Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Phân tích chuỗi giá trị ngành hàng lợn thịt huyện chương mỹ, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.67 KB, 65 trang )

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1

Tính cấp thiết của đề tài
Thịt lợn là một thực phẩm bổ dưỡng, phổ biến nhất trong các bữa ăn

của con người. Chăn nuôi lợn từ lâu đã là một ngành kinh tế quan trọng đóng
góp giá trị lớn trong giá trị sản xuất nông nghiệp và đặc biệt có ý nghĩa lớn
trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Huyện
Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây nay thuộc thành phố Hà Nội là huyện có ngành
chăn nuôi phát triển rất sớm. Từ những năm đầu thế kỷ 20 người dân nơi đây
đã biết chăn nuôi lợn nhằm phát triển kinh tế gia đình, đến nay cùng với sự
phát triển của kỹ thuật, công nghệ chăn nuôi và nhu cầu tiêu dùng của xã hội
thì ngành chăn nuôi đã không ngừng phát triển. Chăn nuôi ngày càng được
chuyên môn hoá, mô hình trang trại chăn nuôi qui mô lớn, trang thiết bị hiện
đại, đảm bảo vệ sinh môi trường đang là xu hướng phát triển chủ đạo. Sản
phẩm của ngành chăn nuôi tỉnh Hà Tây cũ nói chung và huyện Chương Mỹ
nói riêng có mặt ở khắp nơi và đặc biệt chiếm thị phần lớn trong thị trường
Hà Nội. Trong chiến lược phát triển kinh tế huyện giai đoạn 2005 -2010 thì
ngành chăn nuôi chiếm một vị trí quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại.
Đến hết năm 2008, qui mô đàn lợn trên địa bàn huyện là hơn một trăm
nghìn con, Sản lượng thịt lợn thương phẩm đạt gần 20 nghìn tấn một năm, là
nguồn thực phẩm chất lượng cung cấp cho nhu cầu trong huyện và thị trường Hà
Nội. Định hướng phát triển chăn nuôi trên địa bàn huyện là mở rộng sản xuất với
việc quy hoạch khu chăn nuôi tập trung, cách xa khu dân cư và khuyến khích
phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm hướng tới mục tiêu phát triển mạnh
mẽ kinh tế nông nghiệp, giải quyết công ăn việc làm và tạo thu nhập ổn định cho
người dân trong huyện. Có thể nói ngành chăn nuôi lợn đang có một cơ hội phát

1




triển rất lớn khi được sự hỗ trợ tích cực từ chính sách của nhà nước và sự phát
triển vượt bậc của kỹ thuật chăn nuôi, khoa học lai tạo giống và công nghệ chế
biến thức ăn gia súc. Tuy nhiên, người chăn nuôi hiện nay vẫn chịu nhiều rủi ro
từ dịch bệnh, thị trường giá cả và sự chèn ép của các tác nhân khác trong chuỗi
giá trị dẫn đến thu nhập không ổn định.
Chuỗi giá trị lợn thịt ở Việt Nam nói chung và ở huyện Chương Mỹ nói
riêng hiện nay vẫn trong giai đoạn phát triển thấp. Tình trạng phát triển tự
phát là phổ biến, các tác nhân trong chuỗi về cơ bản chưa có sự ràng buộc lẫn
nhau. Người chăn nuôi vì lợi nhuận có thể bất chấp qui định về vệ sinh an
toàn thực phẩm mà cho lợn ăn những chất kích thích tăng trọng bị cấm sử
dụng hoặc vẫn bán lợn ốm, lợn bệnh ra thị trường; người buôn bán tự do ép
giá người chăn nuôi, người giết mổ không có đăng ký hành nghề, không đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm... Lợi nhuận tạo ra không được phân phối công
bằng, không tương xứng với công sức và chi phí bỏ ra của các tác nhân. Bên
cạnh đó công tác kiểm tra quản lý chất lượng của các cơ quan chức năng
chưa thực sự hiệu quả. Hậu quả là người tiêu dùng không được hưởng dịch vụ
tốt nhất, đôi khi là không có được sản phẩm tương xứng với chi phí đã bỏ ra...
Tất cả những điều đó làm chuỗi giá trị hoạt động không hiệu quả và về lâu dài
thì tất cả các tác nhân hoạt động trong chuỗi hiện nay sẽ đều không có lợi.
Khi chưa giải quyết triệt để được những tồn tại này, việc phát triển
chuỗi giá trị lợn thịt ở huyện sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn và thiếu tính bền
vững.
Cho đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu về ngành chăn nuôi lợn và
ngành hàng thịt lợn đạt được nhiều nội dung quan trọng. Các đề tài nghiên
cứu từ trước đến nay thường tập trung vào các vấn đề kỹ thuật chăn nuôi,
phòng trừ dịch bệnh, kinh tế chăn nuôi lợn và tìm giải pháp phát triển chăn
nuôi lợn. Các kết quả đạt được mới chỉ giải quyết một phần những khó khăn


2


hiện nay mà ngành hàng thịt lợn đang phải đối mặt.
Để có sự nhìn nhận một cách hệ thống trên cơ sở phân tích mối quan hệ
nhiều chiều giữa các tác nhân trong ngành hàng thịt lợn và đề xuất các giải
pháp khắc phục khó khăn trong quá trình phát triển chuỗi, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Phân tích chuỗi giá trị ngành hàng lợn thịt huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội”.
1.2

Mục tiêu nghiên cứu

1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích chi tiết thực trạng các tác nhân tham gia trong
chuỗi giá trị lợn thịt ở huyện Chương Mỹ, phát hiện điểm thuận lợi và những
khó khăn trong quá trình hoạt động của chuỗi, từ đó đề xuất các giải pháp khả
thi nhằm phát huy thuận lợi, khắc phục khó khằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của chuỗi mang lại lợi ích cao hơn cho tất cả các tác nhân tham gia
chuỗi.
1.2.2 Mục tiêu cụ thê
- Hệ thống hóa lý luận và thực tiễn về phân tích chuỗi giá trị nói chung
và chuỗi giá trị thịt lợn nói riêng.
- Phân tích thực trạng hoạt động và mối quan hệ giữa các tác nhân tham
gia chuỗi giá trị thịt lợn Chương Mỹ những năm qua.
- Lập bản đồ chuỗi giá trị, nghĩa là xây dựng một sơ đồ có thể quan sát
bằng mắt thường về hệ thống chuỗi giá trị. Các bản đồ này có nhiệm vụ định
dạng các hoạt động kinh doanh , các nhà vận hành chuỗi và những mối liện
kết của họ, cũng như các nhà hỗ trợ chuỗi nằm trong chuỗi giá trị này. Các
bản đồ chuỗi là cốt lõi của phân tích chuỗi giá trị, là yếu tố không thể thiếu.

