Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá sự cố môi trường trong sử dụng khí hóa lỏng
(LPG) ở Việt Nam - Tổng quan (part 2)
Nghiên cứu xây dựng
phương pháp đánh giá sự cố
môi trường trong sử dụng
khí hóa lỏng (LPG) ở Việt
Nam - Tổng quan (part 2)
Bởi:
TS. Lý Ngọc Minh
Đánh giá SCMT
Khái niệm
Đánh giá sự cố môi trường (ĐSM) là kỹ thuật đánh giá một hệ thống có tác động có hại
thực tế hay tiềm tàng của các chất ô nhiễm lên sức khỏe của thực vật, động vật hay hệ
sinh thái. Các kỹ thuật đánh giá rủi ro dựa trên mô hình nhân quả, áp lực – đáp ứng, trong
đó chất ô nhiễm được vận chuyển từ nguồn theo một đường đi đến nơi nhận: Nguồn →
Đường đi → Nơi nhận như giới thiệu trong sơ đồ hình 1 [47].
Trình tự đánh giá rủi ro môi trường [47]
Phân loại
• Phân loại theo giai đoạn: ĐRM được tiến hành theo 2 giai đoạn:
1/11
Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá sự cố môi trường trong sử dụng khí hóa lỏng
(LPG) ở Việt Nam - Tổng quan (part 2)
• Đánh giá rủi ro sơ bộ: được thực hiện trên cơ sở điều kiện số liệu, thông tin
hiện có chưa đầy đủ và độ tin cậy thấp với mục tiêu là xác định được các rủi ro
chính.
• Đánh giá rủi ro chi tiết: được tiến hành trên cơ sở kết quả của ĐGRRSB và các
số liệu được bổ sung, củng cố từ các đo đạc, quan trắc, nghiên cứu, thực hiện
theo đề xuất của ĐGRRSB.
• Phân loại theo lĩnh vực xảy ra sự cố: Tương ứng với cách phân loại rủi ro theo
lĩnh vực, đánh giá rủi ro môi trường cũng được chia thành 3 loại: đánh giá rủi
ro sức khỏe, đánh giá rủi ro sinh thái và đánh giá rủi ro công nghiệp [47]
• Đánh giá rủi ro sức khỏe (HRA): HRA quan tâm đến những cá nhân, tình trạng
bệnh tật và số người tử vong. HRA là tiến trình sử dụng các thông tin thực tế để
xác định sự phơi nhiễm của cá thể hay quần thể đối với vật liệu nguy hại hay
hoàn cảnh nguy hại. Đánh giá rủi ro sức khỏe có ba nhóm chính: rủi ro vật lý;
rủi ro hóa chất; rủi ro sinh học.
• Đánh giá rủi ro sinh thái (EcoRA): được phát triển từ HRA, EcoRA đánh giá
trên diện rộng, chú trọng đến quần thể, quần xã và những ảnh hưởng của các
chất lên tỉ lệ tử vong và khả năng sinh sản. EcoRA có ba nhóm: đánh giá rủi ro
sinh thái do hóa chất; đánh giá rủi ro sinh thái đối với hóa chất bảo vệ thực vật;
đánh giá rủi ro sinh thái đối với sinh vật biến đổi gen.
• Đánh giá rủi ro công nghiệp (IRA): Bao gồm đánh giá rủi ro đối với các hoạt
động công nghiệp như: khu vực có sự phát thải; đánh giá rủi ro trong việc lập
kế hoạch sản xuất-kinh doanh; đánh giá rủi ro sản phẩm và vòng đời sản phẩm
…
Luật BVMT [41] và các luật liên quan tới SCMT như luật hóa chất [42], luật phòng cháy
và chữa cháy [44] giới thiệu một số SCMT công nghiệp phổ biến và nguy hại, trong đó
có sự cố trong tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến, vận chuyển và sử dụng dầu, khí.
Như vậy, sự cố trong sử dụng LPG là SCMT thuộc nhóm rủi ro công nghiệp.
