của doanh nghiệp và của từng cá nhân. Vốn là điều kiện cần
cho quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá. Để doanh nghiệp được hình thành và có
thể tiến hành sản xuất kinh doanh được thì bắt buộc doanh nghiệp phải có vốn để
hoạt động. Từ việc hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp sẽ đi đến một định
hướng đó là sự tồn tại lâu dài sự phát triển bền vững trong một môi trường cạnh
tranh khốc liệt. Muốn làm được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có khả năng sử
dụng vốn của mình sao cho đạt hiệu quả nhất. Để từ đó không những doanh nghiệp
có thể tồn tại được có chỗ đứng của mình trên thương trường mà còn có thể sử
dụng những thuận lợi từ việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn đem lại để tiến hành tái
đầu tư, tái sản xuất mở rộng quy mô đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển lớn
mạnh hơn.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong
doanh nghiệp được sự giúp đỡ của ban lãnh đạo công ty cùng các cán bộ chuyên
môn các phòng ban nghiệp vụ cùng với sự chỉ bảo tận tình của giảng viên hướng dẫn
em đã tiến hành phân tích những số liệu tài chính của công ty cooe phàn dịch vụ kỹ
thuật Bảo An cô để đánh giá những mặt mạnh cũng như những hạn chế trong công tác
hoạt động quản lý và sử dụng vốn tại công ty, em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần dịch vụ lỹ thuật Bảo An".
Tình hình sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần dịch vụ
kỹ thuật Bảo An trong 3 năm từ 2013-2015.
1


Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần dịch vụ kỹ thuật Bảo


An qua các tài liệu và đặc biệt là các BCTC, báo cáo tổng kết của Công ty trong
vòng 3 năm 2013-2015 từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
của Công ty Cổ Phần dịch vụ kỹ thuật Bảo An.
Trong đề tài có sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh… làm phương pháp
luận căn bản cho việc nghiên cứu.Bên cạnh đó, còn sử dụng các phương pháp phân
tích các nhân tố ảnh hưởng đến các chỉ tiêu, tổng hợp ý kiến chuyên gia tại công .
Bố cục của báo cáo ngoài phẩn mở đầu và kết luận, báo cáo gồm 3 chương:
Chương 1: cơ sở lý luận về hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Chương 2: phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của công ty cổ phần
dịch vụ kỹ thuật Bảo An.
Chương 3: một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty
cổ phần dịch vụ kỹ thuật Bảo An.

2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1 TỔNG QUAN VỀ VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.1 Khái niệm và phân loại vốn
1.1.1.1 Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh,
các doanh nghiệp cần phải có các yếu tố cơ bản sau: Sức lao động, đối tượng lao
động và tư liệu lao động. Để có được yếu tố này đòi hỏi doanh nghiệp phải ứng ra
một số vốn nhất định phù hợp với quy mô và điều kiện kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thường xuyên vận động và chuyển hoá từ
hình thái ban đầu là tiền sang hình thái hiện vật và cuối cùng lại trở về hình thái
ban đầu là tiền. Sự vận động của vốn kinh doanh như vậy được gọi là sự tuần hoàn
của vốn. Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên

tục, lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ tạo thành sự chu chuyển của vốn kinh doanh.
Sự chu chuyển của vốn kinh doanh chịu sự chi phối rất lớn bởi đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành kinh doanh.
Từ những phân tích trên có thể rút ra: Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là
biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản được huy động, sử dụng vào hoạt
động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Vốn kinh doanh không chỉ là điều kiện tiên quyết đối với sự ra đời của doanh
nghiệp mà nó còn là một trong những yếu tố giữ vai trò quyết định trong quá trình
hoạt động và phát triển của doanh nghiệp.
1.1.1.2 Phân loại vốn
Phân loại vốn là yêu cầu cơ bản của công tác quản lý, sử dụng vốn. Tuỳ theo
mục đích của người quản lý mà có nhiều cách phân loại vốn khác nhau
* Theo kết cấu của bảng cân đối kế toán
Có các nguồn vốn và quỹ sau đây được sử dụng vào mục đích sản xuất kinh
doanh, đó là:
3


- Nguồn vốn kinh doanh.
- Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
- Nguồn vốn vay ngắn hạn và dài hạn.
- Quỹ phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Quỹ khen thưởng, phúc lợi.
- Quỹ dự trữ.
- Nguồn khác: phát hành cổ phiếu, trái phiếu…
* Theo quan hệ sở hữu về vốn
Căn cứ theo quan hệ sở hữu, vốn trong doanh nghiệp được chia thành:
Vốn chủ sở hữu: là số vốn kinh doanh thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp có đầy đủ các quyền chi phối, chiếm hữu và định đoạt.
Vốn nợ: là các khoản vốn được hình thành từ vốn vay của các tổ chức tín dụng,
vay thông qua phát hành trái phiếu, các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán.

* Theo nguồn hình thành vốn
Vốn tự có: Là phần vốn do các chủ doanh nghiệp, chủ đầu tư bỏ ra để đầu tư
vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khi mới thành lập hoặc đầu tư
dự án mới. Theo quy định của pháp luật, số vốn tự có ban đầu khi thành lập doanh
nghiệp không thấp hơn số vốn pháp định đối với loại hình doanh nghiệp đó hoặc
không thấp hơn tổng số vốn đầu tư của dự án nếu dùng để đầu tư thực hiện dự án.
Vốn tín dụng: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tuỳ thuộc vào
nhu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể tiến hành vay vốn
từ nhiều nguồn khác nhau. Đây là một nguồn vốn quan trọng để các doanh nghiệp
có thể lựa chọn trong nhiều hình thức huy động vốn nhằm bổ sung cho nhu cầu vốn
của mình. Tuy nhiên, khi vay vốn bên cạnh nhu cầu về vốn doanh nghiệp nhất thiết
phải tính đến một số yếu tố về khả năng kinh doanh, khả năng trả nợ, lãi suất...
Vốn liên doanh: Là nguồn vốn hình thành bởi sự góp vốn giữa các doanh
nghiệp trong nước hoặc nước ngoài để hình thành nên một doanh nghiệp mới hoặc
để thực hiện chung một công việc kinh doanh và cùng hưởng lợi nhuận. Mức độ
4