- Lượng hoá và mô tả chi tiết chuỗi giá trị bào gồm các con số kèm
theo bản đồ chuỗi cơ sở: về số lượng chủ thể, lượng sản xuất hay thị phần của
các phân đoạn cụ thể trong chuỗi. Trong chuỗi giá trị thịt lợn chúng tôi tập

3


trung vào các đặc tính của chủ thể chuỗi, các dịch vụ đi kèm…
- Phân tích kinh tế đối với chuỗi giá trị là đánh giá năng lực hiệu suất
kinh tế của chuỗi. nó bao gồm việc xác định giá trị gia tăng tại các giai đoạn
trong chuỗi giá trị, chi phí sản xuất và thu nhập cảu các nhà vận hành.. Một
khía cạnh khác là chi phí giao dịch – chính là chi phí triển khai công việc kinh
doanh, chi phí thu thập thông tin và thực hiện hợp đồng. Năng lực kinh tế của
một chuỗi giá trị có thể được “so sánh đối chuẩn” ví dụ như các tham số quan
trọng có thể được so sánh với các thámố này ở các chuỗi cạnh trạnh tại các
quốc gia khác hoặc của các ngành công nghiệp tương đồng.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành hàng thịt lợn huyện
Chương Mỹ một cách có hiệu quả trong thời gian tiếp theo.
1.3

Câu hỏi nghiên cứu

Nghiên cứu này sẽ giúp trả lời các câu hỏi sau:
1. Có những tác nhân nào tham gia chuỗi giá trị này?
2. cơ chế giao dịch, cơ cấu giá trị gia tăng và phân chia lợi nhuận giữa các tác
nhân tham gia ngành hàng như thế nào?
3. Dòng thông tin được truyền tải như thế nào trong chuỗi?
4. Những hạn chế, khó khăn và yếu tố ảnh hưởng trong quá trình phát triển
chuỗi giá trị thịt lợn Chương Mỹ là gì?
5. Cần có những giải pháp gì để nâng cao hiệu quả hoạt động của chuỗi?

1.4

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
Chuỗi giá trị lợn thịt.
Sản phẩm của ngành hàng là thịt lợn, gồm thịt lợn siêu nạc và lợn lai ¾
máu ngoại, là hai giống lợn được nuôi phổ biến trên địa bàn huyện Chương
Mỹ.

4


1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
1.4.2.1 Về không gian
Đề tài nghiên cứu trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
Đối tượng là các hộ kinh doanh thu gom, giết mổ, buôn bán thịt lợn trên địa
bàn huyện và các hộ chăn nuôi trên địa bàn một số xã trên địa bàn huyện
Chương Mỹ.
1.4.2.2 Về thời gian
Các dữ liệu, thông tin được sử dụng để đánh giá thực trạng sản xuất thịt
lợn ở địa phương, hộ chăn nuôi lợn được thu thập trong 3 năm 2006 – 2008,
trong đó tập trung tìm hiểu tình hình sản xuất, tiêu thụ lợn thịt năm 2008. Các
giải pháp, đề xuất tháo gỡ khó khăn từ khâu sản xuất đến tiêu thụ để phát triển
chuỗi giá trị đến năm 2015.
1.4.2.3 Về nội dung
Tập trung phân tích chuỗi giá trị ngành hàng lợn thịt theo các mục tiêu
cụ thể để đạt được mục tiêu chung đã đề ra ở trên.
Nghiên cứu tập trung các lĩnh vực sản xuất, thu gom, giết mổ, buôn

bán, chế biến và tiêu thụ thịt lợn trên địa bàn huyện Chương Mỹ và có mở
rộng ra một số địa bàn trong thành phố Hà Nội.
Theo những kết quả điều tra bước đầu, phần lớn lượng sản phẩm lợn
thịt sản xuất ra trên địa bàn huyện Chương Mỹ được tiêu thụ ở trong nước, do
vậy trong phần phân tích hoạt động của các tác nhân, đề tài chỉ tập trung vào
nội dung phân tích chuỗi giá trị trong nước.

5


2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1

Cơ sở lý luận

2.1.1 Lý luận về phân tích chuỗi giá trị
2.1.1.1 Chuỗi giá trị và những khái niệm liên quan
a) Chuỗi giá trị
Theo nhóm tác giả của cuốn sách “Cẩm nang Value link”, một chuỗi
giá trị là một hệ thống kinh tế có thể được mô tả như:
- Một chuỗi các hoạt động kinh doanh có liên quan mật thiết với nhau
(các chức năng) từ khi mua các đầu vào cụ thể dành cho việc sản xuất sản
phẩm nào đó, đến việc hoàn chỉnh và quảng cáo, cuối cùng là bán thành phẩm
cho người tiêu dùng.
- Các doanh nghiệp (nhà vận hành) thực hiện những chức năng này, ví
dụ như nhà sản xuất, người chế biến, thương gia, nhà phân phối một sản phẩm
cụ thể. Các doanh nghiệp này được liên kết với nhau bởi một loạt các hoạt
động kinh doanh, trong đó, sản phẩm được chuyển từ các nhà sản xuất ban
đầu tới những người tiêu dùng cuối cùng.
- Một mô hình kinh doanh đối với một sản phẩm thương mại cụ thể.

Mô hình kinh doanh này cho phép các khách hàng cụ thể được sử dụng một
công nghệ cụ thể và là một cách điều phối đặc biệt giữa hoạt động sản xuất và
Marketing giữa nhiều doanh nghiệp. [1]
Trong cuốn “Phân tích chuỗi giá trị - Lý thuyết và kinh nghiệm từ
nghiên cứu ngành chè Việt Nam” do Quỹ MISPA tài trợ, các nhà nghiên cứu
đã đưa ra khái niệm chuỗi giá trị giản đơn và chuỗi giá trị mở rộng. theo đó:
- Chuỗi giá trị giản đơn là chuỗi hoạt động trong các khâu cơ bản từ
điểm khởi đầu đến điểm kết thúc của sản phẩm, ví dụ thiết kế -> sản xuất ->
phân phối -> tiêu dùng.

6


- Chuỗi giá trị mở rộng chi tiết hoá các hoạt động và các khâu của
chuỗi giá trị giản đơn để thấy rõ nhiều bên tham gia (stakeholder) và liên
quan đến nhiều chuỗi giá trị khác nhau
b) Ngành hàng
Vào những năm 1960 phương pháp phân tích ngành hàng (Filiere) sử
dụng nhằm xây dựng các giải pháp thúc đẩy các hệ thống sản xuất nông
nghiệp. Các vấn đề được quan tâm nhiều nhất đó là làm thế nào để các hệ
thống sản xuất tại địa phương được kết nối với công nghiệp chế biến, thương
mại, xuất khẩu và tiêu dùng nông sản. Bước sang những năm 1980, phân tích
ngành hàng được sử dụng và nhấn mạnh vào giải quyết các vấn đề chính sách
của ngành nông nghiệp, sau đó phương pháp này được phát triển và bổ sung
thêm sự tham gia của các vấn đề thể chế trong ngành hàng.
Đến những năm 1990, có một khái niệm được cho là phù hợp hơn trong
nghiên cứu ngành hàng nông sản do J.P Boutonnet đưa ra đó là: "Ngành hàng
là một hệ thống được xây dựng bởi các tác nhân và các hoạt động tham gia
vào sản xuất, chế biến, phân phối một sản phẩm và bởi các mối quan hệ giữa
các yếu tố trên cũng như với bên ngoài" (J.P Boutonnet, INRA.France).

