ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA LUẬT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ QUỐC TẾ
KHÓA 2010 - 2014
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC
KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ThS. Võ Thị Mỹ Hương Bùi Thị Thu Hoài
Lớp: K34E - KTQT
Huế, 03/2014
Hoàn thành bài Khóa Luận tốt nghiệp
này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến Cô giáo - ThS. Võ Thò Mỹ Hương - người
đã tận tâm hướng dẫn, truyền đạt kinh
nghiệm và động viên em rất nhiều trong quá
trình thực hiện Khóa Luận.
Em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân
thành đến các Thầy giáo, Cô giáo của
Khoa Luật - Đại học Huế - những người đã
truyền đạt kiến thức cho em suốt thời gian
của khóa học.
Nhân đây, em cũng xin được cảm ơn Trung
tâm học liệu - Đại học Huế - nơi cho em môi
trường học tập và tìm kiếm tài liệu ngoài
giờ đến trường suốt thời gian qua.
Cuối cùng, em xin được gửi lời cảm ơn
đến gia đình và tất cả bạn bè vì đã luôn tin
tưởng, động viên và giúp đỡ em rất nhiều
trong cuộc sống cũng như học tập!
Hueá, 24/03/2014
Sinh vieân
Buøi Thò Thu Hoaøi
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 7
1. Tính cấp thiết của đề tài 7
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 8
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài 9
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài 10
5. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài 10
6. Kết cấu của Khóa luận 11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN 12
1.1. Những vấn đề cơ bản về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản 12
1.1.1. Vai trò của khoáng sản và khai thác khoáng sản đối với việc phát triển kinh
tế xã hội quốc gia 12
1.1.2. Bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản 16
1.2. Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai
thác khoáng sản 21
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, những nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ môi
trường trong hoạt động khai thác khoáng sản 21
1.2.2. Những biện pháp bảo đảm thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường trong
hoạt động khai thác khoáng sản 34
1.2.3. Những yếu tố tác động đến pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động
khai thác khoáng sản 36
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM GÓP PHẦN HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO
VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG
HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN 41
2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về bảo vệ môi trường trong
hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam 41
2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng
sản ở Việt Nam 46
2.2.1. Những kết quả đạt được 46
Trước những thách thức về môi trường do hoạt động KTKS mang lại, Nhà nước ta
đã tăng cường ban hành cũng như có nhiều biện pháp tổ chức thực hiện các quy
phạm pháp luật về BVMT trong hoạt động KTKS. Qua tìm hiểu tình hình xây
dựng và thực thi pháp luật về BVMT trong hoạt động KTKS của nước ta thời gian
qua, thấy rằng pháp luật về BVMT trong hoạt động KTKS đã đạt được một số kết
quả đáng ghi nhận. Bao gồm: 46
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế của pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động
khai thác khoáng sản 52
2.2.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế 58
2.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam 61
2.3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp 61
2.3.2. Các giải pháp cụ thể 62
KẾT LUẬN 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BVMT : Bảo vệ môi trường
KTKS : Khai thác khoáng sản
UBND : Ủy ban nhân dân
VBQPPL : Văn bản quy phạm pháp luật
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã phát hiện được trên 5.000 mỏ, điểm quặng với trên 60
loại khoáng sản khác nhau trong đó có nhiều khoáng sản có trữ lượng lớn
như dầu khí, than, chì, kẽm, thiếc, sắt, vonfram, đồng, antimon, bauxit, đất
hiếm, đá vôi, cát thuỷ tinh, đá xây dựng và khoảng 400 nguồn nước
khoáng, nước nóng thiên nhiên [28]. Đây là một lợi thế mà thiên nhiên ban
tặng cho quốc gia chúng ta. Tận dụng lợi thế này, thời gian qua hoạt động
KTKS ở nước ta ngày càng được tiến hành thường xuyên và phổ biến,
đóng góp tích cực cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, bên
cạnh những lợi ích, KTKS còn mang đến những tác động tiêu cực cho môi
trường, đặt ra yêu cầu phải BVMT trong hoạt động KTKS.
Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020; Chiến
lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược bảo vệ
môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đều định
hướng gắn hoạt động KTKS với BVMT. Các cơ quan nhà nước, các tổ
chức, cá nhân đã quan tâm xây dựng và thực hiện nhiều biện pháp nhằm
BVMT trong hoạt động KTKS. Ở một mức độ nhất định, công tác BVMT
trong hoạt động KTKS ở nước ta đã đạt được những kết quả tích cực. Tuy
nhiên, chúng ta vẫn chưa giải quyết được tình trạng khai thác trái phép, bừa
bãi làm cạn kiệt các loại khoáng sản cũng như vấn đề ô nhiễm môi trường
do hoạt động KTKS mang lại. Xói mòn, sạt lở đất, suy thoái rừng, ô nhiễm
nguồn nước, bụi, khí thải, chất thải rắn, do KTKS gây ra vẫn đang là vấn
đề nhức nhối, ảnh hưởng xấu đến đời sống, sản xuất, sức khỏe con người
cũng như quá trình phát triển của đất nước.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó có nguyên
nhân từ sự chưa hoàn thiện của pháp luật về BVMT trong hoạt động
KTKS. Thời gian qua, pháp luật về BVMT trong hoạt động KTKS đã được
7
quan tâm xây dựng nhưng vẫn còn một số quy phạm pháp luật chưa thống
nhất, rõ ràng, hợp lý, đồng thời vẫn còn nhiều bất cập trong công tác bảo
đảm thực thi pháp luật nên chưa đáp ứng được những yêu cầu từ thực tiễn
BVMT trong hoạt động KTKS ở nước ta. Do đó, cần thiết phải hoàn thiện
pháp luật nhằm tạo ra khuôn khổ pháp lý phù hợp để nâng cao hiệu quả
công tác BVMT trong hoạt động KTKS.
