Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.16 KB, 10 trang )

Mục lục………………………………………...…………...……Trang
I – Đặt vấn đê…………………………………………………...…….…1
II – Giải quyết vấn đê………………………………………………...…1
A.

Nguyên nhân hình thành và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà

nước
A1. Nguyên nhân hình thành của chủ ngĩa tư bản độc quyền nhà nước..1
A2. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước………………..2
B.

Biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

B1. Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước………..3
B2. Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước…………………...…..5
B3. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản…………………………….6
III – Kết luận…………………………………………………………….7

1


I – Đặt vấn đê
Như chúng ta đã biết, tiếp theo giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản
phát triển lên giai đoạn cao hơn là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Nhà nước tư bản ra đời đó là một tất yếu của
lịch sử và nó đã trải qua nhiều hình thái phát triển khác nhau. Thực chất, đây là
những nấc thang mới trong quá trình phát triển và điều chỉnh của chủ nghĩa tư
bản về cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để thích ứng với những biến
động mới trong tình hình kinh tế- chính trị thế giới từ cuối thể kỷ XIX và đầu thế
kỉ XX cho đến nay. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà


nước là mặt biến đổi quan trọng trong quan hệ quản lý và là đặc điểm nổi bật của
chủ nghĩa tư bản đương đại. Đầu thế kỷ XX Lê Nin đã chỉ rõ: chủ nghĩa tư bản
độc quyền thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một khuynh hướng tất
yếu, nhưng mãi đến những năm 50 của thế kỷ XX thì chủ nghĩa tư bản nhà nước
mới trở thành một thực thể rõ ràng và là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư
bản đương đại. Như vậy việc nghiên cứu và giải quyết câu hỏi “ Những biểu hiện
mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong những năn gần đây” sẽ giúp
hiểu rõ chúng ta hơn về vấn đề trên.
II – Giải quyết vấn đê
A- Trước hết cần hiểu rõ về nguyên nhân hình thành và bản chất của chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
A1. Nguyên nhân hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyên nhà nước
Dựa vào tư tưởng của V.I. Lê Nin, có thể chỉ ra được nguyên nhân đãn đến sự
hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là do:
- Thứ nhất, tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung tư bản
càng cao, do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều tiết xã hội
đối với sản xuất và phân phối, một sự kế hoạch hóa tập trung từ một trung tâm.
Nói cách khác sự phát triển hơn nữa của trình độ xã hội lực lượng sản xuất đã
đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn bộ xã hội quản lý nền
kinh tế.
2


-

Thứ hai, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số

ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản không thể hoặc không muốn kinh doanh
đầu tư vì vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm, ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc
kết cấu hạ tầng, GTVT…

-

Thứ ba, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa

giai cấp tư sản với gia cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những
chính sách xoa dịu những mâu thuẫn đó, như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu
nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã hội…..
-

Thứ tư, cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng của các

liên minh độc quyền quốc tế vẫn vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và
xung đốt lợi ích với các đối thủ trên thị trường. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự
điều tiết các quan hệ chính trị và quan hệ kinh tế; nhà nước tư sản có vai trò quan
trọng trong việc giải quyết các quan hệ đó.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước nảy sinh như một tất yếu kinh
tế, phần nào đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa xã hội hóa cao độ
trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhưng vẫn không giải quyết được
những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.
A2. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyên nhà nước
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sư kết hợp sức mạnh của các tổ chức
độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể
chế thống nhất, trong đó nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền
và can thiệp vào các quá trình kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc
quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản. Tính theo thời gian, chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước có nguồn gốc từ chiến tranh thế giới thứ I, phát triển nhanh
chóng trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II, và sau đó trở nên phổ biến. Chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc
quyền tư nhân với sức mạnh của các nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể
chế thống nhát nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho

chủ nghĩa tư bản. Hơn nữa, nó còn là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư
3


bản, là một hình thức vận động mới, là một quan hệ chính trị kinh tế xã hội mới
của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử
mới. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền được biểu hiện như sau:
-