Phân loại theo cấp độ đánh giá rủi ro: ĐRM có thể thực hiện ở 3 cấp độ [47]:
• cấp 1-mô tả định tính;
• cấp 2-đánh giá bán định lượng;
• cấp 3-đánh giá định lượng.
Ở mỗi cấp độ, các nhiệm vụ được thực hiện để cung cấp thông tin gồm: xác định mối
nguy hại, đánh giá phơi nhiễm, đánh giá liều–phản ứng, mô tả đặc tính rủi ro. Các thông
tin này được sử dụng để ra quyết định có cần phải tiếp tục thực hiện đánh giá cấp độ cao
hơn hay không?
2/11
Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá sự cố môi trường trong sử dụng khí hóa lỏng
(LPG) ở Việt Nam - Tổng quan (part 2)
Nguyên nhân gây sự cố môi trường
Có 3 nguyên nhân gây SCMT: SCMT do thiên nhiên gây ra, SCMT do con người gây
ra, SCMT do cả thiên nhiên và con người kết hợp gây ra [98].
Sự cố môi trường do thiên nhiên gây ra
Là các tai biến tự nhiên như: động đất, bão, sóng thần, cháy rừng...Thiên tai là SCMT
gây ra bởi quá trình tự nhiên, thường được coi là bất khả kháng, con người cần sống hoà
hợp với chúng. Việc lựa chọn phương án phòng chống thiên tai tập trung vào lựa chọn
cách sống và né tránh những ảnh hưởng không mong đợi.
Sự cố môi trường do con người gây ra
Là những hoạt động của con người như xả thải chất ô nhiễm hoặc sự cố kỹ thuật như
cháy, nổ nhà máy lọc dầu, vỡ ống dẫn khí, rò rỉ hoá chất nguy hại …
Sự cố môi trường do cả con người và thiên nhiên gây ra
Là hậu quả do các hoạt động của con người và quá trình tự nhiên như hiện tượng mưa
acid. Hiện tượng này có nguyên nhân là do con người đã thải ra các khí Cl2, SO2 …
phát tán lên bầu khí quyển và tạo ra mưa a xít HCl hay H2SO4 …
Phân biệt nguyên nhân gây ra SCMT có ý nghĩa quan trọng để xác định trách nhiệm
pháp lý đối với cá nhân hoặc tổ chức có liên quan.
Các giai đoạn của SCMT [35]
Quá trình sự cố phản ánh tính nhiễu loạn, bất ổn của hệ thống và thường gồm 3 giai
đoạn. Với mỗi giai đoạn của sự cố sẽ có những chiến lược ứng phó thích hợp:
1. Giai đoạn nguy cơ: Đã tồn tại các yếu tố gây hại nhưng chưa gây mất ổn định
cho hệ thống.
2. Giai đoạn phát triển: Tập trung và gia tăng các yếu tố sự cố, xuất hiện trạng thái
mất ổn định, nhưng chưa vượt qua ngưỡng an toàn của hệ thống môi trường.
3. Giai đoạn sự cố: Trạng thái mất ổn định đã vượt qua ngưỡng an toàn của hệ
thống, gây ra các thiệt hại không mong đợi cho con người và môi trường.
Chiến lược ứng xử SCMT [35]
Tương ứng với 3 giai đoạn của sự cố có 3 chiến lược ứng xử sự cố sau:
3/11
Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá sự cố môi trường trong sử dụng khí hóa lỏng
(LPG) ở Việt Nam - Tổng quan (part 2)
• Chiến lược I: được tiến hành khi xảy ra SCMT gồm các hành động khẩn cấp
nhằm can thiệp để chấm dứt sự cố, đưa hệ thống đến ngưỡng an toàn tạm thờingưỡng mà hệ thống môi trường chưa bị phá vỡ nhưng các quá trình sự cố vẫn
đang tồn tại có khả năng gây thiệt hại, do đó ngưỡng an toàn này không bền.