Theo Fabre: “Ngành hàng được coi là tập hợp các tác nhân kinh tế (hay
các phần hợp thành các tác nhân) quy tụ trực tiếp vào việc tạo ra các sản
phẩm cuối cùng. Như vậy, ngành hàng đã vạch ra sự kế tiếp của các hành
động xuất phát từ điểm ban đầu tới điểm cuối cùng của một nguồn lực hay
một sản phẩm trung gian, trải qua nhiều giai đoạn của quá trình gia công, chế
biến để tạo ra một hay nhiều sản phẩm hoàn tất ở mức độ của người tiêu thụ .
Nói một cách khác, có thể hiểu ngành hàng là “Tập hợp những tác nhân
(hay những phần hợp thành tác nhân) kinh tế đóng góp trực tiếp vào sản xuất
tiếp đó là gia công, chế biến và tiêu thụ ở một thị trường hoàn hảo của sản
phẩm nông nghiệp”.

7


Như vậy, nói đến ngành hàng là ta hình dung đó là một chuỗi, một quá
trình khép kín, có điểm đầu và điểm kết thúc, bao gồm nhiều yếu tố động, có
quan hệ móc xích với nhau. Sự tăng lên hay giảm đi của yếu tố này có thể
ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực tới các yếu tố khác. Trong quá trình vận
hành của một ngành hàng đã tạo ra sự dịch chuyển các luồng vật chất trong
ngành hàng đó.
Sự dịch chuyển được xem xét theo 3 dạng sau:
- Sự dịch chuyển về mặt thời gian
Sản phẩm được tạo ra ở thời gian này lại được tiêu thụ ở thời gian khác.
Sự dịch chuyển này giúp ta điều chỉnh mức cung ứng thực phẩm theo mùa vụ.
Để thực hiện tốt sự dịch chuyển này cần phải làm tốt công tác bảo quản và dự
trữ thực phẩm.
- Sự dịch chuyển về mặt không gian
Trong thực tế, sản phẩm được tạo ra ở nơi này nhưng lại được dùng ở
nơi khác. Ở đây đòi hỏi phải nhận biết được các kênh phân phối của sản
phẩm. Sự dịch chuyển này giúp ta thoả mãn tiêu dùng thực phẩm cho mọi

vùng, mọi tầng lớp của nhân dân trong nước và đó là cơ sở không thể thiếu
được để sản phẩm trở thành hàng hoá. Điều kiện cần thiết của chuyển dịch về
mặt không gian là sự hoàn thiện của cơ sở hạ tầng, công nghệ chế biến và
chính sách mở rộng giao lưu kinh tế của Chính phủ.
- Sự dịch chuyển về mặt tính chất (hình thái của sản phẩm)
Hình dạng và tính chất của sản phẩm bị biến dạng qua mỗi lần tác động
của công nghệ chế biến. Chuyển dịch về mặt tính chất làm cho chủng loại sản
phẩm ngày càng phong phú và nó được phát triển theo sở thích của người tiêu
dùng và trình độ chế biến. Hình dạng và tính chất của sản phẩm bị biến dạng
càng nhiều thì càng có nhiều sản phẩm mới được tạo ra.
Trong thực tế, sự chuyển dịch của các luồng vật chất này diễn ra rất

8


phức tạp và phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố về tự nhiên, công nghệ và
chính sách. Hơn nữa, theo Fabre thì “ngành hàng là sự hình thức hoá dưới
dạng mô hình đơn giản làm hiểu rõ tổ chức của các luồng (vật chất hay tài
chính) và của các tác nhân hoạt động tập trung vào những quan hệ phụ thuộc
lẫn nhau và các phương thức điều tiết”.
c) Tác nhân
Tác nhân là một tế bào sơ cấp với các hoạt động kinh tế, độc lập và tự
quyết định hành vi của mình. Có thể hiểu rằng, tác nhân là những hộ, những
doanh nghiệp, những cá nhân tham gia trong ngành hàng thông qua hoạt động
kinh tế của họ. Tác nhân được phân ra làm hai loại:
- Tác nhân có thể là người thực (hộ nông dân, hộ kinh doanh,...)
- Tác nhân là đơn vị kinh tế (các doanh nghiệp, công ty, nhà máy...)
Theo nghĩa rộng người ta phân tác nhân thành từng nhóm để chỉ tập
hợp các chủ thể có cùng một hoạt động. Ví dụ tác nhân “nông dân” để chỉ tập
hợp tất cả các hộ nông dân; tác nhân “thương nhân” để chỉ tập hợp tất cả các

hộ thương nhân; tác nhân “bên ngoài” chỉ tất cả các chủ thể ngoài phạm vi
không gian phân tích.
Mỗi tác nhân trong ngành hàng có những hoạt động kinh tế riêng, đó
chính là chức năng của nó trong chuỗi hàng. Tên chức năng thường trùng với
tên tác nhân. Ví dụ, hộ sản xuất có chức năng sản xuất, hộ chế biến có chức
năng chế biến, hộ bán buôn có chức năng bán buôn... Một tác nhân có thể có
một hay nhiều chức năng. Các chức năng kế tiếp nhau tạo nên sự chuyển dịch
về mặt tính chất của luồng vật chất trong ngành hàng. Các tác nhân đứng sau
thường có chức năng hoàn thiện sản phẩm của các tác nhân đứng trước kế nó
cho đến khi chức năng của tác nhân cuối cùng ở từng luồng hàng kết thúc thì
ta đã có sản phẩm cuối cùng của ngành hàng.