Là một sinh viên Luật, tôi rất mong muốn nghiên cứu một cách đầy
đủ, hệ thống về pháp luật BVMT trong hoạt động KTKS ở Việt Nam để từ
đó đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần khắc phục tình trạng trên. Vì
vậy, tôi chọn đề tài: “Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai
thác khoáng sản ở Việt Nam” làm đề tài cho Khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đến nay, đã có một số bài viết của các nhà khoa học liên quan đến pháp
luật về BVMT trong hoạt động KTKS như: ThS. Trần Thanh Thủy & ThS.
Nguyễn Việt Dũng (2010), Khai thác khoáng sản và giảm nghèo: mối quan
hệ trái chiều và một số vấn đề chính sách, Bản tin chính sách quý II/2010,
Trung tâm con người và thiên nhiên, Hà Nội; ThS. Trần Thanh Thủy, ThS.
Nguyễn Lê Nguyên & ThS. Nguyễn Việt Dũng (2012), Khoáng sản - phát
triển - môi trường, Bản tin chính sách quý IV/2012, Trung tâm con người và
thiên nhiên, Hà Nội; TS. Nguyễn Văn Thuấn (2013), Đánh giá tình hình
thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25-04-2011 của Bộ Chính trị
khóa XI về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Chủ động ứng phó biến đổi khí
hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường - một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, tr.155-167, Hà Nội;…
Bên cạnh đó còn có Khóa luận tốt nghiệp của Đỗ Thành Tâm (2010),
Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác
khoáng sản - Pháp luật và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp Khoa Luật - Đại
học Cần Thơ.
8
Ngoài ra, trong một số tài liệu giảng dạy ở các cơ sở đào tạo Luật cũng
có đề cập khái quát đến pháp luật về BVMT trong hoạt động KTKS như: Đại
học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật Môi trường, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội tại Mục I, Chương XII có viết về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong
hoạt động khoáng sản; TS. Nguyễn Văn Phương (2012 ), Giáo trình Luật Môi
trường, Trung tâm đào tạo từ xa - Đại học Huế, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội tại Mục IV, Chương IX có viết về trách nhiệm của tổ chức và cá nhân
trong hoạt động khoáng sản;…
Nhìn chung, các bài viết trên mới chỉ đánh giá một cách khái quát hoặc
đề cập đến một số khía cạnh của pháp luật về BVMT trong hoạt động KTKS
như vấn đề trách nhiệm BVMT của tổ chức, cá nhân KTKS hoặc các nghĩa vụ
tài chính liên quan đến BVMT trong KTKS,… mà chưa đi sâu nghiên cứu,
phân tích một cách triệt để, sâu sắc và có hệ thống. Vì vậy, với đề tài “Pháp
luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam”
tác giả mong muốn nghiên cứu một cách có hệ thống các quy phạm pháp luật
cũng như thực tiễn thực thi pháp luật về BVMT trong hoạt động KTKS để từ
đó đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về BVMT trong
hoạt động KTKS ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu những quy định của pháp luật về BVMT trong hoạt
động KTKS để từ đó phân tích, đánh giá, tổng hợp nhằm tìm ra các giải
pháp hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm cơ bản của pháp luật về BVMT
trong hoạt động KTKS;
- Xác định các biện pháp bảo đảm thực thi pháp luật cũng như các yếu
tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và thực thi pháp luật về
BVMT trong hoạt động KTKS;
9
- Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về
BVMT trong hoạt động KTKS ở Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về BVMT trong hoạt động
KTKS ở Việt Nam để chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những tồn
tại, hạn chế và luận giải nguyên nhân của chúng;
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
BVMT trong hoạt động KTKS ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
pháp luật về BVMT trong hoạt động KTKS đối với các loại khoáng sản trừ
khoáng sản là dầu khí, khoáng sản là nước thiên nhiên không phải là nước
khoáng, nước nóng thiên nhiên. Khóa luận không đi sâu nghiên cứu, tìm
hiểu cách thức, công nghệ nhằm BVMT trong hoạt động KTKS.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Khóa luận
sử dụng các phương pháp: phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp, để làm
sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
5. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giả về pháp luật
BVMT trong hoạt động KTKS, tuy nhiên mỗi tác giả có cách tiếp cận và
hướng đến phạm vi khác nhau. Vì vậy, đề tài này sẽ mang ý nghĩa kế thừa
đồng thời đưa ra những điểm mới, điểm sáng tạo nhằm đóng góp vào các
công trình nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về BVMT trong hoạt động
KTKS. Các kết quả nghiên cứu của Khóa luận này có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về Luật học.