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ

sản xuất tư bản chủ nghĩa hay nói cách khác là chủ nghĩa tư bản được điều chỉnh
để thích ứng với lực lượng sản xuất xã hội hóa.
-

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp giữa các tổ chức độc

quyền với nhà nước tư bản thành một tổ chức thống nhất trong đó nhà nước phụ
thuộc vào độc quyền, phục vụ mục đích cho các tổ chức độc quyền
-

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một hệ thống các quan hệ kinh tế

chính trị biểu hiện thành đường lối, các chính sách đối nội, đối ngoại, chính sách
kinh tế xã hội
-

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự can thiệp của Nhà nước vào các

mặt của đời sống xã hội bằng một hệ thống điều chỉnh làm dịu đi các mâu thuẫn

nhưng không làm thay đổi bản chất chủ nghĩa tư bản.
B - Với nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước như vậy, nó đã có những biểu hiện:
B1. Sự kết hợp vê nhân sự giữa tổ chức độc quyên và nhà nước: Các tổ chức
độc quyền đưa người vào nắm lấy hoạt động của bọ máy tư sản từ địa phương
đến trung ương để chi phối nhà nước tư sản và mang lại lợi ích, quyền lợi cho các
tập đoàn. Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các hội chủ xí nghiệp
mang những tên khác nhau, thí dụ như: Liên đoàn công nghiệp Italia, Tổ chức
liên hợp công nghiệp Đức, lien đoàn công thương Anh… Các hội chủ này hoạt
động như các cơ quan tham mưu cho nhà nước, chi phối đường lối kinh tế, đường
lối chính trị của nhà nước tư sản nhằm “lái” hoạt động của nhà nước theo hướng
có lợi cho tầng lớp độc quyền, có vai trò rất lớn, đến mức được coi như chính phủ
đằng sau chính phủ, một quyền lực thực tế đằng sau quyền lực của chính quyền.
Thông qua các hội chủ, một mặt các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia
vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau, mặt khác, các quan chức và
4


nhân viên chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền,
giữ vững các chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự, hoặc trở thành những
người đỡ đầu các tổ chức độc quyền. Trong những năm gần đây, đối với các công
ty độc quyền được nhà nước thành lập thì mục tiêu cơ bản là hoàn thành nhiệm
vụ công ích thay mặt cho Nhà nước. Nói cụ thể hơn, là đảm bảo cung cấp dịch
vụ, hàng hóa thiết yếu để duy trì mức sống tối thiểu của người dân và hoạt động
của toàn xã hội. Đây chính là điểm khác biệt về bản chất giữa một công ty độc
quyền Nhà nước với một doanh nghiệp bình thường. Vậy tại sao và cơ sở pháp lý
nào cho phép Nhà nước độc quyền làm việc đó? Đặc điểm của kinh tế thị trường
là quyền tự do kinh doanh luôn được bảo đảm. Thế nhưng, không phải bất cứ lĩnh
vực, ngành nghề kinh doanh nào cũng có thể thu hút tư nhân tham gia. Họ không
muốn đầu tư vì khả năng sinh lời thấp. Như vậy, thị trường tự do không đáp ứng

