Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Tổ chức thực hiện giao nhận lô hàng tivi đóng trong container tại công ty cổ phần vận tải container đông đô cảng hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.6 KB, 53 trang )

Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Giao nhận là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của
hoạt động này ảnh hưởng quan trọng và quyết định đến tính cạnh tranh của
ngành công nghiệp và thương mại của mỗi quốc gia. Đối với những nước phát
triển như Nhật và Mỹ giao nhận đóng góp khoảng 10% GDP. Đối với những
nước kém phát triển hơn thì tỷ lệ này có thể hơn 30%. Sự phát triển của dịch vụ
giao nhận có ý nghĩa lớn trong cho việc đảm bảo vận hành sản xuất, kinh doanh,
các dịch vụ khác được đảm bảo cả về mặt thời gian lẫn chất lượng. Việc giao
nhận phát triển tốt và hiệu qủa sẽ mang lại khả năng giảm chi phí, nâng cao chất
lượng các sản phẩm dịch vụ.
Trong bối cảnh của toàn cầu hóa hiện nay, nhất là khi Việt Nam là thành
viên của Tổ chức Thương mại thế giới ( WTO) và mới đây là Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương ( TPP ), các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với
các đối thủ mới (các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính,
công nghệ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao), phải cạnh tranh trong điều
kiện mới (thị trường toàn cầu hóa với những nguyên tắc chặt chẽ, nghiêm khắc
của định chế thương mại và luật pháp quốc tế). Hay nói cách khác, doanh
nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách thức to lớn.
Do đó em đã chọn đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp là “Tổ chức
thực hiện giao nhận lô hàng tivi đóng trong container tại Công ty cổ phần
vận tải container Đông Đô- Cảng Hải Phòng”

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

1


Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIAO NHẬN HÀNG HÓA


ĐÓNG TRONG CONTAINER
1. Những lý luận cơ bản về giao nhận
1.1 Khái niệm và đặc điểm của nghiệp vụ giao nhận
1.1.1 Khái niệm
Trong thương mại quốc tế, người mua và người bán thường ở những địa
điểm cách xa nhau. Để có thể vận chuyển hàng hóa từ người bán sang người
mua một cách thuận lợi thì cần phải thực hiện hàng loạt các công việc liên quan
đến quá trình chuyên chở như bao bì, đóng gói, xếp dỡ, lưu kho, đưa hàng ra
cảng, làm các thủ tục gửi hàng, xếp hàng lên tàu, chuyển tải, dỡ hàng và giao
cho người nhận… Tất cả những bước công việc đó được gọi là dịch vụ giao
nhận.
Nói chung, giao nhận là những hoạt động nằm trong khâu lưu thông phân
phối hàng hóa, thực hiện chức năng đưa sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu
thụ cuối cùng.
Theo quy tắc mẫu của Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội giao nhận
(International Federtion of Freight Forwarders Associations – FIATA) thì “Dịch
vụ giao nhận là bất kỳ loại dịch vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng,
lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hóa cũng như dịch vụ tư vấn hay
có liên quan đến các dịch vụ trên, kể cả các vấn đề hải quan, tài chính, mua bảo
hiểm, thanh toán, thu thập chứng từ có liên quan đến hàng hóa”.
Theo Luật Thương Mại Việt Nam 2005 thì dịch vụ giao nhận hàng hóa
được định nghĩa như sau:
“Điều 163: Dịch vụ giao nhận hàng hoá là hành vi thương mại theo đó
người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá nhận hàng từ người gửi, tổ chức vận
chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên
quan để giao nhận hàng cho người nhận theo sự uỷ thác của chủ hàng, của

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233


2


Luận văn tốt nghiệp
người vận tải hoặc của người làm dịch vụ giao nhận khác (gọi chung là khách
hàng)”.
Hay nói một cách ngắn gọn, giao nhận là tập hợp các nghiệp vụ, thủ tục
có liên quan đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển hàng hóa từ
nơi gửi hàng (người gửi hàng) đến nơi nhận hàng (người nhận hàng). Người
giao nhận có thể làm các dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua
đại lý hoặc thuê dịch vụ của người thứ ba).
1.1.2 Đặc điểm của nghiệp vụ giao nhận
Do là một loại hình dịch vụ nên giao nhận vận tải cũng mang những đặc
điểm chung của dịch vụ, đó là nó là hàng hóa vô hình nên không có tiêu chuẩn
đánh giá chất lượng đồng nhất, không thể lưu giữ, dự trữ trong kho, sản xuất và
tiêu dùng diễn ra đồng thời, chất lượng của dịch vụ phụ thuộc vào cảm nhận của
người được phục vụ.
Nhưng do đây là một hoạt động đặc thù nên dịch vụ này cũng có những
đặc điểm riêng:
- Dịch vụ giao nhận vận tải không tạo ra sản phẩm vật chất, nó chỉ làm đối
tượng thay đổi vị trí về mặt không gian chứ không tác động làm thay đổi bản
chất của đối tượng đó. Nhưng giao nhận vận tải lại có tác động tích cực đến sự
phát triển của sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.
- Mang tính thụ động : vì nó phụ thuộc rất nhiều vào nhu cầu của khách
hàng, quy định của người vận chuyển và các ràng buộc về pháp luật, thể chế của
Chính phủ (nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước thứ ba,…).
- Mang tính thời vụ: Do hoạt động xuất, nhập khẩu mang tính thời vụ mà
dịch vụ giao nhận là dịch vụ để phục vụ cho hoạt động xuất, nhập khẩu, nó phụ
thuộc nhiều vào lượng hàng hóa xuất nhập khẩu nên hoạt động giao nhận mang
tính thời vụ


Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

3


Luận văn tốt nghiệp
Ngoài những công việc như làm thủ tục, môi giới, lưu cước, người làm
dịch vụ giao nhận còn tiến hành các dịch vụ khác như gom hàng, chia hàng, bốc
xếp.
1.1.3 Phân loại
+ Căn cứ vào phạm vi hoạt động:
•Giao nhận nội địa: là hoạt động giao nhận chuyên chở hàng hóa trong
phạm vi một nước.
•Giao nhận quốc tế: là hoạt động giao nhận phục vụ cho các tổ chức
chuyên chở quốc tế.
+ Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh:
•Giao nhận thuần túy: là hoạt động giao nhận chỉ bao gồm việc gửi hàng đi
hoặc nhận hàng đến.
•Giao nhận tổng hợp: là hoạt động giao nhận ngoài hoạt động thuần túy
còn bao gồm xếp dỡ, bảo quản hàng hóa, vận chuyển đường ngắn, lưu kho, lưu
bãi,…
+ Căn cứ vào phương tiện vận tải:
•Giao nhận ô tô
•Giao nhận đường sắt
•Giao nhận hàng hóa đường biển
•Giao nhận hàng không
•Giao nhận bưu điện
•Giao nhận đường ống