9


d) Mạch hàng
Mạch hàng là khoảng cách giữa hai tác nhân. Mạch hàng chứa đựng
quan hệ kinh tế giữa hai tác nhân và những hoạt động chuyển dịch về sản
phẩm. Qua từng mạch hàng, giá trị của sản phẩm được tăng thêm và do đó giá
cả cũng được tăng thêm do các khoản giá trị mới sáng tạo ra ở từng tác nhân.
Điều đó thể hiện sự đóng góp của từng tác nhân trong việc tạo nên giá trị gia
tăng (VA) của ngành hàng.
Mỗi tác nhân có thể tham gia vào nhiều mạch hàng. Mạch hàng càng
phong phú, quan hệ giữa các tác nhân càng chặt chẽ, chuỗi hàng càng bền
vững. Điều đó cũng có nghĩa là nếu có một vướng mắc nào đó làm cản trở sự
phát triển của mạch hàng nào đó thì sẽ gây ảnh hưởng có tính chất dây chuyền
đến các mạch hàng sau nó và sẽ ảnh hưởng chung đến hiệu quả của luồng
hàng và toàn bộ chuỗi hàng.
e) Luồng hàng
Những mạch hàng liên tiếp được sắp xếp theo trật tự từ tác nhân đầu

tiên đến tác nhân cuối cùng sẽ tạo nên các luồng hàng trong một ngành hàng.
Luồng hàng thể hiện sự lưu chuyển các luồng vật chất do kết quả hoạt
động kinh tế của hệ thống tác nhân khác nhau ở từng công đoạn sản xuất, chế
biến và lưu thông đến từng chủng loại sản phẩm cuối cùng. Chủng loại sản
phẩm cuối cùng càng phong phú thì luồng hàng trong một ngành hàng càng
nhiều. Điều đó có ý nghĩa lớn trong quá trình tổ chức và phát triển sản xuất vì
sự luân chuyển của luồng vật chất qua từng tác nhân trong các luồng hàng đã
làm cho mọi tác nhân trong ngành hàng trở thành người sản xuất sản phẩm
hàng hoá.
Mặt khác, việc bố trí lại lao động giữa các khâu trong quá trình phát
triển của chuỗi hàng tạo nên sự chuyển dịch lao động từ khâu sản xuất đến
khâu chế biến và lưu thông để nối dài chuỗi hàng, từ đó sẽ tạo điều kiện cho

10


sự phân công lao động xã hội phát triển và kích thích quá trình sản xuất hàng
hoá, tạo ra nhiều loại sản phẩm phong phú hơn, thoả mãn đầy đủ hơn thị hiếu
tiêu dùng của xã hội. Mọi luồng hàng đều bắt đầu từ một tác nhân ở khâu sản
xuất đầu tiên và kết thúc ở một địa chỉ tiêu thụ cuối cùng.
f) Sản phẩm
Là một nhóm sản phẩm có chung các đặc tính vật lý hữu hình cũng như
các dịch vụ có chung đặc tính được bán cho khách hàng. Chuỗi giá trị được
xác định bởi một sản phẩm hay một nhóm sản phẩm. ví dụ như chuỗi giá trị
rau tươi, chuỗi giá trị cà chua, chuỗi giá trị thịt lợn…
g) Chuỗi cung và quản lý chuỗi cung
Khái niệm chuỗi cung cũng tương tự như chuỗi giá trị. Sự khác biệt là ở
chỗ chuỗi cung nói đến một loạt các chức năng sản xuất (đầu chuỗi) và
marketing (cuỗi chuỗi) của các doanh nghiêp tư nhân, chủ yếu là các công ty
đầu mối. Do đó quản lý chuỗi cung là một công cụ quản lý kinh doanh hơn là

một khái niệm phát triển. (Cẩm nang Valuelinks)
h) Giá trị giă tăng
Giá trị gia tăng là thước đo về giá trị được tạo ra trong nền kinh tế.Khái
niệm này tương đương với tổng giá trị được tạo ra bởi những người vận hành
chuỗi (doanh thu của chuỗi = giá bán cuối cùng * số lượng bán ra). Giá trị giă
tăng trên một đơn vị sản phẩm là hiệu số giữa giá mà người vận hành chuỗi
bán được trừ đi giá mà người vận hành chuỗi đó đã bỏ ra để mua những
nguyên liệu đầu vào mà những người vận hành chuỗi ở công đoạn trước cung
cấp, và giá của những hàng trung gian mua từ những nhà cung cấp hàng hoá
và dịch vụ không được coi là mắt xích trong chuỗi. Nói tóm lại, “Giá trị mà
được cộng thêm vào hàng hoá hay dịch vụ tại mỗi khâu của quá trình sản xuất
hay tiêu thụ mặt hàng đó” (Mc Cormick/Schmitz). Một phần của giá trị giă
tăng được tạo ra được giữ lại trong chuỗi, còn một phần khác thì được giữ lại

11


bởi những nhà cung cấp nằm ngoài chuỗi.
i) Bản đồ chuỗi giá trị
Bản đồ chuỗi giá trị là một hình thức trình bày bằng hình ảnh (sơ đồ) về
những cấp độ vi mô cấp trung của chuỗi giá trị. Theo định nghĩa về chuỗi giá
trị, bản đồ chuỗi giá trị bao gồm một bản đồ chức năng kèm với một bản đồ
về các chủ thể của chuỗi. Lập bản đồ chuỗi có thể nhưng không nhất thiết
phải bao gồm cấp độ vĩ mô của chuỗi giá trị.
k) Người vận hành chuỗi giá trị
Người vận hành chuỗi là các doanh nghiệp thực hiện những chức năng cơ
bản của chuỗi giá trị. Những người vận hành điển hình là nông dân, các doanh
nghiệp, các nhà xuất khẩu, các nhà bán buôn và bán lẻ. Họ có một điểm
chung là tại một khâu nào đó trong chuỗi giá trị, họ sẽ trở thành người chủ sở
hữu của sản phẩm (nguyên liệu thô, bán thành phẩm hay thành phẩm).

Trong ngành hàng, mỗi tác nhân đều tạo ra sản phẩm riêng của mình.
Trừ những sản phẩm bán lẻ cuối cùng, sản phẩm của mọi chức năng khác
chưa phải là sản phẩm cuối cùng của ngành hàng mà chỉ là kết quả của hoạt
động kinh tế, là “đầu ra” của quá trình sản xuất kinh doanh của từng tác nhân.
Sản phẩm của tác nhân trước là chi phí trung gian của các tác nhân kề sau nó.
Chỉ có sản phẩm của tác nhân cuối cùng trước khi đến tay người tiêu dùng
mới là sản phẩm cuối cùng của ngành hàng. Chủng loại sản phẩm khá đa
dạng, nên trong phân tích ngành hàng thường chỉ phân tích sự vận hành của
các sản phẩm chính.
2.1.1.2 Nội dung chính trong Phân tích chuỗi giá trị
Theo định nghĩa về Chuỗi giá trị là một hệ thống kinh tế được tổ chức
xoay quanh một hàng hoá thương mại cụ thể. Sự phối hợp các hoạt động kinh
doanh trong chuỗi giá trị là rất cần thiết để cung cấp đúng chất lượng và số
lượng của sản phẩm cho các khách hàng cuối cùng. Các doanh nghiệp phải

