BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
TRẦN VĂN NGỌC
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP
QUỐC TẾ CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HẢI PHÒNG - 2016
i
BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
TRẦN VĂN NGỌC
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP
QUỐC TẾ CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ;
MÃ SỐ: 60340410
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Khắc Thành
ii
HẢI PHÒNG - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Số liệu và kết quả nghiên cứu
trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa từng được sử dụng hoặc công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các thông
tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Trần Văn Ngọc
iii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sỹ kinh tế của mình, ngoài sự nỗ lực cố gắng của
bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân và tập thể.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự giúp đỡ, chỉ bảo tận
tình của các thầy, cô giáo trong khoa Kinh tế, Viện Đào tạo sau đại học – Trường
Đại học Hàng Hải Việt Nam; Đặc biệt là sự quan tâm chỉ dẫn tận tình của thầy
giáo TS. Mai Khắc Thành đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các sở, ban, thành của thành phố,
Sở Công Thương Hải Phòng đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên
cứu và thu thập tài liệu phục vụ cho luận văn.
Qua đây tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình và bạn bè đã giúp
đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tác giả luận văn
Trần Văn Ngọc
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN...................................................................................................iii
LỜI CẢM ƠN.........................................................................................................iv
MỤC LỤC...............................................................................................................v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.....................................................................vi
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................................ix
1. Tính cấp thiết của Đề tài.....................................................................................ix
2. Mục đích nghiên cứu của Đề tài..........................................................................x
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................xi
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................xi
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Đề tài...........................................................xi
6. Kết cấu của luận văn..........................................................................................xii
Chương 1..............................................................................................................xiii
TỔNG QUAN VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ..........................................................xiii
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ.....................................xiii
1.1.1. Xu hướng phát triển hội nhập quốc tế thế giới...........................................xiii
1.1.2. Khái niệm và bản chất của hội nhập quốc tế..............................................xvi
1.1.3. Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu của thời đại ngày nay....................xxi
1.2. QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM...........................xxiii
1.2.1. Chủ trương, mục tiêu chỉ đạo Hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước. xxiii
1.2.2. Tiến trình và kết quả hội nhập quốc tế hiện tại của Việt Nam.................xxix
Chương 2................................................................................................................34
THỰC TRẠNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA......................................................34
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG GIAI ĐOẠN 2010 2015..........................................34
2.1. THỰC TRẠNG VÀ KẾT QUẢ HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA HẢI PHÒNG
GIAI ĐOẠN 2010 – 2015.....................................................................................34
2.1.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo về hội nhập quốc tế...........................................34
2.1.3. Bố trí và sử dụng ngân sách cho công tác hội nhập quốc tế........................37
2.1.4. Thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về hội nhập quốc tế..............37
2.1.5. Xây dựng thể chế và nâng cao năng lực hội nhập quốc tế...........................39
2.1.6. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ hội nhập quốc tế....................47
2.1.7. Hội nhập quốc tế về kinh tế........................................................................49
2.1.8. Hội nhập quốc tế về đối ngoại.....................................................................59
v
2.1.9. Hội nhập quốc tế về văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, y tế, lao động, thể
thao, khoa học và công nghệ..................................................................................63
2.1.10. Hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh..................................................68
2.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾT QUẢ HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG.................................................................................................69
2.2.1. Những kết quả đã đạt được..........................................................................69
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế.................................................................................71
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.....................................................72
2.2.4. Bài học kinh nghiệm....................................................................................74
Chương 3................................................................................................................77
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ..............................77
CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG GIAI ĐOẠN 2016 – 2020.............................77
3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU HỘI NHẬP QUỐC TẾ THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG ĐẾN NĂM 2020.....................................................................................77
3.1.1. Quan điểm....................................................................................................77
3.1.2. Mục tiêu:......................................................................................................79
3.2.5. Biện pháp Hội nhập quốc tế về chính trị, ngoại giao và công tác người Việt
Nam ở nước ngoài..................................................................................................98
3.2.6. Hội nhập quốc tế về văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, y tế, lao động, thể thao và các lĩnh vực khác...............................................98
3.2.7. Biện pháp Hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh................................100
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.............................................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................105
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
GDP
HNQT
HNKTQT
UBND
AFTA
Giải thích
Tổng sản phẩm quốc nội
Hội nhập quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế
Ủy ban nhân dân
Khu vực tự do Thương mại ASEAN
vi
APEC
ASEM
WTO
EU
AEC
FTA
TPP
XNK
XTTM
EFTA
NAFTA
AFTA
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương
Diễn đàn hợp tác Á Âu
Tổ chức Thương mại thế giới
Liên minh châu Âu
Cộng đồng kinh tế ASEAN
Hiệp định thương mại tự do
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
Xuất nhập khẩu
Xúc tiến thương mại
Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu
Khu vực mậu dịch tự do bắc Mỹ
Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số bảng
Tên bảng
Trang
Kết quả thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu về hoạt động nội
2.1
thương giai đoạn 2011 – 2015 của Ngành Công Thương
44
Hải Phòng giai đoạn 2011 – 2015
Kết quả thực thiện các mục tiêu, chỉ tiêu về hoạt động
2.2
ngoại thương của Ngành Công Thương Hải Phòng giai
45
đoạn 2011 – 2015
2.3
Kết quả thực thiện các mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển
công nghiệp của Ngành Công Thương Hải Phòng giai
vii
46
đoạn 2011 – 2015
viii
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Trong những năm qua, công cuộc hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng đạt
được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực. Quan hệ giữa nước ta với các
nước trên thế giới và các tổ chức quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu; hợp tác về
chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác được mở rộng,
góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, gia tăng sức mạnh
tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước,
giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống nhân dân,
củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhằm khái quát, đánh giá tình hình hội nhập quốc tế của nước ta trong thời
gian qua, tình hình thế giới hiện nay, các cơ hội cũng như thách thức và đề ra mục
tiêu, quan điểm chỉ đạo, các định hướng chủ yếu của công tác hội nhập quốc tế của
Việt Nam trong thời gian tới; qua đó thống nhất nhận thực và hành động từ Trung
ương đến địa phương, chủ động công tác triển khai hội nhập quốc tế trên các lĩnh
vực phù hợp với tình hình mới, trên cơ sở đó ngày 10/4/2013 Bộ Chính trị (Khóa
XI) đã ban hành Nghị quyết 22NQ/TW về hội nhập quốc tế.