Một số kiến nghị của đề tài có giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây
dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về BVMT nói chung và BVMT trong
hoạt động KTKS nói riêng.
10
6. Kết cấu của Khóa luận
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh
mục từ viết tắt thì Khóa luận được chia làm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của pháp luật về bảo vệ môi trường trong
hoạt động khai thác khoáng sản.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và một số giải pháp nhằm góp phần
hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt
động khai thác khoáng sản.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
1.1. Những vấn đề cơ bản về bảo vệ môi trường trong hoạt động
khai thác khoáng sản
1.1.1. Vai trò của khoáng sản và khai thác khoáng sản đối với việc
phát triển kinh tế xã hội quốc gia
1.1.1.1. Khái quát về khoáng sản và khai thác khoáng sản
Cuộc sống của con người rất gần gũi với những vật chất như sắt,
nhôm, đồng, kẽm, than đá, nước khoáng thiên nhiên, nước nóng thiên
nhiên, đá, cát, vàng,… Những vật chất đó có tên gọi chung là khoáng sản.
Dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, khái niệm khoáng sản cũng được
định nghĩa theo nhiều cách khác nhau:
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam thì: “Khoáng sản là những thành
tạo khoáng vật trong vỏ trái đất có thể sử dụng trong nền kinh tế quốc dân.
Dựa trên trạng thái vật lý phân ra: khoáng sản rắn, lỏng (dầu mỏ, nước
khoáng) và khí (khí đốt, khí trơ). Dựa vào thành phần hóa học và công dụng
phân ra: khoáng sản kim loại, phi kim (không kim loại) và nhiên liệu” [29, tr.
516].
Cuốn Môi trường và giáo dục về Bảo vệ môi trường của Nhà xuất bản
giáo dục Việt Nam đưa ra khái niệm khoáng sản như sau: “Khoáng sản là
các thành tạo hóa lý tự nhiên được sử dụng trực tiếp trong công nghiệp
hoặc có thể lấy ra từ chúng kim loại và khoáng vật dùng cho các ngành
công nghiệp. Khoáng sản có thể tồn tại ở trạng thái rắn (quặng, đá), lỏng
(dầu, nước khoáng,…) hoặc khí (khí đốt)” [31, tr. 90].
Khoản 1, Điều 2, Luật Khoáng sản Việt Nam năm 2010 quy định:
“Khoáng sản là khoáng vật, khoáng chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể
rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong lòng đất, trên mặt đất, bao gồm cả
12
khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ”.
Từ những khái niệm đã nêu ở trên, có thể hiểu một cách cụ thể về
khoáng sản như sau:
i) Khoáng sản là những vật chất tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng
hoặc thể khí;
ii) Khoáng sản có nguồn gốc hữu cơ hoặc vô cơ, tồn tại ở trên mặt đất,
trong lòng đất;
iii) Khoáng sản là tài nguyên thiên nhiên có ích và có hạn. Khoáng
sản có thể được khai thác ở hiện tại hoặc tương lai và khoáng sản là tài
nguyên không tái tạo.
Từ thời cổ đại, con người đã biết sử dụng đá - một loại khoáng sản để
làm công cụ lao động và xây dựng những kim tự tháp. Thế kỷ thứ IV, thứ
III trước Công nguyên, con người phát hiện và sử dụng kim loại nguyên
chất trong thiên nhiên: đồng, vàng. Dần dần, con người đã phát hiện và sử
dụng quặng sắt cùng với những kim loại khác để phục vụ cho cuộc sống
của mình [34, tr. 179]. Ngày nay, khoáng sản được sử dụng rất nhiều trong
cuộc sống con người: từ nhiên liệu cho đến trồng trọt, xây dựng, chế tạo
các sản phẩm phục vụ cuộc sống… Muốn sử dụng khoáng sản thì cần phải
khai thác chúng.
Theo Khoản 7, Điều 2, Luật Khoáng sản Việt Nam năm 2010 thì khai
thác khoáng sản là “hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản, bao gồm xây
dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có
liên quan”.
Từ quy định trên, có thể hiểu về KTKS như sau:
i) KTKS là lấy khoáng sản ra khỏi mỏ để đáp ứng các nhu cầu của
con người;
ii) Trong KTKS, các chủ thể khai thác có thể tiến hành nhiều hoạt
động như: xây dựng mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu nhằm thu được
khoáng sản phục vụ nhu cầu khai thác.
13
1.1.1.2. Vai trò của khai thác khoáng sản đối với việc phát triển kinh
tế xã hội
KTKS đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh
tế xã hội của mỗi quốc gia. Vai trò của KTKS đối với việc phát triển kinh
tế xã hội thể hiện qua các khía cạnh:
•KTKS đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng
Con người sử dụng khoáng sản để đáp ứng rất nhiều nhu cầu trong
cuộc sống: nhiên liệu, xây dựng, phân bón, kim loại, trang sức, Đồng
thời, khoáng sản lại là nguyên liệu cho nhiều ngành sản xuất khác như:
điện, hóa chất, xi măng, chế tạo, gia công sản phẩm từ kim loại,… Các
quốc gia giàu tài nguyên khoáng sản thì khả năng đáp ứng nhu cầu trên
càng cao.