12


phối hợp với nhau để đi đến thành công. Do đó, Chuỗi giá trị:
- kết nối các hoạt động kinh doanh (sản xuất, chế biến, marketing,vv)
cần thiết để phục vụ khách hàng, và
- Liên kết và điều phối các doanh nghiệp (nhà sản xuất sơ cấp, công
nghiệp chế biến, các thương gia, vv) thực hiện các hoạt động kinh
doanh này.
Trong quá trình phát triển kinh tế, sự tuỳ thuộc và tương tác lẫn nhau
giữa các hoạt động kinh doanh và các doanh nghiệp khác nhau đã ngày càng
trở nên quan trọng. Một mặt toàn cầu hoá làm tăng áp lực cạnh tranh và áp
lực về giá. Mặt khác, khách hàng đang có nhu cầu ngày càng tăng về các sản
phẩm có chất lượng cao, tươi mới và thời trang. Cả hai xu hướng đều làm
tăng mức độ hoà nhập và tuỳ thuộc lẫn nhau. ở một chuỗi phát triển ở trình độ

cao thì một sản phẩm lương thực hữu cơ chỉ có thể được mang tới thị trường
nếu các trang trại đã được cấp giấy chứng nhận và sản phẩm này phải được
tách rời khỏi các kênh marketing.
Có nhiều phương pháp phân tích chuỗi giá trị, trong đề tài này chúng tôi
nhóm vào các bước cơ bản là
+ Lập bản đồ chuỗi giá trị
+ Lượng hoá và mô tả chi tiết chuỗi giá trị
+ Phân tích kinh tế đói với các chuỗi giá trị và so sánh đối chuẩn.
* Lập bản đồ chuỗi giá trị, nghĩa là xây dựng một sơ đồ có thể quan
sát bằng mắt thường về hệ thống chuỗi giá trị. Các bản đồ này có nhiệm vụ
định dạng các hoạt động kinh doanh , các nhà vận hành chuỗi và những mối
liện kết của họ, cũng như các nhà hỗ trợ chuỗi nằm trong chuỗi giá trị này.
Các bản đồ chuỗi là cốt lõi của phân tích chuỗi giá trị, là yếu tố không thể
thiếu. Nó phục vụ cho mục đích phân tích và mục đích truyền đạt đơn giản
hoá các thực tiễn kinh tế.

13


- Thiết kế một bản đồ tổng thể về chuỗi giá trị thể hiện các chức năng
và các nhà vận hành chuỗi.
- Lập bản đồ tiểu chuỗi: cụ thể hoá hơn nữa chuỗi giá trị này và bổ sung
thêm nhiều chi tiết. bản đồ tổng thể có thể mô tả các “tiểu chuỗi” tương ứng
với các sản phẩm cụ thể khác nhau và các kênh phân phối khác nhau. Nó sẽ
giới thiệu cho người đọc các kênh cung cấp thay thế và các thị trường mà các
kênh này hướng tới.
- Lập bản đồ các liên kết chuỗi và quản trị điều hành. Quản trị chuỗi
phản ánh cách thức phối hợp các nhà vanạ hành chuỗi trong tất cả các giai
đoạn của chuỗi – các mũi tên giữa các nhà vận hành trên bản đồ chuỗi. Mối
quan hệ giữa các nhà vận hành có thể là một trao đổi thị trường tự do hay các

hợp đồng liên kết được ký trước. Loại hình liên kết tuỳ thuộc vào chất lượng
và tính phức tạp của sản phẩm cuối cùng. Nhìn chung các giao dịch phi điều
phối (“các thị trường chợ đen”) thường tỏ ra rất hiệu quả trên thị trường địa
phương hay đối với các sản phẩm có chất lượng kém. Nếu người tiêu dùng
cuối cùng đòi hỏi sản phẩm có chất lượng cao và ổn định thì việc kiểm soát
các nguồn cung trở thành một yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh. Như vậy
các liên kết giữa những nhà cung cấp và người mua cần phải ổn định và chắc
chắn hơn, đồng thời, có xu hướng được chính thức hoá trong các hợp đồng. vì
vậy đã có sự phân biệt giữa giao dịch phi điều phối trên thị trường tự do với
các mối quan hệ hợp đồng bền vững và ở một thái cực khác là mối liên kết
theo chiều dọc giữa người mua và các nhà cung cấp.
- Lập bản đồ các nhà hỗ trợ chuỗi.
* Lượng hoá và mô tả chi tiết chuỗi giá trị bao gồm các con số kèm
theo bản đồ chuỗi cơ sở:
- Về số lượng chủ thể
- Số lượng việc làm và người lao động của mỗi nhóm nhà vận hành

14


- Số lượng nhà vận hành là người nghèo
- Tỷ trọng các dòng sản phẩm của các tiểu chuỗi/ các kênh phân phối
khác nhau
- Lượng sản xuất hay thị phần của các phân đoạn cụ thể trong chuỗi.
- Thị phần của chuỗi giá trị tích kinh tế.
* Phân tích kinh tế
+ Phân tích kinh tế bao gồm đánh giá toàn bộ giá trị gia tăng được tạo
ra boỉư chuỗi giá trị và tỷ trọng của các giai đoạn khác nhau; chi phí
marketing và chi phí sản xuất tại mỗi giai đoạn trong chuỗi, cấu trúc cảu chi
phí trong các giai đoạn của chuỗi; năng lực của các nhà vận hành (năng lực

sản xuất, sản lượng, lợi nhuận)
+ Tính giá trị gia tăng là cách đo lường mức độ thịnh vượng đã được
tạo ra trong nền kinh tế.
+ Phân phối giá trị gia tăng trong chuỗi.
+ Phân phối giá trị/ thu nhập trong chuỗi.
+ Tính chi phí sản xuất trong các chuỗi giá trị
+ Xác định các yếu tố quyết định chi phí
+ Xác định các chi phí giao dịch
+ So sánh đối chuẩn năng lực cạnh tranh
2.1.1.3 Một số khái niệm dùng cho tính toán
- Doanh thu (TR)
Doanh thu được tính bằng lượng sản phẩm nhân với đơn giá. Để đơn
giản, người ta chỉ xem xét những sản phẩm chính. Trong phân tích ngành
hàng, doanh thu sản phẩm sẽ được phân tích khác nhau trong phân tích tài
chính và phân tích kinh tế.
- Chi phí trung gian (IC)
Là chi phí về những yếu tố vật chất tham gia vào quá trình sản xuất,

15


kinh doanh. Chi phí trung gian trong ngành hàng được tính theo chi phí vật
chất của luồng vật chất tạo nên sản phẩm. Sản phẩm của các tác nhân đứng
trước thuộc chi phí trung gian của các tác nhân đứng liền kề sau nó. Các chi
phí trung gian khác là những chi phí ngoài ngành. Chi phí trung gian sẽ được
tính khác nhau trong phân tích tài chính và phân tích kinh tế.
- Giá trị gia tăng (VA)
Là giá trị mới tạo thêm của mỗi tác nhân do hoạt động kinh tế về việc
sử dụng tài sản cố định, vốn và đầu tư lao động dưới ảnh hưởng của chính
sách thuế của Nhà nước.