góp vốn giữa các doanh nghiệp với nhau tuỳ thuộc vào thoả thuận giữa các bên
tham gia liên doanh.
Thuê tài sản: Do những hạn chế nhất định về vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh hoặc do doanh nghiệp muốn tận dụng cơ hội có được nguồn vốn kinh
doanh với chi phí thấp nên hiện nay ngày càng có nhiều doanh nghiệp tìm nguồn tài
trợ bằng việc sử dụng các hình thức tín dụng thuê mua.
* Theo phạm vi sử dụng vốn
Căn cứ theo phạm vi sử dụng, vốn được chia thành:
Vốn đầu tư tại doanh nghiệp: Là số vốn đầu tư trực tiếp phục vụ sản xuất
kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp sản xuất số vốn này
chiếm hầu như toàn bộ số vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn đầu tư ra bên ngoài: Là số vốn được sử dụng để đầu tư ra bên ngoài

doanh nghiệp hay còn gọi là đầu tư tài chính. Đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp
thường được tiến hành dưới các hình thức: góp vốn liên doanh, đầu tư mua cổ
phần, trái phiếu.
* Theo đặc điểm chu chuyển của vốn
Đây là tiêu thức phân loại vốn chủ yếu nhất, có hiệu quả nhất trong việc quản
lý vốn. Căn cứ theo tiêu thức này, vốn được chia thành hai loại: vốn cố định và vốn
lưu động.
Trên đây là một số cách phân loại vốn chủ yếu của doanh nghiệp. Tuỳ theo
từng loại hình doanh nghiệp và đặc điểm hoạt động mà mỗi doanh nghiệp tiến hành
phân loại vốn theo tiêu thức nhất định để thuận tiện cho việc quản lý và sử dụng
vốn có hiệu quả.
1.1.2 Vốn cố định và vốn lưu động
1.1.2.1 Vốn cố định
a) Tài sản cố định
* Khái niệm tài sản cố định.

5


Tư liệu lao động là một trong các yếu tố quan trọng không thể thiếu để tiến
hành hoạt động kinh doanh. Trong một doanh nghiệp thường có nhiều loại tư liệu
lao động khác nhau. Xét về mặt giá trị, có loại có giá trị rất lớn, có loại giá trị tương
đối nhỏ. Xét về mặt thời gian sử dụng, có loại có thời gian sử dụng rất dài, có loại
thời gian sử dụng tương đối ngắn. Để thuận tiện cho công tác quản lý, người ta chia
tư liệu lao động ra thành hai loại: Tài sản cố định và công cụ, dụng cụ nhỏ.
Theo quy định mới nhất của Bộ Tài chính, một tư liệu lao động được coi là
tài sản cố định khi nó thoả mãn đồng thời cả hai yếu tố sau:
+ Tiêu chuẩn về thời gian: Phải có thời gian sử dụng từ một năm trở lên.
+ Tiêu chuẩn về giá trị: Phải có giá trị tối thiểu ở một mức nhất định do Nhà
nước quy định phù hợp với tình hình kinh tế của từng thời kỳ (theo chế độ kế toán

ban hành theo quyết định 15/2006/BTC thì TSCĐ có giá từ 10.000.000 trở lên)
Đây là hai tiêu chuẩn quan trọng. Ngoài ra, tuỳ theo từng Quốc gia còn có
thể đưa ra các tiêu chuẩn định tính.
Những tư liệu lao động không đủ các tiêu chuẩn quy định trên được coi là
công cụ lao động nhỏ, được hạch toán trực tiếp hoặc được phân bổ dần vào chi phí
kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong điều kiện phát triển và ứng dụng nhanh chóng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ như hiện nay, trong một số trường hợp, doanh nghiệp phải đầu
tư một lượng giá trị lớn, kết quả đầu tư tuy không tạo ra một thực thể vật chất cụ
thể, nhưng khoản đầu tư đó phục vụ cho nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh như:
Quyền phát hành, bằng phát minh sáng chế…Những khoản đầu tư như vậy đã tạo
ra một loại tài sản không có hình thái vật chất và nếu thoả mãn tất cả các tiêu chuẩn
quy định là tài sản cố định thì được coi là tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp.
Tài sản cố định có những đặc điểm riêng biệt như thời gian sử dụng lâu dài,
có giá trị lớn cho các hoạt động của doanh nghiệp và phải thoả mãn đồng thời tất cả
các tiêu chuẩn là tài sản cố định.

6


Trong điều kiện hiện nay, việc đầu tư đổi mới tài sản cố định đặc biệt là đối
với thiết bị, công nghệ, là một trong các yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp, bởi vì:
- Tài sản cố định là yếu tố quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Nhờ đổi mới tài sản cố định mới có được năng suất cao, chất lượng sản
phẩm tốt, chi phí tạo ra sản phẩm thấp tạo điều kiện đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm,
tăng doanh thu và do đó doanh nghiệp mới có đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Xét trên góc độ này, đầu tư đổi mới tài sản cố định kịp thời, hợp lý trở thành vấn đề
sống còn đối với mỗi doanh nghiệp.

- Đổi mới tài sản cố định kịp thời, hợp lý còn có ý nghĩa quan trọng trong
việc giảm nhân lực, giải phóng lao động thi công nặng nhọc, đảm bảo an toàn cho
người lao động, tạo ra tư thế, tác phong của người sản xuất lớn.
- Xét trên góc độ tài chính doanh nghiệp, sự nhạy cảm trong đầu tư đổi mới
tài sản cố định là một nhân tố quan trọng để giảm chi phí như: chi phí sửa chữa lớn
tài sản cố định, hạ thấp hao phí năng lượng, giảm chi phí biến đổi để tạo ra sản
phẩm và là biện pháp rất quan trọng để hạn chế hao mòn vô hình. Đồng thời việc
tăng cường đổi mới tài sản cố định kịp thới, đúng hướng tạo ra lợi thế cho doanh
nghiệp trong thu hút vốn đầu tư cho kinh doanh, tạo ra triển vọng lớn cho doanh
nghiệp chiếm lĩnh không chỉ thị trường trong nước mà còn thị trường khu vực và
Quốc tế.
* Phân loại tài sản cố định.
- Phân loại theo hình thái biểu hiện và công dụng kinh tê:
+ Tài sản cố định hữu hình
+ Tài sản cố định vô hình.
- Phân loại theo mục đích sử dụng:
+ Tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh.

