Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

quá trình xây dựng, rèn luyện lực lượng cách mạng của đảng cộng sản đông dương trong thời kì 1939 1945 tiến tới tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.9 KB, 25 trang )

M

C UYÊ

C

S

C Ấ

Ề TRẠ

È



SU

Ù G VƢƠ G

Tên chuyên đề: Quá trình xây dựng, rèn luyện lực lượng cách
mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời kì 1939-1945
tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

THÁNG 5-2015

0


ỤC ỤC
P Ầ


Ở ẦU…………………………………………………………3
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………3
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài………………………………………. 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………..4
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………...4
P Ầ
Ộ DU G………………………………………………………5
.Quá trình xây dựng và phát triển lực lƣợng chính trị cách mạng
1.1. Thành lập các hình thức mặt trận thống nhất dân tộc phù hợp để tập
hợp rộng rãi lực lượng cách mạng………………………………………..5
1.2. Kết hợp chặt chẽ việc xây dựng với rèn luyện lực lượng chính trị….13
2. Quá trình xây dựng và phát triển lực lƣợng vũ trang cách mạng
2.1. Từ 1939 đến trước 9/3/1945………………………………………..19
2.2.Trong cao trào kháng Nhật cứu nước (9/3/45 - 14/8/1945)................20
2.3. Lực lượng vũ trang trong TKN (14/8 đến 28/8/1945)………………21
. Xây dựng căn cứ địa cách mạng……………………………………22
P Ầ KẾT UẬ …………………………………………………….23

ỆU T A K ẢO

1


BẢ G

Ữ G C Ữ CÁ V ẾT TẮT

BCHTW

Ban Chấp hành Trung ương


TKN

Tổng khởi nghĩa

LLVT

Lực lượng vũ trang

VNTTGPQ

Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân

2


P Ầ
. Í DO C Ọ

Ở ẦU

Ề TÀ

Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã
chứng minh một chân lý: để đánh thắng được kẻ thù xâm lược, giành lại nền
độc lập cho tổ quốc và cuộc sống tự do, hoà bình cho nhân dân, thì ngoài sức
mạnh tinh thần như lòng yêu nước, ý chí căm thự giặc, yêu chuộng hoà bình
cần có sức mạnh lực lượng quần chúng nhân dân. Nếu kết hợp được sức
mạnh của hai yếu tố đó thì chúng ta có thể đánh bại được bất kỳ kẻ thù xâm
lược hung mạnh nào. Điều đó đã được chứng minh bằng sự thắng lợi của

quân và dân nhà Trần trong ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên thế kỷ
XIII, khởi nghĩa Lam Sơn đánh thắng quân xâm lược Minh thế kỷ XV và
cuộc kháng chiến chống quân Thanh của Quang Trung (Nguyễn Huệ) thế kỷ
XVIII.
Kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858), với truyền thống
yêu nước, nhiều nhiều phong trào yêu nước chống Pháp đã nổ ra theo
khuynh hướng phong kiến (phong trào Cần Vương 1885-1896), khuynh
hướng dân chủ tư sản (hoạt động yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu
Chinh… đầu thế kỉ XX) song đều thất bại. Nguyên nhân của những thất bại
ấy là do các phong trào yêu nước đều không có một đường lối dúng đắn,
không phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân…
Từ bài học kinh nghiệm ấy và nhận ra được tầm quan trọng sức mạnh
của quần chúng dân dân “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” tức là
sức mạnh của lực lượng cách mạnh đối với công cuộc cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc Việt Nam, ngay khi mới ra đời năm 1930, Đảng Cộng sản
Việt Nam (Đảng Cộng sản Đông Dương) đã chú trọng đến công tác xây
dựng và phát triển lực lượng cách mạng, nhất là giai đoạn chuẩn bị trực tiếp
trong những năm 1939-1945. Chính điều này là một trong những sự chuẩn bị
và là nhân tố quyết định đưa đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm
1945. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một kỷ nguyên
mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên của độc lập, tự do. Vì vậy để hiểu rõ
hơn và làm sáng tỏ hơn quá trình xây dựng lực lượng cách mạng do Đảng
lãnh đạo (1939-1945), là điều rất cần thiết đối với mỗi chúng ta, đặc biệt là
đối với những giáo viên dạy lịch sử ở trường THPT, nhất là ở trường THPT
Chuyên, để từ đó thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng
cách mạng đối với thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945.
Đồng thời rút ra những kinh nghiệm về xây dựng lực lượng cách mạng trong
giai đoạn về sau.
3



Với những lý do trên tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Quá trình xây
dựng, rèn luyện lực lượng cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương
trong thời kì 1939-1945 tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945”
2.

ỤC ÍC

G

Ê CỨU CỦA Ề TÀ

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm sáng tỏ quá trình xây dựng
lực lượng cách mạng của Đảng trong giai đoạn 1939-1945, giúp cho người
đọc, đồng nghiệp, học sinh có cái nhìn toàn diện sâu sắc và đánh giá đúng
hơn, khách quan hơn về công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng
và về thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam.
Đồng thời nghiên cứu đề tài cũng là để rút ra những bài học kinh nghiệm
trong quá trình xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng, chuẩn bị cho
những bước phát triển của cách mạng Việt Nam những thời kì lịch sử sau.
3. Ố TƢỢ G, P Ạ VI NGHIÊ CỨU
. . ối tƣợng nghiên cứu
Trên cơ sở xác định mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài,
người viết tập trung vào nghiên cứu 3 vấn đề chính sau:
- Chủ trương của Đảng trong quá trình xây dựng lực lượng chính trị
cách mạng
- Chủ trương của Đảng trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng
- Chủ trương của Đảng trong quá trình xây dựng căn cứ địa cách
mạng

.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào 3 vấn đề nói trên và kéo
dài từ năm 1939 đến năm 1945.
4. P ƢƠ G PHÁP G

Ê CỨU

Trong quá trình nghiên cứu người viết sử dụng hai phương pháp
nghiên cứu chủ yếu là lịch sử và lôgic. Ngoài ra còn kết hợp một số phương
pháp khác như: Tổng hợp, so sánh, mô tả để đối chiếu, liên hệ, xử lí tài liệu
một cách khoa học, chính xác nhằm làm sáng tỏ vấn đề.
Bám sát đường lối, quan điểm của sử học Mácxít, bảo đảm tính khoa
học, tính đảng, tính lịch sử, lôgic trong nghiên cứu. Trên cơ sở đó rút ra
những nhận xét đánh giá một cách chính xác, khách quan các nội dung lịch
sử cần nghiên cứu.