Công thức tính: VA = TR – IC. Giá trị gia tăng VA có thể bằng 0,
dương hoặc âm.
Giá trị gia tăng là phần không tính trùng giữa các tác nhân. Vì vậy, trong
nền kinh tế quốc dân, tập hợp toàn bộ giá trị gia tăng của mọi tác nhân sẽ tạo nên
tổng sản phẩm quốc dân của đất nước (GNP = ∑VA). Như vậy, nếu một tác
nhân nào đó có VA > 0 thì nghĩa là tác nhân đó đã góp phần tạo nên GNP cho
nền kinh tế.
Giá trị gia tăng VA cũng sẽ được tính khác nhau trong phân tích tài
chính và phân tích kinh tế.
- Thu nhập hỗn hợp (MI)
Là phần thu nhập hộ nhận được sau khi lấy phần giá trị gia tăng (VA)
trừ đi phần khấu hao tài sản cố định (A) và thuế (T).
Công thức tính: MI = VA – (A + T)
- Khấu hao tài sản cố định (A)
Có 3 phương pháp tính khấu hao, đó là: khấu hao đường thẳng, khấu
hao theo số dư giảm dần, khấu hao theo số lượng sản phẩm dựa trên tổng số
đơn vị sản phẩm ước tính tài sản có thể tạo ra.
Theo qui định của VAS (03) thì tài sản cố định là chuồng trại chăn nuôi

16


(có chu kỳ khai thác từ 6 –20 năm) được tính khấu hao theo phương pháp
khấu hao đường thẳng. Mức khấu hao trung bình hàng năm của chuồng trại
được tính = (Nguyên giá tài sản cố định/số năm khai thác).
Để tính nguyên giá TSCĐ là chuồng trại chăn nuôi phải tập hợp tất cả
các chi phí xây dựng vào tài khoản 241 sau đó mới hình thành tài sản cố định.
Thời điểm ghi nhận TSCĐ là thời điểm kết thúc giai đoạn xây mới, đưa
chuồng trại vào khai thác. Các chi phí sửa chữa nhỏ trong giai đoạn sử dụng
tính vào chi phí hoạt động trong kỳ.

2.1.1.4 Ý nghĩa của phân tích chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị có thể được phân tích từ góc độ của bất kỳ tác nhân nào
trong chuỗi. Phép phân tích chuỗi thường được sử dụng cho các công ty,
doanh nghiệp hay cơ quan nhà nước ... bốn khía cạnh trong phân tích chuỗi
giá trị áp dụng trong nông nghiệp mang nhiều ý nghĩa đó là:
- Thứ nhất: Phân tích chuỗi giá trị giúp chúng ta lập sơ đồ một cách hệ
thống các bên tham gia vào sản xuất, phân phối, tiếp thị và bán một (hoặc
nhiều) sản phẩm cụ thể.
- Thứ hai: phân tích chuỗi giá trị có vai trò trung tâm trong viêc xác
định sự phân phối lợi ích của những người tham gia chuỗi. Điều này đặc biệt
quan trọng đối với các nước đang phát triển (nhất là về nông nghiệp) khi tham
gia vào quá trình toàn cầu hóa.
- Thứ ba: Phân tích chuỗi giá trị có thể dùng để xác định vai trò của
việc nâng cấp chuỗi giá trị.
- Thứ tư: phân tích chuỗi giá trị có thể nhấn mạnh vai trò của quản trị
chuỗi giá trị.
Như vậy, phân tích chuỗi giá trị có thể làm cơ sở cho việc hình thành
các chương trình, dự án hỗ trợ cho một chuỗi giá trị hoặc một số chuỗi giá trị
nhằm đạt được một số chuỗi kết quả phát triển mong muốn hay nó là động

17


thái bắt đầu một quá trình thay đổi chiến lược hoạt động sản xuất, kinh doanh
theo hướng ổn định, bền vững.
Trên quan điểm toàn diện, phân tích chuỗi giá trị lợn thịt sẽ cho phép
chỉ ra những tồn tại, bất cập trong quá trình hoạt động của chuỗi, hạn chế
trong quá trình giao dịch, phân phối lợi nhuận, mối liên kết và thông tin giữa
các tác nhân để đưa ra giải pháp thúc đẩy chuỗi giá trị làm cho chuỗi hoạt
động hiệu quả hơn.

2.2

Cơ sở thực tiễn

2.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ lợn thịt trên thế giới và Việt Nam
2.2.1.1 Tình hình chung về sản xuất và tiêu thụ thịt lợn trên thế giới
Theo thống kê của FAO (2008) tổng đàn lợn toàn thế giới năm 2000 là
895.733,4 nghìn con, đến năm 2007 là 918.278,5 nghìn con. Trong đó phân
bố không đều giữa các châu lục.
Châu Á luôn luôn là châu lục có số lượng đàn lợn cao nhất thế giới.
Theo thống kê năm 2007 Châu Á có 535.076,8 nghìn con, châu Âu đứng ở vị
trí thứ hai với khoảng 198.039,7 nghìn con, ít nhất là châu Đại Dương với
5.510,97 nghìn con. Nước có đầu lợn cao nhất thế giới là Trung Quốc: Năm
2000 có 438.785,2 nghìn con, chiếm 48,99% số lượng lợn toàn thế giới, năm
Việt Nam đứng thứ năm với 26.561 nghìn con năm 2007.
Trong vòng 10 năm (1998-2008) mức tăng trưởng hàng năm đàn lợn
toàn thế giới là 2.52%, chứng tỏ tăng không nhiều. Tùy theo nhu cầu của từng
nước mà có mức tăng giảm khác nhau. Riêng nhu cầu về các loại thịt thì đều
tăng ở hầu hết các nước trên thế giới.
Trung Quốc: Là nước có qui mô chăn nuôi lợn lớn nhất thế giới. số lượng
đầu lợn chiếm gần 50% đàn lợn toàn thế giới. Với dân số 1,2 tỉ người nhu cầu
tiêu dùng trong nước cũng là vô cùng lớn. Người Trung Quốc cũng nổi tiếng
với tính sáng tạo năng suất lao động cao nên luôn đi đầu trong việc giảm giá

18


thành sản xuất. Với qui mô đàn lợn quá lớn như vậy nên ngành thịt lợn Trung
Quốc có sức mạnh chi phối lớn với ngành thịt lợn toàn thế giới. Trong những
nước đi tiên phong về công nghệ xử lý môi trường chăn nuôi thì Trung Quốc