• Chiến lược II: phòng ngừa để giảm sự cố đến mức thấp nhất, cách xa ngưỡng
an toàn tạm thời. Chiến lược này bao gồm các hành động ưu tiên có chọn lọc.
• Chiến lược III: phòng ngừa toàn diện để đưa quá trình sự cố đến ngưỡng an
toàn lâu dài. Chiến lược này bao gồm các hành động tổng hợp, tác động lên tất
cả các yếu tố của quá trình sự cố. Các hành động có tính phòng ngừa lâu dài
như qui hoạch, truyền thông môi trường, hoàn thiện cơ sở luật pháp … thích
hợp với chiến lược này. Các giai đoạn chiến lược ứng xử SCMT được biểu diễn
ở hình 2
Các giai đoạn chiến lược ứng xử SCMT
Vai trò của đánh giá rủi ro môi trường
ĐGRRMT tạo cơ sở giúp các nhà quản lý môi trường cân bằng giữa trách nhiệm bảo vệ
con người và môi trường với sự phát triển kinh tế. Mục đích của đánh giá rủi ro là xác
định con người hay các yếu tố môi trường bị tác động. Các nhà quản lý môi trường có
nhiệm vụ bảo vệ con người cũng như hệ động, thực vật khỏi những tác động có hại. Tuy
nhiên, trong nhiều trường hợp, điều này được thực hiện với việc áp dụng các phương
pháp chưa triệt để và với chi phí đầu tư thấp. Bên cạnh đó, việc loại trừ triệt để các chất
gây ô nhiễm và tác động có hại có thể gây cản trở đối với quá trình sản xuất, kéo theo
sự giảm lượng hàng hóa cần thiết [76]. Vì thế cần thực hiện đánh giá SCMT để giúp các
nhà quản lý môi trường đưa ra các quyết định hợp lý nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu và
loại trừ các tác động có hại gây ra đối với con người, môi trường và xã hội; đồng thời
đảm bảo mức sản xuất hợp lý. Vai trò của đánh giá rủi ro trong chu trình quản lý rủi ro
được giới thiệu trong hình 3
4/11
Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá sự cố môi trường trong sử dụng khí hóa lỏng
(LPG) ở Việt Nam - Tổng quan (part 2)
Chu trình đánh giá rủi ro môi trường
Lịch sử đánh giá rủi ro môi trường
Nghiên cứu về đánh giá SCMT trong sản xuất và đời sống được quan tâm nhiều trên
thế giới. ĐGRRMT đã và đang được sử dụng rộng rãi, đặc biệt ở Mỹ, Canađa và các
nước khối cộng đồng châu Âu. Phương pháp giải quyết vấn đề dựa vào việc xem xét
những rủi ro trở nên nổi bật trong công nghiệp hạt nhân và được tiến hành rộng rãi trong
công nghiệp không gian, là ngành có nhiều hệ thống phức tạp và cần thiết phải có độ
tin cậy rõ ràng. Trong những năm 1960, phương pháp đánh giá xác xuất của rủi ro –
Probabilistic Risk Assessement (PRA) đã phát triển trong ngành công nghiệp này. Sau
những sự cố công nghiệp vào những năm giữa thập niên 70 (đáng chú ý nhất là vụ nổ
cyclohexane ở Flixborough (Anh) năm 1974 và vụ rò rỉ hơi dioxin tại Seveso (Italia)
năm 1976, khung phương pháp luận của công nghiệp hạt nhân được áp dụng trong công
nghiệp hóa chất và công nghiệp dầu mỏ ở châu Âu những năm 1980. Có nhiều quy
định đối với những chất nguy hại được hình thành như hướng dẫn Seveso ở châu Âu
… Vào những năm 1970, phương pháp đánh giá định lượng rủi ro – Quantitative Risk
Assessment (QRA) và hướng dẫn Seveso đã được sử dụng trong công nghiệp hóa chất.
