Tải bản đầy đủ (.pptx) (11 trang)

Lịch sử phát triển của mỹ học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1010.66 KB, 11 trang )

n

i
tr

sử

át n
h
p yễ

ch H :

L VT
S

M

S

S

N
V

:

g
2

u



0

0

6

1

C

5

8

a

c
ô

n

g


m

c
họ



Các học thuyết mỹ học trong quá khứ thường tập trung sự tìm tòi vào hai lĩnh vực chính: cái đẹp và nghệ thuật. Có thể thấy rõ điều đó
trong tư tưởng mỹ học của những đại diện lớn nhất cho các giai đoạn lịch sử phát triển của mỹ học nhân loại như: Platon (427 - 347
TCN), Aristote (384 - 322 TCN), Leonardo da Vinci (1452 - 1519), Diderot (1713 - 1784), Lessing (1729 - 1781), Kant (1724 - 1804),
Hegel (1770 - 1831), Bielinxki (1811 - 1848), Tsecnưsepxki (1828 - 1889)…


Platon (427 - 347 TCN)
 Platon là nhà triết học, nhà mỹ học duy tâm nổi tiếng của Hy lạp cổ đại. Cũng như nhiều nhà mỹ học khác, quan niệm
thẩm mỹ của ông gắn bó và chịu sự chi phối của quan niệm triết học. Hạt nhân của triết học Platon là thuyết ý
niệm (tức tinh thần, linh hồn).  Khi có ý định giải thích cái đẹp của nghệ thuật, ông chủ trương thuyết “bắt
chước”. Ông không khước từ việc tái hiện thực tại của nghệ thuật, nhưng vì thế giới vật thể cảm tính chỉ là cái bóng
của ý niệm, nên với Platon chủ trương: “Nghệ thuật chỉ là cái bóng của cái bóng”.  Nghệ thuật cách xa chân lý tới ba
bậc nên nó là “ảo ảnh”, không có giá trị nhận thức.


Aristote (384 - 322 TCN)
  Aristote là học trò xuất sắc của Platon, nhưng về mặt tư tưởng, cơ bản ông đi ngược lại quan niệm của thầy mình. Các
công trình của ông bao trùm lên nhiều lĩnh vực khác nhau, và ở lĩnh vực nào ông cũng vươn tới những đỉnh cao mà
thời đại cho phép. Trên cơ sở nhận thức như vậy về thế giới, ông thừa nhận đặc tính khách quan của cái đẹp. Trong
công trình nổi tiếng Siêu hình học, ông nói đẹp là trật tự của sự hài hòa, cân xứng. Mỹ học của ông thấm nhuần ý
nghĩa nhân bản cao cả bên cạnh tính duy vật sâu sắc. Ông yêu cầu nghệ sỹ phải “diễn tả cái có thể xảy ra” theo bản
chất và quy luật tất yếu. Cao hơn, ông còn trao cho nghệ sỹ cái quyền “bổ sung vào cái không có trong tự nhiên”.
               


Leonardo da vinci (1452 - 1519)
Qua thời trung đại, nhân loại bước sang thời Phục hưng - thời đại đã sản sinh ra những “người khổng lồ” về tư tưởng,
trong đó có tên tuổi của Leonardo da Vinci - danh họa người Italia. Theo kiến giải của ông, cái đẹp tồn tại trong
những thuộc tính của chính bản thân sự vật, hiện tượng, trong sự kết hợp hài hòa giữa các bộ phận, nhất là màu sắc

và âm thanh của chúng. Trong cuốn Bàn về hội họa, ông khẳng định: “Chúng ta học tập tự nhiên chứ không học tập
các họa sỹ khác, những người mà bản thân họ cũng chỉ là con đẻ của tự nhiên mà thôi”. Ông rõ ràng đã kế thừa những
tinh hoa tư tưởng của các bậc tiền bối. Ông phát triển khả năng chiếm lĩnh cái đẹp ở người nghệ sỹ bằng việc vận
dụng các phương tiện khoa học. Ông đặt nghệ thật, trươc hết là hội họa, ngang hàng với khoa học về ý nghĩa và
phương thức phản ánh thực tại là vì thế.
 


