Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tiểu luận tiền lương tiền công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.5 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. .................................................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................................ 1
1.1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................................1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................................. 1
Tiến hành nghiên cứu thực trạng từ đó đề ra một phương hương, giải pháp nhằm đưa ra một
số đề suất nhằm thực hiện tốt mối quan hệ giữa tiền lương tối thiểu và năng suất lao động.......1
1.3. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................................1
1.4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................................2
Thông qua phương pháp thu thập số liệu trên các phương tiện thông tin đại chúng...................2
Tiến hành xử lý số liệu................................................................................................................. 2
Phân tích, so sánh để nhận diện vấn đề......................................................................................2
CHƯƠNG 2. .................................................................................................................................... 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU VÀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG (NSLD)..................2
2.1. Khái quát chung về tiền lương..............................................................................................2
2.1.1. Khái niệm........................................................................................................................ 2
2.1.2. Vai trò của tiền lương......................................................................................................2
2.1.3. Chức năng tiền lương.....................................................................................................2
2.2. Khái quát chung về tiền lương tối thiểu.................................................................................3
2.2.1. Khái niệm........................................................................................................................ 3
2.2.2. Vai trò của tiền lương tối thiểu.........................................................................................3
Tiền lương tối thiểu có những vai trò chính sau:.......................................................................3
2.2.3. Cơ sở xác định tiền lương tối thiểu.................................................................................4
2.3. Mức năng suất lao động (NSLD), mối quan hệ giữa tiền lương và NSLD.............................5
2.3.1. Khái niệm....................................................................................................................... 5
2.3.2. Ý nghĩa của tăng năng suất lao động..............................................................................5
2.3.4. Các chính sách tiền lương tác động đến NSLD..............................................................6
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU VÀ NSLD CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG (NLD)
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................................................................................. 7
1



3.1. Lịch sử quá trình hình thành và phát triển chế độ tiền lương tối thiểu..................................7
3.1.1. Giai đoạn 1945 đến 1960................................................................................................7
3.1.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1985............................................................................7
3.1.3 Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1992............................................................................8
3.1.4. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay......................................................................................9
3.2. Một số quy định của Nhà nước về lương tối thiểu..............................................................12
3.2.1. Lương tối thiểu chung...................................................................................................12
3.2.2. Lương tối thiểu vùng.....................................................................................................12
3.2.3. Xử lý vi phạm pháp luật về tiền lương tối thiểu.............................................................13
Song song với việc ban hành các quy định về tiền lương tối thiểu thì Nhà nước còn ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật về hình thức xử lý vi phạm đối với tiền lương tối thiểu nhằm
đảm bảo thực hiện tốt các quy định. ..........................................................................................13
3.3. Thực trạng tình hình áp dụng chế độ tiền lương tối thiểu ở Việt Nam.................................13
3.3.1. Kết quả đạt được.......................................................................................................... 13
3.3.2. Những mặt còn tồn tại...................................................................................................14
CHƯƠNG 4. .................................................................................................................................. 16
MỘT SỐ KẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU
VÀ NSLD CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG..............................................................................................16
4.1. Định hướng thay đổi chính sách tiền lương tối thiểu ở nước ta..........................................16
Từ những phân tích trên ta nhận thấy tiền lương nói cung và tiền lương tối thiểu nói riêng tác
động khá lớn đến NSLD, nó là nguồn động lực chủ yếu của nền kinh tế đất nước. Vì vậy, việc
tác động vào tiền lương tối thiểu có tác dụng khá lớn làm tăng NSLD của người lao động và nền
kinh tế. Đòi hỏi Chính phủ phải có chính sách phù hợp để tác động vào tiền lương tối thiểu và
tránh các tác động tiêu cực việc tăng lương...............................................................................16
4.2. Những biện pháp cụ thể về chính sách tiền lương tối thiểu nhằm tác động làm tăng NSLD.
................................................................................................................................................... 17
4.2.1. Cần nâng cao hơn nữa mức lương tối thiểu cho phù hợp với điều kiện thực tế...........17
4.2.2. Hợp lý hóa quan hệ tiền lương,.....................................................................................18
4.2.3. Cơ chế quản lý tiền lương.............................................................................................18

TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................... 20

2


LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình phát triển của đất nước nói riêng và toàn cầu nói chung. Vấn đề đảm
bảo cuộc sống cho người lao động cả về mặt vật chất lẫn tinh thần không ngừng được nâng
lên và luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đối với Việt Nam, vấn đề
trả lương cho người lao động luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm nhằm phát
triển nền kinh tế ngày càng giàu mạnh. Mặc khác, để thực hiện cam kết gia nhập WTO nền
kinh tế nước ta phải vận hành theo nguyên tắc thị trường và không phân biệt đối xử, trong
đó các chính sách tiền lương phải phù hợp với yếu tố này. Tiền lương tối thiểu là bộ phận
cấu thành của chế độ tiền lương và ảnh hưởng đến toàn bộ chính sách tiền lương, là cơ sở để
trả công cho lao động toàn xã hội. Việc quy định tiền lương tối thiểu không những có ý
nghĩa giúp bảo vệ người lao động, mà còn là động lực để người lao động nâng cao năng suất
lao động làm đòn bẩy giúp phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội. Tuy nhiên, hiện nay
do ảnh hưởng mạnh của tình trạng lạm phát, mức lương tối thiểu còn khá thấp chưa đáp ứng
được mức sống tối thiểu của người lao động, chưa thực hiện tốt được chức năng nâng cao
năng suất lao động.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong nền kinh tế của nước ta hiện
nay. Tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Tiền lương tối thiểu và tác động của nó đến
năng suất lao động hiện nay ở Việt Nam”

3


CHƯƠNG 1.
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài

Tiền lương tác động đến mọi mặt của đời sống của toàn bộ người lao động trên thị
trường lao động. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang trong đà phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa nên việc áp dụng một mức lương tối thiểu là vô cùng quan
trọng, tiền lương tối thiểu giúp tạo cho người lao động có một cuộc sống ổn định, giúp
người lao động tái sản xuất sức lao động, bảo vệ người lao động trong tình trạng lam phát
hiện nay.
Tiền lương còn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn động lực cho người lao
động trong quá trình sản xuất giúp tăng năng suất lao động trong doanh nghiệp nói riêng và
cả nền kinh tế đất nước nói chung. Mặc khác năng suất lao động là động lực cho sự phát
triển sản xuất, phát triển của nền kinh tế đất nước. Vì thế, muốn nền kinh tế đất nước phát
triển thì việc có một chính sách tiền lương là một điều quan trọng.
Tuy nhiên, với những vai trò quan trọng mà tiền lương mang lại và tác động của nó
đến năng suất lao động thì hiện nay mức lương tối thiểu vẫn chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu
sống tối thiểu của người lao động trong hiện trạng giá cả liên tục biến động trên thị trường
hiện nay kéo theo đó là sự suy giảm năng suất lao động.
Chính vì đó việc nghiên cứu tiền lương tối thiểu và tác động của nó đến năng suất lao
động từ đó tìm ra những thiếu sót và đề ra phương hương cũng nhu biện pháp khắc phục là
điều cần thiết trong tình trạng hiện nay.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu thực trạng từ đó đề ra một phương hương, giải pháp nhằm đưa
ra một số đề suất nhằm thực hiện tốt mối quan hệ giữa tiền lương tối thiểu và năng
suất lao động.
1.3. Phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn về lượng kiến thức cũng như về số liệu nên đề tài chỉ dừng lại ở việc
phân tích tình hình tiền lương tối thiểu và tác động của nó đến năng suất lao động ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.

1



1.4. Phương pháp nghiên cứu
Thông qua phương pháp thu thập số liệu trên các phương tiện thông tin đại chúng
Tiến hành xử lý số liệu
Phân tích, so sánh để nhận diện vấn đề