đang nổi lên là nước dẫn đầu. Một số nghiên cứu của các nhà khoa học về
tổng hợp nhiều loại vi sinh kết hợp tạo nên lớp nền vi sinh giúp phân huỷ hết
chất thải của chăn nuôi, giảm chi phí điện nước, nhân công và còn góp phần
tăng khả năng tăng trọng của lợn.
Mỹ: Là nước đứng thứ hai trên thế giới về số lượng đầu lợn nuôi. Trong
chúng ta ai cũng biết Mỹ là nước đi đầu trong ứng dụng công nghệ hiện đại,
nhưng ngành nông nghiệp Mỹ cũng rất mạnh. Ngành chăn nuôi Lợn của Mỹ
đã phát triển từ rất lâu và ổn định số lượng trong gần mười năm nay ở mức 60
triệu con lợn. Chăn nuôi lợn ở Mỹ chủ yếu tập trung trong các trang trại. Chăn
nuôi và Chế biến gần như khép kín.
2.2.1.2 Tình hình sản xuất lợn thịt ở Việt Nam
Chăn nuôi lợn ở Việt Nam đã có từ rất lâu đời và đã trở thành tập quán sản
xuất của nhân dân. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển của nền kinh tế, chăn
nuôi lợn cũng có những bước thăng trầm trong quá trình phát triển. Từ hình
thức sản xuất tập trung, quy mô lớn dạng các trang trại chăn nuôi quốc doanh
đến hình thức nuôi gia công cho nhà nước tại các hộ gia đình, cấm các hộ tự ý
chăn nuôi, giết mổ gia súc, cho đến khi có chính sách đổi mới quản lý kinh tế
nông nghiệp nông thôn, chăn nuôi được công nhận là một ngành kinh tế giúp
xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế hộ gia đình, được khuyến khích phát
triển thì chăn nuôi lợn đã được phổ biến tại hầu hết các hộ gia đình nông thôn
với quy mô nhiều hay ít.
Những năm gần đây, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ về giống và thức ăn
gia súc, ngành chăn nuôi ở nước ta đang có những thay đổi cơ bản với những

19


thành tựu đáng kể như tỉ trọng GDP ngành chăn nuôi trong nông nghiệp ngày
càng tăng năm 2005 chiếm 24,7% tính sơ bộ đến năm 2008 chiếm 27%.

Năm 2008 có 17.635 trong đó Đồng Bằng Sông Hồng có 8.103 trang trại,
nhiều nhất cả nước.
Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng
Năm

ĐVT

Số lượng lợn 1000con
Sản lượng
Tấn

2000

2004

2005

2006

20194 26144 27435 26855
1.428,1 1.012,0 2.288,3 2.505,0

2007

Sơ bộ
2008

26561
2662,7 2.771,0


2.2.2 Một số chủ trương và chính sách có liên quan đến phát triên ngành
hàng lợn thịt
Trong bối cảnh nước ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức
thương mại thế giới (WTO), các biện pháp phi thuế quan như hạn chế nhập
khẩu, trợ cấp xuất khẩu trong lĩnh vực nông nghiệp không còn hợp lệ và cần
phải xoá bỏ. Theo đó, thuế quan và hạn ngạch dần được thay thế bởi các biện
pháp về hỗ trợ nghiên cứu phát triển, quảng bá sản phẩm, xúc tiến thương
mại, hỗ trợ giải quyết các vấn đề môi trường, kiểm định và cấp chứng nhận
chất lượng đối với hàng nông sản trong nước giúp tăng cường sức cạnh tranh
của các sản phẩm nội. Hiện nay nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp an toàn,
sản phẩm hữu cơ có chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường,
nhất là thị trường xuất khẩu ngày càng tăng lên.
Trong thời gian tới, các giải pháp, chính sách để phát triển ngành chăn
nuôi nói chung và ngành chăn nuôi lợn nói riêng sẽ tập trung vào khuyến
khích phát triển sản xuất như: chuyển dịch cơ cấu sản xuất; hỗ trợ việc đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; hỗ trợ lãi suất đầu tư cho các
dự án phát triển sản xuất, bảo quản, chế biến; hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu
khoa học, khuyến nông, chọn lọc, lai tạo và sản xuất giống, áp dụng khoa học

20


công nghệ, giống mới vào sản xuất; hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại.
2.2.3 Một số công trình nghiên cứu mới gần đây về ngành hàng lợn thịt ơ
Việt Nam
Các đề tài trên thường tập trung vào các vấn đề liên quan đến mảng sản
xuất: kỹ thuật chăn nuôi, phòng trừ dịch bệnh, nâng năng suất cao chất lượng
thịt... Một số kết quả của các nghiên cứu trên đã được áp dụng trong thực tế
sản xuất và chứng minh được tính hiệu quả. Tuy nhiên, khả năng mở rộng và
áp dụng rộng rãi những kết quả nghiên cứu cho hộ chăn nuôi lợn trên thực tế

vẫn còn hạn chế.
Chưa có công trình nào nghiên cứu về nâng cao hiệu quả hoạt động
của chuỗi giá trị ngành hàng lợn thịt trong mối liên hệ giữa các tác nhân
trong một chuỗi. Thực tế trong một thị trường phát triển để sản phẩm thực
phẩm đến được thị trường đòi hỏi trang trại sản xuất ra sản phẩm phải được
cấp giấy chứng nhận sản phẩm đó và mỗi tác nhân đều chịu trách nhiệm về
chất lượng sản phẩm của mình đến người tiêu dung cuối cùng. Do vậy
nghiên cứu phát triển chuỗi giá trị là cần thiết trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay.
2.2.4 Các nhân tố ảnh hương đến chuỗi giá trị lợn thịt
Quá trình nghiên cứu tổng quan ngành hàng lợn thịt trên thế giới và
Việt Nam, chúng tôi rút ra một số nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi giá trị lợn thịt
như sau:
- Nhu cầu tiêu dùng thịt lợn chất lượng cao trên thị trường thế giới và
trong nước ngày càng tăng.
- Hiệu quả kinh tế của việc chăn nuôi lợn, cùng với tính thích nghi rộng
của con lợn làm cho diện tích chăn nuôi lợn trên thế giới liên tục tăng
qua các năm.
- Yêu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm có thương hiệu, nhãn mác,

21


xuất xứ rõ ràng và được sản xuất theo qui trình sạch bệnh, an toàn ngày
càng trở nên phổ biến và dần trở thành những yêu cầu bắt buộc khi đưa
sản phẩm ra thị trường. Thông tin xung quanh vấn đề vệ sinh an toàn
thực phẩm cũng có nhiều tác động tới thị trường thịt lợn. Bên cạnh đó
các cơ quan quản lý nhà nước cũng đang xây dựng các qui định nhằm
quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm tốt hơn.
- Ảnh hưởng của dịch bệnh làm giảm khả năng cung ứng thịt lợn của các

quốc gia chăn nuôi lợn trên thế giới.
- Khả năng phát triển những vùng chăn nuôi lợn tập trung, qui mô lớn
cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành hàng lợn thịt.
- Sự gắn kết giữa các tác nhân trong ngành hàng trong các công đoạn từ
sản xuất – tiêu thụ sản phẩm ảnh hưởng đến khả năng vận hành trơn
chu và hiệu quả của chuỗi.
- Vấn đề ô nhiễm môi trường do chất thải chăn nuôi rất khó giả quyết
làm giảm hiệu quả của chuỗi rất rõ rệt.