Diderot (1713 - 1784)
 Diderot  là đại diện xuất sắc cho thời Khai sáng khi nhiều vấn đề mỹ học được nghiên cứu một cách sâu sắc. Ông là nhà
triết học, nhà văn, nhà lý luận nghệ thuật lừng danh người Pháp. Trong công trình Nghiên cứu triết học về nguồn gốc
và bản chất của cái đẹp, ông trước sau luôn khẳng định cái đẹp vốn là thuộc tính của nhiều đồ vật, sự vật khách quan.
Diderot hiểu nghệ thuật như là sự mô phỏng tự nhiên. Ông viết: “Thiên nhiên là mô hình đầu tiên của nghệ
thuật”. Ông yêu cầu nghệ thuật phải là phương tiện hữu hiệu để giáo dục con người: “Giới thiệu cái đạo đức cho người
ta noi theo, cái tật xấu cho người ta lên án, cái lố bịch cho người ta thấy rõ – đó là nhiệm vụ của bất cứ một người chân
chính nào cầm bút viết, cầm bút vẽ, cầm dao khắc”. Ý nghĩa cao quý của nghệ thuật đối với con người và cuộc sống
có được một phần vì lẽ đó.


Lessing (1729 - 1781)
  Người đại diện chói lọi hơn cả cho phong trào Khai sáng ở Đức là Lessing. Đó là một người có học vấn toàn diện. Ông là
tác giả của những công trình nghiên cứu mỹ học có tiếng như Lao Coon, Kịch trường Hăm buốc… Dựa trên quan điểm
duy vật về triết học, ông chủ trương nghệ thuật mô phỏng toàn bộ tự nhiên có thể thấy trong đó cái đẹp chỉ là một bộ
phận nhỏ. Sự chân thực, biểu cảm được ông coi là những quy luật chủ yếu của nghệ thuật chân chính. Theo ý kiến của
ông, nghệ thuật cần phải đánh giá cuộc sống theo những quan điểm về cái đẹp và cái xấu, nhằm tác động đến đạo
đức, uốn nắn những sai lạc của tầng lớp bình dân. Ông rất chú ý đến sự lệ thuộc của các loại hình nghệ thuật vào tính
chất của đối tượng phản ánh. Hội họa và điêu khắc, theo Lessing, thích hợp mô tả với những vật thể được xếp đặt
trong không gian, trong khi văn chương lại thích hợp với việc phản ánh những hành động xẩy ra trong thời gian. Ông
đồng thời chủ trương sự pha trộn tính bi, hài trong kịch, không nhất thiết phải đảm bảo sự thuần nhất về thể loại
trong nghệ thuật kịch.



Marx (1724 - 1804)
                Ông tổ của nền triết học cổ điển Đức -  một trong ba nguồn gốc góp phần tạo lập nên chủ nghĩa Marx là Kant. Với ông, cái đẹp có những phẩm chất riêng, không liên hệ qua lại với. Ông quan niệm cái đẹp có tính thiên
bẩm. Tính hợp lý ông nói tới ở đây là hoàn toàn được suy xét trên cơ sở thị hiếu. Theo Kant, nghệ thuật là sự tạo dựng
cái đẹp nhờ ở một trò chơi thuần túy hình thức. Không thể học để sáng tạo nghệ thuật được, vì nói đến nghệ thuât là
nói đến thiên tài, mà thiên tài thì là lĩnh vực hoàn toàn huyền bí, tiên nghiệm.