•Chủ thể tiến hành đầu tư KTKS thu được lợi nhuận từ hoạt động KTKS
Mục đích của đầu tư là mang lại lợi nhuận. Đầu tư KTKS cũng không
là ngoại lệ. Đặc biệt hiện nay, nhu cầu sử dụng khoáng sản ngày càng tăng,
trong đó một số loại khoáng sản có giá trị lớn như: vàng, bạc, đá quý thì
khả năng tiêu thụ khoáng sản càng được đảm bảo, nhờ đó, các chủ thể
KTKS càng có cơ hội thu nhiều lợi nhuận hơn.
•KTKS tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Khoáng sản là tài nguyên quan trọng và có hạn của mỗi quốc gia, vì
vậy, các quốc gia đều cố gắng tạo ra nguồn thu để bồi hoàn cho quốc gia
những giá trị bị mất đi vĩnh viễn do quá trình KTKS. Hiện nay, hầu hết các
quốc gia đều có quy định về nghĩa vụ tài chính nhằm BVMT của các chủ
thể KTKS dưới nhiều hình thức như: thuế tài nguyên, thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế xuất nhập khẩu khoáng sản, phí BVMT, tiền cấp quyền
KTKS, … Nếu quản lý hiệu quả, các dự án KTKS có thể mang lại nguồn
thu lớn cho ngân sách nhà nước.
•KTKS tạo cơ hội việc làm
Để tiến hành KTKS, cần phải có nguồn nhân lực. Nhu cầu nhân lực
tạo ra cơ hội việc làm cho người lao động, giúp giải quyết tình trạng thất
14
nghiệp trong xã hội.
•KTKS thu hút đầu tư, giúp nâng cao trình độ khoa học công nghệ,
năng lực quản lý
Lợi nhuận của hoạt động KTKS đã thu hút ngày càng nhiều chủ thể
tham gia KTKS. Để thu được nhiều lợi nhuận hơn, các chủ thể đã mở rộng
quy mô, phạm vi hoạt động. Nhiều công ty KTKS đã đầu tư gắn khai thác
với chế biến sâu nhằm nâng cao lợi nhuận. Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu
hóa nền kinh tế, với mục tiêu cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các hoạt
động hạ nguồn trong nước, nhiều công ty đã đầu tư KTKS ở nước ngoài,
nhất là trong khai thác mỏ bô xít, mỏ thiếc và mỏ đồng. Trong quá trình
phát triển đầu tư KTKS, tất yếu các chủ thể KTKS sẽ tiến hành đầu tư máy
móc, công nghệ, thiết bị hiện đại cũng như tăng cường công tác quản lý.
Nhờ đó, trình độ khoa học công nghệ, năng lực quản trị của quốc gia, địa
phương nơi tiến hành KTKS sẽ được nâng lên.
•KTKS thúc đẩy các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khác cùng
phát triển
Đầu ra của ngành khoáng sản là nguyên vật liệu đầu vào thiết yếu cho
các ngành công nghiệp sản xuất, chế tạo và xây dựng. Đồng thời, trong quá
trình KTKS, các chủ thể cũng cần sử dụng nhiều dịch vụ như dịch vụ vận
tải, dịch vụ xây dựng, dịch vụ ăn uống, khám chữa bệnh, Do đó, KTKS
sẽ thúc đẩy các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khác cùng phát triển.
•KTKS giúp phát triển cơ sở hạ tầng, giảm cách biệt giàu nghèo
Trong quá trình tiến hành KTKS, các chủ thể phải đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng để phục vụ cho hoạt động của mình (đường sá để vận chuyển, hệ
thống nhà máy,…). Đồng thời, các chủ thể này còn có nghĩa vụ thực hiện
trách nhiệm xã hội đối với địa phương nơi KTKS như xây dựng trường
học, cơ sở y tế,… Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các địa phương có
điều kiện kinh tế khó khăn như vùng núi, biên giới. Giúp cho các địa
phương này có điều kiện để phát triển, góp phần xóa đói giảm nghèo từ đó
15
giúp rút ngắn sự cách biệt giàu nghèo với các vùng có điều kiện kinh tế
phát triển.
1.1.2. Bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản
1.1.2.1. Khái niệm bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác
khoáng sản
Theo từ điển tiếng Việt thì: “Bảo vệ là chống lại mọi sự xâm phạm để
giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn. Bảo vệ đê điều, bảo vệ nhà cửa, bảo
vệ đất nước, bảo vệ chân lý,…” [42, tr. 40]. Tùy thuộc từng đối tượng được
bảo vệ sẽ có phương pháp, hình thức bảo vệ riêng.
Môi trường là một khái niệm có nội hàm rộng và được sử dụng trong
nhiều lĩnh vực, ngữ cảnh khác nhau. Do đó có rất nhiều quan điểm khác
nhau về khái niệm môi trường.
Theo định nghĩa thông thường thì môi trường là “toàn bộ nói chung
những điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn
tại, phát triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy” [42, tr. 618].