Từ những năm 1990, trong công nghiệp tàu biển đã áp dụng phương pháp đánh giá độ an
toàn – Formal Safety Assessement (FSA). Gần đây nhiều nghiên cứu tại các nước phát
triển đã đưa ra nhiều phương pháp đánh giá rủi ro liên quan đến môi trường, bao gồm
đánh giá rủi ro sức khỏe (HRA), đánh giá rủi ro sinh thái (ERA) và đánh giá rủi ro công
nghiệp (IRA) [47]. Joseph F và B. Diane Louvar [138] nghiên cứu về đánh giá SCMT
do hóa chất với phương pháp đánh gía quan hệ liều lượng-phản ứng. ĐGRRMT sơ bộ
và chi tiết được áp dụng cho eo biển Malacca (chung của ba nước Singapo, Malaixia và
Inđônêxia) năm 1999, đưa ra các kết luận quan trọng về khả năng rủi ro do tràn dầu và
các đề xuất liên quan cho ba quốc gia nói trên. ĐGRRSB đã hoàn thành đối với vịnh
5/11
Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá sự cố môi trường trong sử dụng khí hóa lỏng
(LPG) ở Việt Nam - Tổng quan (part 2)
Manila, Philipin, bước đầu xác định và lượng hóa được mức độ của các rủi ro chính đối
với môi trường nước của vịnh.
Ở Việt Nam, đánh giá SCMT đã bước đầu được quan tâm. Luật BVMT Việt Nam giới
thiệu những quy định chung về SCMT và phòng ngừa SCMT [41]; Chính phủ ban hành
quy chế quản lý an toàn trong các họat động dầu khí [84]. GS.TSKH Lê Huy Bá giới
thiệu tổng quan về SCMT và phương pháp đánh gía SCMT [1]; PGS.TS Huỳnh Thị
Minh Hằng giới thiệu tổng quan về rủi ro và quy trình đánh giá rủi ro trong họat động
dầu khí [26]; GS Lê Văn Khoa giới thiệu tổng quan về tai biến môi trường và cách ứng
xử tai biến môi trường [35]; TS. Chế Đình Lý giới thiệu về phân tích hệ thống môi
trường và hướng dẫn đánh giá rủi ro môi trường [47], TS. Lê Thị Hồng Trân hướng dẫn
đánh giá rủi ro sinh thái và rủi ro sức khỏe [95]; TCT dầu khí Việt Nam ban hành các
văn bản hướng dẫn giám sát ATLĐ trong các họat động dầu khí [85], hướng dẫn quản lý
rủi ro và ứng cứu khẩn cấp trong các hoạt động dầu khí [86], hướng dẫn quản lý ATLĐ
và VSLĐ trong các họat động dầu khí [87] đề cập chủ yếu tới công tác hướng dẫn quản
lý an toàn trong chế biến dầu khí. Tuy nhiên, đánh giá sự cố được giới thiệu trong các
văn bản nói trên hầu như chỉ mang tính chất định tính. Một số báo cáo đánh giá RRMT
cho các dự án cụ thể đã được thực hiện như ĐGRRSB môi trường vùng biển ven bờ
thành phố Đà Nẵng được thực hiện bởi nhóm chuyên gia đa ngành với sự tham vấn của
các chuyên gia của chương trình hợp tác khu vực trong quản lý môi trường biển Đông
nhằm nâng cao năng lực của địa phương trong quản lý tài nguyên, môi trường vùng ven
bờ, tạo cơ sở để hoàn thiện chương trình quan trắc môi trường và các kế hoạch, quy định
về quản lý tài nguyên, môi trường liên quan và một số báo cáo khác [76]. Trong nền
kinh tế phát triển như Việt Nam hiện nay, các nghiên cứu đánh giá về SCMT hiện có
chưa đáp ứng yêu cầu BVMT với phát triển kinh tế. Đã đến lúc, đánh giá SCMT cần
được nghiên cứu áp dụng rộng rãi hơn nữa nhằm sử dụng hiệu quả hơn các cơ sở dữ liệu
môi trường thu thập được trong những năm qua, hoàn thiện các chương trình quan trắc
môi trường trên cơ sở các thông tin quan trọng được xác định, tập trung vào những vấn
đề ưu tiên, có nguy cơ gây rủi ro cao, tạo cơ sở khoa học tin cậy cho các đề xuất quản lý
RRMT [76].