4


P Ầ

Ộ DU G

1.Quá trình xây dựng và phát triển lực lƣợng chính trị cách mạng
1.1. Thành lập các hình thức mặt trận thống nhất dân tộc phù hợp để
tập hợp rộng rãi lực lƣợng cách mạng
Trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong
nước, từ năm 1939-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương đã đẩy mạnh quá
trình chuẩn bị lực lượng cách mạng để tiến tới một cuộc khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền. Vì vậy, khi điều kiện khách quan thuận lợi đến, Đảng ta

đã có thể phát động được toàn dân khởi nghĩa giành được chính quyền, làm
nên thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám 1945.
Để có thể tập hợp rộng rãi các tầng lớp, giai cấp trong cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, một vấn đề được Đảng Cộng sản Đông Dương rất quan
tâm đó là thành lập các mặt trận thống nhất dân tộc.
1.1.1. ặt trận thống nhất dân tộc phản đế ông Dƣơng
Ngày 1-9-1939, Phát xít Đức tấn công Ba Lan. Ngày 3-9-1939, sau
khi không đạt được việc đòi quân Đức rút khỏi Ba Lan, một đồng minh quan
trọng về phía Đông, chính phủ Anh và chính phủ Pháp tuyên chiến với phát
xít Đức. Cùng ngày 3-9-1939, chính phủ Mĩ tuyên bố trung lập.
Khi đẩy nước Pháp vào vòng chiến tranh nhằm tranh giành với bọn
phát xít quyền lợi thực dân trên thế giới, giai cấp thống trị nước Pháp đồng
thời đẩy nhân dân Pháp và nhân dân thuộc địa đến chỗ cùng cực dưới chế độ
phản động.
Chính phủ Đalađiê thi hành chính sách phản động, đàn áp các lược
lượng dân chủ, tiến bộ, phá vỡ Mặt trận nhân dân, đặt Đảng Cộng sản ngoài
vòng pháp luật. Chính phủ Đalađiê đồng thời thi hành chính sách phản động
đối với thuộc địa.
Ở Việt Nam và Đông Dương nói chung, bọn thực dân phản động Pháp
thủ tiêu những quyền lợi mà nhân dân ta giành được trong thời kì Mặt trận
dân chủ, giải tán các đoàn thể quần chúng, các tổ chức dân chủ, trước hết
nhằm tiêu diệt Đảng Cộng Sản Đông Dương. Ngày 28-9-1939, toàn quyền
Đông Dương ra nghị định cấm mọi hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp tuyên
truyền cộng sản, cấm lưu hành tàng trữ mọi tài liệu của Cộng sản…Pháp
đóng cửa nhiều tòa soạn sách báo cách mạng và tiến bộ, củng cố bộ máy kìm
kẹp, bắt giam những chiến sĩ cộng sản, những nhà yêu nước…

5



Mặt khác, để phục vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc, bọn thực dân
phản động Pháp ở Đông Dương thi hành cái gọi là “Chính sách kinh tế chỉ
huy”.
Trong diễn văn khai mạc Đại hội đồng kinh tế lí tài Đông Dương
tháng 11-1939, Catơru nói thẳng thừng rằng “ Dù có tham gia trực tiếp hay
không vào cuộc chiến, Đông Dương cũng không được tự do có phương
hướng riêng của nền kinh tế và tài chính của mình, mà phải quy tụ nó vào
những mục đích do mẫu quốc chỉ định. Đông dương phải sáp nhập hệ thống
mậu dịch của mình vào hệ thống của mẫu quốc, cung cấp những sản phẩm
của đất đai và trong lòng đất mà nước Pháp đòi hỏi. Đồng thời, Đông Dương
phải để cho nước Pháp sử dụng nguồn nhân lực của mình, hoặc làm trong
các công binh xưởng, hoặc cung cấp những quân số quan trọng được tổ chức
và biên chế để điều đến các chiến trường ở phương Tây" (1)
Lệnh tổng động viên được ban hành từ đầu cuộc chiến tranh nhằm bắt
lính, bắt phu xây dựng đường sá, công sự phòng thủ nhằm “Cung cấp cho
mẫu quốc tiềm lực tối đa của Đông Dương về quân đội, nhân lực, các sản
phẩm và nguyên liệu”.
Chính sách phản động của thực dân Pháp đã đẩy nhân dân Đông
Dương vào tình cảnh bần cùng về kinh tế, ngột ngạt về chính trị. Mâu thuẫn
giữa toàn thể các dân tộc Đông Dương với bọn phản Động Pháp ở Đông
Dương trở nên sâu sắc. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt ra cấp thiết.
Sự bùng nổ của chiến tranh thế giới thứ hai và thảm họa do chiến
tranh gây ra đối với loài người không phải là hiện tượng bất ngờ.
Trong lời kêu gọi nhân ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu
năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã báo trước “Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai
đang được ráo riết chuẩn bị” và “Khi cuộc chiến tranh đó nổ ra, thì nhất định
đế quốc Pháp sẽ đẩy anh chị em chúng ta vào một cuộc chém giết đầy tội
ác”.
Ngay trong thời kì hoạt động hợp pháp và bất hợp pháp 1936-1939,
Đảng ta đã có những hoạt động nhằm chuẩn bị đề phòng khi chiến tranh nổ

ra, đã vạch rõ nguy cơ của cuộc chiến tranh đế quốc sắp tới, giải thích về
hiệp định không xâm phạm Xô-Đức, về chính sách bảo vệ hòa bình của Liên
Xô.
Khi chiến tranh thế giới sắp bùng nổ, Đảng chỉ thị cho cán bộ hoạt
động hợp pháp mau lẹ rút vào hoạt động bí mật và giữ liên hệ với quần
chúng, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, biến nông thôn thành căn

6


cứ địa rộng lớn của cách mạng, đồng duy trì cơ sở ở thành thị, kết hợp chặt
chẽ phong trào thành thị với phong trào nông thôn. Chẳng bao lâu sau Chiến
tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Trung ương ra thông cáo ngày 29-9-1939 gửi
các cấp bộ Đảng, vạch rõ phương hướng, nhiệm vụ chuyển hẳn mọi hoạt
động sang chuẩn bị nhằm “Tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”. Chiến
tranh thế giới thứ hai nổ ra được hai tháng thì Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương được triệu tập (11/1939) tại Bà
Điểm (Hóc Môn-Gia Định) dưới sự chủ trì của Tổng bí thư Nguyễn Văn
Cừ.
Hội nghị đã tiến hành phân tích một cách sâu sắc tính chất và hậu quả
của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, vai trò, vị trí của Đông Dương trong
cuộc chiến tranh đó, thực chất những chính sách của phản động Pháp và thái
độ chính trị của các giai cấp ở Việt Nam, đồng thời vạch rõ đường lối chính
trị, phương hướng nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong thời kì mới.
Hội nghị nhận định Chiến tranh thế giới thứ hai là kết quả tất yếu của
những mâu thuẫn phát triển đến độ sâu sắc giữa các tập đoàn đế quốc quốc
tế, là cuộc sâu xé lẫn nhau giữa chúng, mà chủ yếu giữa một bên là trục phát
xít Đức-Italia-Nhật Bản và một bên là khối đế quốc Anh-Pháp-Mĩ nhằm chia
lại thế giới. Hội nghị còn vạch rõ giữa các tập đoàn đế quốc tuy mâu thuẫn
nhau về quyền lợi, nhưng lại thống nhất trong âm mưu chống Liên Xô,

chống các lực lượng cách mạng, các lực lượng giải phóng dân tộc trên thế
giới. Cuộc chiến tranh do chúng gây ra sẽ gieo rắc đau thương, tang tóc
không sao kể siết cho nhân loại. Nhưng tiền đồ của cách mạng thế giới cũng
rất sáng sủa: “Một thế giới quan minh rực rỡ sẽ thay thế cho cái thế giới tốt
tăm, mục nát này”.
Về tình hình Đông Dương Hội nghị nhận định Đông Dương đang bị
lôi cuốn vào guồng máy chiến tranh do đế quốc gây ra. Phát xít Nhật sẽ xâm
chiếm Đông Dương. Bộ máy cai trị ở Đông Dương đang từng bước phát xít
hóa, một thứ phát xít tàn bạo, và những kẻ đứng đầu bộ máy đó đang mưu
toan thỏa hiệp, đầu hàng phát xít Nhật.
Cuộc chiến tranh đế quốc, chính sách phản động của thực dân Pháp ở
Đông Dương đã đẩy nhân dân đến chỗ cùng cực, đã lay động hầu hết các
giai cấp, các tầng lớp xã hội làm cho mâu thuẫn xã hội vốn sâu sắc giữa đế
quốc Pháp với các tầng lớp nhân dân càng thêm sâu sắc. Nhiệm vụ giải
phóng dân tộc đặt ra cấp thiết “ Những thảm trạng do chiến tranh đế quốc
gây nên sẽ làm cho trình tự cấp tiến hóa và cách mệnh hóa quần chúng hết