22


3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1

Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

3.1.1 Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1 Vị tri địa ly
(chèn bản đồ hành chính huyện chương mỹ vào đây)
Chương Mỹ là một huyện lớn nằm về phía Tây Nam của Tỉnh Hà Tây cũ,
có tọa độ địa lý là 200 23’ – 20055’ vĩ độ Bắc và 105030’ -105045’ kinh độ Đông,
cách thủ đô Hà Nội 20 km về phía Tây qua quận Hà Đông trên quốc lộ 6. Huyện
có tổng diện tích đất tự nhiên là 23.294,15 ha, với đường ranh giới giáp các địa
phương:
- Phía Bắc giáp huyện Quốc Oai và Hoài Đức;
- Phía Đông giáp huyện Thanh Oai;
- Phía Nam giáp huyện Ứng Hòa và Mỹ Đức;
- Phía Tây giáp huyện Lương Sơn của tỉnh Hòa Bình.
Là huyện nằm trong quy hoạch chuỗi đô thị Miếu Môn – Xuân Mai – Hoà Lạc –

Sơn Tây, có đường quốc lộ 6, 21A, tỉnh lộ 80 chạy qua nối liền huyện với các tỉnh
Tây Bắc, thủ đô Hà Nội và các huyện khác trong tỉnh. Có 3 con song chảy qua địa
bàn huyện là sông Đáy, sông Bùi và song Tích tạo cho huyện tiềm năng tự nhiên
thật đa dạng: vừa có núi, vừa có sông, vừa có đồng bằng phù sa tươi tốt. Huyện lại
nằm trong tam giác du lịch nổi tiếng: Hà Nội – Bà Vì – Chùa Hương.
Với vị trí địa lý như vậy, Chương Mỹ có nhiều lợi thế để phát triển đa
dạng nền nông nghiệp hàng hóa:
- Có thị trường tiêu thụ nông lâm sản rộng lớn: Hà Nội, Hà Đông, Hòa
Bình và các vùng phụ cận.
- Mạng lưới giao thông thuận tiện tạo điều kiện tốt để mở rộng giao lưu
hàng hóa, tăng khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm của địa phương như các

23


mặt hàng tươi sống, hàng chế biến nông, lâm, thủy sản, hàng tiêu dùng, thủ
công mỹ nghệ…
- Có điều kiện để phát triển nhiều loại hình du lịch trong tuyên du lịch Hà
Nội – Ba Vì – Chùa Hương, vì vậy nền nông nghiệp có điều kiện đa dạng hóa
sản phẩm phục vụ cho khách du lịch.
- Chương Mỹ nằm trong vùng quy hoạch hành lang phát triển của thủ đô
Hà Nội về phía tây nên sẽ thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước xây
dựng các cơ sở công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp chế biến), cơ sở nghiên
cứu và chuyển giao khoa học công nghệ. Điều này, một mặt tạo công ăn việc
làm tại chỗ cho nhân dân, tăng thu nhập, mặt khác giúp cho nhân dân tiếp xúc
và vận dụng những tiến bộ khoa học, công nghệ và kỹ thuật mới trong đời
sống sinh hoạt và sản xuất.
3.1.1.2 Điều kiện khí hậu thời tiết
Chương Mỹ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa của vùng Đồng
bằng Bắc bộ, là vùng có khí hậu chuyển tiếp giữa vùng núi Tây Bắc với vùng

đồng bằng.
* Chế độ nhiệt: Theo số liệu quan trắc bình quân trong nhiều năm của
trạm khí tượng thủy văn Ba La thì nhiệt độ trung bình của Chương Mỹ từ
tháng 11 đến tháng 4 xấp xỉ 200C, tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất từ 8 - 120C, từ
tháng 5 đến tháng 10 nhiệt độ trung bình 27,4 0C, tháng 6 có lúc nhiệt độ cao
nhất là 38-390C.
* Chế độ mưa: Lượng mưa trên địa bàn Chương Mỹ đạt 1.548 mm/năm.
Bình quân đạt 129 mm/tháng. Theo số liệu quan trắc được về thủy văn trong
nhiều năm gần đây, lượng mưa tập trung cao độ vào mùa hè, đạt trung bình
1300 mm, chiếm 84% tổng lượng mưa cả năm. Mùa đông lượng mưa đạt
khoảng 400 mm. Nếu tính cả năm trong những năm gần đây thì năm có lượng
mưa thấp nhất là 1156,8 mm, năm có lượng mưa cao nhất la 2.728 mm. Mùa

24


mưa ở huyện Chương Mỹ bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 9. Lượng
mưa tập trung vào tháng 7, tháng 8 nên có độ ẩm không khí từ 89-91%.
* Chế độ gió: Mùa đông có gió Mùa Đông Bắc, hàng năm thường có từ
20-23 đợt, thỉnh thoảng có các đợt sương muối. Mùa hè gió Đông nam (mát
và ẩm), song mỗi mùa thường có 4-5 đợt gió Tây nam (nóng và khô).
Với đặc điểm khí hậu trên, huyện Chương Mỹ có điều kiện để phát triển
nhiều loại cây trồng vật nuôi khác nhau để phát triển nền kinh tế nông nghiệp
đa dạng. Tuy nhiên ở vùng đồi gò thường thiếu nước vào mùa khô, ngược lại
khi có mưa lớn thì những vùng trũng thường bị úng lụt. Nếu lượng mưa trên
200 mm kéo dài sẽ bị úng cục bộ nhiều khu vực, gây khó khăn cho quá trình
sản xuất nông nghiệp.
3.1.1.3 Đất đai
Theo số liệu thống kê năm 2008 tổng diện tích đất tự nhiên của huyện
là 23.226,51 ha. Bao gồm:

+ Đất nông nghiệp: 14.978,68 ha. Trong đó diện tích sản xuất lúa, màu là
11.496,17 ha, chiếm 76,75% tổng diện tích đất nông nghiệp.
+ Đất lâm nghiệp: 324,67 ha.
+ Đất ở: 1.441,46 ha.
+ Đất chưa sử dụng: 1.127,47 ha.
Do cấu tạo tự nhiên, địa hình của Chương Mỹ được chia thành ba vùng:
+ Vùng đồi gò gồm 17 xã, diện tích đất tự nhiên của vùng là 14.911,42 ha
chiếm 64,2% tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện. Địa hình của vùng có độ
dốc đặc trưng từ Tây sang Đông. Đặc điểm của vùng là địa hình bị chia cắt
bởi đồi gò và đồng ruộng. Các đồi gò chủ yếu là đồi, gò thấp, có độ dốc trong
khoảng từ 50 - 20 0. Diện tích đồi núi có độ dốc cao không nhiều (11,31%) so
với tổng diện tích đất tự nhiên của vùng. Đây là vùng có tiềm năng phát triển

25


×