Theo Báo cáo toàn cầu năm 2000 thì: “Theo tự nghĩa, môi trường là
những vật thể vật lý và sinh học bao quanh loài người. Con người cần đến
sự hỗ trợ của môi trường xung quanh để sống…, mối quan hệ giữa loài
người và môi trường chặt chẽ đến mức mà sự phân biệt giữa cá thể con
người và môi trường bị xóa nhòa đi” [35, tr. 6].
Luật Bảo vệ môi trường 2005 quy định tại Khoản 1, Điều 3 như sau:
“Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh
con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của
con người và sinh vật”.
Tác giả đồng tình với quan điểm về khái niệm môi trường của Luật
Bảo vệ môi trường 2005. Bởi vì khái niệm trên đã chỉ ra được các bộ phận
cấu thành môi trường (bao gồm yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo), đồng
thời khẳng định có mối quan hệ qua lại giữa môi trường với cuộc sống con
người và sinh vật: môi trường bao quanh con người (chịu sự tác động của
16
con người) và có ảnh hưởng đến cuộc sống của con người.
Khoáng sản là một loại tài nguyên - là một bộ phận của môi trường và
cũng có mối quan hệ chặt chẽ với cuộc sống con người. Con người khai
thác khoáng sản để thỏa mãn những nhu cầu của mình đồng thời cũng gây
ra những tác động đến môi trường; đến lượt mình, những sự biến đổi trong
môi trường lại tác động trở lại đối với cuộc sống con người, sinh vật.
Từ xa xưa, với quan điểm mang màu sắc tôn giáo: “Thiên, địa, nhân
hợp nhất”, nhiều nơi đã hình thành những khu vực được coi là “linh
thiêng’’ (con người không được có bất cứ hoạt động nào tác động vào khu
vực này). Cùng với thời gian, con người ngày càng phát triển về mặt nhận
thức cũng như hành động để BVMT.
Theo Khoản 3, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường 2005 thì: “Hoạt động
bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp;
phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi
trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường;
khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa
dạng sinh học”.
Tài nguyên khoáng sản - một bộ phận của môi trường - có hạn và
không tái tạo. Đồng thời, hoạt động KTKS gây ra những tác động xấu tới
môi trường và khả năng gây ô nhiễm, suy thoái môi trường là không nhỏ. Do
đó, đòi hỏi phải có kế hoạch, biện pháp khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm
tài nguyên khoáng sản, giảm thiểu và khắc phục những tác động xấu tới môi
trường của hoạt động KTKS - tức là BVMT trong hoạt động KTKS.
Trên thực tế hiện nay, khái niệm “bảo vệ môi trường trong hoạt động
khai thác khoáng sản” vẫn chưa được định nghĩa khái quát trong một văn
bản cụ thể nào. Từ các khái niệm đã nêu ở trên, chúng ta có thể rút ra khái
niệm BVMT trong hoạt động KTKS như sau:
“Bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản là sử dụng
17
tổng hợp nhiều biện pháp, công cụ để phòng chống, khắc phục tình trạng ô
nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản, đồng thời góp
phần khai thác hợp lý, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản”.
1.1.2.2. Đặc điểm của bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác
khoáng sản
BVMT là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của
các quốc gia. Khoáng sản là một thành phần của môi trường vì vậy BVMT
trong hoạt động KTKS cũng là một phần trong tổng thể các hoạt động
nhằm BVMT. BVMT trong hoạt động KTKS có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, trách nhiệm BVMT trong hoạt động KTKS thuộc về cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt
động KTKS. Với tư cách là chủ thể quản lý mọi hoạt động của đời sống xã
hội, nhà nước thiết lập và trao quyền cho các cơ quan thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về BVMT trong hoạt động KTKS. Trong phạm vi thẩm
quyền được giao, các cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm thực hiện các
biện pháp nhằm quản lý tốt công tác BVMT trong hoạt động KTKS; Các tổ
chức, cá nhân tiến hành KTKS là chủ thể trực tiếp gây ra những tác động
đến môi trường trong quá trình KTKS, do đó các chủ thể này có trách nhiệm
thực hiện các biện pháp nhằm BVMT trong hoạt động KTKS.
Thứ hai, nội dung BVMT trong hoạt động KTKS là những hoạt động
mà các cơ quan quản lý nhà nước về BVMT trong hoạt động KTKS và các
tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện. BVMT trong KTKS không chỉ
gồm khai thác hợp lý, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản mà còn phải bảo vệ
các thành phần môi trường khác: đất, nước, không khí,… và được tiến hành
theo một quá trình tương đối lâu dài, gắn với từng giai đoạn của quá trình
KTKS: từ mở mỏ, khai thác, đến đóng cửa mỏ. Cụ thể: các cơ quan nhà
nước phải xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về BVMT trong
hoạt động KTKS, cấp phép và thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về
BVMT trong hoạt động KTKS, phát hiện và xử lý kịp thời vi phạm,… Các
18
tổ chức, cá nhân KTKS phải tiến hành lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường, kiểm soát các nguồn thải, cải tạo, phục hồi môi trường, thực hiện các
nghĩa vụ tài chính về BVMT trong hoạt động KTKS,…
Thứ ba, để thực hiện công tác BVMT trong hoạt động KTKS cần thiết
phải có sự đầu tư về kinh phí, khoa học kỹ thuật, nguồn nhân lực có trình
độ chuyên môn, Đồng thời, phải có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cũng như sử dụng kết hợp
nhiều biện pháp: kinh tế; chính trị; tuyên truyền, giáo dục; pháp lý…trong
quá trình BVMT trong hoạt động KTKS.