7


sức mau chóng…Cuộc khủng hoảng kinh tế chính trị gây nên bởi chiến
tranh đế quốc lần này sẽ nung nấu cách mệnh Đông Dương bùng nổ”.
Xuất phát từ sự phân tích, nhận định tình hình trên đây, Hội nghị đi
đến xác định nhiệm vụ cấp bách nhất và mục tiêu chiến lược lớn nhất của
cách mạng Việt Nam và của cách mạng Đông Dương nói chung là đánh đổ
đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc khỏi ách đế quốc, dù là Pháp hay
Nhật, làm cho Việt Nam (và Đông Dương) hoàn toàn độc lập. Hội nghị vạch
rõ “ Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường
nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống lại tất cả ách ngoại
xâm vô luân da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng dân tộc”.

Để tập trung lực lượng “thực hiện nhiệm vụ chính cốt của cách mạng
là đánh đổ đế quốc”, Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất và thay bằng các khẩu hiệu chống địa tô cao, chống cho vay nặng
lãi, tịch thu ruộng đất của thực dân đế quốc và của bọn địa chủ phản bội
quyền lợi dân tộc đem chia cho dân cày nghèo. Hội nghị còn chủ trương tạm
gác khẩu hiệu thành lập chính quyền xô viết công, nông, binh và thay bằng
khẩu hiệu lập chính quyền dân chủ cộng hòa, hình thức nhà nước chung cho
“tất cả các tầng lớp dân chúng trong xứ và trong phong trào giải phóng dân
tộc, một bộ phận của giai cấp tư sản còn có thể đi chung với dân chúng trong
một giai đoạn nào”.
Hơn nữa để tập trung mọi lực lượng của dân tộc vào nhiệm vụ chủ
yếu trước mắt của cách mạng là đánh đổ đế quốc và tay sai, Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương tháng 11 năm 1939 chủ trương thành lập mặt trận
thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho mặt trận dân chủ Đông
Dương không còn phù hợp.
Mặt trận Thống nhất dân tộc Phản đế Đông Dương ra đời với những
tổ chức chúng trong mặt trận là các hội phản đế đã đoàn kết rộng rãi các tầng
lớp, các giai cấp, các dân tộc kể cả các cá nhân yêu nước ở Đông Dương;
chĩa mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ nghĩa đế quốc
phát xít, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương.
Lực lượng chính của mặt trận là công nhân, nông dân, đoàn kết với
các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn, đồng minh trong chốc lát
hoặc trung lập giai cấp tư sản bản xứ, trung tiểu địa chủ, do giai cấp công
nhân lãnh đạo.
Có thể nói, chủ trương thành lập mặt trận thống nhất dân tộc phản đế
Đông Dương là một sáng tạo cao độ của Đảng ta trong quá trình xây dựng
và tập hợp lực lượng cách mạng. Mặt trận thống nhất dân tộc giờ đây đã
8



được mở rộng và có vai trò to lớn trong việc tập hợp, rèn luyện lực lượng
chính trị cách mạng, mở đường đi tới thắng lợi của cách mạng tháng Tám
năm 1945 sau này.
Do đường lối cách mạng có sự chuyển hướng một cách cơ bản đó mà
phương pháp đấu tranh cũng đòi hỏi có sự thay đổi, từ đấu tranh đòi quyền
dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc
tay sai, từ hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất
hợp pháp, đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa vũ
trang.
Chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng Cộng Sản Đông
Dương tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11-1939 đã mở ra
thời kì cách mạng mới- thời kì vận động giải phóng dân tộc. Sự chuyển
hướng đấu tranh đó thể hiện sự nhạy bén sáng tạo của Đảng trong điều kiện
có chiến tranh đế quốc và trong điều kiện nước thuộc địa nửa phong kiến.
Do đó nó không chỉ có giá trị to lớn về mặt thực tiễn mà cả trong lĩnh vực lí
luận, đã bước đầu khắc phục những hạn chế của Luận cương chính trị tháng
10 năm 1930. Đồng thời khẳng tính đúng đắn sáng tạo của bản Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng tháng 2-1930.
1.1.2. ặt trận Việt am ộc lập ồng minh
Năm 1941, Chiến tranh thế giới thứ hai bước sang năm thứ 3 ngày
càng ác liệt.
Sau khi thôn tính hầu hết các nước Tây Âu, phát xít Đức chuẩn bị tấn
công Liên Xô.
Tháng 9-1940, Nhật bản vượt biên giới Việt- Trung đánh chiếm Lạng
Sơn, mở đầu quá trình xâm lược và biến Đông Dương thành thuộc địa và
căn cứ chiến tranh. Khi Nhật vào Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng
và cấu kết với Nhật đàn áp bóc lột nhân dân Đông Dương.
Sự cấu kết giữa hai đế quốc phát xít Pháp – Nhật, chính sách phản
động của chúng ở Đông Dương đã gây hậu quả tai hại đến nền kinh tế đất
nước, đến mọi mặt của đời sống nhân dân…đẩy nhân dân Việt Nam vào tình

cảnh “một cổ đôi tròng”. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc
phát xít Pháp- Nhật trở nên sâu sắc. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt ra cấp
thiết hơn bao giờ hết.
Cuối năm 1940, đầu năm 1941 phong trào đấu tranh của nhân dân ta
phát triển mạnh mẽ tiêu biểu phải kể đến cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940),
Nam Kì (11-1940) và cuộc binh biến Đô Lương (1-1941). Mặc dù chưa

9


thành công song những cuộc đấu tranh trên đã mở đầu thời kì đấu tranh mới
của dân tộc, thời kì đấu tranh vũ trang giành chính quyền.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ thì Nguyễn Ái Quốc từ Liên
Xô về đến Trung Quốc đã được một năm và đang hoạt động ở đây. Người
coi chiến tranh thế giới của bọn đế quốc là cơ hội hết sức thuận lợi cho các
dân tộc Đông Dương và các dân tộc thuộc địa khác trên thế giới thực hiện
mục đích giải phóng của mình. Tình hình đó càng thôi thúc Người sớm trở
về Tổ quốc cùng Trung ương lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Từ
đầu năm 1940, Nguyễn Ái Quốc tới Côn Minh, bắt liên lạc với Đảng. Cuối
năm 1940, Trung ương Đảng cử đồng chí Hoàng Văn Thụ sang Tĩnh Tây
(Trung Quốc) gặp Người, báo cáo về tình hình cách mạng trong nước và
chuẩn bị cho chuyến về nước của Người.
Tháng 12-1940, tại một làng nhỏ sát biên giới Việt –Trung, Nguyễn
Ái Quốc mở lớp huấn luyện chính trị nhằm đào tạo cán bộ, chuẩn bị cho việc
thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất và những đoàn thể quần chúng
mới. Những bài giảng của Người tại lớp huấn luyện được in trong cuốn sách
nhan đề “Con đường giải phóng” để dùng làm tài liệu tuyên truyền vận động
quần chúng.
Ngày 28-1-1941, sau 30 năm tìm đường cứu nước, hoạt động yêu
nước, cách mạng ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc trở về tổ quốc. Pác Bó (Hà