•Giao nhận vận tải liên hợp (Combined Transportation – CT), vận tải đa
phương thức (Montimodal Transportation – MT)

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

4


Luận văn tốt nghiệp
1.2 Người giao nhận
1.2.1 Khái niệm
Về người giao nhận, hiện tại chưa có một khái niệm thống nhất được
Quốc tế công nhận. Người ta thường hiểu người kinh doanh dịch vụ giao nhận
hay các doanh nghiệp giao nhận là người giao nhận (Forwarder, Freight
Forwarder, Forwarder Agent). Theo Liên đoàn Quốc tế các Hiệp hội giao nhận
thì “Người giao nhận là người lo toan để hàng hóa được chuyên chở theo hợp
đồng ủy thác và hoạt động vì lợi ích của người ủy thác mà bản thân anh ta
không phải là người vận tải. Người giao nhận cũng đảm bảo thực hiện mọi công
việc liên quan đến hợp đồng giao nhận như bảo quản, lưu kho trung chuyển,
làm thủ tục hải quan, kiểm hóa”.
Người giao nhận có thể là chủ hàng (khi chủ hàng tự đứng ra đảm nhận
công việc giao nhận hàng hóa của mình), chủ tàu (khi chủ tàu thay mặt chủ hàng
thực hiện dịch vụ giao nhận), công ty xếp dỡ hay kho hàng, người giao nhận
chuyên nghiệp hay bất kì người nào khác có đăng kí kinh doanh dịch vụ giao
nhận hàng hóa.
Từ các định nghĩa trên ta có thể rút ra nhận xét:
 Người giao nhận hoạt động theo hợp đồng ủy thác kí với chủ hàng, bảo
vệ lợi ích của chủ hàng.
 Người giao nhận lo liệu mọi việc vận tải nhưng chưa hẳn là người vận

tải. Người đó có thể sử dụng phương tiện vận tải, thuê mướn người vận tải.
 Cùng với việc tổ chức vận tải, người giao nhận còn làm nhiều việc khác
trong phạm vi ủy thác của chủ hàng để đưa hàng từ nơi này đến nơi khác theo
những điều khoản đã cam kết.
Dù ở các nước khác nhau, tên gọi của người giao nhận có khác nhau,
nhưng tất cả đều cùng mang một tên chung trong giao dịch quốc tế là “ người
giao nhận hàng hóa quốc tế ” (International freight forwarder) và cùng làm một
dịch vụ tương tự nhau, đó là dịch vụ giao nhận.
Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

5


Luận văn tốt nghiệp
Theo Luật Thương mại 2005 của Việt Nam thì người giao nhận được định
nghĩa như sau:
“Điều 164: Người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa là thương nhân có
giấy chứng nhận kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa”.
1.2.2 Vai trò của người giao nhận trong thương mại quốc tế.
Ngành giao nhận vận tải phát triển tất yếu kéo theo sự phát triển hệ thống
kết cấu hạ tầng cơ sở, đặc biệt là các công trình kết cấu hạ tầng trực tiếp phục vụ
giao nhận vận tải như: bến cảng, hệ thống đường giao thông (đường bộ, đường
sông, đường sắt, sân bay, bến cảng, ….)
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng với sự tác
động của tự do hóa thương mại quốc tế, các hoạt động giao nhận vận tải ngày
một phát triển và không ngừng lớn mạnh, đã góp phần tích luỹ ngoại tệ, đẩy
mạnh giao lưu kinh tế, nối liền các hoạt động kinh tế giữa các khu vực kinh tế
trong nước, ngoài nước làm cho nền kinh tế quốc gia phát triển nhịp nhàng, cân
đối.

Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá vừa là nhà vận tải đa phương thức,
vừa là nhà tổ chức, nhà kiến trúc của vận tải. Họ phải lựa chọn phương tiện,
người vận tải thích hợp, tuyến đường thích hợp có hiệu quả kinh tế nhất và đứng
ra trực tiếp vận tải hay tổ chức thu xếp quá trình vận tải của toàn chặng với
nhiều loại phương tiện vận tải khác nhau như: ô tô, tàu hỏa, tàu thuỷ , máy bay...
vận chuyển qua nhiều nước và chịu trách nhiệm trực tiếp với chủ hàng. Vì vậy,
chủ hàng chỉ cần ký một hợp đồng vận tải với người giao nhận thì hàng hoá sẽ
được vận chuyển an toàn, kịp thời với giá cước hợp lý nhất từ kho nhà xuất khẩu
tới kho nhà nhập khẩu (door to door service), tiết kiệm được tối đa thời gian,
giảm chi phí vận chuyển và nâng cao được tính cạnh tranh của hàng hoá trên thị
trường quốc tế.

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

6


Luận văn tốt nghiệp
Trước đây, người giao nhận chỉ làm đại lý (agent) thực hiện các công việc
do các nhà xuất, nhâp khẩu ủy thác như lo liệu vận tải nội địa, làm thủ tục giấy
tờ, xếp dỡ, lưu kho, làm thủ tục thanh toán tiền hàng...
Cùng với sự phát triển thương mại quốc tế và tiến bộ kỹ thuật trong
ngành vận tải , người ta đòi hỏi dịch vụ giao nhận phải được mở rộng hơn nữa.
Ngày nay, người giao nhận đóng vai trò rất quan trọng, là mắt xích không thể
thiếu trong thương mại và vận tải quốc tế. Người giao nhận không chỉ làm các
thủ tục hải quan hay thuê tàu mà còn cung cấp các dịch vụ trọn gói cho toàn bộ
quá trình vận tải và phân phối hàng hoá. Người giao nhận đã thực hiện những
chức năng sau đây:
- Môi giới Hải quan: người giao nhận thay mặt người xuất, nhập khẩu để

làm thủ tục, khai báo hải quan hoặc môi giới hải quan.
- Làm đại lý: người giao nhận nhận uỷ thác từ chủ hàng hoặc từ người
chuyên chở để thực hiện các công việc khác nhau như làm thủ tục hải quan, lập
chứng từ, nhận hàng, lưu kho giao hàng, …trên cơ sở hợp đồng uỷ thác.
Người giao nhận khi là đại lý:
+ Nhận uỷ thác từ một chủ hàng để lo những công việc giao nhận hàng
hoá xuất, nhập khẩu, làm việc để bảo vệ lợi ích của chủ hàng, làm trung gian
giữa người gửi hàng với người vận tải, người vận tải với người nhận hàng,
người bán với người mua.
+ Hưởng hoa hồng và không chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng hoá,
chỉ chịu trách nhiệm về hành vi của mình chứ không chịu trách nhiệm về hành
vi của người làm công cho mình hoặc cho chủ hàng.
- Lo liệu chuyển tải và tiếp gửi hàng hoá ( Transhipment and on-carriage)
Khi hàng hoá phải chuyển tải hay quá cảnh qua ở nước thứ ba, người giao
nhận sẽ lo liệu thủ tục quá cảnh hoặc tổ chức chuyển tải hàng hoá từ phương tiện
vận tải này sang phương tiện vận tải khác hoặc giao hàng đến tay người nhận.
- Lưu kho hàng hoá ( Warehousing):
Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