1.1.2.3. Vai trò của bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác
khoáng sản
Khoáng sản là tài nguyên có hạn và không tái tạo nên KTKS cũng có
nghĩa là đang làm vơi đi một lượng tài nguyên của môi trường, ảnh hưởng
đến sự cân bằng của các thành phần môi trường. Nếu khai thác ồ ạt, không
có kế hoạch thì tất yếu sẽ có những loại khoáng sản bị triệt tiêu.
Bên cạnh đó, KTKS còn gây những tác động tiêu cực đến các thành
phần môi trường khác. Đối với đất đai, hoạt động này làm phá hoại môi
trường đất, gây ra xói mòn, hoang hóa, sạt lở đất. Hoạt động KTKS sử
dụng nước với khối lượng lớn; ngoài ra nước thải, các chất thải rắn cũng
như việc sử dụng hóa chất trong quá trình KTKS,… là những nguyên nhân
gây ô nhiễm và suy thoái nguồn nước. Bụi, khí độc, khí nổ, tiếng ồn trong
KTKS cũng làm cho môi trường không khí bị ảnh hưởng không nhỏ. Ngoài
ra, hoạt động KTKS là một trong những nguyên nhân làm cho các loại thực
vật, động vật bị giảm số lượng hoặc tuyệt chủng do các điều kiện sinh sống
ở rừng cây, đồng cỏ và sông nước xấu đi [35, tr. 357].
Từ đó, có thể khẳng định rằng, bên cạnh mang lại lợi ích về kinh tế, xã
hội, hoạt động KTKS còn gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường
đòi hỏi phải thực hiện các biện pháp BVMT nhằm tạo ra sự cân bằng giữa
lợi ích kinh tế và vấn nạn môi trường mà hoạt động KTKS mang lại.
BVMT trong hoạt động KTKS có vai trò:
Thứ nhất, BVMT trong hoạt động KTKS giúp khai thác hợp lý, tiết
19
kiệm tài nguyên khoáng sản
Khoáng sản là tài nguyên có ích, tuy nhiên lại có hạn và không tái tạo
được trong khi nhu cầu khai thác và sử dụng khoáng sản lại rất cao. BVMT
trong hoạt động KTKS thông qua việc xây dựng và thực hiện các biện pháp
nhằm kiểm soát quy mô, trữ lượng, phương pháp khai thác sẽ giúp KTKS
một cách hợp lý. Đặc biệt, việc nghiên cứu để sản xuất ra các loại nguyên
liệu thay thế cho một số loại khoáng sản có trữ lượng nhỏ sẽ giúp các loại
khoáng sản đó tránh khỏi nguy cơ bị triệt tiêu. Từ đó, góp phần bảo vệ sự
bền vững của cấu trúc môi trường, bảo đảm lượng khoáng sản để phục vụ
một cách lâu dài các nhu cầu của cuộc sống con người.
Thứ hai, BVMT trong hoạt động KTKS giúp giảm thiểu các tác động
xấu đến môi trường, góp phần xây dựng và bảo đảm một môi trường sống
trong lành cho con người, sinh vật
Thông qua việc thực hiện các biện pháp như xây dựng và thực hiện
quy hoạch đất đai, quy hoạch khoáng sản; đầu tư sử dụng thiết bị, công
nghệ thân thiện với môi trường; thực hiện các biện pháp cụ thể để xử lý
chất thải, cải tạo, phục hồi môi trường, BVMT trong hoạt động KTKS
giúp giảm thiểu các tác động xấu đến đất đai, nguồn nước, không khí, sự đa
dạng của các loài sinh vật, bảo đảm sự trong lành của môi trường. Từ đó
giúp hạn chế các nguy cơ gây tác động xấu đến quá trình sản xuất, sinh
hoạt (như tình trạng mất đất, mất rừng sản xuất, ô nhiễm nguồn nước sinh
hoạt,…) đặc biệt là nguy cơ gây ra các căn bệnh quái ác cho sức khỏe, sự
sống của con người.
Thứ ba, BVMT trong hoạt động KTKS có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội quốc gia
Ngày nay, các quốc gia đều theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững,
theo đó phát triển kinh tế phải gắn liền với ổn định chính trị và BVMT.
Nếu việc BVMT trong hoạt động KTKS được tiến hành một cách hiệu quả,
tài nguyên khoáng sản được khai thác hợp lý thì các quốc gia có tiềm năng
20
khoáng sản sẽ không phải nhập khẩu khoáng sản từ nước ngoài mà còn có
thể cung cấp được khoáng sản cho các quốc gia khác để thu lợi. Đồng thời,
BVMT trong hoạt động KTKS giúp giảm thiểu việc sử dụng các nguồn lực
(chi phí, thời gian, nhân lực,…) để giải quyết các sự cố môi trường cũng
như ứng phó với các dịch bệnh do ô nhiễm môi trường trong KTKS gây ra,
từ đó các quốc gia sẽ tập trung những nguồn lực này để phục vụ cho công
cuộc phát triển kinh tế, xã hội.