Quán triệt đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, trong thời gian qua thành
phố Hải Phòng đã thực hiện đồng bộ các giải pháp, tổ chức thực hiện kịp thời các
cơ chế, chính sách của Trung ương phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế của
địa phương và đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Các cấp ủy đảng, chính
quyền, địa phương đã quan tâm chỉ đạo trên cả ba mặt đối ngoại Đảng, ngoại giao
Nhà nước và đối ngoại nhân dân; từng bước triển khai hội nhập kinh tế quốc tế,
đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực như an ninh, quân sự, biên phòng, văn
hóa, xã hội gắn liền với đặc thù chính sách phát triển kinh tế xã hội của thành phố.
Tổng mức lưu chuyển hàng hóa xã hội và kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng
tăng, cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu ngày càng phong phú, thị trường từng bước
ix
được mở rộng. Tuy nhiên, những kết quả đạt được của Hải Phòng trong thời gian
qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của thành phố cũng như chưa
đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế. Điều đó thể hiện qua thu nhập bình quân
đầu người còn chưa cao, sức mua thấp nên hạn chế sự phát triển thị trường. Việc
sản xuất hàng hoá còn mang tính chất tự cung, tự cấp, phân tán, chất lượng thấp,
giá thành cao, kém sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Các
doanh nghiệp của Hải Phòng quy mô nhỏ, vốn ít, cơ sở vật chất nghèo nàn nên gặp
nhiều khó khăn trong quá trình mở rộng sản xuất và phát triển thị trường. Sự phối
hợp giữa các cấp, các ngành, địa phương còn chưa đồng bộ, nhịp nhàng, thiếu tính
chủ động. Bên cạnh đó, sự thiếu hiểu biết về những kiến thức cơ bản của hội nhập
quốc tế cũng như việc triển khai công tác hội nhập quốc tế còn thiếu các định
hướng, giải pháp cụ thể cũng ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội của Hải
Phòng trong thời gian qua.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Một số biện pháp đẩy
mạnh hội nhập quốc tế của thành phố Hải Phòng giai đoạn 2016 2020” làm đề
tài Luận văn thạc sỹ kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu của Đề tài
Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn trong công tác hội nhập quốc tế tại thành phố
Hải Phòng, luận văn sẽ làm rõ các hình thức, phương thức và nội dung của công
tác hội nhập quốc tế trong nền kinh tế thị trường đang trong thời kỳ thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, qua đó góp phần nâng cao vai trò và
hiệu quả của công tác hội nhập quốc tế trước yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng
sâu, rộng của Việt Nam nói chung và thành phố Hải Phòng nói riêng.
Nhiệm vụ của luận văn:
Đánh giá tổng quan về hội nhập quốc tế;
Đánh giá thực trạng tình hình hội nhập quốc tế của thành phố Hải Phòng giai
x
đoạn 2010 2015;
Đưa ra một số biện pháp đẩy mạnh hội nhập quốc tế của thành phố Hải
Phòng giai đoạn 2016 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Là những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác hội nhập quốc tế của Việt Nam
và thành phố Hải Phòng trong thời gian qua.
Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian, nghiên cứu sẽ sử dụng số liệu từ 2010 trở lại đây để thực hiện
phân tích đánh giá. Về nội dung vấn đề, nghiên cứu tập trung chủ yếu vào đánh giá
công tác hội nhập quốc tế của thành phố và đưa ra một số giải pháp để nâng cao
hiệu quả hoạt động của công tác này.