Quy trình chung trong đánh giá rủi ro môi trường
Cả ba loại HRA, EcoRA, IRA đều có chung một phương pháp luận đánh giá nhưng khác
nhau về chi tiết theo yêu cầu riêng của từng mục tiêu đánh giá. Các nước khác nhau có
những phương pháp và quy trình đánh giá khác nhau nhưng đều gồm những bước như
trong hình 1.4 [47]
6/11
Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá sự cố môi trường trong sử dụng khí hóa lỏng
(LPG) ở Việt Nam - Tổng quan (part 2)
Quy trình đánh giá rủi ro môi trường tổng quát
Xác định mối nguy hại
Khái niệm
Xác định mối nguy hại là phân tích khoa học nhằm xác định mối quan hệ nhân – quả
giữa tác nhân – hóa chất gây nguy hại hoặc có tác động xấu đến sức khỏe con người và
môi trường hay không? Bước này nhằm trả lời câu hỏi: “Có tồn tại hay không các tác
nhân gây nguy hại trong khu vực quan tâm?”.
Xác định mối nguy hại giúp đưa ra nhận định tính ban đầu về rủi ro về mặt tác động đến
sức khỏe. Mục đích là thu thập tất cả các thông tin phù hợp nhằm xác định sự hiện diện
các mối nguy hại đối với sức khỏe con người trong môi trường.
Các bước tiếp theo của đánh giá rủi ro tùy thuộc vào các phát hiện trong giai đoạn xác
định mối nguy hại.
Nội dung xác định mối nguy hại
Những nội dung chính của công việc nhận diện mối nguy hại bao gồm:
• Nhận diện các nguy hại: các tác nhân cơ học, vật lý, hóa học … hay là sự kết
hợp các tác nhân trên.
• Liệt kê các hóa chất đưa vào đánh giá rủi ro và lý do lựa chọn.
• Đánh giá các đặc trưng vật lý, hóa học, độc học của các hóa chất.
• Chất lượng dữ liệu được xem xét và thống kê được đánh giá.
• Xác định các quần thể phụ như địa điểm phục hồi hóa chất – công nhân, khách
tham quan, dân cư xung quanh, nhân viên văn phòng.
• Lựa chọn các chủ điểm nhạy cảm nhất.
Để thuận tiện cho công việc mô tả địa điểm, có thể tiến hành phân tích thành phần cấu
trúc của địa điểm được đánh giá và lập ra khung làm việc như bảng 1.1
7/11
Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá sự cố môi trường trong sử dụng khí hóa lỏng
(LPG) ở Việt Nam - Tổng quan (part 2)
Ma trận địa điểm – nguy hại [47]
Thành phần
Mối nguy hại
Cháy
Nổ Hóa chất Vật rơi
Thành phần 1
Thành phần 2
…………….
Thành phần n
Đánh giá phơi nhiễm
Đánh giá phơi nhiễm cung cấp thông tin về lượng phát thải ra môi trường, đường truyền
và các tuyến tiếp xúc của tác nhân phơi nhiễm để thâm nhập vào vật tiếp nhận. Đánh
giá phơi nhiễm là quá trình đánh giá định lượng hay định tính sự thâm nhập của một
tác nhân nguy hại vào vật nhận (con người hoặc môi trường) thông qua sự tiếp xúc với
môi giới môi trường (nước, không khí, đất). Sự đánh giá được thực hiện thông qua các
thông số đầu vào về cường độ, tính liên tục, độ dài thời gian tiếp xúc và tuyến tiếp xúc.