Quảng- Cao Bằng) là nơi đầu tiên được Người chọn đặt cơ quan lãnh đạo
cách mạng.
Về đến Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc bắt tay ngay vào việc xây dựng cơ
sở cách mạng, tổ chức quần chúng, chuẩn bị tiến tới Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. Tại Pác Bó, người dành nhiều thời gian đi vào quần
chúng, hòa mình với nhân dân các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Hoa…tìm hiểu,
giáo dục, giác Ngộ, đoàn kết họ trong đại gia đình Việt Nam. Người tiếp tục
mở lớp huấn luyện chính trị nhằm bồi dưỡng lí luận cách mạng, bồi dưỡng
về kinh nghiệm công tác Đảng, công tác quần chúng. Người còn lược dịch
cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, biên soạn nhiều tài liệu lí luận, kinh
nghiệm chính trị, quân sự để dùng làm tài liệu học tập.
Sau một thời gian chuẩn bị, thay mặt Quốc tế cộng sản Nguyên Ái
Quốc triệu tập hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8. Hội nghị
họp tại Pắc Bó, từ ngày 10 đến 19-5-1941, do người chủ trì. Tham dự hội
nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt,
Phùng chí Kiên… cùng một số đại biểu của Xứ ủy Bắc Kì, Trung Kì và một
số đại biểu hoạt động ở nước ngoài.
10


Hội nghị phân tích sâu sắc tình hình thế giới và trong nước. Về tình
hình thế giới, hội nghị nhận định rằng chiến tranh thế giới đang lan rộng,
phát xít Đức đang ráo riết đánh Liên Xô, phát xít Nhật sắp gây ra cuộc chiến
tranh Thái Bình Dương. Từ đó hội nghị đi đến khẳng định: Chiến tranh sẽ
làm cho các nước đế quốc suy yếu, phong trào cách mạng thế giới sẽ phát
triển nhanh chóng, Liên Xô nhất định chiến thắng và cách mạng nhiều nước
nhân đó mà giành được thắng lợi, và “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần
trước đã đẻ ra Liên Xô – một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc chiến tranh đế
quốc lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa.”
Hội nghị dồng thời khẳng định cách mạng Việt Nam lần này vẫn coi

là một bộ phận của cách mạng vô sản và thế giới thì nay vẫn là một bộ phận
của phong trào dân chủ chống phát xít do Liên Xô làm trụ cột.
Về tình hình Đông Dương, Hội nghị nhận định, từ khi Nhật nhảy vào
xâm chiếm, Pháp đầu hàng Nhật, ở Đông Dương mọi hoạt động kinh tế đều
bị chiến tranh hóa, tất cả bộ máy cai trị đều bị phát xít hóa. Chính sách đó
của Pháp – Nhật càng làm tăng thêm mẫu thuẫn giữa chúng với các dân tộc
Đông Dương. Khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì, binh biến Đô Lương cuối 1940
đầu 1941 là kết quả của mẫu thuẫn đó.
Từ nhận định đó, Hội nghị đi đến khẳng định chủ trương của Hội nghị
Trung ương lần thứ 6, nhưng đề cao hơn nữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu, tiếp tục tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất. “Trong lúc
này, khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được
các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp – Nhật.” “Trong lúc này
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của
quốc gia, của dân tộc …Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi hỏi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng
những toàn quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của
bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”
Căn cứ vào đặc diểm của xứ Đông Dương thuộc địa và hoàn
cảnh mới của thế giới, Nguyễn Ái Quốc có những chủ trương phù hợp, sáng
tạo về vấn đề dân tộc đã được Hội nghị của Đảng thông qua. Một trong
những chủ trương đó là vẫn đề dân tộc được giải quyết không phải chung
trên toàn Đông Dương, mà trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, cốt
“làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân (hơn hết
là dân tộc Việt Nam).” Do đó mặt trận thống nhất cũng “phải đổi ra cái tên
khác sao cho có tính chất dân tộc hơn, cho có một mãnh lực dễ hiệu triệu
hơn và nhất là có thể thực hiện được trong tình thế hiện tại”, tức mỗi nước ở
11



Đông Dương cần thiết có một mặt trận dân tộc thống nhất. Ở Việt Nam, hình
thức phù hợp nhất được Nguyễn Ái Quốc đề nghị và được Hội nghị của
Đảng chấp thuận, quyết định thành lập là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh, gọi tắt là Việt Minh. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương lần thứ 8 (5-1941) đã quyết định thành lập Mặt trận Việt
Nam độc lập đồng minh với những tổ chức quần chúng trong mặt trận là
những hội cứu quốc. Mặt trận Việt Minh ra đời nhằm “Liên hiệp hết thảy
các giời đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ , gái trai,
không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc
dân tộc giải phóng và sinh tồn”.
Còn ở Lào và Campuchia, Hội nghị của Đảng chủ trương hết sức giúp
đỡ hai nước thành lập mặt trận riêng của mình: Đó là Ai Lào động lập đồng
minh, Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời ba mặt trận ở ba nước,
tiến tới thành lập mặt trận chung Đông Dương, gọi tắt là Đông Dương độc
lập đồng minh.
Một chủ trương khác, đó là vấn đề mối quan hệ giữa ba dân tộc trên
bán đảo Đông Dương. Do có chung kẻ thù là Pháp Nhật mà trong cuộc đấu
tranh của mình các dân tộc Đông Dương không thể không đoàn kết nhau lại.
Sau khi đánh đuổi được Pháp Nhật thì “Các dân tộc sống trên cõi Đông
Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay
đứng riêng thành một dân tộc quốc gia tùy ý”.
“Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”.
Riêng đối với nước ta thì Hội nghị chủ trương sẽ thành lập một chính phủ
nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa, lấy là cờ đỏ ngôi sao vàng năm
cánh làm lá cờ toàn quốc”.
Một trong những chủ trương quan trọng nhất của Hội nghị lần này là
chủ trương về khởi nghĩa vũ trang. Vấn đề này trước đây, trong các Hội nghị
BCH Trung ương tháng 11/1939 và tháng 11/1940 đã có những dự kiến và
phác họa bước đầu. Nay nhờ cớ kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa Bắc
Sơn (9-1940), Nam Kì (11-1940) và cuộc Binh biến Đô Lương (1-1941),

nhất là nhờ dự đoán sáng suốt xu thế phát triển của tình hình thế giới và
trong nước, Hội nghị có chủ trương đúng đắn là phải xúc tiến ngay công tác
chuẩn bị những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành thắng lợi, coi
đây là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn
hiện tại.
Hội nghị còn nêu rõ những điều kiện khách quan và chủ quan cho
cuộc khởi nghĩa vũ trang, dự kiến hình thái khởi nghĩa, từ khởi nghĩa từng
12