7


+ Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc
phòng.
- Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng.
+ Tài sản cố định đang dùng.
+ Tài sản cố định chưa cần dùng.
+ Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh lý.
b) Vốn cố định
Trong nền kinh tế thị trường, để có được các tài sản cố định cần thiết cho
hoạt động kinh doanh doanh nghiệp phải đầu tư ứng trước một lượng vốn tiền tệ

nhất định. Số vốn doanh nghiệp ứng ra để hình thành nên tài sản cố định được gọi
là vốn cố định của doanh nghiệp.
Là số vốn đầu tư ứng trước đẻ mua sắm, sửa chữa các tài sản cố định nên
quy mô của vốn cố định lớn hay nhỏ sẽ quyết định đến quy mô, tính đồng bộ của
tài sản cố định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ sản
xuất, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong quá trình tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, tài sản cố định bị hao
mòn, giá trị của tài sản cố định chuyển dần dần từng phần vào giá trị sản phẩm. Theo
đó, vốn cố định cũng được tách thành hai phần, một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản
xuất (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố
định. Phần còn lại của vốn cố định được “cố định” trong tài sản cố định. Trong các
chu kỳ sản xuất tiếp theo, nếu như phần vốn luân chuyển được dần dần tăng lên thì
phần vốn “cố định” lại dần dần giảm đi tương ứng với mức giảm dần giá trị sử dụng
của tài sản cố định. Kết thúc sự biến thiên ngược chiều đó cũng là lúc tài sản cố định
hết thời gian sử dụng và vốn cố định hoàn thành một vòng luân chuyển.
Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm về vốn cố định như sau: Vốn
cố định của doanh nghiệp là bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định.
Đặc điểm của nó là chu chuyển giá trị dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ kinh

8


doanh và hoàn thành một vòng chu chuyển khi tái sản xuất được tài sản cố định về
mặt giá trị.
* Yêu cầu quản lý tài sản cố định.
- Phải quản lý tài sản cố định như là yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh,
điều này góp phần tạo ra năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Do đó, kế toán theo
dõi tài sản cố định cũng như các nhà quản lý phải nắm rõ các thông tin về số lượng
tài sản hiện có, tình hình biến động tăng giảm của tài sản cố định, tình trạng hoạt
động của tài sản cố định tại đơn vị để có thể có kế hoạch và biện pháp sử dụng có

hiệu quả nhất.
- Phải cung cấp những thông tin về các loại nguồn vốn đã đầu tư để hình
thành tài sản và chi tiết vốn đầu tư cho chủ sở hữu, phải biết được nhu cầu vốn cần
thiết để đầu tư mới cũng như để sửa chữa tài sản cố định.
- Phải quản lý tài sản cố định đã sử dụng như là một bộ phận chi phí sản xuất
kinh doanh. Do đó yêu cầu kế toán phải tính đúng, tính đủ mức khấu hao tích luỹ
từng thời kỳ kinh doanh theo hai mục đích: thu hồi được vốn đầu tư hợp lý và đảm
bảo khả năng bù đắp được chi phí.
- Quản lý tài sản cố định còn là bảo vệ tài sản cho doanh nghiệp không
những đảm bảo cho tài sản cố định “sống” mà là “sống có ích” cho doanh nghiệp,
đảm bảo khả năng tái sản xuất và có kế hoạch đầu tư mới khi cần thiết.
1.1.2.2 Vốn lưu động
a) Khái niệm và nội dung vốn lưu động
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, ngoài các tài sản cố định, doanh nghiệp
cần phải có các tài sản lưu động. Tài sản lưu động của doanh nghiệp bao gồm 2 bộ
phận là tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông.
- Tài sản lưu động sản xuất: Gồm một bộ phận là những vật tư dự trữ để đảm
bảo cho quá trình sản xuất được liên tục như nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ,
nhiên liệu…và một bộ phận là những sản phẩm đang trong quá trình sản xuất như
sản phẩm dở dang, bán thành phẩm…
9


- Tài sản lưu động lưu thông: Là những tài sản lưu động nằm trong quá trình
lưu thông của doanh nghiệp như: thành phẩm trong kho chờ tiêu thụ, vốn bằng tiền,
vốn trong thanh toán.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu
động lưu thông luôn thay thế chỗ cho nhau, vận động không ngừng nhằm đảm bảo
cho quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và thuận lợi.
Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh dược tiến hành thường xuyên,

liên tục đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tài sản lưu động nhát định. Do đó, để
hình thành nên các tài sản lưu động, doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn tiền tệ nhất
định đầu tư vào các tài sản đó. Số vốn này được gọi là vốn lưu động của doanh
nghiệp.
Vốn lưu động của doanh nghiệp thường xuyên vận động, chuyển hoá lần lượt
qua nhiều hình thái khác nhau. Đối với doanh nghiệp sản xuất, vốn lưu động từ
hình thái ban đầu là tiền được chuyển hoá sang hình thái vật tư dự trữ, sản phẩm dở
dang, thành phẩm hàng hoá, khi kết thúc quá trình tiêu thụ lại trở về hình thái ban
đầu là tiền. Đối với doanh nghiệp thương mại, sự vận động của vốn lưu động nhanh
hơn từ hình thái vốn bằng tiền chuyển hoá sang hình thái hàng hoá và cuối cùng
chuyển về hình thái tiền. Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra
liên tục không ngừng, nên sự tuần hoàn của vốn lưu động cũng diễn ra liên tục, lặp
đi lặp lại có tính chất chu kỳ tạo thành sự chu chuyển của vốn lưu động.
Từ những phân tích trên có thể rút ra: Vốn lưu động của doanh nghiệp là số
vốn ứng ra để hình thành nên các tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động
luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần và được thu hồi toàn bộ, hoàn thành
một vòng luân chuyển khi kết thúc một chu kỳ kinh doanh.
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản
xuất. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục, doanh nghiệp phải có đủ tiền
vốn đầu tư vào các hình thái khác nhau của vốn lưu động, khiến cho các hình thái có
10