CHƯƠNG 2.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU VÀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG
(NSLD)
2.1. Khái quát chung về tiền lương
2.1.1. Khái niệm
Tiền lương là số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi
họ hoàn thành công việc trên cơ sở thỏa thuận giữa hai bên thông qua hợp đồng lao động
phù hợp với quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động và phù hợp với các quy
định tiền lương của pháp luật lao động.
Tiền lương thường xuyên thay đổi biến động xoay quanh giá trị sức lao động, nó phụ
thuộc vào quan hệ cung cầu giá cả tư liệu sinh hoạt. Sự biến động xoay quanh giá trị sức lao
động là sự biến động thể hiện bản chất của tiền lương.
2.1.2. Vai trò của tiền lương
Khi nhắc tới tiền lương thì vai trò đối với người lao động là vai trò luôn đứng đầu nó
không chỉ giúp người lao động tái sản xuất sức lao động tiêu hao trong quá trình lao động
mà còn giúp họ nuôi sống bản thân, gia đình, chi tiêu cho những vấn đề phát sinh trong cuộc
sống cũng như góp phần nâng cao trình độ. Tiền lương còn đóng vai trò quan trọng đối với
nền kinh tế đất nước, là công cụ để Nhà nước quản lý kinh tế, tài chính và bình ổn xã hội.
2.1.3. Chức năng tiền lương
Chức năng thước đo giá trị sức lao động. tiền lương là căn cứ xác định mức tiền trả
công cho các loại lao động, xác đinh đơn giá trả lương, đồng thời là cơ sở để điều chỉnh giá
cả sức lao động khi giá cả tư liệu sinh hoạt giao động,
Chức năng tái sản xuất sức lao động. tiền lương trả cho người lao động phải bù đắp
được những hao phí lao động trước, trong và sau quá trình lao động song với đó là việc phải
phù hợp với những biến động về giá cả các mặt hàng trên thị trường, những rủi ro hoặc các

chi phí nhằm phục vụ cho việc năng cao trình độ lành nghề của người lao động.
2


Chức năng kích thích. Tạo động lực cho người lao động thông qua việc thỏa mãn các
lợi ích vật chất tinh thần.
Chức năng bảo hiểm tích lũy. Trong quá trình lao động người lao động phải trích một
phần tiền lương của mình để mua bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…thông qua hệ thống
chính thức hoặc không chính thức.
Chức năng xã hội. Tiền lương không những tác động đến các mối quan hệ lao động
mà còn tác đọng đến doanh nghiệp, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện của con người và
thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng dân chủ văn minh.
2.2. Khái quát chung về tiền lương tối thiểu
2.2.1. Khái niệm
Tiền lương tối thiểu là mức lao động thấp nhất trả cho người lao động tương ứng với
trình độ lao động đơn giản nhất, cường độ lao động nhẹ nhàng nhất diễn ra trong điều kiện
lao động bình thường nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho người lao động phù hợp với
điều kiện kinh tế-xã hội.
Về bản chất tiền lương tối thiểu giống với bản chất của tiền lương đều là giá cả sức
lao động hình thành trên cơ sở giá tri sức lao động. Tuy nhiên giá cả sức lao động trong tiền
lương tối thiểu là giá thấp nhất của hàng hóa sức lao động. Tiền lương tối thiểu không phụ
thuộc vào sự thỏa thuận giữa hai bên trong quan hệ lao động mà được quyết định bởi quyền
lực Nhà nước.
2.2.2. Vai trò của tiền lương tối thiểu
Tiền lương tối thiểu có những vai trò chính sau:
Là lưới an toàn chung cho những người làm công ăn lương trên toàn xã hội, loại trừ
sự bóc lột sức lao động qua mức có thể xảy ra đối với những người làm công ăn lương trước
sức ép cung quá lớn từ thị trường lao động,
Đảm bảo sức mua cho các mức tiền lương cảu lạm phát và các yếu tố kinh tế xã hội
thông qua việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu,

Giảm bớt sự đói nghèo,
Loại bỏ sự cạnh tranh không công bằng, chống lại xu hướng giảm chi phí các yếu tố
sản xuất tới mức không thỏa đáng trong đó có tiền lương,
Đảm bảo trả lương tương đương cho những công việc tương đương,
Phòng ngừa sự xung đọt giữa giới chủ và giới thợ làm ảnh hường đến sự phát triển
của kinh tế,
3