phần lên tổng khởi nghĩa. Nghị quyết Hội nghị ghi rõ “ta phải luôn chuẩn bị
một lực lượng sẵn sàng nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân
thù, nghĩa là mai đây cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và cuộc kháng
chiến của nhân dân Trung Quốc soay sang hoàn toàn có lợi cho cuộc cách
mạng Đông Dương, thì lúc đó, với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một
cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự
thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.
Để tiến tới cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, Hội nghị đặc
biệt coi trọng nâng cao năng lực tổ chức lãnh đạo của Đảng, coi trọng công
tác đào tạo cán bộ, côn tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở cách mạng
cả nông thôn lẫn thành thị, nhất là ở những vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
những vùng tập trung đông công nhân, như đồn điền, hầm mỏ, nhà
máy…Hội nghị nhấn mạnh tinh thần chủ động, dựa vào lực lượng bản thân
mình là chính, không thụ động, ỷ lại điều kiện bên ngoài.
Đối với Lào và Campuchia, Hội nghị chủ trương hết sức giúp đỡ
phong trào cách mạng hai nước phát triển, giúp xây dựng đảng bộ hai nước
lớn mạnh, tăng cường khối đoàn kết chiến đấu ba dân tộc Việt Nam, Lào,
Campuchia, đưa sự nghiệp giải phóng của ba dân tộc đi đến thắng lợi.
Hội nghị lần thứ 8 BCH Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương có
ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh chủ trương được đề ra tại Hội

nghị BCH Trung ương tháng 11-1939, nhằm thực hiện mục tiêu số một của
cách mạng là giải phóng dân tộc.
Cùng với Hội nghị BCH Trung ương tháng 11-1939, Hội nghị lần thứ
tám năm 1941 có ý nghĩa quyết định trong việc vận động toàn đảng toàn dân
tích cực chuẩn bị cho cách mạng, góp phần quyết định vào thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Mặt khác, những quyết định của Hội nghị đã khắc phục hoàn toàn
những hạn chế của bản Luận cương chính trị tháng 10 nă 1930, khẳng định
tính đúng đắn sáng tạo của bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
2.2. Kết hợp chặt chẽ việc xây dựng với rèn luyện lực lƣợng chính trị
2.2.1. Khởi nghĩa Bắc Sơn, am Kì và cuộc binh biến ô ƣơng
Chiến tranh đế quốc với sự đầu hàng và chính sách phản động của
Pháp ở Đông Dương đã thúc đẩy quá trình cách mạng hóa nhân dân Đông
Dương, đưa đến sự bùng nổ mạnh mẽ của các phong trào đấu tranh.
Khởi nghĩa Bắc Sơn

13


Đêm 22-9-1940, Nhật tiến công Lạng Sơn. Quân Pháp ở Đông Dương
tuy Đông, nhưng chỉ sau vài ngày chiến đấu đã tan rã, phần lớn đầu hàng,
phần còn lại tháo chạy về Thái Nguyên, qua đường Bắc Sơn. Chính quyền
thực dân ở những vùng này lung lay.
Nhân cơ hội đó, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của các Đảng bộ
địa phương, nổi dậy chặn đánh tàn quân Pháp, tước vũ khí của chúng để
trang bị cho mình. Đêm 27-9-1940, nhân dân Bắc Sơn nổi dậy chiếm đồn
Mỏ Nhài. Chính quyền địch ở Bắc Sơn tan rã. Chính quyền cách mạng thành
lập. Nhân dân hoàn toàn làm chủ châu lị. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn giành
thắng lợi nhanh chóng.
Để đối phó với cuộc nổi dậy ở Bắc Sơn, Pháp-Nhật đi đến hòa hoãn.

Được Nhật trả tù binh và cho đem quân trở lại đóng ở các đồn bốt trước đây,
bọn Pháp thẳng tay đàn áp, khủng bố phong trào ở Bắc Sơn và nhiều nơi
khác. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nhanh chóng thất bại.
Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn tuy tồn tại trong vòng một tháng và diễn ra
trong phạm vi một huyện, nhưng có ý nghĩa lịch sử to lớn. Cuộc khởi nghĩa
đã mở đầu cao trào giải phóng dân tộc của các dân tộc Đông Dương trong
thời kì chiến tranh thế giới thứ hai, mở đầu thời kì cách mạng nước ta sử
dụng các hình thức bạo lực cách mạng, đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu
tranh chính trị, nổi dậy của quần chúng kết hợp với tiến công của các lực
lượng vũ trang cách mạng đánh đổ chính quyền đế quốc và tay sai, giành
độc lập tự do. Cuộc khởi nghĩa cũng để lại cho Đảng nhiều bài học về khởi
nghĩa vũ trang: chọn đúng thời cơ, quyết tâm giành thắng lợi, liên tục tiến
công, từ khởi nghĩa lên tổng khởi nghĩa.
Khởi nghĩa Nam Kì
Vừa đánh miền Bắc Việt Nam, Nhật xúi giục, giúp đỡ quân đội Thái
Lan đánh Campuchia và Lào. Từ tháng 10-1940, bắt đầu những xung đột
giữa Pháp và Thái Lan dọc sông Mêcông. Thực dân Pháp đẩy nhân dân ta ra
trận ở biên giới Campuchia, Lào làm bia đỡ đạn cho chúng, trực tiếp là nhân
dân ta ở miền Nam ra mặt trận biên giới Campuchia.
Không chịu nổi cuộc sống nô lệ, không cam tâm chết thay cho thực
dân Pháp, lại được tinh thần của các chiến sĩ Bắc Sơn cổ vũ, trên hầu khắp
Nam Bộ nhân dân đấu tranh chống bắt lính, chống đưa lính ra mặt trận làm
bia đỡ đạn, phối hợp chặt chẽ với binh lĩnh phản chiến. Nhân dân ở Nam kì
sôi sục khí thế đấu tranh.

14


Đứng trước tình hình đó, Xứ ủy Nam Kì triệu tập nhiều cuộc họp để
bàn về khởi nghĩa. Kế hoạch khởi nghĩa được vạch ra và trước khi bắt đầu

cuộc khởi nghĩa xứ ủy Nam Kì cử đại biểu ra Bắc xin chỉ thị của Trung
ương.
Khởi nghĩa Nam kì dự định nổ ra cuối tháng 11-1940, nghĩa là một
tháng sau thất bại của cuộc khởi nghĩa mở đầu thời kì- khởi nghĩa Bắc Sơn
cho thấy Hội nghị BCH Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương đã dự
đoán chính xác tình hình cách mạng Đông Dương là sẽ phát triển mau lẹ.
Nhưng mặt khác qua khởi nghĩa Bắc Sơn cũng cho thấy sự non kém của lực
lượng cách mạng. Tình hình đó đòi hỏi Đảng có những chủ trương để phát
huy những điều kiện thuận lợi, khắc phục những khó khăn, yếu kém.
Tháng 11-1940, Hội nghị BCHTW Đảng Cộng Sản Đông Dương
được triệu tập tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ
trì.
Hội nghị nhận định cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng lan
rộng và ác liệt, Pháp bại trận. Nhật sẽ nhân cơ hội này mở rộng chiến tranh
chiếm các thuộc địa của Mĩ, Anh, Pháp, Hà Lan ở Viễn Đông. Cuộc chiến
tranh đế quốc có thể chuyển thành chiến tranh giữa phát xít với Liên Xô.
Tình hình sẽ gay go, quyết liệt, nhưng nhất định Liên Xô và cách mạng thế
giới sẽ chiến thắng lực lượng phát xít.
Hội nghị khẳng định chủ trương chuyển hướng đấu tranh, giương cao
ngọn cờ giải phóng dân tộc, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội
nghị BCHTW Đảng Cộng Sản Đông Dương tháng 11-1939 là đúng và nhận
định kẻ thù chính của cách mạng Đông Dương là Pháp –Nhật.
Hội nghị nhận định sự câu kết giữa Pháp và Nhật làm sâu sắc thêm
mâu thuẫn giữa chúng với các dân tộc Đông Dương, làm tăng nỗi thống khổ
của nhân dân. Chống lại Pháp-Nhật, nhân dân ta dùng đến cả hình thức cao,
đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, tuy chưa trở thành hình thức đấu
tranh phổ biến quyết liệt. Nhưng “một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi
dậy. Đảng phải chuẩn bị để giành lấy cái sự mạng thiêng liêng lãnh đạo các
dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc
lập”.