được mức tồn tại hợp lý và đồng bộ với nhau. Như vậy sẽ tạo điều kiện chuyển hoá
hình thái của vốn trong quá trình luân chuyển được thuận lợi, góp phần tăng tốc độ
luân chuyển vốn lưu động, tăng hiệu suất sử dụng vốn lưu động và ngược lại.
Vốn lưu động là công cụ phản ánh, đánh giá quá trình vận động của
vật tư. Trong doanh nghiệp sự vân động của vốn phản ánh sự vận động của vật tư.
Số vốn lưu động nhiều hay ít là phản ánh số lượng vật tư, hàng hoá dự trữ sử dụng

ở các khâu nhiều hay ít. Vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh
số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay không. Thời gian nằm ở khâu sản xuất và lưu
thông có hợp lý hay không hợp lý. Bởi vậy, thông qua tình hình luân chuyển vốn
lưu động có thể kiểm tra, đánh giá một cách kịp thời đối với các mặt mua sắm, dự
trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp.
b) Thành phần và kết cấu của vốn lưu động
Để quản lý vốn lưu động được tốt cần phải phân loại vốn lưu động. Dựa theo
tiêu thức khác nhau, có thể chia vốn lưu động thành các loại khác nhau. Thông
thường có một số cách phân loại chủ yếu sau đây:
- Dựa theo hình thái biểu hiện và khả năng hoán tệ của vốn có thể chia vốn
lưu động thành: Vốn bằng tiền và vốn về hàng tồn kho.
+ Vốn bằng tiền và các khoản phải thu:
Vốn bằng tiền gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và các khoản tiền
đang chuyển. Tiền là một loại tài sản có tính linh hoạt cao, doanh nghiệp có thể dễ
dàng chuyển đổi thành các loại tài sản khác hoặc để trả nợ. Do vậy, trong hoạt động
kinh doanh đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần phải có một lượng tiền cần thiết nhất định.
Các khoản phải thu: Chủ yếu là các khoản phải thu từ khách hàng thể hiện ở
số tiền mà các khách hàng nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán hàng,
cung ứng dịch vụ dưới hình thức bán trước trả sau. Ngoài ra, với một số trường hợp
mua sắm vật tư khan hiếm, doanh nghiệp còn có thể phải ứng trước tiền mua hàng
cho người cung ứng, từ đó hình thành khoản tạm ứng.
+ Vốn về hàng hoá tồn kho
11


Trong doanh nghiệp sản xuất vốn vật tư hàng hoá gồm: vốn vật tư hàng hóa,
vốn thành phẩm, vốn sản phẩm dở dang. Các loại này được gọi chung là hàng tồn
kho. Xem xét chi tiết hơn cho thấy, vốn về hàng tồn kho của doanh nghiệp gồm:
Vốn nguyên vật liệu chính: Là giá trị các loại nguyên vật liệu chính dự trữ
cho sản xuất, khi tham gia vào sản xuất, chúng hợp thành thực thể của sản phẩm.

Vốn vật liệu phụ: là giá trị các loại vật liệu phụ dự trữ cho sản xuất, giúp cho
việc hình thành sản phẩm, nhưng không hợp thành thực thể chính của sản phẩm,
chỉ làm thay đổi màu sắc, mùi vị, hình dáng bề ngoài của sản phẩm hoặc tạo điều
kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh thực hiện được thuận lợi.
Vốn nhiên liệu: Là giá trị các loại nhiên liệu dự trữ dùng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Vốn phụ tùng thay thế: Là giá trị các loại vật tư dùng để thay thể, sửa chữa
các tài sản cố định.
Vốn vật đóng gói: Là giá trị các loại vật liệu bao bì dùng để đóng gói sản
phẩm trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Vốn công cụ, dụng cụ: Là giá trị các loại công cụ dụng cụ không đủ tiêu
chuẩn tài sản cố định dùng cho hoạt động kinh doanh.
Vốn sản phẩm đang chế: Là biểu hiện bằng tiền các chi phí sản xuất kinh
doanh đã bỏ ra cho các loại sản phẩm đang trong quá trình sản xuất (giá trị sản
phẩm dở dang, bán thành phẩm).
Vốn về chi phí trả trước: Là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng có
tác dụng cho nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nên chưa thể tính hết vào giá thành
sản phẩm trong kỳ này, mà được tính dần vào giá thành sản phẩm các kỳ tiếp theo
như chi phí cải tiến kỹ thuật, chi phí nghiên cứu thí nghiệm..
Vốn thành phẩm: Là giá trị những sản phẩm đã được sản xuất xong, đạt tiêu
chuẩn kỹ thuật và đã được nhập kho.
Trong doanh nghiệp thương mại, vốn hàng tồn kho chủ yếu là giá trị các loại
hàng hoá dự trữ.
12


Việc phân loại vốn lưu động theo cách này tạo điều kiện thuận lợi cho việc
xem xét đánh giá mức tồn kho dự trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Mặt khác, thông qua cách phân loại này có thể tìm các biện pháp phát huy chức
năng các thành phần vốn và biết được kết cầu vốn lưu động theo hình thái biểu hiện