Về mặt lý luận và những vấn đề chung trong công tác quản hội nhập quốc tế
luận văn đề cập trên phạm vi cả nước, nhưng về mặt thực tiễn luận văn tập trung
vào tình hình cụ thể của thành phố Hải Phòng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn sử dụng các phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp, thống
kê, so sánh và kết hợp lý luận với thực tiễn để nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Đề tài
Về lý luận, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các cơ quan, tổ chức đang
thực hiện chức năng quản lý các hoạt động về hội nhập quốc tế để tiến hành (thực
hiện) đổi mới công tác quản lý nhà nước nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả của
hoạt động hội nhập quốc tế trong nền kinh tế, đặc biệt là hoạt động hội nhập kinh
tế quốc tế.
Về thực tiễn, luận văn sẽ có những đóng góp cụ thể vào thực tiễn công tác
xi
hội nhập quốc tế trên địa bàn thành phố Hải Phòng thông qua những đề xuất giải
pháp, kiến nghị cụ thể về hình thức tổ chức, cách thức quản lý và các chính sách hỗ
trợ của nhà nước trong hoạt động hội nhập quốc tế của thành phố Hải Phòng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương như
sau:
Chương 1: Tổng quan về hội nhập quốc tế
Chương 2: Thực trạng hội nhập quốc tế của thành phố Hải Phòng giai đoạn
2010 – 2015
Chương 3: Một số biện pháp đẩy mạnh hội nhập quốc tế của thành phố Hải
Phòng giai đoạn 2016 – 2020.
xii
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1.1. Xu hướng phát triển hội nhập quốc tế thế giới
Ngay từ những năm cuối của thế kỷ XX, sự phát triển kinh tế của các nước
thế giới đã chịu sự tác động sâu sắc, toàn diện của một loạt những xu thế mới. Đó
là xu thế phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ, quốc tế, toàn cầu hoá
đời sống kinh tế thế giới và xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại giúp cho lực
lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Các công ty xuyên quốc gia ngày càng
mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nền
kinh tế thế giới; thúc đẩy quá trình quốc tế hoá sản xuất, quốc tế hoá nền kinh tế
thế giới phát triển nhanh chóng.
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế lớn của quá trình phát triển kinh tế thị
trường, phản ánh trình độ phát triển cao của trình độ sản xuất, phân công lao động
quốc tế và việc quốc tế hoá sản xuất trở nên phổ biến. Đặc điểm quan trọng của
toàn cầu hoá là nền kinh tế thế giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thể, trong
đó nền kinh tế của các quốc gia chỉ là các bộ phận có quan hệ tương tác lẫn nhau,
phát triển với nhiều hình thức phong phú. Không thể phủ nhận rằng, bất kỳ một
quốc gia nào khi tham gia vào kinh tế quốc tế đều có thể thu được lợi ích nếu quốc
gia đó tập trung vào việc sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm thể hiện mối
tương quan thuận lợi hơn về mặt chi phí so với quốc gia khác sản xuất những sản
phẩm tương tự. Do vậy, chỉ có những quốc gia biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách
thức mới có thể đứng vững và phát triển. Nói cách khác, hội nhập kinh tế quốc tế
đã trở thành một xu thế tất yếu khách quan và thể hiện qua một số xu hướng chính
như sau:
xiii
1.1.1.1. Xu hướng tự do hóa thương mại khu vực
Việc tự do hoá thương mại khu vực đang diễn ra thông qua hình thức ký kết
các Hiệp định thương mại khu vực. Các Hiệp định thương mại khu vực đã được
phổ biến rộng rãi trên thế giới và trở thành nhân tố quan trọng trong quan hệ kinh
tế quốc tế, thực hiện qua một số hình thức chủ yếu sau:
Các Hiệp định kinh tế thương mại song phương: đây là hình thức hội nhập
kinh tế quốc tế mang tính nền tảng, phổ biến nhất và quan trọng nhất đối với tất cả
các nước. Trong đa số các trường hợp, các hiệp định thương mại song phương
được ký kết và thực hiện trên cơ sở tự nguyện của cả hai bên và tuân thủ nguyên
tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi, không làm trở ngại đến quan hệ của mỗi bên đối
với nước thứ ba.
Các khối kinh tế khu vực và liên khu vực: Cho đến nay đã có hàng chục khối
kinh tế khu vực khác nhau về số lượng thành viên và mức độ cam kết hợp tác nội
bộ. Có khối hoạt động theo quy chế khu vực mậu dịch tự do như AFTA của
ASEAN, NAFTA của Bắc Mỹ … Những thành viên thuộc khu vực này sẽ thực
hiện việc cắt giảm thuế quan cho nhau hoặc thực hiện quy chế liên minh thuế quan.