Đánh giá phơi nhiễm bao gồm mô tả tính chất và quy mô của các quần thể khác nhau bị
phơi nhiễm đối với một hóa chất, độ lớn và thời gian phơi nhiễm của quần thể đó. Các
bước đánh giá phơi nhiễm gồm mô tả đặc trưng phơi nhiễm; xác định đường truyền phơi
nhiễm; định lượng phơi nhiễm.
Đánh giá độ độc hay phân tích liều–phản ứng [47]
Mối liên hệ giữa RfD, NOAEL và LOAEL đối với hóa chất độc hại
8/11
Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá sự cố môi trường trong sử dụng khí hóa lỏng
(LPG) ở Việt Nam - Tổng quan (part 2)
Đánh giá liều–phản ứng bao gồm sự mô tả quan hệ định lượng giữa lượng phơi nhiễm
đối với một hóa chất và mức ngộ độc hay bệnh tật.
Mô tả đặc tính rủi ro [95]
Mô tả đặc tính rủi ro là bước cuối cùng xác định phạm vi các tác động bất lợi đến nguồn
tiếp nhận dưới điều kiện phơi nhiễm. Các đặc tính rủi ro được tóm tắt và tổng hợp phơi
nhiễm và đánh giá độc tính để định tính và định lượng các mức độ rủi ro và xem xét
thêm các vấn đề không chắc chắn trong đánh giá rủi ro. Kết quả phơi nhiễm trong vấn
đề rủi ro lớn nhất có thể được xác định trong tiến trình này. Các đặc tính rủi ro thích hợp
từ các mối nguy hại liên quan đến các vấn đề ONMT cho phép quản lý rủi ro và quyết
định đúng hơn để thực hiện tốt hơn. Nó là sự biểu hiện của nguy cơ đối với từng cá thể,
các cộng đồng hay từng đối tượng bị tác động khác trên cơ sở lượng hóa, qua đó ta được
các giá trị định lượng cao hơn mức trung bình.
Mô tả đặc tính rủi ro định lượng (QRA)
Trường hợp xét đặc tính rủi ro từ chất ung thư và không gây ung thư thì nhiệm vụ là
ước lượng rủi ro (tính toán lượng rủi ro từ chất gây ung thư và chất không gây ung thư
trên cả ba tuyến phơi nhiễm) và phân tích kết quả để đưa ra những quyết định đúng đắn.
Tính toán rủi ro đối với mức phơi nhiễm trung bình và lớn nhất.
Đối với phơi nhiễm lâu dài: sử dụng nồng độ trung bình để tính rủi ro đại diện cho việc
ước lượng từ nhiều điểm phơi nhiễm. Đối với phơi nhiễm tức thời: sử dụng nồng độ lớn
nhất để tính toán sẽ hiệu quả hơn.
• Tính toán rủi ro từ chất gây ung thư: R = CDI x SF (1.3).
Trong đó:
• R: Rủi ro từ chất gây ung thư
• CDI: Liều lượng hóa chất vào cơ thể liên tục mỗi ngày (mg/kg.ngày).
• SF: Hệ số dốc đường cong liều lượng – phản ứng (kg.ngày/mg).
Đặc tính rủi ro ung thư cần phải tính toán cho riêng từng hóa chất phù hợp với tuyến và
con đường phơi nhiễm. Việc tính toán lặp lại cho mỗi hoàn cảnh và mỗi cộng đồng phơi
nhiễm. Mỗi tuyến phơi nhiễm có giá trị SF riêng. Để tính tổng rủi ro từ các chất gây ung
thư ta cộng dồn tất cả các rủi ro ung thư của mỗi chất ứng với mỗi tuyến phơi nhiễm.
• Tính toán rủi ro từ chất không gây ung thư:
(1.4)
9/11
Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá sự cố môi trường trong sử dụng khí hóa lỏng
(LPG) ở Việt Nam - Tổng quan (part 2)
Trong đó:
• CDI: Liều lượng hóa chất vào cơ thể liên tục mỗi ngày (mg/(kg.ngày)).