Đối với các nước đang phát triển, việc xác định tiền lương tối thiểu là hết sức quan
trọng vì sự khác biệt rất lớn giữa các mức thu nhập, điều kiện sống và làm việc hoặc cầu về
lao động giữa các nhóm người làm công ăn lương khác nhau,
Ở Việt Nam, tiền lương tối thiểu được khẳng định là “căn cứ để tính các mức lương
cho các loại lao động khác.” như Bộ luật Lao động đã chỉ rõ.
2.2.3. Cơ sở xác định tiền lương tối thiểu
Từ những vai trò của tiền lương tối thiểu cho ta thấy tầm quan trọng trong việc xác
định tiền lương tối thiểu đối với người lao động, người sử dụng lao động và sự phát triển
chung của nền kinh tế xã hội.
Việc xác định tiền lương phải dựa trên các cơ sở sau:
Nhu cầu tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Mục đích của tiền lương
tối thiểu là đảm bảo duy trì cuộc sống của bản thân và tiếp tục tái sản xuất sức lao động.
Trong khi đó người lao động phải sử dụng tiền lương để chi trả cho các khoản nuôi con,
nuôi cha mẹ già. Vì vậy việc xác định lương tối thiểu phải dựa trên nhu cầu tối thiểu của
bản thân và gia đình họ.
Chi phí và sự biến động của giá cả tư liệu sinh hoạt. Giá cả các mặt hàng trên
thị trường thường xuyên biến động vì vậy ngoài việc đáp ứng nhu cầu tối thiểu của bản thân
và gia đình họ thì tiền lương tối thiểu phải tính đến sự biến động không ngừng của giá cả
các mặt hàng trên thị trường
Mức tiền lương chung cho cả nước. việc xác định tiền lương tối thiểu phải
đảm bảo phù hợp với giá cả chung của thị trường lao động đồng thời phải thực hiện tốt cơ

chế ba bên đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững lâu dài.
Mối tương quan về điều kiện sống của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Mức
độ chênh lệch mức sống giữa các vùng miền trên đất nước là cơ sở để quy định mức lương
tối thiểu vùng. Song với đó là việc trả công cho người lao động công bằng trong xã hội và
hạn chế được tình trạng phân hóa giàu nghèo trong tầng lớp dân cư.
Mức độ tăng trưởng kinh tế và mức tăng năng suất lao động. Hiện nay, hầu
hết các doanh nghiệp đều trả lương theo nguyên tắc phân phối lao động và trên cơ sở năng
suất lao động vì vậy tiền lương tối thiểu phải dựa vào mức năng suất lao động của người lao
động và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Một số yếu tố khác như: cơ sở chi trả của doanh nghiệp, khả năng chi trả của nền
kinh tế và quỹ tiêu dùng dân cư, tốc độ trượt giá so với lúc thiết kế tiền lương trước đây.

4


2.3. Mức năng suất lao động (NSLD), mối quan hệ giữa tiền lương và NSLD.
2.3.1. Khái niệm
Năng suất lao động là hiệu quả của hoạt động có ích của con người trong một đơn vị
thời gian, nó được biểu hiện bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian
hoặc hao phí để sản xuất ra được một sản phẩm.
Năng suất lao động không những phụ thuộc vào số lượng mà còn phụ thuộc rất lớn
vào chất lượng, đặc điểm đầu ra và tính hiệu quả trong sản xuất. Trong đặc điểm của nền
kinh tế đang phát triển không ngừng đòi hỏi nhiều về mặt chất lượng và số lượng khi đó
NSLD được gọi là cao khi tạo ra những sản phẩm và dịch vụ có các đặc tính kinh tế kỹ
thuật và chức năng sử dụng thỏa mãn nhu cầu khách hàng và những đòi hỏi của xã hội và
không lãng phí trong quá trình sản xuất.
2.3.2. Ý nghĩa của tăng năng suất lao động.
Trước hết, năng suất lao động tăng làm giảm giá thành sản phẩm vì giảm chi phí tiền
lương trong một đơn vị sản phẩm. Tiền lương là giá cả của sức lao động ,nó là một trong
những chi phí cấu thành giá thành sản phẩm ,tăng NSLĐ có nghĩa là giảm chi phí sức lao