Việc thành lập khu vực mậu dịch tự do nhằm thúc đẩy thương mại giữa các nước
thành viên. Những hàng rào phi thuế quan cũng được giảm bớt hoặc loại bỏ hoàn
toàn. Tuy nhiên, khu vực mậu dịch tự do không quy định mức thuế quan chung áp
dụng cho những nước ngoài khối, thay vào đó từng thành viên vẫn có thể duy trì
chính sách thuế quan khác nhau đối với các nước không phải thành viên. Ngoài
việc thực hiện tự do hoá mậu dịch thông qua cắt giảm thuế quan và các biện pháp
phi thuế quan như ở khu vực mậu dịch tự do, các thành viên còn cùng nhau xây
dựng biểu thuế quan chung, áp dụng cho các nước ngoài liên minh (ví dụ như
Cộng đồng chung Châu Âu (EC) trước đây nay là thị trường chung Châu Âu (EU);
thị trường chung MERCOSUR ở Nam Mỹ, thị trường chung Châu Phi…
Đặc biệt, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC) ra đời
năm 1989 và Diễn đàn hợp tác Á Âu (ASEM) ra đời năm 1996 là một hình thức
xiv
hội nhập mang tính chất khối kinh tế liên khu vực mở. Đặc trưng của các diễn đàn
này là tiến trình đối thoại với những nguyên tắc linh hoạt và tự nguyện để thực
hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư, góp phần thúc đẩy nhanh hơn
tiến trình tự do hoá trên bình diện toàn cầu. Mặc dù vẫn còn dừng lại ở hình thức
diễn đàn, song APEC đang có xu hướng hình thành cơ cấu tổ chức mang tính tổng
thể thường xuyên hơn để chuyển hoá dần thành một khối kinh tế mở có sự tham
gia của các nước thuộc cả châu Á và châu Âu (liên khu vực).
Các tổ chức kinh tế toàn cầu: được chia làm hai loại:
Thứ nhất, những tổ chức kinh tế liên Chính phủ như WTO, IMF, WB, G8 ,
OECD hoặc UNDP … Những tổ chức này đang đóng vai trò thiết kế và chi phối
các “luật chơi chung” mang tính toàn cầu, trước hết với các dòng chảy thương mại,
tiền tệ và đầu tư chính thức. Đồng thời, các tổ chức này sẽ dần cải tổ và chuyển
hoá thành các tổ chức có chức năng, phạm vi điều tiết rộng hơn.
Thứ hai, các tổ chức kinh doanh toàn cầu mà trước hết và phổ biến hơn cả
hiện nay là các công ty xuyên quốc gia. Các công ty này đang có xu hướng phát
triển nhanh chóng về quy mô thông qua sáp nhập và bao quát hoạt động trong hầu
hết các lĩnh vực, các quốc gia dù đang phát triển hay phát triển.
Ngoài những hình thức hội nhập quốc tế chủ yếu, trên thế giới đang xuất hiện
ngày càng nhiều hơn những hình thức đặc thù như thành phố cảng tự do, các đặc
khu kinh tế quốc gia và cả những “tam giác”, “tứ giác” vùng … Các hình thức hội
nhập quốc tế này ngày càng phát triển phong phú và một quốc gia có thể lựa chọn
tham gia các hình thức thích hợp với điều kiện và định hướng phát triển của mình.
Hơn nữa, mỗi nước cần sử dụng đồng thời nhiều hình thức để khai thác tối đa các
lợi thế, hạn chế thấp nhất các tác động trái chiều của hội nhập quốc tế.
1.1.1.2. Xu hướng phát triển thương mại gắn liền với việc bảo vệ môi
trường
Xu hướng gắn hoạt động thương mại với việc giữ gìn và tôn tạo môi trường
sinh thái ngày càng phổ biến trên thế giới. Ngoài lý do về chất lượng của sản
xv
phẩm, những yêu cầu về môi trường đối với sản phẩm cũng đang được coi là
những “rào cản thương mại trá hình” mà ngôn ngữ trong thương mại thường gọi
là “hàng rào xanh” green barier nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước và ngăn
chặn sự xâm nhập của hàng nhập khẩu. Các nước phát triển đã và đang sử dụng
các tiêu chuẩn về môi trường, như một rào cản thương mại “hợp pháp”, nhằm làm
giảm tính cạnh tranh và hạn chế việc nhập khẩu hàng hóa từ các nước đang phát
triển. Những tiêu chuẩn này nhiều khi được đặt ra quá cao so với trình độ kỹ thuật
cũng như công nghệ sản xuất của các nước đang phát triển thậm chí đối với cả một
số nước phát triển. Sự áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường trong hoạt động
thương mại đã gây cho các nước đang phát triển những khó khăn nhất định trong
quá trình tiếp cận thị trường của các nước phát triển.
1.1.1.3. Xu hướng tăng cường chính sách bảo hộ với các rào cản thương
mại hiện đại
Các nước ngày càng có xu hướng ít sử dụng những biện pháp bảo hộ mang
tính áp đặt như lệnh cấm, hạn chế số lượng hoặc thuế suất nhập khẩu cao. Thay
vào đó, các biện pháp bảo hộ phi thuế quan như các hàng rào kỹ thuật về an toàn
thực phẩm, môi trường, lạm dụng luật chống bán phá giá, tự vệ, chống trợ cấp, thủ
tục hải quan, ghi nhãn mác... ngày càng được sử dụng rộng rãi. Chính vì vậy, từ
hội nghị Doha đến hội nghị Cancun, WTO chủ trương mở rộng đàm phán toàn
diện trên cả bốn lĩnh vực: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư liên
quan đến thương mại, sở hữu trí tuệ và một số vấn đề mới phát sinh nhằm thúc đẩy
tiến trình tự do hóa thương mại. Tại hội nghị Cancun tháng 9 vừa qua ở Mexico,
các nước đang phát triển liên kết thành nhóm G22 đòi thương mại công bằng, bình
đẳng, các nước phát triển mở cửa thị trường và bỏ trợ cấp nông nghiệp, trợ cấp
xuất khẩu.