để định hướng điều chỉnh hợp lý có hiệu quả.
- Dựa theo vai trò của vốn lưu động đối với quá trình sản xuất kinh doanh.
Dựa vào căn cứ trên, vốn lưu động của doanh nghiệp có thể chia thành các
loại chủ yếu sau:
+ Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất gồm các khoản: Vốn nguyên vật
liệu chính, vốn vật liệu phụ, vốn nhiên liệu, vốn phụ tùng thay thế, vốn vật đóng
gói, vốn công cụ dụng cụ nhỏ.
+ Vốn lưu động trong khâu trực tiếp sản xuất, gồm các khoản sau: Vốn sản
phẩm đang chế tạo, vốn về chi phí trả trước.
+ Vốn lưu động trong khâu lưu thông, gồm các khoản sau: Vốn thành phẩm,
vốn bằng tiền.
+ Vốn trong thanh toán: gồm những khoản phải thu và các khoản tiền tạm
ứng trước phát sinh trong quá trình mua vật tư hàng hoá hoặc thanh toán nội bộ.
+ Các khoản vốn đầu tư ngắn hạn về chứng khoản, cho vay ngắn hạn…
Phương pháp này cho phép biết được kết cấu vốn lưu động theo vai trò. Từ
đó, giúp cho việc đánh giá tình hình phân bổ vốn lưu động trong các khâu của quá
trình luân chuyển vốn, thấy được vai trò của từng thành phần vốn đối với quá trình
kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề ra các biện pháp tổ chức quản lý thích hợp nhằm tạo
ra một kết cấu vốn lưu động hợp lý, tăng được tốc độ luân chuyển vốn lưu động.
Đây là hai cách phân loại vốn lưu động chủ yếu. Mỗi cách phân loại đáp ứng
những yêu cầu nhất định của công tác quản lý.

13


1.1.3 Vai trò của vốn trong hoạt động của doanh nghiệp
Ở đây chúng ta muốn khẳng định thêm một lần nữa tầm quan trọng của vốn
đối với hoạt động của doanh nghiệp. Vốn là điều kiện tiền đề cho bất kỳ một hoạt
động sản xuất kinh doanh nào của doanh nghiệp.
Trước hết, về mặt pháp lý một doanh nghiệp khi thành lập và muốn xác lập

được địa vị pháp lý của mình thì phải có một lượng vốn nhất định. Trong suốt quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn luôn phải duy trì một
lượng vốn được pháp luật quy định nếu không doanh nghiệp đó phải ngừng hoạt
động và tuyên bố phá sản hoặc sát nhập doanh nghiệp. Như vậy, vốn là điều kiện
để đảm bảo sự tồn tại, tư cách pháp nhân của doanh nghiệp trước pháp luật.
Về mặt kinh tế doanh nghiệp là một tổ chức sống, để có thể nuôi sống được nó
cần phải có vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo sự tồn tại và
phát triển. Đầu tiên, doanh nghiệp cần vốn để mua sắm tài sản cố định, tài sản lưu
động phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp được diễn ra thường xuyên, liên tục.
Bên cạnh đó doanh nghiệp không ngừng hiện đại hoá công nghệ, đổi mới
máy móc thiết bị… để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Vốn tham gia
vào tất cả các khâu từ sản xuất đến lưu thông, đồng thời giúp doanh nghiệp thực
hiện hoạt động tái sản xuất, mở rộng sản xuất.
Trước đây trong cơ chế bao cấp, hầu như các doanh nghiệp là doanh nghiệp
Nhà nước nên vốn được cấp phát từ ngân sách Nhà nước và qua nguồn tín dụng có
lãi suất thấp của ngân hàng. Trong thời kỳ này các doanh nghiệp hoạt động theo chỉ
tiêu, kế hoạch Nhà nước giao nên việc lỗ lãi không cần quan tâm. Chính vì vậy, vấn
đề khai thác thu hút vốn không hề được quan tâm và trong thời kỳ này vắng mặt
hoàn toàn thị trường vốn.
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường chính sách bao cấp của Nhà nước
không còn, các doanh nghiệp phải tự trang trải mọi chi phí, tự chịu trách nhiệm về
kết quả sản xuất kinh doanh, lời ăn lỗ chịu. Do đó, doanh nghiệp phải bảo toàn và

14


phát triển được vốn của mình vì nó ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp.
Qua đây ta càng thấy rõ vai trò quan trọng của vốn đối với doanh nghiệp.
Chính vì vậy, một trong các vấn đề mà doanh nghiệp luôn quan tâm là nên tạo vốn

bằng cách nào? Làm thế nào để sử dụng vốn có hiệu quả?
1.2 HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.2.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn
Sử dụng vốn có hiệu quả là điều kiện để doanh nghiệp đảm bảo đạt được lợi
ích của các nhà đầu tư, của người lao động, của Nhà nước về mặt thu nhập và đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của bản thân doanh nghiệp. Hơn nữa đó cũng chính là
cơ sở để doanh nghiệp có thể huy động vốn dễ dàng trên thị trường tài chính nhằm
mở rộng sản xuất phát triển kinh doanh.
Vì vậy, việc làm rõ bản chất và tiêu chuẩn về hiệu quả sử dụng vốn đối với
doanh nghiệp là sự cần thiết khách quan để thống nhất về mặt nhận thức và quan
điểm đánh giá trong điều kiện hiện nay của các doanh nghiệp ở nước ta. Đồng thời
việc này cũng góp phần giải quyết được các vấn đề đánh giá chất lượng kinh doanh
của doanh nghiệp, xác định giá trị tài sản doanh nghiệp, sắp xếp lại doanh nghiệp,
đổi mới cơ chế quản lý và cơ chế kinh tế của doanh nghiệp…
Hiệu quả sử dụng vốn thường bị nhầm hiểu là hiệu quả kinh doanh nhưng
thực chất nó chỉ là một mặt của hiệu quả kinh doanh, song là mặt quan trọng nhất.
Nói đến hiệu quả kinh doanh có thể có một trong các yếu tố của nó không đạt hiệu
quả còn nói đến hiệu quả sử dụng vốn, không thể nói đã sử dụng có kết quả nhưng
lại bị lỗ. Tức là tính hiệu quả sử dụng vốn thể hiện trên hai mặt bảo toàn vốn và tạo
ra được các kết quả theo mục tiêu kinh doanh, trong đó đặc biệt là kết quả về sức
sinh lời của đồng vốn.
Kết quả lợi ích tạo ra do sử dụng vốn phải thoả mãn hai yêu cầu, đó là đáp
ứng được lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của các nhà đầu tư ở mức độ mong
muốn cao nhất đồng thời nâng cao được lợi ích của nền kinh tế xã hội. Trong nền
15


kinh tế thị trường hiện đại, bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động kinh doanh
mang lại nhiều lợi nhuận cho mình nhưng lại làm tổn hại đến lợi ích chung của nền
kinh tế xã hội sẽ không được phép hoạt động. Ngược lại, nếu doanh nghiệp đó hoạt