Bielinxiki (1811 - 1848)
 Đối với các nhà mỹ học dân chủ cách mạng Nga, lý luận mỹ học đã trở thành vũ khí đấu tranh chính trị hữu hiệu, gắn bó
mật thiết với phong trào giải phóng con người. Người đặt nền móng cho mỹ học dân chủ cách mạng Nga là nhà phê
bình văn chương lỗi lạc  Bielinxki.Ông định nghĩa nghệ thuật “là sự tái hiện thực tiễn”. Để chống lại mọi khuynh
hướng tách rời nghệ thuật ra khỏi đời sống, ông nhấn mạnh sự tương đồng về đối tượng phản ánh của nghệ thuật và
khoa học. Sự khác biệt giữa hai lĩnh vực này chỉ là ở phương thưc phản ánh thế giới hiện thực, trong đó bằng tư duy
hình tượng, nhà thơ mô tả thế giới qua những bức tranh, còn nhà khoa học thì trình bày thế giới qua những khái
niệm bằng tư duy lôgic. Nghệ thuật với ông không chỉ là sự tái hiện sáng tạo hiện thực mà còn biểu hiện mối quan hệ
giữa người nghệ sỹ với hiện thực. Do đó, tác phẩm nghệ thuật có thể và cần phải tác động tới sự phát triển của xã hội.
“Tước bỏ quyền phục vụ lợi ích xã hội - Ông viết - là không nâng cao mà hạ thấp nghệ thuật”. Trên những cơ sở trên,
Bielinxki cổ vũ cho một nền nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa có tính tư tưởng cao và tính nhân dân sâu sắc


Tsecnusepxki (1828 - 1889)
 Tsecnưsepxki là đại diện lớn nhất của nền mỹ học duy vật trước chủ nghĩa Marx. Vì nghệ
thuật phản ánh thưc tại, nên cái đẹp trong thực tại, theo ông, cao hơn cái đẹp trong nghệ
thuật. Về sau, để làm chính xác thêm tư tưởng này, Tsenưsepxki bổ sung: “Cái đẹp là…
cuộc sống phù hợp với biểu tượng của chúng ta về cái đẹp”. Ông coi nghệ thuật là đối
tượng chủ yếu của mỹ học. Khi bàn về nghệ thuật, ông phát triển tư tưởng của Bielinxki
về chủ nghĩa hiện thực và tính nhân dân của nghệ thuật. Ông tuyên bố: “Nghệ thuật là
cuốn sách giáo khoa của cuộc sống”.

               


Kết luận
 Rõ ràng, cái đẹp và nghệ thuật đã được nhiều nhà mỹ học trong suốt trường kỳ lịch sử tập trung nghiên cứu. Đó là những
cơ sở cho các quan niệm mỹ học là khoa học về cái đẹp (Baumgarten) và mỹ học là triết học về nghệ
thuật (Hegel).  Cả hai quan niệm đều chứng tỏ sự cố gắng nhận chân ra nét đặc thù của  đối tượng mỹ học, song
không tránh khỏi sơ sài và phiến diện. Đành rằng, cái đẹp có vị trí đặc biệt trong đời sống thẩm mỹ. Nhưng ngoài cái
đẹp, mỹ học còn đặt cho mình nhiệm vụ nghiên cứu các phạm trù thẩm mỹ cơ bản khác như cái cao cả, cái bi, cái
hài... và nhiều phạm trù thẩm mỹ không cơ bản khác ngoài đời sống và trong nghệ thuật. Đấy là chưa nói tới các
phạm trù thể hiện chủ thể thẩm mỹ - một yếu tố không thể thiếu của bất kỳ dạng quan hệ thẩm mỹ nào. Do vậy, có
thể khẳng định: quan niệm “Mỹ học là khoa học về cái đẹp” tỏ ra bất cập, còn quan niệm “Mỹ học là triết học về nghệ
thuật” thì lại vừa hẹp vừa mơ hồ. Hẹp vì mỹ học không chỉ nghiên cứu nghệ thuật cho dù đây là hình thái biểu hiện
tập trung vào cao độ đời sống thẩm mỹ của con người. Mơ hồ vì định nghĩa chưa chỉ ra thật xác định giới hạn nghiên
cứu nghệ thuật của mỹ học so với triết học và các ngành nghệ thuật học cụ thể khác.



×