Hội nghị chỉ thị cho xứ ủy Nam Kì hoãn cuộc khởi nghĩa dự định nổ
ra vào cuối tháng 11-1940 với lí do ở miền Nam chưa có đủ điều kiện chủ
quan và khách quan bảo đảm cho khởi nghĩa giành thắng lợi.

15


Quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa của Trung ương Đảng chưa tới nơi
nhưng lệnh khởi nghĩa của xứ ủy Nam Kì đã đến các địa phương, nên cuộc
khởi nghĩa vẫn nổ ra đúng thời gian quy định là đêm 22 rạng sáng ngày 2311-1940.
Khởi nghĩa nổ ra từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ: Biên Hòa, Gia
Định, Chợ Lớn, Bạc Liêu, Rạch Giá, Mĩ Tho, Vĩnh Long…Chính quyền
cách mạng được thành lập ở nhiều nơi. Từ trong khởi nghĩa lần đầu tiên xuất
hiện cờ đỏ sao vàng.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kì chứng tỏ tinh thần yêu nước của các tầng
lớp nhân dân miền Nam, sẵn sàng đứng lên chiến đấu chống quân thù.
Binh Biến ô ƣơng
Trong khi thực dân Pháp khủng bố dữ dội những người tham gia khởi
nghĩa Nam Kì, tại Trung Kì những binh lĩnh người Việt trong quân đội Pháp
đã làm binh biến, chống lại việc Pháp đưa họ sang Lào đánh quân Thái Lan.
Ngày 13-1-1941, binh lính đồn chợ Rạng (Nghệ An) dưới sự chỉ huy
của Đội Cung đã nổi dậy. Tối hôm đó họ đánh chiếm đồn Đô Lương rồi lên
ô tô về Vinh để phối hợp với binh lính ở đây chiếm thành. Nhưng kế hoạch
không thực hiện được. Cuộc binh biến nhanh chóng thất bại.
Cuộc binh biến Đô Lương nhanh chóng bị Pháp dập tắt vì cuộc nổi
dậy tự phát của binh lính không được quần chúng đông đảo tham gia. Mạc
dù có những hạn chế đó, Đảng Cộng Sản Đông Dương vẫn rất hoan nghênh
tinh thần yêu nước của binh lính và kêu gọi quần chúng ủng hộ.
Như vậy, trong vòng không đầy 4 tháng từ khi phát xít Nhật xâm
chiếm Đông Dương, ở trên cả ba miền đất nước đã nổ ra hai cuộc khởi nghĩa

vũ trang và một cuộc binh biến. Ba cuộc nổi dậy không thành nhưng đã nêu
cao tinh thần quật khởi và quyết tâm cao của nhân dân ta không bỏ lỡ cơ hội
đứng lên đánh Pháp, đuổi Nhật, giáng những đòn nặng nề đầu tiên vào
chúng, trực tiếp chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
trong toàn quốc vào tháng Tám năm 1945. “Đó là những tiếng súng báo hiệu
của cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng võ lực của các
dân tộc Đông Dương”.
2.2.2. Tiếp tục xây dựng lực lƣợng chính trị cách mạng
Ngày 6-6-1941, sau kết thúc Hội nghị lần thứ Tám BCHTW Đảng
Cộng Sản Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc gửi thư toàn dân đoàn kết đánh
đuổi Pháp- Nhật. Trong thư Người viết:

16


“Nay cơ hội giải phóng đã đến rồi, đế quốc Pháp bên Âu đã không thể
tự cứu, càng không thể cứu bọn thực dân Pháp ở ta. Đế quốc Nhật đã bị sa
lầy ở Trung Hoa, lại đang gay go với Anh, Mĩ. Hiện thời muốn đánh Pháp,
Nhật, ta chỉ cần một điều: toàn dân đoàn kết”.
“ Trong lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta
phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi
ra khỏi nước sôi lửa nóng”.
“Việc cứu nước là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai
gánh vác một phần trách nhiệm. Người có tiền góp tiền, người có của góp
của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng”.
Thực hiện nghị quyết của Đảng, đáp lời kêu gọi cứu nước khẩn thiết
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, toàn dân ta đoàn kết một lòng ra sức xây dựng
lực lượng cách mạng, gấp rút chuẩn bị sẵn sàng những điều kiện chủ quan
tiền lên cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền khi có những điều kiện
khách quan thuận lợi. Đó là những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng, thực

hiện trong điều kiện chiến tranh thế giới phát triển mau lẹ, hết sức phức tạp,
nhưng theo chiều hướng ngày càng thuận lợi cho các lực lượng dân chủ
chống phát xít và cách mạng giải phóng dân tộc.
Ở châu Âu, ngày 22-6-1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô. Ở châu Á
ngày 7-12-1941, phát xít Nhật tấn công Mĩ. Chiến tranh Thái Bình Dương
bùng nổ. Tính chất chiến tranh thế giới thứ hai thay đổi về cơ bản. Trên thế
giới hình thành hai trận tuyến: Một bên là khối phát xít Đức-Italia-Nhật; một
bên là khối dân chủ chống phát xít.
Một trong những nhiệm vụ cấp bách của Đảng là vận động quần
chúng tham gia mặt trận Việt minh. Cao Bằng được chọn làm nơi thí điểm
cuộc vận động xây dựng các hội cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Đến
năm 1942 khắp 9 châu của Cao Bằng đã có Hội cứu quốc, trong đó có 3
châu “hoàn toàn”. Các Uỷ ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng, Uỷ ban Việt Minh
lâm thời liên tỉnh Cao- Bắc- Lạng, Tổng bộ Việt Minh được thành lập...
Ở nhiều tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung, ở Hà Nội, Hải Phòng
hầu hết các Hội phản đế (thời kì mặt trận Phản đế Đông Dương từ tháng 111939 đến tháng 5-1941) chuyển thành các hội cứu quốc (thời kì mặt trận
Việt Minh từ tháng 5-1941), đồng thời nhiều hội cứu quốc mới được thành
lập.