động cho một đơn vị sản phẩm hay là giảm chi phí tiền lương cho một đơn vị sản phẩm, dẫn
đến giá thành sản phẩm giảm.
Tăng NSLĐ cho phép giảm số người làm việc, do đó tiết kiệm được qũy tiền
lương .NSLD cao và tăng nhanh sẽ tạo điều kiện tăng qui mô và tốc độ của tổng sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân, cho phép giải quyết các vấn đề tích luỹ tiêu dùng.
2.3.3. Mối quan hệ giữa tiền lương với NSLD
Trên cấp độ vi mô ta nhận thấy trong một doanh nghiệp để tồn tại và phát triển thì
doanh nghiệp phải luôn đảm bảo hai yếu tố quan trọng là luôn phải đảm bảo sản xuất kinh
doanh có hiệu quả và phải không ngừng phấn đấu cải thiện đời sống cho người lao động. Do
vậy, việc cân đối tiền lương sao cho phù hợp với tốc độ tăng năng xuất lao động phải luôn
được đảm bảo.
Tiền lương và NSLD có mối quan hệ song song với nhau và được gắn kết với nhau
thông qua quá trình lao động. Quá trình lao động là qua trình sử dụng sức lao động để tạo ra
NSLD làm ra sản phẩm. Trong quá trình lao động đó người lao động phải bỏ ra một lường
hao phí sức lao động, để người lao động có thể tiếp tục sản xuất có hiệu quả buộc người sử
dụng lao động phải bỏ ra khoảng tiền tương ứng với hao phí sức lao động mà họ đã bỏ ra,
đó là tiền lương.
Mặc dù mối quan hệ giữa tiền lương và thu nhập là mối qua hệ song song nhau,
nhưng trên thực tế tốc độ tăng tiền lương luôn thấp hơn tốc độ tăng của NSLD do nột số
nguyên nhân: do yêu cầu tăng khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, do NSLD
chỉ là một bộ phận của tổng năng suất, do yêu cầu tích lũy.
5




NSLD tác động đến tiền lương

Khi NSLD tăng làm rút ngắn thời gian sản xuất một khối lượng sản phẩm, làm tiết
kiệm thời gian sản xuất và các khoảng chi phí trong quá trình sản xuất làm cho doanh thu

của doanh nghiệp tăng. Tuy nhiên, việc tăng NSLD chưa hẳn đã làm tăng tiền lương của
người lao động nó còn phụ thuộc vào hình thức trả lương trong doanh nghiệp. Trường hợp
doanh nghiệp tính lương theo sản phẩm thì việc tăng NSLD se làm tăng tiền lương, theo
công thức:

TLTL=ĐGsp x Q
Trong đó:
TLTL: là tiền lương thực lĩnh
ĐGsp: là đơn giá sản phẩm
Q là sản lượng làm ra


Tiền lương tác động đến NSLD

Như đã phân tích ở trên, tiền lương chính là giá trị sức lao động mà người lao động
được nhận khi tiêu hao một phần hao phí sức lao động trong quá trình lao động. Lượng tiền
mà người lao động nhận được sẽ sử dụng vào việc thỏa mãn các nhu cầu về vật chất, tinh
thần và dùng để tái tạo sức lao động. Do đó tiền lương là một trong những công cụ quản lý
kinh tế quan trọng, dùng để kích thích việc tập trung vào quá trình lao động làm tăng NSLD.
Hay nói cách khác, đối với người lao động đó là khoản thu nhập chính, muốn được tăng
lương buộc họ phải tăng NSLD.
2.3.4. Các chính sách tiền lương tác động đến NSLD
Có rất nhiều hình thức trả lương cho công nhân nhưng hình thức trả lương dựa vào
mức lương tối thiểu giữ vai trò quan trọng , có ảnh hưởng rất nhiều đến tiền lương bình
quân của người lao động được xác định theo công thức :

MLi = TLmin x Ki với i=(1,n)
Trong đó:
MLi: là mức lương (tiền lương) bình quân bậc thứ i trong bảng lương
TLmin: là tiền lương tối thiểu

Ki: là hệ số lương bậc thứ i trong bảng lương
n: là số ngạch của bậc trong bảng lương
6


Theo công thức trên, khi tiền lương tối thiểu tăng một lượng nhất định thì tiền lương
bình quân tăng một lượng gấp Ki lần, cho thấy vai trò của tiền lương tối thiểu. Theo vai trò
của tiền lương cũng như tiền lương tối thiểu thì với một mức lương hợp lý sẽ có tác động rất
lớn đến người lao động giúp tạo một động lực lớn cho người lao động trong việc duy trì ổn
định và nâng cao năng suất lao động. Nếu tiền lương quá thấp sẽ không đủ tạo động lực cho
người lao động nâng cao năng suất, ngược lại nếu tiền lương quá cao sẽ không đảm bảo mối
quan hệ giữa tiền lương và NSLD dễ dẫn đến việc mất ổn định trong việc phát triển sản xuất
king doanh trong doanh nghiệp nói riêng và đối với sụ ổn định kinh tế xã hội nói chung.