1.2. Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về bảo vệ môi
trường trong hoạt động khai thác khoáng sản
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, những nội dung cơ bản của pháp luật
về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản
1.2.1.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động
khai thác khoáng sản
Đời sống xã hội bao gồm rất nhiều lĩnh vực, với nhiều quan hệ xã hội
khác nhau. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý, nhà nước ban
hành các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội theo
trật tự phù hợp với ý chí của mình. Bên cạnh các quy phạm pháp luật về
hình sự, dân sự, hành chính, để giải quyết tốt vấn đề môi trường, hiện nay
các quốc gia đã quan tâm xây dựng những quy phạm pháp luật về BVMT.
Theo Tài liệu học tập Lý luận về nhà nước và pháp luật, phần 2, Khoa
Luật - Đại học Huế năm 2013 thì: “Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự
mang tính bắt buộc chung, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện
ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, được nhà nước
bảo đảm thực hiện nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp
luật là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước và là cơ sở pháp lý cho
đời sống xã hội có nhà nước” [33, tr. 20].
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật
Hà Nội năm 2000 thì: “Pháp luật về bảo vệ môi trường là tập hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể
21
trong quá trình các chủ thể có hành vi khai thác, sử dụng hoặc tác động
đến một hoặc nhiều thành phần môi trường” [41, tr. 175].
Như đã phân tích ở trên, khoáng sản là một bộ phận của môi trường,
BVMT trong hoạt động KTKS là một bộ phận của BVMT, vì vậy pháp
luật về BVMT trong hoạt động KTKS cũng là một bộ phận của pháp luật
về BVMT.
Từ các khái niệm đã nêu ở trên, có thể đưa ra khái niệm pháp luật về
BVMT trong hoạt động KTKS như sau:
“Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng
sản là một bộ phận của pháp luật bảo vệ môi trường, bao gồm hệ thống
các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền với các tổ chức, cá nhân và giữa các chủ thể tiến
hành các hoạt động liên quan đến khai thác khoáng sản với nhau để phòng
chống, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trong hoạt động khai thác
khoáng sản, đồng thời góp phần khai thác hợp lý, tiết kiệm tài nguyên
khoáng sản”.
1.2.1.2. Đặc điểm của pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt
động khai thác khoáng sản
Thứ nhất, pháp luật về BVMT trong hoạt động KTKS là một bộ
phận của pháp luật môi trường. Các quy phạm pháp luật về BVMT trong
hoạt động KTKS là thành phần cấu thành ngành luật BVMT trong hệ
thống pháp luật của các quốc gia.
Thứ hai, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về BVMT trong hoạt
động KTKS là những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động KTKS và
có ảnh hưởng đến môi trường. Căn cứ vào địa vị pháp lý của các chủ thể,
có thể phân chia đối tượng điều chỉnh của pháp luật về BVMT trong hoạt
động KTKS thành hai nhóm chính: Nhóm quan hệ có một bên tham gia là
cơ quan quản lý nhà nước về BVMT trong KTKS (gồm những quan hệ
phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước về khoáng sản và BVMT như: xây
22
dựng và thực hiện chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch về khai thác,
bảo vệ khoáng sản; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động khoáng sản; kiểm tra,
thanh tra việc xử lý vi phạm pháp luật về BVMT trong hoạt động KTKS;…)
và nhóm quan hệ mà các bên tham gia không mang quyền lực nhà nước (gồm
những quan hệ như: tham vấn cộng đồng dân cư trong quá trình lập báo cáo
đánh giá tác động môi trường; chuyển nhượng giấy phép KTKS, )
Thứ ba, mục đích điều chỉnh của pháp luật về BVMT trong hoạt động
KTKS là nhằm: phòng chống và khắc phục ô nhiễm; phục hồi và cải thiện
môi trường; khai thác hợp lý, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản thông qua
việc tạo dựng khung pháp lý quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước trong việc quản lý nhà nước về BVMT trong hoạt động KTKS; quyền
và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động KTKS.
Thứ tư, pháp luật về BVMT trong hoạt động KTKS sử dụng kết hợp
phương pháp điều chỉnh mệnh lệnh, quyền uy và phương pháp bình đẳng.
Tùy thuộc địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia vào quan hệ mà pháp
luật về BVMT trong hoạt động KTKS sử dụng phương pháp mệnh lệnh,
quyền uy (khi có cơ quan nhà nước có thẩm quyền tham gia quan hệ) hay
phương pháp bình đẳng (khi các chủ thể tham gia quan hệ không mang
quyền lực nhà nước).