1.1.2. Khái niệm và bản chất của hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu khách quan, do bản chất
xã hội của lao động và quan hệ giữa con người với con người. Sự hình thành và
xvi
phát triển của kinh tế thị trường là tác nhân đầu thúc đẩy quá trình hội nhập quốc
tế. Hội nhập quốc tế diễn ra với nhiều hình thức, cấp độ và nhiều lĩnh vực và theo
tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập quốc tế tất yếu trở thành một xu thế lớn của
thời đại, tác động sâu sắc đến quan hệ quốc tế và đời sống của các quốc gia và
vùng lãnh thổ. Ngày nay, hội nhập quốc tế là con đường của hầu hết các quốc gia
để phát triển đất nước.
1.1.2.1. Khái niệm hội nhập quốc tế
Khái niệm hội nhập quốc tế hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau. Quan
điểm của tác giả về hội nhập quốc tế như sau:
Hội nhập quốc tế là quá trình các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới tiến
hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi
ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và
tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.
Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi ích hay
nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên sự
hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ
thể tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế, quá trình hội nhập hình thành nên và củng cố
các định chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là các chủ thế mới của quan hệ quốc tế.
Những chủ thể quốc tế mới này có thể dưới dạng: (i) hoặc là một tổ chức liên chính
phủ (các thành viên vẫn giữ chủ quyền quốc gia trong việc định đoạt chính sách,
chẳng hạn như tổ chức Liên hiệp quốc, ASEAN…), (ii) hoặc là một tổ chức siêu
quốc gia (các thành viên trao toàn bộ chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc
gia, hình thái này có thể giống như mô hình nhà nước liên bang, chẳng hạn như
Hoa Kỳ, Canada…), (iii) hoặc là một tổ chức lai ghép giữa hai hình thái trên (các
thành viên trao một phần chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia và vẫn
giữ một phần chủ quyền cho riêng mình, chẳng hạn như trường hợp EU hiện nay).
xvii
Chủ thể của hội nhập quốc tế đầu tiên là các quốc gia, vùng lãnh thổ, chủ thể
chính của quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực
hiện các cam kết đã ký. Bên cạnh chủ thể chính là các chủ thể khác cùng hợp thành
lực lượng tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
1.1.2.2. Nội hàm của hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của kinh tế xã hội (lĩnh
vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực an ninhquốc phòng, lĩnh vực văn hóa, giáo
dục, xã hội, ...), nhưng cũng có thể đồng thời diễn ra trên tất cả các lĩnh vực với
tính chất, phạm vi và hình thức khác nhau.
a) Hội nhập quốc tế về kinh tế:
Hội nhập quốc tế về kinh tế hay còn gọi là hội nhập kinh tế quốc tế là quá
trình gắn kết các nền kinh tế của từng quốc gia, vùng lãnh thổ với kinh tế khu vực
và toàn cầu thông qua các nỗ lực tự do hóa thương mại và mở cửa nền kinh tế theo
các hình thức khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu vực, khu vực,
đến liên khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ.
Theo một số nhà kinh tế, tiến trình hội nhập kinh tế được chia thành năm mô hình
cơ bản từ thấp đến cao như sau:
(a1) Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA): Các nước tham gia là thành viên
dành cho nhau các ưu đãi thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, nhưng còn
hạn chế về phạm vi (số lượng các mặt hàng đưa vào diện cắt giảm thuế quan) và
mức độ cắt giảm. Hiệp định PTA của ASEAN (1977), Hiệp định Thương mại
ViệtMỹ (2001), Hiệp định GATT (1947 và 1994) là các ví dụ cụ thể của mô hình
liên kết kinh tế ở giai đoạn thấp nhất.
(a2) Khu vực mậu dịch tự do (FTA): Các thành viên phải thực hiện việc cắt
giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan và các hạn chế về định lượng (có thể bao
gồm cả việc giảm và bỏ một số hàng rào phi thuế quan) trong thương mại hàng hóa
nội khối, nhưng vẫn duy trì chính sách thuế quan độc lập đối với các nước ngoài
khối. Ví dụ như: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu (viết tắt là EFTA), Khu vực mậu
xviii
dịch tự do bắc Mỹ (viết tắt là NAFTA), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (viết tắt
là AFTA). Trong các năm gần đây, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
phạm vi lĩnh vực điều tiết rộng hơn. Ngoài lĩnh vực hàng hóa, các hiệp định này
còn có những quy định tự do hóa đối với nhiều lĩnh vực khác như đầu tư, sở hữu trí
tuệ, lao động, môi trường, thương mại điện tử, mua sắm chính phủ… Ví dụ như:
Hiệp định FTA giữa ASEAN với ÚcNiudilân, Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến
lược xuyên Thái Bình dương (TPP).