7


Luận văn tốt nghiệp
Trong trường hợp phải lưu kho hàng hoá trước khi xuất khẩu hoặc sau khi
nhập khẩu, người giao nhận sẽ tiến hành việc đó bằng phương tiện của mình
hoặc thuê người khác và phân phối hàng hoá nếu cần.
- Người gom hàng ( Consolidator):
Trong vận tải hàng hoá bằng container, dịch vụ gom hàng là đóng vai trò
không thể thiếu được nhằm biến hàng lẻ ( Less than container load - LCL) thành

hàng nguyên ( Full container load - FCL) để tận dụng sức chở của container và
giảm cước phí vận tải. Khi đóng vai trò là người gom hàng, người giao nhận có
thể là người chuyên chở hoặc chỉ là đại lý.
- Người chuyên chở ( Carrier):
Ngày nay, trong nhiều trường hợp, người giao nhận đóng vai trò là người
chuyên chở, tức là người giao nhận trực tiếp ký hợp đồng vận tải với chủ hàng
và chịu trách nhiệm vận chuyển hàng hoá từ nơi này đến nơi khác. Người giao
nhận đóng vai trò là người thầu chuyên chở ( Contracting carrier) nếu anh ta ký
hợp đồng mà không chuyên chở. Nếu anh ta trực tiếp chuyên chở thì đó là người
chuyên chở thực tế ( Performing carrier). Dù là người chuyên chở gì thì vẫn chịu
trách nhiệm về hàng hoá. Trong trường hợp này, người giao nhận phải chịu trách
nhiệm về hàng hoá trong suốt hành trình không những về hành vi lỗi lầm của
mình mà cả những người mà anh ta sử dụng và có thể phát hành vận đơn.
- Người kinh doanh VTĐPT (Multimodal Transport Operator - MTO)
Trong trường hợp người giao nhận cung cấp dịch vụ vận tải đi suốt hay
còn gọi là vận tải door to door thì người giao nhận đã đóng vai trò là người kinh
doanh vận tải đa phương thức ( MTO ). MTO thực chất là người chuyên chở,
thường là chuyên chở theo hợp đồng và phải chịu trách nhiệm đối với hàng hoá.
1.2.3 Trách nhiệm:
Trách nhiệm của người giao nhận được quy định rõ trong các điều kiện
kinh doanh chuẩn. Điều kiện kinh doanh chuẩn là các điều kiện do FIATA soạn
thảo, trên cơ sở đó là chuẩn mực, là điều kiện tối thiểu cho các quốc gia, các tổ
Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

8


Luận văn tốt nghiệp
chức giao nhận dựa vào đó để thực hiện các công việc giao nhận, đồng thời là cơ

sở để các quốc gia lập các điều kiện riêng cho phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh của mình. Về cơ bản nó gồm những nội dung sau:
+ Người giao nhận phải thực hiện sự ủy thác với sự chăm lo cần thiết
nhằm bảo vệ lợi ích cho khách hàng
+ Thực hiện sự ủy thác của khách hàng cho việc thu xếp tất cả các điều
kiện có liên quan để tổ chức vận chuyển hàng hoá đến tay người nhận theo các
chỉ dẫn của khách hàng
+ Người giao nhận không bảo đảm và không chịu trách nhiệm về việc
hàng hoá sẽ đến địa điểm đích vào một ngày nhất định mà người giao nhận chỉ
thực hiện công việc của mình một cách mẫn cán hợp lý trong việc lựa chọn, tổ
chức vận chuyển để hàng hóa tới cảng đích nhanh nhất.
+ Người giao nhận chỉ chịu trách nhiệm về các tổn thất và thiệt hại xảy ra
đối với hàng hóa thuộc về lỗi lầm hoặc sai sót của chính bản thân mình hoặc
người làm công cho mình, người giao nhận không phải chịu trách nhiệm về tổn
thất do bên thứ 3 gây ra nếu người giao nhận chứng tỏ được là họ đã thực sự
chăm chỉ, mẫn cán trong việc lựa chọn và chỉ định bên thứ 3.
- Các điều kiện kinh doanh chuẩn của các nước thuộc ASEAN:
+ Điều kiện chung: là các điều kiện quy định về chức năng, nhiệm vụ và
phạm vi hoạt đông của người giao nhận trong toàn bộ hoạt động giao nhận vận
chuyển hàng hoá ( giống như ĐKKDC).
+ Các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của người giao nhận khi đóng vai
trò như người nhận ủy thác ( đại lý, môi giới ).
+ Người giao nhận thực hiện vai trò của mình như một bên ủy thác.
Việt Nam hiện nay, các ĐKKDC về cơ bản cũng dựa trên cơ sở của
FIATA và các nước thuộc khối ASEAN.

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

9



Luận văn tốt nghiệp
1.2.4 Quyền hạn, nghĩa vụ của người giao nhận trong thương mại quốc tế.
“ Điều 167 Luật Thương mại Việt Nam 1997 quy định, người giao nhận
có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Người giao nhận được hưởng tiền công và các khoản thu nhập hợp
lí khác.
- Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
- Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lí do chính đáng vì lợi ích
của khách hàng thì có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng, nhưng
phải thông báo ngay cho khách hàng.
- Sau khi kí kết hợp đồng, nếu không thể thực hiện chỉ dẫn của khách
hàng thì phải thông báo ngay cho khách hàng để xin chỉ dẫn thêm.
- Phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời hạn hợp lý nếu trong hợp
đồng không thỏa thuận về thời hạn thực hiện nghĩa vụ với khách hàng.”
“ Theo luật Thương mại Việt Nam, người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa
không phải chịu trách nhiệm về mất mát, hư hỏng phát sinh trong các trường
hợp:
- Do lỗi của khách hàng hoặc người được khách hàng ủy quyền.
- Đã làm đúng theo yêu cầu của khách hàng hoặc người được khách hàng
ủy quyền
- Khách hàng đóng gói và ghi kí mã hiệu không phù hợp.
- Do khách hàng hoặc người được khách hàng ủy quyền thực hiện việc
xếp dỡ hàng hóa.
- Do khuyết tật của hàng hóa.
- Do có đình công.
- Các trường hợp bất khả kháng.
- Người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa không chịu trách nhiệm về việc
mất khoản lợi đáng lẽ mà khách hàng được hưởng, về sự chậm trễ hoặc giao


Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

10


Luận văn tốt nghiệp
hàng sai địa chỉ mà không phải do lỗi của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
- Trách nhiệm của người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa trong mọi
trường hợp không vượt quá giá trị hàng hóa từ khi các bên có thỏa thuận khác
trong hợp đồng.
- Người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa không được miễn trách nhiệm
nếu không chứng minh được việc mất mát, hư hỏng hoặc chậm giao hàng không
phải do lỗi của mình gây ra.
- Tiền bồi thường được tính trên cơ sở giá trị hàng hóa ghi trên hóa đơn
và các khoản bồi thường khác có chứng từ hợp lệ. Nếu trong hóa đơn không ghi
giá trị hàng hóa thì tiền bồi thường được tính theo giá trị của loại hàng hóa đó tại
nơi và thời điểm mà loại hàng đó được giao cho khách hàng theo giá thị trường,
nếu không có giá thị trường thì tính theo gia thông thường của hàng cùng loại
cùng chất lượng..
- Khi có sai sót, gây thiệt hại cho khách hàng, người giao nhận phải có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách hàng nhưng phải chịu trách nhiệm
trong các trường hợp:
• Người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa không nhận được thông báo về
khiếu nại trong thời gian 14 ngày, kể từ ngày giao hàng, không tính chủ nhật và
ngày lễ.
• Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá không nhận được thông báo bằng
văn bản về việc bị kiện tại trọng tài hoặc tòa án trong thời hạn 9 tháng kể từ

ngày giao hàng.
• Khi đóng vai trò là người chuyên chở thì các điều kiện kinh doanh tiêu
chuẩn thường không áp dụng mà áp dụng các công ước quốc tế hoặc các quy tắc
do phòng thương mại quốc tế ban hành.”

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

11


Luận văn tốt nghiệp
1.3 Các loại dịch vụ giao nhận hàng hoá
1.3.1 Loại dịch vụ thay mặt người gửi hàng ( Người xuất khẩu).
Theo những chỉ dẫn của người chủ hàng, người giao nhận sẽ thực hiện các
nhiệm vụ sau đây:
- Chọn phương thức vận tải, tuyến đường, và người chuyên chở phù hợp.
- Lưu cước với người chuyên chở đã chọn.
- Nhận hàng và cung cấp những chứng từ thích hợp như : giấy chứng
nhận chuyên chở của người giao nhận, giấy chứng nhận hàng của người giao
nhận, …
- Nghiên cứu những điều khoản trong L/C (tín dụng thư) và tất cả những
điều lệ của nước chính phủ áp dụng vào việc giao hàng ở nước xuất khẩu, nước
nhập khẩu cũng như bất cứ nước quá cảnh nào, đồng thời chuẩn bị tất cả những
chứng từ cần thiết.
- Đóng gói hàng hóa ( trừ phi việc này do người gửi hàng làm trước khi
giao hàng cho người giao nhận) có tính đến phương thức vận chuyển, tuyến
đường, bản chất hàng hóa và những luật lệ áp dụng nếu có, ở nước xuất khẩu.
nước quá cảnh và nước gửi hàng đến.
- Lo việc lưu kho hàng hóa ( nếu cần).

- Cân đo hàng hóa.
- Mua bảo hiểm cho hàng hóa nếu người gửi hàng yêu cầu.
- Vận chuyển hàng hóa đến cảng, tiến hành việc khai báo hải quan, các thủ
tục chứng từ có liên quan và giao hàng cho người chuyên chở.
- Thực hiện việc giao dịch ngoại hối (nếu có)
- Thanh toán phí và các khoản chi phí khác bao gồm cả tiền cước .
- Nhận vận đơn đã kí của người chuyên chở giao cho người gửi hàng.
- Thu xếp việc chuyển tải trên đường nếu thấy thực sự cần thiết.

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

12


Luận văn tốt nghiệp
- Giám sát việc vận tải hàng hóa trên đường gửi tới người nhận hàng thông
qua những mối liên hệ với người chuyên chở và đại lí của người giao nhận ở
nước ngoài.
- Ghi nhận những tổn thất hàng hóa (nếu có)
- Giúp người gửi hàng tiến hành khiếu nại với người chuyên chở về những
tổn thất hàng hóa (nếu có).
1.3.2 Loại dịch vụ thay mặt người nhận hàng ( Người nhập khẩu).
Theo những chỉ dẫn giao hàng của khách hàng, người giao nhận sẽ:
 Thay mặt người nhận hàng giám sát việc vận chuyển hàng hóa khi
người nhận hàng lo liệu vận tải hàng hóa.
 Nhận và kiểm tra tất cả các chứng từ liên quan đến việc vận chuyển
hàng hóa…
 Nhận hàng của người chuyên chở và nếu cần thì thanh toán cước.
 Thu xếp việc khai báo hải quan và trả lệ phí, thuế và những khoản chi

phí khác cho hải quan và những cơ quan khác.
 Thu xếp việc lưu kho quá cảnh ( nếu cần )
 Giao hàng đã làm thủ tục hải quan cho người nhận hàng
 Nếu cần, giúp đỡ người nhận hàng tiến hành khiếu nại đối với người
chuyên chở về tổn thất hàng hóa (nếu có).
 Giúp người nhận hàng trong việc lưu kho và phân phối (nếu cần).
1.3.3 Dịch vụ giao nhận hàng hoá đặc biệt.
Người giao nhận thường thực hiện giao nhận hàng bách hóa bao gồm
nhiều loại thành phẩm, bán thành phẩm, hay hàng sơ chế và những hàng hóa
khác giao lưu trong buôn bán quốc tế. Ngoài ra, tùy theo yêu cầu của khách
hàng, người giao nhận cũng có thể làm các dịch vụ khác có liên quan đến các
loại dịch vụ hàng hóa đặc biệt như:
 Vận chuyển hàng công trình, chủ yếu là vận chuyển thiết bị, máy móc
nặng,.. để xây dựng những công trình lớn như nhà máy hóa chất, nhà máy thủy
điện, sân bay, … từ nơi sản xuất đến công trường xây dựng.