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU VÀ NSLD CỦA
NGƯỜI LAO ĐỘNG (NLD) Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
3.1. Lịch sử quá trình hình thành và phát triển chế độ tiền lương tối thiểu
3.1.1. Giai đoạn 1945 đến 1960
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngày 12/3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số
29 và nó được xem như là “Bộ luật Lao động” đầu tiên của Việt Nam. Sắc lệnh cũng lần
đầu tiên công bố định nghĩa về tiền lương tối thiểu. Theo định nghĩa này thì tiền công tối
thiểu cũng có các tính chất, đặc trưng như tiền lương tối thiểu theo quan niệm hiện nay.
Theo đó, “Tiền công tối thiểu là số tiền công do Chính phủ ấn định theo giá sinh hoạt để
một công nhân không chuyên nghiệp sinh sống một mình trong một ngày ở một khu vực
nhất định”.
3.1.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1985
Năm 1960, Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng đã được triệu tập. Đại hội đã định
nền kinh tế nước ta phát triển hoàn toàn theo hướng kế hoạch hoá, mọi vấn đề về lao động
đều theo kế hoạch trực tiếp của Nhà nước và được triển khai thực hiện bằng mệnh lệnh hành

chính. Đặc biệt trong lĩnh vực trả công, mức tiền lương cụ thể cho trong loại công việc, thời
gian trả, hình thức trả lương, nâng bậc lương và các vấn đề khác liên quan đều do Nhà nước
định sẵn thông qua hệ thống các bậc lương và hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước.
Các văn bản pháp luật lao động trong suốt thời gian đó không còn đề cập và quy định về
tiền lương tối thiểu mà Nhà nước đã giới hạn trực tiếp bằng việc quy định cụ thể các mức
lương trong các ngành. Trong mỗi ngành đều có mức lương thấp nhất, đó chính là mức
lương khởi điểm của ngành được trả cho người lao động ứng với công việc đòi hỏi trình độ
lao động thấp nhất, cường độ lao động nhẹ nhàng nhất, người ta gọi đó là lương bậc một. Và
lương bậc một được xác định trong thời gian đó là 27 đồng 3 hào.

7


Như vậy, trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tiền lương tối thiểu không
được quan tâm và đề cập đến. Trên thực tế, người ta quan niệm và coi lương bậc một của
ngành là mức lương tối thiểu.
3.1.3 Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1992
Với chủ trương chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN, tự do kinh doanh đã trở thành
nguyên tắc hiến định trong đường lối quản lý kinh tế của đất nước. Yêu cầu phải tạo ra một
khuôn khổ pháp luật để giới hạn hành vi của các cá nhân, tổ chức khi tham gia quan hệ pháp
luật ở mọi lĩnh vực trong đó có vấn đề trả lương cho người lao động. Tiền lương tối thiểu
sau một thời gian dài không cần thiết tồn tại nay lại xuất hiện trong pháp luật lao động Việt
Nam với đầy đủ ý nghĩa của nó được quy định trong Nghị định số 35/NĐ-HĐBT ngày
18/09/1985 về cải tiến chế độ tiền lương của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ
trang. Theo đó, mức lương tối thiểu là 220 đồng/tháng.
Nghị định số 235-HĐBT ngày 18/09/1985 ra đời, cuộc sống của người lao động đã
được cải thiện đáng kể. Tính đến tháng 9/1985, tiền lương của người lao động tăng 64%.
Nhưng với nền kinh tế khó khăn, tổng thu nhập quốc dân tính trên đầu người thấp, tình
trạng lạm phát đã làm cho giá trị của đồng lương sút giảm nhanh chóng và lương không