(a3) Liên minh thuế quan (CU): Các thành viên tham gia liên minh, thực hiện
việc cắt giảm và loại bỏ thuế quan trong thương mại nội khối, đồng thời phải thực
hiện chính sách thuế quan chung đối với các nước bên ngoài khối. Ví dụ: Nhóm
ANDEAN và Liên minh thuế quan NgaBêlarútCadăcxtan.
(a4) Thị trường chung (hay còn gọi là thị trường duy nhất): Ngoài việc loại bỏ
thuế quan và hàng rào phi quan thuế trong thương mại trong khối đó và có chính
sách thuế quan chung đối với các quốc gia ngoài khối, các thành viên tham gia còn
phải xóa bỏ các hạn chế đối với việc lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác như
vốn và lao động… để tạo thành một nền sản xuất chung của cả khối. Ví dụ: Khối
Liên minh châu Âu (EU).
(a5) Liên minh kinh tếtiền tệ: Là một mô hình hội nhậpquốc tế về kinh tế ở
giai đoạn cao và sâu sắc nhất dựa trên cơ sở một thị trường chung cộng thêm với
việc thực hiện chính sách kinh tế và tiền tệ chung. Ví dụ: đồng tiền chung Châu
Âu.
Một quốc gia, vùng lãnh thổ có thể đồng thời tham gia vào các tiến trình hội
nhập với phạm vi, hình thức và tính chất. Song, về cơ bản phải trải qua các bước
hội nhập từ mức độ thấp đến mức độ cao, việc đốt cháy giai đoạn chỉ có thể diễn ra
trong những điều kiện nhất định. Hội nhập quốc tế về kinh tế là nền tảng quan
trọng cho sự tồn tại và phát triển của hội nhập trong các lĩnh vực khác như: chính
trị, an ninh, quốc phòng, văn hóa, xã hội, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ,…
xix
b) Hội nhập quốc tế về chính trị:
Hội nhập quốc tế về chính trị là quá trình các nước tham gia vào các cơ chế
quyền lực tập thể (giữa từ hai quốc gia trở lên) nhằm mục đích theo đuổi những
mục tiêu nhất định và hành xử phù hợp với các quy định chung, thống nhất. Hội
nhập quốc tế về chính trị thể hiện mức độ liên kết đặc biệt của các quốc gia, vùng
lãnh thổ, trong đó các nước chia sẻ với nhau về các giá trị cơ bản như: tư tưởng, ý
thức hệ chính trị, mục tiêu, lợi ích, nguồn lực và quyền lực chính trị. Một quốc gia,
vùng lãnh thổ có thể tiến hành hội nhập chính trị quốc tế thông qua việc ký kết các
hiệp ước với một hoặc một số quốc gia, vùng lãnh thổ khác trên cơ sở thiết lập các
mối liên kết quyền lực chung của họ hoặc tham gia vào các tổ chức chính trị khu
vực (ví dụ như Cộng đồng ASEAN, Liên minh Châu Âu) hay một tổ chức có quy
mô toàn cầu (ví dụ như Liên Hiệp quốc).
c) Hội nhập quốc tế về an ninhquốc phòng:
Hội nhập quốc tế về an ninhquốc phòng là sự tham gia của quốc gia, vùng
lãnh thổ vào quá trình gắn kết các quốc gia, vùng lãnh thổ với các nước khác trong
mục tiêu chung là duytrì hòa bình và an ninh. Điều này đòi hỏi các nước hội nhập
quốc tế về an ninh – quốc phòng phải tham gia vào các thỏa thuận song phương
hoặc đa phương về an ninhquốc phòng trên cơ sở các nguyên tắc chia sẻ và liên kết
các nội dung: mục tiêu chung, đối tượng hoặc kẻ thù chung, tiến hành các hoạt
động chung về đảm bảo an ninhquốc phòng.
d) Hội nhập quốc tế về văn hóaxã hội:
Hội nhập quốc tế về văn hóaxã hội là quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa của
nước này với các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần của nước mình
với khu vực và thế giới; tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của khu vực và thế giới
để bổ sung, hoàn thiện nền văn hóa dân tộc của nước mình; tham gia vào các tổ
chức hợp tác và phát triển văn hóagiáo dục và xã hội khu vực; hợp tác với các
nước thành viên tham gia hướng tới xây dựng một cộng đồng văn hóaxã hội rộng
lớn trên phạm vi khu vực và thế giới (Cộng đồng văn hóaxã hội ASEAN,
xx
UNESCO…); ký kết và thực hiện các hiệp định song phương về phát triển văn
hóagiáo dụcxã hội với các nước.
1.1.3. Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu của thời đại ngày nay
Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và
quan hệ giữa con người. Các cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải có quan hệ và
liên kết với nhau tạo thành cộng đồng. Nhiều cộng đồng liên kết với nhau tạo
thành xã hội và các quốc giadân tộc. Các quốc gia liên kết với nhau tạo thành
những thực thể quốc tế lớn hơn và hình thành hệ thống thế giới mới.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải mở rộng các thị
trường quốc gia, hình thành thị trường khu vực và quốc tế thống nhất. Đây là động
lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc
tế nói chung.