động đem lại lợi ích cho nền kinh tế, bản thân bị lỗ vốn sẽ làm cho doanh nghiệp bị
phá sản. Như vậy, kết quả tạo ra do việc sử dụng phải là kết quả phù hợp với lợi ích
của doanh nghiệp và lợi ích kinh tế xã hội.
Vậy hiệu quả sử dụng vốn chỉ là biểu hiện một mặt về tính hiệu quả kinh
doanh, là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng
vốn, tài sản vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích và
tối thiểu hoá chi phí.
1.2.2 Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu qủa sử dụng vốn
Như trên đã đề cập, hiệu quả sử dụng vốn là biểu hiện một mặt của hiệu quả
kinh doanh, nó phản ánh trình độ quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp trong
điều kiện các nguồn lực đã được xác định phù hợp với mục tiêu kinh doanh của
từng doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể xác định được doanh
nghiệp sử dụng số liệu từ báo cáo tài chính và tuỳ theo yêu cầu cụ thể đối với từng
trường hợp nhất định, các doanh nghiệp sẽ xác định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn mà chúng ta xem xét dưới đây.
1.2.1.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tổng vốn
Tuỳ thuộc vào các yêu cầu cụ thể, hiệu quả sử dụng vốn được đánh giá theo
giác độ khác nhau. Tuy nhiên xét về mặt tổng vốn người ta thường sử dụng các chỉ
tiêu chủ yếu sau:
* Hiệu suất sử dụng toàn bộ vốn
Doanh thu thuần
Tổng vốn bình quân
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn tham gia vào hoạt động sản xuất kinh
Hiệu suất sử dụng toàn bộ vốn =

doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
* Hệ số doanh lợi
16



Hệ số doanh lợi =

Lợi nhuận trước thuế

Tổng vốn bình quân
Chỉ tiêu này cho biết có bao nhiêu đồng lợi nhuận được tạo ra khi bỏ một
đồng vốn vào sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ việc sử dụng
vốn càng có hiệu quả.
1.2.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
* Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Doanh thu thuần

Hiệu suất sử dụng VCĐ =

VCĐ bình quân

Trong đó:
VCĐ đầu kỳ + VCĐ cuối kỳ

VCĐ bình quân =

2
Chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị trung bình vốn cố định sử dụng trong
kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ việc sử dụng
vốn cố định càng có hiệu quả.
* Hàm lượng vốn cố định
VCĐ bình quân
Doanh thu thuần
Là chỉ tiêu phản ánh số vốn cố định cần thiết để tạo ra một đồng doanh


Hàm lượng VCĐ =

thu. Chỉ tiêu này càng nhỏ, chứng tỏ hiệu suất sử dụng VCĐ của doanh nghiệp
càng cao.
1.2.1.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
* Vòng quay hàng tồn kho
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho thể hiện số lần luân chuyển hàng tồn kho trong
Vòng quay hàng tồn kho =

một thời kỳ nhất định. Số lần luân chuyển càng cao càng cho thấy tính hiệu quả
trong việc quản lý vật tư hàng hoá dự trữ của doanh nghiệp.
* Vòng quay vốn lưu động
17


Doanh thu thuần

Vòng quay VLĐ =

VLĐ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển của vốn lưu động trong năm. Số
vòng quay càng lớn càng chứng tỏ vốn lưu động luân chuyển càng nhanh, hoạt
động kinh doanh có hiệu quả.
Để thấy rõ thời gian của một vòng quay vốn lưu động, người ta còn sử dụng
chỉ tiêu: Số ngày của một vòng quay vốn lưu động
* Số ngày của một vòng quay vốn lưu động
Thời kỳ hoạt động (360ngày)


Số ngày của một vòng quay VLĐ =

Vòng quay vốn lưu động

* Kỳ thu tiền bình quân
Số dư BQ các khoản phải thu

Kỳ thu tiền bình quân =

Doanh thu thuần BQ ngày
Kỳ thu tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản
phải thu (số ngày của một vòng quay các khoản phải thu), chỉ tiêu này càng nhỏ thì
càng tốt.
* Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Lợi nhuận trước thuế
VLĐ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn lưu động. Nó cho thấy cứ
Hiệu quả sử dụng VLĐ =

một đồng vốn lưu động bỏ ra trong kỳ sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Vì thế
nên chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
* Mức đảm nhiệm vốn lưu động
VLĐ bình quân

Hệ số đảm nhiệm VLĐ =

Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết để đạt được một đồng doanh thu, doanh nghiệp cần
phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn lưu động, vì vậy nó càng nhỏ thì càng tốt.
1.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn


18


Mỗi doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải có một
lượng vốn nhất định và nguồn tài trợ tương ứng. Đồng thời vừa phải có khả năng
sinh lời là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Vì thế, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn là yêu cầu khách quan của quá trình sản xuất kinh doanh để tăng thêm lợi
nhuận cũng chính là để bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp. Hay nói cụ
thể hơn việc tăng cường tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh
nghiệp xuất phát từ những lý do chủ yếu sau:
- Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp.
Với bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh đều hướng tới lợi nhuận. Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt
động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng đánh giá hiệu quả kinh
tế các hoạt động của doanh nghiệp vì điều kiện hạch toán theo cơ chế thị trường
doanh nghiệp tồn tại được hay không thể hiện ở lợi nhuận. Do đó lợi nhuận được
coi là một trong những đòn bẩy quan trọng, là điểm nhấn đảm bảo cho tình hình tài
chính của doanh nghiệp được vững chắc.
- Xuất phát từ vai trò của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Vốn là điểm xuất phát của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh
tế hàng hoá, để có được các yếu tố cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định. Ngoài ra, vốn kinh
doanh còn là điều kiện để sử dụng, khai thác tốt nhất mọi tiềm năng và lợi thế của
doanh nghiệp phục vụ cho quá trình phát triển kinh doanh, tái sản xuất mở rộng.
- Xuất phát từ sự tác động của cơ chế quản lý tài chính Nhà nước.
Hiện nay các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, nhiều thanh phần kinh tế còn tồn tại và cạnh tranh lẫn nhau. Theo
NĐ 59/CP ngày 13 tháng 10 năm 1996 doanh nghiệp không còn được bao cấp về
vốn nữa mà phải tự trang trải chi phí đảm bảo kinh doanh có lãi, phải tổ chức và sử

dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhằm bảo toàn và phát triển vốn.