đánh giá đúng giá trị thực tế sức lao động của người lao động. Mặt khác, tới năm 1986, cuộc
đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội lần VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng đòi
hỏi tiền lương tối thiểu phải có sự thay đổi để phù hợp với thực tế.
Ngày 28/12/1988, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 202-HĐBT về tiền lương
công nhân, viên chức sản xuất kinh doanh khu vực quốc doanh và công tư hợp doanh và
Quyết định số 203-HĐBT về tiền lương công nhân, viên chức hành chính sự nghiệp, lực
lượng vũ trang và các đối tượng hưởng chính sách xã hội. Theo đó, tiền lương tối thiểu là
22.500 đồng/tháng.
Năm 1987, Quốc hội thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Từ đó nước ta
xuất hiện thêm một thành phần kinh tế đó là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. So với các
lao động làm việc trong các doanh nghiệp trong nước thì lao động làm việc trong khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài phải chịu áp lực cao hơn, đòi hỏi trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
và cường độ lao động cao hơn. Để đánh giá đúng giá trị sức lao động mà người lao động bỏ
ra và bảo đảm sự công bằng, đòi hỏi phải có quy định riêng về tiền lương tối thiểu cho các
lao động làm việc trong khu vực này. Ngày 29/8/1990 Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội đã ra Quyết định số 356/LĐTBXH/QĐ về mức lương tối thiểu của người lao
động trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, mức lương tối thiểu áp dụng
trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 50 USD/tháng.
Mức lương tối thiểu theo Quyết định 356 có nhiều hạn chế, đó là việc áp dụng một
cách chung chung cho tất cả các xí nghiệp trên toàn quốc. Trong khi đó, ở các vùng khác
8


nhau thì có những đặc trưng không giống nhau như về thị trường lao động, giá cả sinh hoạt,
ưu thế địa hình, khí hậu, tài nguyên khoáng sản… cho nên đòi hỏi phải có sự phân vùng để
tiền lương tối thiểu phù hợp với từng địa bàn nhất định. Ngày 5/5/1992 Bộ trưởng Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội ra Quyết định số 242/LĐTBXH-QĐ về mức lương tối thiểu
của các lao động trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, mức lương tối
thiểu trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là từ 30 đến 35 USD/tháng tuỳ thuộc vào từng
địa phương và đặc trưng của từng ngành nghề.

Nói tóm lại, trong giai đoạn này đã có những tiến bộ vượt bậc trong việc quy định về
tiền lương tối thiểu. Tiền lương tối thiểu đã kịp thời có những thay đổi hợp lý về đảm bảo
đời sống của người lao động. Ngoài ra, đã có sự phân định về tiền lương tối thiểu đối với
các doanh nghiệp trong nước và các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đảm bảo sự công
bằng trong việc trả công cho người lao động.
3.1.4. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay
Sau bạo động ở Đông Âu và Liên Xô cũ, nền kinh tế nước ta chịu nhiều ảnh hưởng
nên hết sức khó khăn, tỷ lệ lạm phát tăng cao (năm 1990 là 70%, năm 1991 là 67.5% và
năm 1992 là 16.7%). Chính sách tiền lương mất dần ý nghĩa trong sản xuất và đời sống xã
hội. Tiền lương không đảm bảo đời sống của người lao động và được tiền tệ hoá ở mức
thấp. Việc đổi mới chính sách liên quan đến tiền lương không được tiến hành đồng bộ càng
làm sâu sắc thêm mâu thuẫn trong bản thân chính sách tiền lương, tạo ra những mâu thuẫn
mới mang tính tiêu cực trong phân phối thu nhập, đã vi phạm nghiêm trọng công bằng xã
hội. Trước tình hình đó, Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 Quốc hội khoá IX đã đề ra nhiệm vụ
cải cách chính sách tiền lương với mục tiêu chính sách tiền lương mới phải làm cho tiền
lương trở thành thước đo giá trị sức lao động, áp dụng ở mọi thành phần kinh tế có quan hệ
lao động theo thị trường. Đặc biệt là tiền lương tối thiểu phải thực sự là “lưới an toàn” cho
người lao động, đảm bảo cho họ duy trì được mức sống tối thiểu cần thiết và tái sản xuất
sức lao động. Đáp ứng được yêu cầu tiền tệ hoá tiền lương, dần thay thế và tiến tới xoá bỏ
chế độ phân phối hiện vật có tính chất tiền lương. Thực hiện điều đó, ngày
23/5/1993 Chính phủ ban hành Nghị định số 26/CP quy định tạm thời chế độ tiền
lương mới trong các doanh nghiệp và Nghị định số 25/CP quy định tạm thời chế độ tiền
lương mới của công chức, viên chức hành chính-sự nghiệp và lực lượng vũ trang. Theo đó,
mức lương tối thiểu áp dụng thống nhất cho các đối tượng trên là 120.000 đồng/tháng.
Ngày 23/06/1994, Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Bộ luật lao động,
đánh dấu một mốc quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Lần đầu
tiên tiền lương tối thiểu đã được ghi nhận một cách đầy đủ, toàn diện nhất trong văn bản
pháp lý có hiệu lực cao là Bộ luật. Để cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành các quy định
về tiền lương tối thiểu, ngày 31/12/1994 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 197/CP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ lao động về tiền lương. Trên cơ