1.2.1.3. Những nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ môi trường
trong hoạt động khai thác khoáng sản
Pháp luật về BVMT trong hoạt động KTKS bao gồm nhiều quy
phạm pháp luật. Nghiên cứu một cách có hệ thống, thấy rằng nội dung cơ
bản của pháp luật về BVMT trong hoạt động KTKS bao gồm:
i) Các quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền về BVMT trong hoạt động KTKS
Ở nước ta, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về BVMT trong hoạt động
KTKS được xây dựng từ trung ương đến địa phương, bao gồm hai nhóm:
Nhóm 1: Các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chung (quản
23
lý nhiều lĩnh vực, trong đó có quản lý môi trường và khoáng sản). Bao
gồm: Chính phủ; UBND các cấp(tỉnh, huyện, xã); bên cạnh đó, ở trung
ương và địa phương đều có các cơ quan liên quan (Bộ, cơ quan ngang Bộ,
Sở, Phòng, Ban) phụ trách quản lý các lĩnh vực chuyên môn khác (như xây
dựng, công thương, nông nghiệp và phát triển nông thôn, y tế, tài chính,…)
nhưng có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý chuyên môn (về
BVMT trong KTKS) trong việc quản lý nhà nước về BVMT trong hoạt
động KTKS.
Nhóm 2: Các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chuyên môn
(có nhiệm vụ chủ yếu là quản lý nhà nước về môi trường và khoáng sản).
Ở trung ương có Bộ Tài nguyên và Môi trường (trong đó có đơn vị trực
thuộc là Tổng Cục Địa chất và Khoáng sản - giúp Bộ Tài nguyên và Môi
trường quản lý chuyên môn về khoáng sản và Tổng Cục Môi trường -
giúp Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý chuyên môn về môi trường
trên phạm vi cả nước). Ở cấp tỉnh có Sở Tài nguyên và Môi trường (với
các đơn vị trực thuộc gồm: Phòng quản lý Tài nguyên khoáng sản(hoặc
Phòng Quản lý tài nguyên) và Chi cục BVMT). Ở cấp huyện, có Phòng
Tài nguyên và Môi trường. Ở cấp xã có biên chế cán bộ chuyên trách hoặc
kiêm nhiệm về môi trường.
Xuất phát từ địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền khi tham gia quan hệ pháp luật về BVMT trong hoạt động
KTKS - có đặc trưng là mang quyền lực nhà nước và thực hiện chức năng
quản lý, pháp luật về BVMT trong hoạt động KTKS ở Việt Nam quy định
trách nhiệm của của các chủ thể này như sau:
•Trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch,
chính sách, kế hoạch, biện pháp về BVMT trong hoạt động KTKS
Chiến lược khoáng sản, chiến lược BVMT là một bộ phận của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, được hoạch định theo thời gian tương đối
dài: 10 năm, tầm nhìn 20 năm theo kỳ chiến lược phát triển kinh tế, xã hội.
24
Các chiến lược này vạch ra những phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát
triển bền vững ngành công nghiệp khai khoáng, gắn KTKS với BVMT. Bộ
Tài nguyên và Môi trường là cơ quan được giao trách nhiệm chù trì phối
hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ liên quan và các địa phương lập, trình
Chính phủ phê duyệt chiến lược khoáng sản, chiến lược BVMT.
Luật Bảo vệ môi trường 2005 yêu cầu các loại tài nguyên phải được
lập quy hoạch sử dụng, phải gắn với quy hoạch bảo tồn thiên nhiên nhưng
không quy định rõ mà quy định viện dẫn việc áp dụng pháp luật về tài
nguyên để lập quy hoạch sử dụng tài nguyên đó. Luật Khoáng sản 2010 (từ
Điều 10 đến Điều 15) và Nghị định số 15/2012/NĐ-CP ngày 09/03/2012
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoáng sản
(Chương II) đã quy định về các loại quy hoạch, thẩm quyền, căn cứ lập, nội
dung, thủ tục lập, điều chỉnh, lấy ý kiến và công bố quy hoạch khoáng sản.
Theo đó, có 4 loại quy hoạch khoáng sản gồm: Quy hoạch điều tra cơ bản
địa chất về khoáng sản; Quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản chung cả
nước; Quy hoạch khai thác, sử dụng từng loại, nhóm khoáng sản làm vật
liệu xây dựng và quy hoạch sử dụng từng loại, nhóm khoáng sản khác cả
nước; Quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (được lập đối với khoáng sản làm vật liệu xây dựng
thông thường, than bùn; khoáng sản ở khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ
lẻ đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường khoanh định và công bố; khoáng
sản ở bãi thải của mỏ đã đóng cửa). Kỳ quy hoạch điều tra cơ bản địa chất
về khoáng sản là 10 năm, tầm nhìn 20 năm; kỳ quy hoạch đối với các loại
quy hoạch còn lại là 5 năm, tầm nhìn 10 năm. Việc lập quy hoạch khoáng
sản phải dựa trên nhu cầu sử dụng khoáng sản của các ngành kinh tế, gắn
với mục tiêu phát triển bền vững, phù hợp với chiến lược khoáng sản, chiến
lược BVMT, chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tiến bộ khoa học công
nghệ. Nội dung các loại quy hoạch khoáng sản được quy định cụ thể tại
Khoản 3, các Điều 11, 12, 13 của Luật Khoáng sản và Khoản 4, Điều 9,
25