Trên cấp độ toàn cầu, ngay sau Chiến tranh thế giới II, Liên hiệp quốc và
hàng loạt các tổ chức chuyên môn của Liên hiệp quốc, trong đó gồm nhiều thiết
chế thuộc hệ thống Bretton Woods (đặc biệt là Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng
Thế giới), ra đời với số lượng thành viên gia nhập ngày một nhiều hơn, bao quát
hầu hết các nước trên thế giới. Đây là một tổ chức hợp tác toàn diện, bao quát hầu
hết mọi lĩnh vực và có quy mô toàn cầu. Trong một số lĩnh vực, Liên hiệp quốc đã
có sự phát triển vượt lên trên sự hợp tác thông thường và đã đạt đến trình độ ban
đầu của hội nhập (lĩnh vực chính trịan ninh, lĩnh vực nhân quyền, lĩnh vực tài
chính – tiền tệ,…).
Trong lĩnh vực thương mại, tiến trình hội nhập toàn cầu được thúc đẩy với
việc ra đời của một định chế đa phương đặc biệt quan trọng, Hiệp định chung về
Thương mại và Thuế quan (GATT), sau đó được nối tiếp bằng Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO). Hiện nay, 153 quốc gia và vùng lãnh thổ đã tham gia với tư
cách thành viên chính thức của Tổ chức WTO. Trong hơn thời gia qua, Tổ chức
thương mại thế giới đã phát triển mạnh mẽ hệ thống các quy tắc về thương mại
quốc tế, bao gồm hầu hết các lĩnh vực của quan hệ kinh tế giữa các thành viên ở
xxi
hầu hết các lĩnh vực: hàng hóa, dich vụ, dệt may, gia dầy, hàng rào kỹ thuật thương
mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, hải quan, giám định hàng hóa, quy
tắc xuất xứ, quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại,… Các quy định
chung của WTO đã trở thành nền tảng của tất cả các thỏa thuận kinh tế khu vực
hay song phương trên thế giới hiện nay.
Ở cấp độ khu vực, quá trình hội nhập phát triển rất nhanh trong những thập
niên 1960 và 1970, đặc biệt “nở rộ” từ thập niên 1990 trở lại đây. Hàng loạt tổ
chức và thể chế khu vực đã ra đời ở khắp các châu lục. Các tổ chức và thể chế khu
vực hiện nay đã có mặt ở hầu hết các khu vực. Các tổ chức và thể chế khu vực về
chính trịan ninh kinh tế là nhiều nhất.
Bên cạnh các cấp độ toàn cầu và khu vực, quá trình hội nhập giữa các nước
còn được điều tiết bởi các hiệp định liên kết song phương, dưới dạng hiệp ước liên
minh (chính trị, an ninh, quốc phòng), hiệp định đối tác toàn diện, hiệp định đối tác
chiến lược, hiệp định kinh tếthương mại (BFTA, BCU…). Từ cuối thập niên 1990
trở lại đây, xu hướng ký kết các hiệp định đối tác chiến lược và hiệp định mậu dịch
tự do (BFTA) phát triển đặc biệt mạnh mẽ. Hầu hết các nước đều đã ký hoặc đang
trong quá trình đàm phán các BFTA. Thậm chí, có nước hiện đã ký hoặc đàm phán
tới hàng chục hiệp định BFTA (Singapore, Thái Lan, Nhật, Úc…). Điều này được
lý giải chủ yếu bởi bế tắc của vòng đàm phán Đôha và những ưu thế của BFTA so
với các hiệp định đa phương (dễ đàm phán và nhanh đạt được hơn; việc thực hiện
cũng thuận lợi hơn).
Như vậy có thể thấy hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế lớn của thời đại
ngày nay. Chung ta đang sống trong một thế giới hội nhập sâu, rộng hay nói một
cách khác là thời đại hội nhập toàn cầu. Xu thế này đã, đang và sẽ có ảnh hưởng
toàn bộ quan hệ quốc tế và làm thay đổi các cấu trúc của hệ thống thế giới cũng
như bản thân các chủ thể và mối quan hệ giữa chúng.
xxii
1.2. QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1.2.1. Chủ trương, mục tiêu chỉ đạo Hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà
nước
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) của Việt Nam bắt đầu từ khá
sớm nhưng chủ yếu được đẩy mạnh từ sau khi Đảng ta phát động sự nghiệp đổi
mới. HNKTQT là nội dung trọng tâm và quan trọng nhất của Hội nhập quốc tế và
là một bộ phận xuyên suốt của công cuộc đổi mới ở nước ta. Các quan điểm và chủ
trương của Đảng ta về HNKTQT mang tính nhất quán, có hệ thống và luôn được
cập nhật và mang tính kế thừa qua các kỳ Đại hội của Đảng.