nổi nhu cầu cơ bản của người dân, thị trường bất lực trước các nhu cầu xã hội.
Do vậy, Nhà nước phải can thiệp ở nơi và khi thị trường bất lực, cho nên Nhà
nước phải thiết lập các công ty độc quyền. Ở Anh, Pháp, Đức... hiện nay Nhà
nước vẫn nắm độc quyền kinh doanh một số lĩnh vực như điện, nước, khí đốt,
giao thông công cộng. Ví dụ ở Đức, giá vé xe buýt mấy chục năm nay hầu như
không thay đổi dù xuất hiện nhiều “cơn sốt” xăng dầu trên thế giới, vì mỗi năm,
Nhà nước phải bù lỗ hàng tỷ euro cho hoạt động giao thông công cộng. Các công
ty độc quyền ở các nước không bao giờ được phép tùy tiện tăng giá, kể cả khi giá
cả thế giới tăng hay viện cớ công ty bị thua lỗ, giảm nguồn thu ngân sách. Nếu có
tăng thì chỉ được phép tăng với điều kiện phải phù hợp với khả năng và sức mua
tăng của người dân. Cần lưu ý là, hoạt động của công ty độc quyền phải được
xem như một hình thức hoạt động quản lý Nhà nước. Để ngăn ngừa hoạt động
tiêu cực, các công ty độc quyền phải được đặt trong sự kiểm soát chặt chẽ.
Ở nước ta, hoạt động của các công ty độc quyền Nhà nước còn nhiều vấn đề gây
tranh cãi, cần phải xem xét lại. Theo ý kiến của một số chuyên gia kinh tế và luật
gia, không thể buộc người dân chịu thiệt khi phải trả thêm tiền để các công ty độc

5


quyền luôn có lãi, trong khi họ vừa được độc quyền kinh doanh, vừa được Nhà
nước bảo đảm không bị thua lỗ.
B2.

Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước: Sở hữu độc quyền nhà

nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục
vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
Được biểu hiện đó là sở hữu nhà nước tăng lên và sự tăng cường mối quan hệ
giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu này gắn kết

với nhau trong quá trình tuần hoàn của tổng tư bản xã hội. Sở hữu nhà nước được
hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: xây dựng xí nghiệp nhà nước bằng
vốn của ngân sách, quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại, nhà
nước mua cổ phần của các xí nghiệp tư nhân, mở rộng xí nghiệp nhà nước bằng
vốn tích lũy của các xí nghiệp tư nhân…Sở hữu nhà nước thự hiện các chức năng
quan trọng sau: Một là, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa đảm bảo địa bàn rộng
lớn cho sự phát triển chủ nghĩa tư bản. Hai là, giải phóng tư bản của tổ chức độc
quyền từ những ngành ít lãi để đưa vào những ngành kinh doanh có hiệu quả
hơn. Ba là, làm chỗ dựa về kinh tế cho nhà nước để nhà nước điều tiết một số
quá trình kinh tế phục vụ lợi ích của tầng lớp tư bản độc quyền. Ví dụ về sở hữu
nhà nước ở nước ta hiện nay: Kinh tế nhà nước dựa trên sở hữu nhà nước về tư
liệu sản xuất, về vốn…Ở nước ta hiện nay sở hữu nhà nước được hiểu là sở hữu
toàn dân mà Nhà nước là đại diện. Sở hữu nhà nước là trình độ thấp hơn của sở
hữu toàn dân. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH và trong giai đoạn XHCN chỉ mới
có sở hữu nhà nước. Nhà nước đại diện cho toàn dân sở hữu những tài nguyên
thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước…, của
toàn dân, của toàn xã hội. Nhà nước không những sở hữu mà còn nhân danh toàn
dân, toàn xã hội tổ chức quản lý, sử dụng và phân phối những sản phẩm được tạo
ra từ những tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước… Nhưng muốn
thực hiện được điều đó phải thực hiện được lợi ích kinh tế của sở hữu nhà nước.
Nếu không có lợi ích kinh tế thì sở hữu nhà nước chỉ là danh nghĩa. Điều đó đòi
hỏi phải có cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu của Nhà nước
6


đối với những tài nguyên, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước…
của chung, của toàn dân, của toàn xã hội với quyền sử dụng chúng của các doanh
nghiệp được giao quyền sử dụng và việc phân phối sản phẩm, giá trị mới được
tạo ra nhờ những tài nguyên, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước…
thuộc sở hữu nhà nước giao cho các doanh nghiệp sử dụng. Trong nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN, cơ chế ấy phải chăng là tỷ lệ phân chia sản phẩm, giá
trị mới đó giữa Nhà nước và doanh nghiệp thông qua việc doanh nghiệp nộp thuế
cho Nhà nước. Chỉ có thu được một phần lợi nhuận dưới hình thức thuế theo một
tỷ lệ thích hợp từ các doanh nghiệp được giao quyền sử dụng những tài sản,
vốn… chung của toàn xã hội, thì mới thực hiện được lợi ích kinh tế của sở hữu
nhà nước. Đồng thời, doanh nghiệp mới có động lực để phấn đấu sản xuất – kinh
doanh có hiệu quả nhằm thu được lợi nhuận cao hơn phần thuế phải nộp cho Nhà
nước, thì doanh nghiệp mới có thu nhập. Phần lợi nhuận cao hơn ấy càng lớn thì
thu nhập của doanh nghiệp càng cao
B3.