19


Trong điều kiện đó để tồn tại và cạnh tranh được doanh nghiệp cần phải năng
động tìm kiếm thị trường, đầu tư đổi mới máy móc thiết bị. Muốn làm được điều đó
không những doanh nghiệp phải có vốn mà doanh nghiệp cần phải tổ chức nguồn
vốn hợp lý, đáp ứng kịp thời nhu cầu cho sản xuất kinh doanh với chi phí thấp nhất.
Doanh nghiệp hiện nay là đơn vị kinh tế tự chủ, tự tổ chức quá trình sản xuất kinh
doanh, tự tìm hiểu thị trường, tự chủ động trong việc tìm đầu vào, đầu ra cho sản
phẩm và tự chịu trách nhiệm trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Vấn đề
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ngày càng trở nên thiết thực và bức bách.
- Xuất phát từ thực trạng về quản lý và sử dụng vốn của các doanh nghiệp
Nhà nước hiện nay.
Nhìn chung các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay đang ở trong tình trạng
thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Xong hiệu quả sử dụng ở các doanh
nghiệp này lại rất thấp, chủ yếu là do tài sản cũ kỹ, lạc hậu do đó để có thể phát
triển và cạnh tranh được trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải
sử dụng vôn hợp lý nhăm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA
DOANH NGHIỆP
1.3.1 Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp
Nhân tố chi phí vốn
Vốn là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh và cũng như tất
cả các yếu tố đầu vào khác, muốn có vốn để sử dụng doanh nghiệp phải bỏ ra
những chi phí nhất định. Những chi phí trả cho việc huy động vốn này được gọi là
chi phí vốn.
Đối với các nhà đầu tư, vốn là tư bản, là tiền được sử dụng với mục đích sinh
lời. Các nhà đầu tư chỉ đồng ý cung cấp vốn cho doanh nghiệp nào đó khi họ cho

rằng họ không thể kiếm được phần lãi suất cao hơn nếu như đầu tư vào chỗ khác
với cùng mức độ rủi ro. Do đó, có thể hiểu chi phí vốn là chi phí cơ hội của việc sử
dụng vốn, nó được tính bằng tỷ lệ sinh lời cần thiết của khoản tiền mà người sở hữu
20


yêu cầu, nó phụ thuộc vào mức độ rủi ro có thể xảy ra đối với khoản đầu tư. Đối
với nhà quản lý doanh nghiệp thì chi phí vốn được đo bằng tỷ suất lợi nhuận cần
đạt được trên nguồn vốn huy động để không làm thay đổi số lợi nhuận dành cho cổ
đông của doanh nghiệp, tức là tỷ suất lợi nhuận từ việc sử dụng vốn này tối thiểu
phải bằng tỷ lệ sinh lời được yêu cầu bởi người sở hữu.
Như vậy, chi phí vốn là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng
vốn. Chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cao sẽ làm tăng giá thành sản phẩm
hoặc thậm chí không tiêu thụ được, vốn bị ứ đọng chậm thu hồi, từ đó ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Chi phí
quản lý hành chính cao hay thấp, hợp lý hay không hợp lý sẽ cho thấy việc sử dụng
vốn của doanh nghiệp là tiết kiệm hay lãng phí, có hiệu quả hay kém hiệu quả. Do
vậy, các doanh nghiệp phải luôn phấn đấu giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm, tăng
sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá,
thu hồi vốn nhanh, từ đó tăng vòng quay vốn góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
Chi phí vốn còn là căn cứ khi quyết định đầu tư, bởi lẽ nó quyết định quy mô
huy động vốn của doanh nghiệp. Thể hiện ở chỗ khi càng nhiều vốn được huy
động thì chi phí của các nhân tố cấu thành vốn tăng lên và chi phí bình quân gia
quyền của vốn cũng tăng, đến một lúc nào đó chi phí vốn sẽ bằng hoặc lớn hơn tỷ
suất doanh lợi của doanh nghiệp và như thế nếu doanh nghiệp tiếp tục tăng quy mô
huy động vốn để kinh doanh thì sẽ bị thua lỗ. Việc nghiên cứu các hình thức cụ thể
của chi phí vốn không chỉ giúp doanh nghiệp có thể lượng hoá được nó để đưa ra
quyết định tiếp tục đầu tư hay không đầu tư, mà còn giúp doanh nghiệp nắm bắt
được hiện trạng sử dụng vốn huy động của mình để từ đó có biện pháp kịp thời,

hợp lý nhằm giảm chi phí sử dụng vốn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Nhân tố cơ cấu vốn của doanh nghiệp