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

13


Luận văn tốt nghiệp
 Việc di chuyển những hàng hóa này cần có kế hoạch cẩn thận, chi tiết
để đảm bảo giao hàng đúng thời hạn và có thể cần phải sử dụng các loại xe
nặng, xe vận tải ngoại cỡ… Đây là lĩnh vực chuyên môn của người giao nhận.
 Dịch vụ vận chuyển quần áo treo trên mắc : Những quần áo may mặc
được chuyên chở bằng những chiếc áo treo trên giá trong những container đặc
biệt và ở nơi đến, được chuyển trực tiếp từ container vào cửa hàng để bày bán.
Cách này loại bỏ được việc phải chế biến lại quần áo nếu đóng nhồi trong

container và đồng thời tránh được bụi bẩn, ẩm ướt …
 Triển lãm ở nước ngoài: Người giao nhận thường tổ chức triển lãm cho
việc chuyên chở hàng đến nơi triển lãm hàng hóa ở nước ngoài…
1.3.4 Những dịch vụ khác.
Ngoài những dịch vụ nêu trên, tùy thuộc vào yêu cầu của khách hàng,
người giao nhận có thể làm các dịch vụ khác mà chúng phát sinh trong quá trình
chuyên chở và cả những dịch vụ đặc biệt như gom hàng, có liên quan đến hàng
công trình, công trình chìa khóa trao tay…
Người giao nhận cũng có thể thông báo cho khách hàng của mình về nhu
cầu tiêu dùng, những thị trường mới, tình hình cạnh tranh, chiến lược xuất khẩu,
những điều khoản thích hợp cần đưa vào hợp đồng mua bán thương mại nói
chung và tất cả những vấn đề liên quan đến việc kinh doanh của khách hàng.
Người giao nhận phải tuân thủ theo các chỉ dẫn đặc biệt của chủ hàng về phương
thức vận chuyển, nơi cụ thể làm thủ tục hải quan ở nước đến khi giao hàng triển
lãm, về những chứng từ cần lập…
1.4 Cơ sở pháp lý của hoạt động giao nhận
Hoạt động giao nhận về thực chất là hoạt động tác nghiệp liên quan đến
nhiều vấn đề như vận tải, hợp đồng mua bán, thủ tục Hải quan, thanh toán cho
nên khi thực hiện nghiệp vụ giao nhận cần quan tâm đến cơ sở pháp lý trực tiếp
và gián tiếp điều tiết hoạt động đó.

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

14


Luận văn tốt nghiệp
Cơ sở pháp lý cho việc giao nhận hàng hóa xuất, nhập khẩu bao gồm các
quy phạm pháp luật quốc tế (các Công ước về vận đơn vận tải, Công ước về hợp

đồng mua bán hàng hóa…), các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước Việt
Nam về giao nhận vận tải; các hợp đồng và tín dụng thư,…
Các Công ước quốc tế bao gồm:


Công ước Viên 1980 về buôn bán quốc tế.



Các Công ước về vận tải như Công ước quốc tế để thống nhất một

số quy tắc về vận đơn đường biển ký tại Brussels ngày 25/08/1924 còn được gọi
là quy tắc Hague. Công ước này cho đến nay đã được sửa đổi chỉnh lý 2 lần, lần
thứ nhất vào năm 1968 tại Visby nên được gọi là Nghị định thư Visby 1968 và
lần sửa đổi thứ hai vào năm 1979, gọi là Nghị định thư SDR. Ngoài ra còn có
Công ước Liên hợp quốc về chuyên chở hàng hóa bằng đường biển ký tại
Hamburg ngày 31/03/1978, thường gọi là Công ước Hamburg hay qui tắc
Hamburg 1978.


Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn Incoterm 2010 giải thích các điều

kiện thương mại của phòng thương mại quốc tế.


Quy tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ UCP 500 của

phòng thương mại quốc tế Paris.
Bên cạnh luật pháp quốc tế, Nhà nước Việt Nam đã ban hàng nhiều văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến vận tải, giao nhận hàng hóa xuất, nhập

khẩu như Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005, Luật Thương mại Việt Nam 2005,
Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật thuế,…
Các hợp đồng làm cơ sở cho hoạt động giao nhận bao gồm hợp đồng mua
bán ngoại thương, hợp đồng ủy thác giao nhận, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng
thuê tàu.

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

15


Luận văn tốt nghiệp
1.5 Các tổ chức giao nhận trên thế giới và ở Việt Nam
Ngay từ năm 1552, hãng tàu giao nhận đầu tiên trên thế giới đã được
thành lập ở Badiley (Thụy Sĩ) với tên gọi là E.Vansai. Hãng tàu này kinh doanh
dịch vụ giao nhận vận tải và thu cước phí rất cao, khoảng 1/3 giá trị hàng hóa.
Cùng với sự phát triển thương mại quốc tế, giao nhận vận tải ngày càng
phát triển, các công ty giao nhận cạnh tranh quyết liệt với nhau dẫn đến sự ra đời
của các hiệp hội giao nhận trong phạm vi một cảng, một nước, một khu vực.
Trên phạm vi quốc tế hình thành các liên đoàn giao nhận như : Liên đoàn những
người giao nhận Bỉ, Hà Lan, Mỹ …
Tổ chức giao nhận có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của ngành
giao nhận vận tải trên thế giới là: Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận
-FIATA thành lập năm 1926. Đây là tổ chức giao nhận vận tải lớn nhất thế giới.
Đây là một tổ chức phi chính trị, tự nguyện, và là đại diện của 3500 công ty giao
nhận trên 130 quốc gia trên thế giới. Thành viên của FIATA là các thành viên
chính thức và các thành viên liên kết. Thành viên chính thức là Liên đoàn giao
nhân các nước, còn thành viên liên kết là công ty giao nhận riêng lẻ ở các
quốc gia.

FIATA được sự thừa nhận của các cơ quan liên hợp quốc như Hội nghị
Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), Hội đồng Kinh tế Liên
hợp quốc (ECOSOC), Ủy ban Châu Âu của Liên hợp quốc(ECE), ESCAP…
FIATA cũng được các tổ chức liên quan đến buôn bán và vận tải như
Phòng thương mại quốc tế, Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế (IATA), các tổ
chức của người chuyên chở và chủ hàng… thừa nhận.
Mục tiêu chính của FIATA là bảo vệ và tăng cường lợi ích của người
giao nhận trên phạm vi quốc tế, nâng cao chất lượng dịch vụ giao nhận, vận tải,
xúc tiến quá trình đơn giản hóa và thống nhất chứng từ và các điều kiện kinh
doanh tiêu chuẩn nhằm cải tiến chật lượng và dịch vụ của hội viên, đào tạo

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

16


Luận văn tốt nghiệp
nghiệp vụ trình độ quốc tế, tăng cường các quan hệ phối hợp giữa các tổ chức
giao nhận với chủ hàng và người chuyên chở.
Hiện nay nhiều công ty giao nhận vận tải của Việt Nam đã trở thành thành
viên cuả FIATA.
Ở Việt Nam, vào những năm 1960, các tổ chức giao nhận quốc tế mang
tính phân tán. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tự đảm nhiệm việc giao nhận
hàng hóa của đơn vị mình, vì vậy các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã thành lập
riêng các kho vận, chi nhánh XNK, trạm giao nhận ở các cảng viển, ga liên vận
đường sắt.
Để tập trung đầu mối quản lý, chuyên môn hóa khâu giao nhận vận tải,
năm 1970 Bộ ngoại thương ( Nay là Bộ thương mại ) đã than lập hai tổ chức
giao nhận:

• Cục giao nhận kiêm Tổng công ty Giao nhận ngoại thương, trụ sở tại
Hải Phòng.
• Công ty Giao nhận đường bộ, trụ sở Hà Nội.
Năm 1976, Bộ Thương mại đã sáp nhập hai tổ chức trên thành một công
ty giao nhận thống nhất là Tổng công ty Giao nhận và Kho vận Ngoại thương
(Vietrans). Trong thời kì bao cấp, Vietrans là cơ quan duy nhất được phép giao
nhận hàng hóa xuất, nhập khẩu trên cơ sở ủy thác của các đơn vị xuất, nhập
khẩu.
( VIFFAS) đã được thành lập năm 1994 và đã trở thành thành viên chính
thức của FIATA (trong năm đó)
2. Nghiệp vụ giao nhận hàng hóa đóng trong container
2.1 Lợi ích của chuyên chở hàng hóa bằng Container
Theo định nghĩa của Tổ Chức Tiêu Chuẩn Quốc tế (ISO), container chở
hàng là một thứ thiết bị vận tải:
- Có tính chất chắc chắn, bền lâu, có thể dùng đi dùng lại nhiều lần.

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

17


Luận văn tốt nghiệp
- Được thiết kế đặc biệt để tạo thuận lợi cho việc chuyên chở hàng hóa
qua một hay nhiều phương thức vận tải mà không phải chất xếp lại giữa chừng.
- Dễ nhồi đầy và rút rỗng, có thể tích bên trong lớn hơn 1 m 3. VD : cont
20’ là 33.18 m3, cont 40’ là 67.67 m3, …
Sở dĩ vận tải bằng container phát triển nhanh vì nó đưa lại nhiều lợi ích:
2.1.1 Đối với người có hàng
- Bảo vệ tốt hàng hóa, giảm đến mức thấp nhất tình trạng mất cắp, hư

hỏng, ẩm ướt, nhiễm bẩn.
- Tiết kiệm chi phí bao bì. Có nhiều loại hàng do vận chuyển bằng
container bớt được khá nhiều gỗ và carton dùng đóng kiện.
- Thời gian xếp dỡ hàng ở các cảng giảm thấp, vòng quay tàu nhanh hơn,
hàng luân chuyển nhanh, đỡ tồn đọng, vận chuyển thuận lợi, thúc đẩy mua bán
phát triển hơn.
2.1.2 Đối với người chuyên chở
- Giảm thời gian xếp dỡ và chờ đợi ở cảng, phương tiện vận tải quay vòng
nhanh hơn. Người ta đã tính toán trên một tuyến tàu định tuyến, nhờ sử dụng
container, chi phí xếp dỡ hạ từ 55% xuống 15% trong tổng phí kinh doanh.
- Tận dụng được dung tích tàu do giảm những khoảng trống trên tàu.
- Giảm trách nhiệm về khiếu nại tổn thất hàng hóa.
2.1.3 Đối với người giao nhận
- Có điều kiện sử dụng container để làm dịch vụ thu gom, chia lẻ hàng
hóa và thực hiện vận tải đa phương thức, đưa hàng từ cửa đến cửa.
- Tránh tranh chấp khiếu nại do tổn thất hàng hóa giảm bớt.
2.2 Phương pháp gửi hàng bằng container
2.2.1 Gửi hàng nguyên container (FCL- Full container load)
FCL là xếp hàng nguyên container, người gửi hàng và người nhận hàng
chịu trách nhiệm đóng gói hàng và dỡ hàng khỏi container. Khi người gửi hàng

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

18


Luận văn tốt nghiệp
có khối lượng đồng nhất đủ để chứa đầy một container hoặc nhiều container,
người ta thuê một hay nhiều container để gửi hàng.

Theo cách gửi này, trách nhiệm về giao nhận, bốc dỡ và các chi phí khác
được phân chia như sau:
* Trách nhiệm của người gửi hàng (Shipper):
• Thuê và vận chuyển container rỗng về kho hoặc nơi chứa hàng của mình
để đóng hàng.
• Đóng hàng vào container kể cả việc chất xếp, chèn lót hàng trong
container
• Đánh kí mã hiệu hàng ( cả kí hiệu chuyên chở”.
• Làm thủ tục hải quan và niêm phong kẹp chì theo quy chế xuất khẩu
• Vận chuyển và giao container cho người chuyên chở tại bãi container
(CY), đồng thời nhận vận đơn do người chuyên chở cấp.
• . Việc đóng hàng vào container cũng có thể tiến hành tại trạm đóng hàng
hoặc bãi container của người chuyên chở. Người gửi hàng phải vận chuyển hàng
hóa của mình ra bãi container và đóng hàng vào container.
• Chịu các chi phí liên quan đến các thao tác nói trên
* Trách nhiệm của người chuyên chở (Carrier)
• Phát hành vận đơn cho người gửi hàng.
• Quản lí, chăm sóc, gửi hàng hóa chất xếp trong container từ khi nhận
container tại bãi container cảng gửi đến khi giao hàng cho người nhận tại bãi
container cảng đích.
• Bốc container từ bãi container cảng gửi xuống tàu để chuyên chở, kể cả
việc chất xếp container lên tàu.
• Dỡ container ra khỏi tàu và vận chuyển về bãi container cảng đích.
• Giao container cho người nhận có vận đơn hợp lệ tại bãi container.
• Chịu mọi chi phí về thao tác nói trên.
* Trách nhiệm của người nhận hàng (Cosnignee)
• Thu xếp giấy tờ nhập khẩu và làm thủ tục hải quan cho lô hàng.
• Xuất trình vận đơn hợp lệ với người chuyên chở để nhận hàng tại bãi
container
Sinh viên : Hà Huy Hùng