• RfD: Liều lượng tham chiếu (mg/(kg.ngày))
• HI: Chỉ số độc hại. Nếu HI<1: không có ảnh hưởng; nếu HI>1: chất không gây
ung thư đang xét có khả năng ảnh hưởng bất lợi đến sức khỏe khi phơi nhiễm.
Chỉ số độc được tính riêng cho từng hóa chất. Trong trường hợp phơi nhiễm với nhiều
chất thì chỉ số độc của tuyến phơi nhiễm đó bằng tổng các chỉ số độc của mỗi chất.
Nhưng nếu các chất đó không gây ra cùng một loại tác động thì việc xét chỉ số độc tổng
cộng là không có tác dụng.
Mô tả các rủi ro bán định lượng (rủi ro yếu, trung bình hoặc cao)
Phương pháp hệ số rủi ro là phương pháp phổ biến để mô tả đặc tính rủi ro bán định
lượng. Hệ số rủi ro (RQ) được tính toán bằng tỷ số giữa nồng độ môi trường xác định
bằng đo đạc (MEC) hoặc tính toán dự báo (PEC) với nồng độ dự báo ngưỡng là nồng độ
không gây tác động (PNEC) lên đối tượng. PNEC được xác định từ các tiêu chuẩn, quy
định liên quan.
• Đối với đánh giá rủi ro môi trường và sinh thái:
(1.5)
• Đối với đánh giá rủi ro sức khỏe:
(1.6)
Khi: RQ < 1: Rủi ro thấp; RQ ≥ 1: Rủi ro cao
Trong đánh giá rủi ro môi trường, đặc biệt là rủi ro sinh thái thường sử dụng các cấp độ
đánh giá chi tiết hơn:
RQ từ 0,01 đến 0,1: rủi ro thấp;
RQ từ 0,1 đến 1: rủi ro trung bình;
RQ ≥1: rủi ro cao.
10/11
Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá sự cố môi trường trong sử dụng khí hóa lỏng
(LPG) ở Việt Nam - Tổng quan (part 2)
Giới hạn của đánh giá rủi ro môi trường [47], [95]
Nghiên cứu tác động của các hóa chất trên vi sinh vật, thực vật, động vật và con người
thường không đạt kết quả như mong muốn bởi các yếu tố:
• Sự biến thiên trong sức chịu đựng của các cá thể và loài đối với các tác động
của các chất ô nhiễm.
• Các điều kiện môi trường và các tiến trình tác động lên tính chất của các chất ô
nhiễm như là sự chia cắt, chuyển đổi, suy thoái, nhiệt độ, pH, chất hữu cơ…
• Sự không chắc chắn trong sự ngoại suy dữ liệu nghiên cứu giữa các loài hoặc
trong cùng loài.
• Các lỗ hổng thông tin lớn về cơ chế và các tiến trình tác động đến các chức
năng và cơ quan trong cơ thể, chúng tương tác như thế nào và chúng có thể bị
tác động bởi ô nhiễm như thế nào?
• Sự hiểu biết của chúng ta về các tương tác giữa các cá thể người bị tác động,
các thực vật, động vật bị tác động trong một quần thể, giữa các quần thể trong
một quần xã và giữa các quần xã trong một khu vực và các hệ sinh thái còn giới
hạn.
Điều tốt nhất là ta có thể xác định các thông tin cơ bản về các rủi ro gây ra tại một địa
điểm là sự hiện diện chất ô nhiễm trong khu vực và khả năng tác động, kiểu tác động
của các chất ô nhiễm đến môi trường và con người. Với cách thu thập thông tin, khả
năng đo đạc, quan trắc; vấn đề xác định các chất ô nhiễm được tăng cường và cải thiện
hay khả năng dự đoán của chúng ta được nâng cao cùng với các biện pháp quản lý thích
hợp thì mức độ nguy hại của rủi ro có thể giảm xuống.
11/11