21


Bên cạnh nhân tố chi phí vốn thì việc thiết lập một cơ cấu vốn hợp lý là mục
tiêu quan trọng của nhà quản lý doanh nghiệp. Mục tiêu này có thể thay đổi theo
thời gian khi những điều kiện thay đổi, nhưng tại bất kỳ thời điểm nào cho trước,
nhà quản lý doanh nghiệp đều phải có một cơ cấu vốn nhất định và những quyết
định tài trợ phải thích hợp với mục tiêu này.
Chính sách cơ cấu vốn liên quan tới mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro.
Việc tăng sử dụng nợ làm tăng rủi ro đối với thu nhập và tài sản của chủ sở hữu, do
đó các cổ đông có xu hướng đòi hỏi một tỷ lệ lợi tức đền bù cao hơn, điều này làm
giảm giá cổ phiếu. Nhằm đáp ứng mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu,
cơ cấu vốn tối ưu cần đạt được sự cân bằng giữa rủi ro và lợi tức kỳ vọng.
Nhiệm vụ của các nhà quản lý là xác định và đảm bảo kết cấu vốn tối ưu bằng
việc phối hợp giữa nợ vay và phát hành cổ phiếu (bao gồm cả cổ phiếu thường và cổ
phiếu ưu tiên) sao cho chi phí trung bình của vốn WACC là nhỏ nhất khi đó có hiệu
quả sử dụng vốn là cao nhất tức là đạt tới một cơ cấu vốn tối ưu nhất.
Tóm lại, cơ cấu vốn có vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nó ảnh
hưởng đến chi phí vốn, ảnh hưởng đến rủi ro cố hữu trong cổ phiếu thường của
doanh nghiệp. Chính vì thế, việc xác định một cơ cấu vốn tối ưu (cơ cấu vốn hướng
tới sự cân bằng giữa rủi ro và lãi suất) sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí
vốn, tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn của mình.
Ngành nghề kinh doanh
Bắt tay vào kinh doanh hay sản xuất, doanh nghiệp đều phải chọn trước
ngành nghề kinh doanh của mình. Như đối mặt với các doanh nghiệp sản xuất vật
chất khác với các doanh nghiệp thương mại dịch vụ về quá trình kinh doanh.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất vật chất quá trình này bao gồm: nghiên

cứu, xác định nhu cầu thị trường về hàng hoá dịch vụ, tổ chức sản xuất, cuối cùng
là tổ chức tiêu thụ hàng hoá và thu tiền về. Với nhiều giai đoạn, sử dụng nhiều công
nghệ nên các doanh nghiệp sản xuất cần sử dụng lượng vốn lớn, trong đó vốn cố
định chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư. Do đó, để có được hiệu quả sử
22


dụng vốn tốt thì vấn để sử dụng hiệu quả vốn cố định đóng vai trò quan trọng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ thì
quá trình này chủ yếu là mua và bán sản phẩm dịch vụ. Vì vậy, so với các doanh
nghiệp sản xuất thì chu kỳ kinh doanh ngắn hơn, đồng thời lượng vốn lưu động
được sử dụng nhiều hơn vốn cố định. Do đó, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp cần chú ý đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Nhân tố con người
Đây là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Con người
được đề cập ở đây là bộ máy quản lý và lực lượng lao động trong doanh nghiệp, mà
trước hết là giám đốc doanh nghiệp (chủ doanh nghiệp). Giám đốc doanh nghiệp là
người toàn quyền quản lý và sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp và
là người chịu trách nhiệm, quyết định mọi vấn đề tài chính trong doanh nghiệp.
Quyết định sử dụng đồng vốn của Giám đốc có đúng đắn, phù hợp với xu hướng
phát triển thì doanh nghiệp kinh doanh sẽ có lãi. Ngược lại, nếu quyết định đó sai
lầm thì sẽ dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh, vốn sử dụng không có hiệu quả thậm
chí mất vốn.
Đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp (đội ngũ tham mưu chính cho Giám
đốc doanh nghiệp trong việc ra các quyết định kinh doanh) cũng có ảnh hưởng rất
lớn đến hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Một đội ngũ
cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn vững vàng, tinh thông nghiệp vụ, năng
động sáng tạo, phản ánh đầy đủ chính xác kịp thời tình hình sản xuất kinh doanh,
tình hình sử dụng vốn trong doanh nghiệp sẽ giúp cho Giám đốc doanh nghiệp có

những quyết định kịp thời, đúng đắn trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Bên cạnh đó, lực lượng lao động trực tiếp trong dây truyền sản xuất (công
nhân, thợ nghề…) cũng là một nhân tố quan trọng bởi đây là nhân tố tạo năng suất,
chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp
23


1.3.2 Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Sự biến động của thị trường
Các doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh trong môi trường nào thì phải
thích ứng với môi trường kinh doanh ấy. Khi hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp phải đối mặt với rất nhiều nguy cơ bất ổn của thị trường như sự tăng giảm
của lãi suất ảnh hưởng tới quyết định tăng giảm quy mô vốn vay của doanh nghiệp,
lạm phát và rủi ro tỷ giá buộc các doanh nghiệp phải có những biện pháp nhằm hạn
chế rủi ro tài chính… Hơn nữa, môi trường cạnh tranh cũng có ảnh hưởng đến việc
sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có nhiều đối thủ cạnh tranh thì
để giữ vững và phát triển thị trường của mình đòi hỏi doanh nghiệp ngoài việc
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ còn phải áp dụng hàng loạt
các biện pháp như chiết khấu, tín dụng thương mại, hạ giá…điều này cũng làm
giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Vì vậy, sự ổn định của thị trường sẽ tạo ra một
môi trường kinh doanh thuận lợi, góp phần tạo ra sự phát triển ổn định vững chắc,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Mức độ phát triển của nền kinh tế và cơ chế chính sách của Nhà nước
Đây là nhân tố mang tính vĩ mô, nó chủ yếu tác động đến việc huy động vốn
của doanh nghiệp. Một nền kinh tế kém phát triển là một trong những nguyên nhân
quan trọng dẫn đến thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn nói riêng yếu
kém. Điều này sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc huy động vốn và tìm
kiếm nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ngoài ra việc sử
dụng vốn của doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như môi

trường pháp lý, cơ chế, chính sách Nhà nước cụ thể là các điều kiện kinh tế xã hội
của từng vùng, từng địa phương. Hay nói cách khác mọi quyết định về sử dụng vốn
của doanh nghiệp đều phải gắn liền với hệ thống pháp luật và sự hiểu biết về môi
trường xung quanh.
Bao quanh doanh nghiệp là một môi trường kinh tế xã hội phức tạp và luôn
biến động, doanh nghiệp phải làm chủ được và dự đoán trước được sự thay đổi của
24


môi trường và sẵn sàng thích nghi với nó. Ngoài ra việc sử dụng vốn của doanh
nghiệp như thế nào là hợp lý còn phụ thuộc vào cơ chế chính sách của Nhà nước.
Với những cơ chế đầy đủ linh hoạt sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát huy
được tối đa hiệu quả của đồng vốn.

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DỊCH VỤ KỸ THUẬT BẢO AN
25


×