Ngay từ những năm 1980 của thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước đã sớm nhận thức
sâu sắc sự cần thiết và tất yếu của HNKTQT. Từ đó tới nay, đường lối, chủ trương
hội nhập kinh tế của Đảng đã được đề ra một cách nhất quán, không ngừng được
phát triển và được các cấp, các ngành triển khai đồng bộ và tích cực, phù hợp với
tình hình cụ thể ở từng giai đoạn, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp Đổi mới và phát
triển kinh tế của đất nước. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đề ra đường lối Đổi
mới toàn diện và sâu sắc mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Sự nghiệp Đổi mới của Việt
Nam được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc và một cục
diện, trật tự thế giới mới đang hình thành, trong đó các nước có chế độ chính trị
khác nhau vừa đấu tranh vừa hợp tác. Đảng đã nhận thức rõ rằng bối cảnh đó là
điều kiện để chúng ta phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và rộng mở. Từ
cuối nhiệm kỳ đại hội VI, Đảng đã có những hoạt động đẩy mạnh quá trình khôi
phục và bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, đánh dấu bằng việc ký kết bản
Tuyên bố chung, thoả thuận khôi phục quan hệ bình thường giữa hai Đảng và hai
Nhà nước vào tháng 11 năm 1991.
Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991 xác định rõ chủ trương “độc lập tự chủ,
đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại” với phương châm “Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình,
độc lập và phát triển”, đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập trong giai đoạn
xxiii
mới của nước ta. Nhờ chủ trương này, Việt Nam đã đẩy lùi được chính sách bao
vây cô lập của các thế lực thù địch, không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế
đối ngoại song phương và đa phương sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
tan rã. Một cơ chế hợp tác mới ra đời, vận hành theo những quy luật mà hôm nay
chúng ta đã rất quen thuộc: cơ chế thị trường. Đây là một cột mốc quan trọng đánh
dấu bước khởi đầu của Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ
mới. Triển khai Nghị quyết Đại hội VII, Nghị quyết Trung ương 3 (Khoá VII) về
chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại đã cụ thể hoá hơn nữa chính sách đối
ngoại của Việt Nam “phát huy những điểm đồng, hạn chế những điểm bất đồng”
và nêu rõ chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, trong đó nhấn
mạnh “cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu
Á (ADB)..., mở rộng hợp tác với các tổ chức khu vực, trước hết là ở Châu Á Thái
Bình Dương”.
Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996 xác định sự cần thiết phải xây dựng một
nền kinh tế mới hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu. Từ
đó, Đảng đưa nhiệm vụ đối ngoại lên một tầm cao mới: “Nhiệm vụ đối ngoại trong
giai đoạn tới là củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa
để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước”
và “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”. Đây là lần đầu tiên Nghị quyết
của Đảng đề cập đến việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mục
tiêu phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước. Nó đánh dấu một bước chuyển biến
cơ bản trong nhận thức về nhu cầu cần tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nghị quyết số 01/NQTƯ của Bộ Chính trị ngày 18 tháng 11 năm 1996 về mở
rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại và Nghị quyết 04/NQNHTƯ của Ban
chấp hành Trung ương (Khoá VIII) ngày 29 tháng 12 năm 1997 về tiếp tục đổi
mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế xã hội đến năm 2000
là những văn kiện quan trọng chỉ đạo việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế của
xxiv
Việt Nam. Nghị quyết 01/NQTƯ đã chỉ rõ 4 phương hướng phát triển kinh tế đối
ngoại thời kỳ này là tăng cường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, thu hút và sử
dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và phát triển các ngành dịch
vụ định hướng xuất khẩu thu ngoại tệ. Trong đó, tăng cường xuất khẩu là trọng
điểm chiến lược của kinh tế đối ngoại. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng nhằm phục
vụ tích cực cho phương hướng này.
Nghị quyết 04/NQNHTƯ của Ban chấp hành Trung ương ra đời trong bối
cảnh Đảng ta đang nhìn lại những gì đã vượt qua để đánh giá khách quan những
thách thức của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cả trong nước và từ bên ngoài.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và ở một số nước trên thế giới là
một bài học lớn để chúng ta đúc rút những kinh nghiệm cho quá trình hội nhập và
nhận thức rõ rằng chúng ta hội nhập thành công bằng chính sức mình, với nội lực
được phát huy tối đa, hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng
cao. Từ thực tế đó, Đảng ta đã đề ra nguyên tắc định hướng cho hội nhập kinh tế
quốc tế: “Trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu
hút các nguồn lực bên ngoài”, “tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị
trường quốc tế”.
Vấn đề phát huy nội lực và chủ động hội nhập được đề ra từ Nghị quyết này
mang một ý nghĩa hết sức quan trọng: hội nhập không chỉ là tranh thủ thuận lợi từ
bên ngoài, hội nhập phải là sự thay đổi, đổi mới từ ngay bên trong nền kinh tế.
Những nhiệm vụ cụ thể đã được đề ra để tích cực, chủ động hội nhập là “Chủ động
chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, luật pháp và nhất là về những sản phẩm mà
chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị trường
quốc tế. Tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định thương mại
với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các
cam kết trong khuôn khổ AFTA”.
Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 đã khẳng định tính tất yếu, đánh giá bản
chất của toàn cầu hoá và cơ hội cũng như thách thức đối với Việt Nam khi tham
gia quá trình này: "Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày
xxv