MSV : 47233

19


Luận văn tốt nghiệp
• Vận chuyển container rỗng về kho bãi của mình và nhanh chóng rút hàng
và hoàn trả container cho người chuyên chở (hoặc công ty cho thuê container).
• Chịu mọi chi phí liên quan đến các thao tác nói trên, kể cá chi phí
chuyên chở container về bãi chứa container.
2.2.2 Gửi hàng lẻ (Less than container load)
LCL là những lô hàng đóng chung 1 container mà người gom hàng
(người chuyên chở hoặc người giao nhận) phải chịu trách nhiệm đóng hàng và
dỡ hàng vào-ra container. Khi gửi hàng, nếu hàng không đủ đóng nguyên một
container, chủ hàng có thể gửi hàng theo phương pháp gửi hàng lẻ.
Người kinh doanh chuyên chở hàng lẻ gọi là người gom hàng
(Consolidator) sẽ tập hợp những lô hàng lẻ của nhiều chủ hàng, tiến hành sắp
xếp, phân loại, kết hợp các lô hàng lẻ đóng vào container, niêm phong kẹp chì
theo quy chế xuất khẩu và làm các thủ tục hải quan, bốc container từ bãi chứa
cảng gửi xuống tàu chở đi, dỡ container lên bãi chứa cảng đích và giao cho
người nhận hàng lẻ.
* Trách nhiệm của người gửi hàng:
- Vận chuyển hàng từ nơi chứa hàng của mình trong nội địa đến giao cho
người nhận hàng tại trạm đóng container (CFS- Container freight station) của
người gom hàng và chịu chi phí này.
- Chuyển cho người gom hàng những chứng từ cần thiết liên quan đến
hàng hóa, vận tải và quy chế thủ tục hải quan.
- Nhận vận đơn của người gom hàng và trả cước hàng lẻ.
Trách nhiệm của người chuyên chở:
Người chuyên chở hàng lẻ có thể là người chuyên chở thực, tức là các

hãng tàu và cũng có thể là người đứng ra tổ chức chuyên chở nhưng không có
tàu.
* Người chuyên chở thực:

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

20


Luận văn tốt nghiệp
Là người kinh doanh chuyên chở hàng hóa lẻ trên danh nghĩa người gom
hàng. Họ có trách nhiệm thực hiện nghiệp vụ chuyên chở hàng lẻ như đã nói ở
trên, kí phát vận đơn thực cho người gửi hàng, bốc container xuống tàu, vận
chuyển đến cảng đích, dỡ container ra khỏi tàu, vận chuyển đến kho, bãi trả
hàng và giao hàng lẻ cho người nhận theo vận đơn mà mình đã kí phát ở cảng đi.
* Người tổ chức chuyên chở hàng lẻ:
Là người đứng ra tổ chức chuyên chở hàng lẻ, thường do các công ty
giao nhân đứng ra kinh doanh trên danh nghĩa người gom hàng. Như vậy, trên
danh nghĩa họ chính là người chuyên chở chứ không phải là người đại lí. Họ
chịu trách nhiệm suốt quá trình vận chuyển hàng kể từ khi nhận hàng lẻ tại cảng
gửi cho đến khi giao hàng tại cảng đích. Trên cơ sở vận đơn họ phát hành
( House Bill of Lading) người gom hàng không có phương tiện vận tải để tự
kinh doanh chuyên chở vì vậy họ phải thuê tàu của người chuyên chở thực tế để
chở các lô hàng riêng lẻ đã xếp trong container. Quan hệ giữa người gom hàng
và người chuyên chở lúc này là người thuê tàu và người chuyên chở. Người
chuyên chở thực bốc container lên tàu, kí phát vận đơn cho người gom hàng
( Vận đơn chủ- Master Ocean Bill of Lading), vận chuyển đến đích, dỡ
container, vận chuyển về bãi và giao container cho đại lí hoặc đại diện của người
gom hàng ở cảng đến.

Trách nhiệm của người nhận hàng lẻ:
- Thu xếp giấy phép nhập khẩu và làm thủ tục hải quan cho lô hàng.
- Xuất trình vận đơn hợp lệ với người gom hàng hoặc đại diện của người
gom hàng để nhận hàng tại bãi trả hàng ở cảng đích.
- Nhanh chóng nhận hàng ở trạm trả hàng CFS.
2.2.3 Gửi hàng kết hợp (FCL/LCL-LCL/FCL)
Phương pháp gửi hàng này là sự kết hợp của phương pháp FCL và LCL.
Tùy theo điều kiện cụ thể, chủ hàng có thể thỏa thuận với người chuyên chở để
áp dụng phương pháp gửi hàng kết hợp.
Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

21


Luận văn tốt nghiệp
Phương pháp gửi hàng kết hợp có thể là:
 Gửi nguyên, giao lẻ (FCL/LCL)
 Gửi lẻ, giao nguyên (LCL/FCL)
Khi giao hàng bằng phương pháp kết hợp, trách nhiệm của chủ hàng và
người chuyên chở cũng có sự thay đổi phù hợp.
2.3 Chứng từ vận chuyển hàng hóa bằng container
2.3.1 Vận đơn đường biển (B/L)
Vận đơn đường biển là chứng từ chuyên chở hàng hoá bằng đường biển
do người chuyên chở hoặc đại diện của người chuyên chở phát hành cho người
gửi hàng sau khi hàng hoá đã được xếp lên tàu hoặc sau khi nhận hàng để xếp.
* Các chức năng của vận đơn
Theo điều 81 Bộ Luật hàng hải, vận đơn có 3 chức năng chính sau đây:
- Thứ nhất, vận đơn là “bằng chứng về việc người vận chuyển đã nhận lên
tàu số hàng hoá với số lượng, chủng loại, tình trạng như ghi rõ trong vận đơn để

vận chuyển đến nơi trả hàng”. Thực hiện chức năng này, vận đơn là biên lai
nhận hàng của người chuyên chở cấp cho người xếp hàng. Nếu không có ghi chú
gì trên vận đơn thì những hàng hoá ghi trong đó đương nhiên được thừa nhận có
“Tình trạng bên ngoài thích hợp” (In apperent good order and condition). Điều
này cũng có nghĩa là người bán (người xuất khẩu) đã giao hàng cho người mua
(người nhập khẩu) thông qua người chuyên chở và người chuyên chở nhận hàng
hoá như thế nào thì phải giao cho người cầm vận đơn gốc một cách hợp pháp
như đã ghi trên vận đơn ở cảng dỡ hàng.
- Thứ hai, “vận đơn gốc là chứng từ có giá trị, dùng để định đoạt và nhận
hàng” hay nói đơn giản hơn vận đơn là chứng từ xác nhận quyền sở hữu hàng
hoá ghi trong vận đơn. Vì vậy, vận đơn có thể mua bán, chuyển nhượng được.
Việc mua bán, chuyển nhượng có thể được thực hiện nhiều lần trước khi hàng
hoá được giao. Cứ mỗi lần chuyển nhượng như vậy, người cầm vận đơn gốc

Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

22


Luận văn tốt nghiệp
trong tay là chủ của hàng hoá ghi trong vận đơn, có quyền đòi người chuyên chở
giao hàng cho mình theo điều kiện đã quy định trong vận đơn tại cảng đến.
- Thứ ba, “ vận đơn đường biển là bằng chứng xác nhận hợp đồng chuyên
chở hàng hoá bằng đường biển đã được ký kết”.
* Tác dụng của vận đơn
Vận đơn đường biển có những tác dụng chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, vận đơn là cơ sở pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa người
xếp hàng, nhận hàng và người chuyên chở.
- Thứ hai, vận đơn là căn cứ để khai hải quan và làm thủ tục xuất nhập

khẩu hàng hoá.
- Thứ ba, vận đơn là căn cứ để nhận hàng và xác định số lượng hàng hoá
người bán gửi cho người mua và dựa vào đó để ghi sổ, thống kê, theo dõi xem
người bán (người chuyên chở) đã hoặc không hoàn thành trách nhiệm của mình
như quy định trong hợp đồng mua bán ngoại thương (vận đơn).
- Thứ tư, vận đơn cùng các chứng từ khác của hàng hoá lập thành bộ
chứng từ thanh toán tiền hàng.
- Thứ năm, vận đơn là chứng từ quan trọng trong bộ chứng từ khiếu nại
người bảo hiểm, hay những người khác có liên quan.
- Thứ sáu, vận đơn còn được sử dụng làm chứng từ để cầm cố, mua bán,
chuyển nhượng hàng hoá ghi trên vận đơn …….
 Vận đơn theo cách gửi hàng nguyên container
Chứng từ này do người chuyên chở hoặc đại diện của người chuyên chở
ký phát cho người gửi hàng sau khi nhận container chứa hàng đã được niêm
phong, kẹp chì để chuyên chở.
Thông thường vận đơn này được kí phát trước khi container được xếp lên
tàu do đó thuộc dạng vận đơn nhận hàng để xếp (nếu thanh toán theo phương
thức L/C thường ngân hàng không chấp nhận thanh toán trừ khi trên L/C có ghi:
“chấp nhận vận đơn nhận để xếp” (Received for B/L Acceptable). Vì vậy, khi
Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

23


Luận văn tốt nghiệp
container được bốc xếp lên tàu chủ hàng hoặc người được chủ hàng ủy thác nên
yêu cầu người chuyên chở ghi chú thêm vận đơn : “ Shipped on board” và có kí
xác nhận. Lúc này vận đơn trở thành “ vận đơn đã xếp hàng” (Shipped on board
B/L) và được ngân hàng chấp nhận làm chứng từ thanh toán.

 Vận đơn theo cách gửi hàng lẻ
Nếu người gửi hàng lẻ do người gom hàng đứng ra tổ chức nhận hàng
và chuyên chở thì sẽ có hai loại vận đơn được kí phát:
• Vận đơn của người gom hàng hay người giao nhận (House B/L)
Người gom hàng trên danh nghĩa là người chuyên chở sẽ kí phát cho
chủ hàng lẻ của mình. Trong vận đơn này cũng có đâỳ đủ thông tin chi tiết cần
thiết về người gửi hàng (người xuất khẩu), người nhận hàng (người nhập khẩu).
Người nhận hàng lẻ sẽ xuất trình vận đơn của người gom hàng lẻ cho đại diện
hoặc đại lý của người gom hàng tại cảng đích để được nhận hàng. Vận đơn
người gom hàng có thể dùng trong thanh toán, mua bán và giao dịch. Song để
tránh trường hợp ngân hàng không chấp nhận vận đơn của người gom hàng là
chứng từ thanh toán, người xuất khẩu nên yêu cầu người nhập khẩu ghi trong
L/C “ vận đơn người gom hàng được chấp nhận” (House Bill Acceptable )
• Vận đơn của người chuyên chở thực sự (Master B/L)
Người chuyên chở thực sự sau khi nhận container hàng hóa của người
gom hàng theo cách gửi nguyên container. Trên vận đơn người gửi hàng là
người gom hàng, người nhận hàng là đại diện hoặc đại lý của người gom hàng ở
cảng đích. Thông thường, người chuyên chở sẽ gửi cho chủ hàng hoặc đại lý của
chủ hàng bản Draft Bill (bản nháp) để các bên thống nhất hoàn toàn các thông
tin trên đơn thì lúc đó người chuyên chở mới cấp Master B/L cho chủ hàng hoặc
đại diện của chủ hàng.
2.3.2 Lệnh giao hàng (D/O)
Là chứng từ do đại lý lập theo mẫu. Số liệu trong D/O phù hợp với vận
đơn gốc, sau khi người nhận hàng xuất trình vận đơn gốc và các giấy tờ phù hợp
Sinh viên : Hà Huy Hùng
MSV : 47233

24



Luận văn tốt nghiệp
theo qui định như giấy giới thiệu của cơ quan, giấy tờ tùy thân của người được
giới thiệu, đại lý kiểm tra sau đó cấp phát lệnh cho người nhận hàng. Lệnh giao
hàng được lập thành 3 bản để người nhận hàng tiến hành lập các thủ tục với hải
quan, với kho cảng để nhận hàng.
2.3.3 Booking Note
Là chứng từ việc lưu cước tàu chợ, tức là chủ hàng trực tiếp hoặc thông
qua đại lý yêu cầu chủ tàu dành cho mình thuê một phần của con tàu để vận
chuyển hàng hóa từ cảng này sang cảng khác. Sau khi hàng đã được nhận để xếp
hoặc đã xếp lên tàu thì chủ tàu/đại lý cấp cho chủ hàng 1 bộ vận đơn House B/L
hoặc Master B/L
2.3.4 Tờ khai hải quan
Tờ khai hải quan là một văn bản do chủ hàng, chủ phương tiện khai báo
xuất trình cho cơ quan hải quan trước khi hàng hoặc phương tiện xuất hoặc nhập
qua lãnh thổ quốc gia.
Thông lệ quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam quy định việc khai báo hải
quan là việc làm bắt buộc đối với phương tiện xuất hoặc nhập qua cửa khẩu
quốc gia. Mọi hành vi vi phạm như không khai báo hoặc khai báo không trung
thực đều bị cơ quan hải quan xử lý theo luật pháp hiện hành. Trên thế giới cũng
như ở Việt Nam mẫu tờ khai được xây dựng thống nhất cho từng loại đối tượng
để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên hữu quan khi làm thủ tục thông quan
2.3.5 Hợp đồng ngoại thương (Sale Contract)
Hợp đồng mua bán ngoại thương là sự thỏa thuận giữa các bên có trụ sở
kinh doanh ở các nước khác nhau, theo đó bên xuất khẩu có nghĩa vụ chuyển
vào quyền sở hữu của bên nhập khẩu một tài sản nhất định gọi là hàng hóa. Bên
nhập khẩu có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền. Căn cứ vào các điều khoản được
hai bên thỏa thuận trong hợp đồng mà cả hai bên trong hợp đồng thực hiện đúng
quyền hạn và nghĩa vụ của mình, đó cũng là cơ sở giải quyết các tranh chấp liên
quan đến hàng hóa, điều kiện giao hàng, thanh toán…
Sinh viên : Hà Huy Hùng

MSV : 47233

25


×