17


1943 ủy ban Việt Minh liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng lập ra 19 ban xung
phong Nam tiến nhằm liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai và phát
triển lực lượng cách mạng xuống các tỉnh miền xuôi.
Đảng cũng rất chú ý đến việc đoàn kết các tầng lớp tiểu tư sản, tư sản
dân tộc trong mặt trận cứu nước. năm 1943, ra bản đề cương văn hoá Việt
Nam. Năm1944, Đảng Dân chủ Việt Nam và Hội Văn hoá cứu quốc Việt
Nam được thành lập, đứng trong Mặt trận Việt Minh. Đảng cũng tăng cường
công tác vận động binh lính người Việt trong quân đội Pháp, những ngoại

kiều ở Đông Dương có tinh thần chống phát xít.
Ra sức phát triển báo chí của Đảng và Mặt trận: như tờ Giải phóng,
Cờ giải phóng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, chặt xiềng…góp phần quan
trọng vào việc tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, đấu tranh chống
mọi thủ đoạn chính trị văn hoá của địch, thu hút đông đảo quần chúng vào
hàng ngũ cách mạng.
2.2.3 Khởi nghĩa từng phần
Từ sau Hội nghị lần thứ 8 BCH Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương, mặt trận Việt Minh phát triển mạnh, các đội Cứu quốc quân và Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời và đẩy mạnh hoạt động.
Năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai đã đi tới những ngày cuối
Ở mặt trận châu Âu, quân đội Liên Xô mở cuộc tiến công về phía
Béclin, lần lượt giải phóng các nước Trung và Đông Âu. Quân Anh - Mĩ đổ
bộ lên đất Pháp, mở mặt trận mới tấn công phát xít Đức, tháng 8- 1944 Pari
được giải phóng.
Ở mặt trận châu Á – Thái Bình Dương, quân Đồng Minh giáng cho
Phát xít Nhật những đòn nặng nề.
Ở Đông Dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn ráo riết hoạt động,
chờ thời cơ phản công quân Nhật Bản, mâu thuẫn đối kháng Nhật- Pháp trở
nên gay gắt. Trước tình hình đó, quân đội Nhật Bản ra tay trước.
Vào 20 giờ ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp...quân Pháp chống
cự yếu ớt ở một vài nơi rồi nhanh chóng đầu hàng. Đông Dương từ chỗ là
thuộc địa của Pháp- Nhật nay trở thành thuộc địa của Nhật.
Đang lúc Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp
tại làng Đình Bảng (Từ Sơn- Bắc Ninh). Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”; Hội nghị quyết định phát động một “Cao trào kháng Nhật cứu nước
mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”.
18



Ở khu căn cứ địa Cao- Bắc- Lạng Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải
phóng hàng loạt xã, châu, huyện. Tại những nơi này, chính quyền cách mạng
được thành lập, các hội cứu quốc được củng cố và phát triển.
Làn sóng khởi nghĩa từng phần dâng lên tại nhiều nơi. Việt Minh đã
lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở Tiên Du (Bắc Ninh), Bần Yên Nhân (Hưng
Yên)...
Ở Quảng Ngãi, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ lãnh đạo quần chúng khởi
nghĩa, thành lập chính quyền cách mạng và đội du kịch Ba Tơ.
4-1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc kì được triệu tập. Hội nghị
quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang, phát triển hơn nữa lực lượng
vũ trang và nửa vũ trang; mở trường đào tạo cấp tốc cán bộ quân sự và chính
trị, tích cực phát triển chiến tranh du kích; xây dựng chiến khu chuẩn bị cho
cuộc tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến.
4-6-1945, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh khu giải phóng Việt Bắc
chính thức được thành lập bao gồm hầu hết các tỉnh Cao- Bắc- Lạng- Hà –
Tuyên – Thái và một số vùng thuộc các tỉnh lân cận. Trong khu giải phóng
thực hiện 10 chính sách của mặt trận Việt Minh. Uỷ ban lâm thời khu giải
phong Việt Bắc được thành lập. Khu giải phóng Việt Bắc trở thành hình ảnh
thu nhỏ của nước Việt Nam mới.
Qua khởi nghĩa từng phần lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang
được củng cố phát triển vượt bậc; kẻ thù hoang mang, suy yếu...; quần chúng
nhân dân được tập dượt đấu tranh báo trước giờ hành động quyết định sắp
tới.
Tóm lại với chủ trương xây dựng lực lượng chính trị từ miền núi
xuống miền xuôi, từ thành phần cơ bản phát triển lên các tầng lớp trên Đảng
Cộng sản Đông Dương đã xây dựng được một lực lượng chính trị hùng hậu.
Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách
mạng, góp phần quyết định vào thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám

năm 1945.
2. Quá trình xây dựng và phát triển lực lƣợng vũ trang cách mạng
2.1. Từ 939 đến trƣớc 9/ / 945
Quán triệt quan điểm cách mạng bạo lực, Đảng Cộng sản Đông
Dương không chỉ đẩy mạnh xây dựng và phát triển lực lượng chính trị mà
còn không ngừng xây dựng phát triển lực lượng vũ trang cách mạng để tiến
tới cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
19


Tháng 9/1940, Nhật vào Đông Dương, ngày 22/9/40 quân Nhật tràn
qua biên giới Việt –Trung tiến công quân Pháp ở Lạng Sơn. Tàn binh Pháp
thua bỏ chạy qua châu Bắc Sơn. Đảng bộ Bắc Sơn cùng tù chính trị nhà lao
Lạng sơn thoát ra lónh đạo nhân dân KN tước vũ khí quân Pháp, giải tán
chính quyền địch ở địa phương thiết lập quyền làm chủ.Đội du kích Bắc Sơn
ra đời. Đến Hội nghị 11/1940 quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn
làm vốn quân sự cho cách mạng. Một bộ phận lực lượng vũ trang khởi
nghĩa, phân tán vào rừng núi để hđ du kích về sau phát triển thành cứu quốc
quân. Đây là lực lượng nòng cốt để xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn- Vũ Nhai,
phát triển các đoàn thể cứu quốc trong quần chúng.
Cao Bằng cũng là 1 trung tâm chuẩn bị cho KN, trên cơ sở lực lượng
chính trị phát triển mạnh, các đội tự vệ cứu quốc được thành lập.
Cuối năm 1941, theo chỉ thị của Nguyễn Ái Quốc, 1 đội vũ trang nhỏ
gồm 12 người được thành lập, làm các nhiệm vụ bảo vệ cơ quan đầu não,
giao thông liên lạc và huấn luyện tự vệ cứu quốc.
Cuối năm 1944 HCM về nước (sau khi thoát khỏi nhà tù Tưởng Giời
Thạch), giữa lúc Ủy ban Việt Minh tỉnh Cao Bắc Lạng đang chuẩn bị phát
động 1 cuộc KN ở địa phương, Người quyết định hoãn cuộc KN vì chưa đủ
điều kiện. Người ra bản chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền giải
phóng quân (VNTTGPQ), xác định nguyên tắc tổ chức, phương thức hành

động, phương chõm tỏc chiến của lực lượng vũ trang. Đây là cương lĩnh
chính trị quân sự cách mạng đầu tiên ở VN.
Ngày 22/12/1844 Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập đội VNTTGPQ,
chấp hành chỉ thị này, đội VNTTGPQ được thành lập tại khu rừng Trần
Hưng Đạo. Ba ngày sau đội đánh thắng 2 trận liên tiếp ở Phay Khắt, Nà
Ngần, xây dựng nên truyền thống đánh thắng trận đầu của quân đội nhân dân
VN.
Đội VNTTGPQ là lực lượng nòng cốt xây dựng căn cứ địa Cao Bắc
Lạng. Đó là đội quân đàn anh, lúc đầu tuy nó cũn nhỏ bộ nhưng tương lai
của nó vô cùng to lớn.
2.2.Trong cao trào kháng hật cứu nƣớc (9/ /45 - 14/8/1945)
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương, TƯ
Đảng ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chủ
trương phát động 1 cao trào kháng Nhật cứu nước để làm tiền đề tiến lên
TKN.