Sự điêu tiết kinh tế của nhà nước tư sản: Nhà nước tư bản độc quyền

điều tiết các quá trình kinh tế thông qua các biện pháp sau. Đó là thông qua việc
hoạch định các chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia.
Thông qua hoạt động của hệ thống pháp luật của chủ nghĩa tư bản độc quyền, xây
dựng pháp luật, thực thi pháp luật. Thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô khác
như tài chính, tiền tệ, lãi xuất, giá cả… Các chính sách kinh tế của nhà nước tư
sản là sự thể hiện rõ nét nhất sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Chúng bao gồm nhiều kĩnh vực như: chính
sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát, chính sách tăng trưởng kinh tế,
chính sách xã hội, chính sách kinh tế đối ngoại. Các công cụ chủ yếu dùng để
điều tiết kinh tế đó là: ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ- tín dụng, các doanh
nghiệp nhà nước, kế hoạch hóa hay chương trình hóa kinh tế và các công cụ hành
chính, pháp lý. Hoạt động điều chỉnh được thực hiện bằng những tổ chức hành
pháp mà những tổ chức này được chia làm hai loại đó là: Cơ quan hành pháp của
chính phủ, vừa làm chức năng hành chính vừa làm chức năng điều chỉnh kinh tế
7



ở tầm tổng thể. Hai là những cơ quan điều chỉnh kinh tế do luật định, chuyên
trách thanh tra, kiểm soát, uốn nắn hành vi kinh tế của tất cả các chủ thể hoạt
động sản cuất kinh doanh theo luật. Trong kết cấu của bộ máy hành pháp ở các
nước tư bản phát triển, ta còn thấy sự xuất hiện nhanh chóng của các cơ quan
điều tiết kinh tế. Kinh phí hoạt động do chính phủ cung cấp nhưng kiểm soát việc
sử dụng kinh phí lại do quốc hội tiến hành.
III – Kết luận
Qua tất cả những biểu hiện trên của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước
trong những năm gần đây, cho ta một lần nữa khẳng định được rằng, bản chất của
chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước vẫn là chủ nghĩa tư bản. Tuy vậy trong sự
vận động của nó, ta không thể phủ nhận giá trị tích cực của chủ nghĩa tư bản độc
quyền Nhà nước mang lại đối với quá trình sản xuất: Một mặt là thực hiện xã hội
hóa sản xuất, một mặt là chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn. Từ đó làm cho
lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động được tăng lên.
Với những nhìn nhận từ góc độ tích cực đó của chủ nghĩa tư bản độc quyền
Nhà nước, thì đây là một bài học cho sự nhận định về phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia. Về cách thức phát triển nền kinh tế, sự điều tiết kinh tế ở tầm vĩ mô của
nhà nước và quản lí nền kinh tế, đưa kinh tế phát triển theo xu hướng hội nhập và
toàn cầu hóa.

8


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin. NXB
Chính trị quốc gia 2010

9



Mục lục………………………………………...…………...……Trang
I – Đặt vấn đê…………………………………………………...…….…1
II – Giải quyết vấn đê………………………………………………...…1
A.

Nguyên nhân hình thành và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà

nước
A1. Nguyên nhân hình thành của chủ ngĩa tư bản độc quyền nhà nước..1
A2. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước………………..2
B.

Biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

B1. Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước………..3
B2. Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước…………………...…..5
B3. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản…………………………….6
III – Kết luận…………………………………………………………….7

10



×