20


Ở vùng rừng núi và trung du Bắc Kì, chiến tranh du kích phát triển
mạnh, tại Cao-Bắc-Lạng, quần chúng chia nhau đánh chiếm các đồn lẻ hoặc
bao vây gọi địch ra hàng, phục kích nhiều toán địch đi tuần tiễu đánh phá giao
thông, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ ở cơ sở. Từ Bắc SơnVõ Nhai Cứu quốc quân mở rộng hoạt động hạ đồn Chợ chu, tiến đánh Chiêm
Hoá, tràn về vùng Tam đảo, vĩnh yên, Phú thọ.
Ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ , phong trào phá kho thóc của
Nhật để giải quyết nạn đói, quần chúng tự vũ trang thành lập các đội tự vệ
xung đột với chính quyền và binh lính biến thành khởi nghĩa từng phần ở nhiều
nơi giành chính quyền từng bộ phận. Ở những nơi có điều kiện, lực lượng du
kích và tự vệ phát triển khắp mọi nơi.
Ở Quảng Ngãi, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ lãnh đạo quần chúng khởi

nghĩa, thành lập chính quyền cách mạng và đội du kịch Ba Tơ.
4-1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc kì được triệu tập. Hội nghị
quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang, phát triển hơn nữa lực lượng
vũ trang và nửa vũ trang; mở trường đào tạo cấp tốc cán bộ quân sự và chính
trị, tích cực phát triển chiến tranh du kích; xây dựng chiến khu chuẩn bị cho
cuộc tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến.
Trong các đô thị, nhất là ở các đô thị lớn như Hà Nội, Huế, Sài Gòn
hoạt động vũ trang tuyên truyền diệt ác trừ gian được đẩy mạnh, tạo điều
kiện phát triển các đoàn thể cứu quốc và xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc.
Tại nhiều chiến khu cm như Trần Hưng Đạo, Quang Trung,.... nhiều
đội du kích chiến khu được thành lập và đẩy mạnh hoạt động tác chiến.
Tháng 6/1945 khu giải phóng Việt Bắc ra đời do những hoạt động
nổi dậy của quần chúng kết hợp với chiến tranh du kích của lực lượng vũ
trang. Đây là căn cứ địa chung của cách mạng.
Nhìn chung trong cao trào kháng Nhật cứu nước lực lượng vũ trang
và bán vũ trang đều phát triển mạnh, với nhiều hình thức hoạt động chủ yếu
là chiến tranh du kích cục bộ, góp phần pt lực lượng và rèn luyện lực lượng
về mọi mặt để tiến lên chớp thời cơ TKN.
2.3. ực lƣợng vũ trang trong TK ( 4/8 đến 28/8/1945)
Ngay sau khi ub KN phỏt đi bản quõn lệnh số 1, ngày 16/8/1945
chấp hành quân lệnh số 1, đội VNTTGPQ xuất phát từ Tân Trào về gp thị xã
Thái Nguyên, mở đầu cho tkn toàn quốc.
Ở một số nơi tuy chưa nhận được lệnh Kn nhưng do thấm nhuần
bản chỉ thị “Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” các địa
21


phương đó chủ động phát động cuộc khởi nghĩa gắn liền với những hoạt
động hỗ trợ tích cực của lực lượng vũ trang địa phương, nhất là của các đội
du kích ở các chiến khu…

Trong TKN, ở 1 số nơi địch ngoan cố chống đỡ như thị xã Hà Đông,
Hải Dương nhưng chúng đó bị lực lượng vũ trang kiên quyết trừng trị tạo
điều kiện cho quần chúng nổi dậy. Ở khắp mọi nơi lực lượng vũ trang đóng
vai trũ xung kớch làm nòng cốt để hỗ trợ quần chúng TKN giành chính
quyền.
Các lực lượng vũ trang và bán vũ trang đã kết hợp với lực lượng
chính trị quần chúng, kết hợp đt chính trị với đt quân sự tạo ra sức mạnh áp
đảo, làm tan rã bộ máy phát xít Nhật và tay sai ở cả thành thị lẫn nông thôn,
cả Trung ương và địa phương.
Nhìn chung, lực lượng vũ trang tuy còn ít về số lượng, thiếu thốn về
trang bị, non yếu về trình độ tác chiến, nhưng lực lượng vũ trang giữa vai trò
quan trọng trong việc tiền công quân sự ở 1 số nơi, đè bẹp sự phản kháng
của kẻ thù, gây thanh thế cho cách mạng, đồng thời là lực lượng nòng cốt,
hỗ trợ quần chúng nổi dậy trong TKN giành chính quyền khi thời cơ đến.
3. Xây dựng căn cứ địa cách mạng
Căn cứ địa cách mạng có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển của
lực lượng cách mạng. Bởi vậy Đảng ta từ rất sớm đã quan tâm đến vấn đề
xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, đảng chủ trương thành lập căn cứ địa Bắc
Sơn- Vũ Nhai.
Sau khi về nước Hồ Chí Minh phụ trách việc xây dựng căn cứ địa Cao
Bằng.
Hai căn cứ được mở rộng ra và đến năm 1943 thì liên lạc được với
nhau và kể từ đó căn cứ địa cách mạng không ngừng phát triển…
Căn cứ địa cách mạng là nơi dừng chân và phát triển của lực lượng
cách mạng. Là nơi xuất phát để tấn công địch nhưng cũng là nơi rút lui để
bảo toàn lực lượng cách mạng. Có thể khẳng định căn cứ địa cách mạng giữ
vai trò quyết định đối với thắng lợi của cách mạng.
Tóm lại, thấm nhuần quan điểm cách mạng bạo lực, trong thời kỳ
1939-1945 Đảng Cộng sản Đông Dương đã đẩy mạnh công tác xây dựng lực

lượng chính trị, vũ trang và căn cứ địa cách mạng và đây là cơ sở quyết định
để Đảng ta có thể phát động được một cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền vào năm 1945 lập nên Nước Việt Nam Dân Chủ cộng hòa.
22


P Ầ KẾT UẬ
Từ vấn đề nghiên cứu trên đây chúng ta có thể đi đến kết luận: Cách
mạng tháng Tám năm 1945 thành công là nhờ quá trình chuẩn bị chu đáo về
lực lượng cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương, kết hợp với điều
kiện khách quan thuận lợi, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh không điều
kiện. Tuy nhiên sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng cách mạng của Đảng là
nhân tố quyết định. Từ đó có thể khẳng định Cách mạng tháng Tám năm
1945 thành công ở Việt Nam dứt khoát không phải là “một sự ăn may” hay
là do “thời cơ bỏ ngỏ” mà là kết quả của quá trình xây dựng lực lượng cách
mạnh và lãnh đạo quần chúng đấu tranh của Đảng, là kết quả của quá trình
chuẩn bị lâu dài và chớp thời cớ của Đảng.

23


1.
2.
3.
4.


ỆU T A K ẢO
Văn kiện đảng 1930-1945. NXB CTQGHCM. 1995
Hồ Chí Minh. Tuyển tập, NXB ST. H. 1960

Giáo trình lịch sử Việt Nam 1930-1945. NXB ĐHQG.H. 1995
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. NXB ĐHQGHN. 2003

24


×