9


sở đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ra Thông tư số 11/LĐTBXH-TT ngày
03/05/1995 để hướng dẫn Nghị định số 197/ CP.
Sau một thời gian thực hiện chính sách tiền lương mới năm 1993, mức lương tối
thiểu so với nhu cầu của người lao động và mục tiêu đặt ra là quá thấp, không đáp ứng được
các nhu cầu thiết yếu của người lao động. Từ năm 1993 trở đi, nền kinh tế liên tục tăng
trưởng (trung bình khoảng 8 đến 9%/năm) trong khi tiền lương vẫn không thay đổi nên giá
trị tiền lương thực tế bị giảm sút. Do đó, ngày 21/1/1997 Chính phủ ra Nghị định số 06/CP
về việc giải quyết tiền lương và trợ cấp năm 1997 đối với công chức, viên chức hành chính sự nghiệp, người nghỉ hưu, nghỉ mất sức, lực lượng vũ trang cán bộ xã, phường và một số
đối tượng hưởng chính sách xã hội nâng mức lương tối thiểu lên 144.000 đồng /tháng.
Mặc dù tiền lương tối thiểu đã được điều chỉnh tăng theo Nghị định số 06/CP. Tuy
nhiên, việc duy trì quá lâu mức tiền lương tối thiểu vốn dĩ đã ấn định thấp, trong khi đó chỉ
số giá sinh hoạt tăng đã làm mất tác dụng tích cực của chế độ tiền lương, phát sinh mâu
thuẫn khó lý giải là trong khi nền kinh tế liên tục tăng trưởng thì tiền lương tối thiểu vẫn
được duy trì từ năm 1997 đến 1999 mà không thay đổi, dẫn tới tiền lương thực tế bị giảm
sút, mất dần ý nghĩa trong đời sống của người lao động. Do đó ngày 15/12/1999, Chính phủ
ra Nghị định số 175/1999/NĐ-CP về việc điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu, mức trợ cấp
sinh hoạt phí đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp, trợ cấp và sinh hoạt phí từ nguồn
kinh phí thuộc nguồn ngân sách Nhà nước. Nghị định quy định mức lương tối thiểu là
180.000 đồng/tháng.
Để bảo vệ cho người lao động mà quỹ lương để trả cho họ không phải lấy từ ngân
sách Nhà nước, ngày 27/3/2000 Chính phủ ra Nghị định số 10/2000/NĐ-CP về việc
quy định tiền lương tối thiểu trong các doanh nghiệp. Nghị định này quy định mức tiền
lương tối thiểu là 180.000 đồng/tháng.
Ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, được sự uỷ quyền của Chính phủ, Bộ trưởng
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ra Quyết định số 708/1999/QĐ-BLĐTBXH
quy định mức lương tối thiểu áp dụng cho lao động trong khu vực này là từ 417.000 đồng
đến 626.000 đồng/tháng tuỳ thuộc vào từng địa phương và đặc trưng của từng ngành nghề.

Như vậy, tiền lương đã được tăng 25% so với trước đây, góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Tuy nhiên, dưới sự tác động của các
quy luật cung - cầu, giá cả, cạnh tranh đòi hỏi tiền lương tối thiểu phải tiếp tục được nâng
lên mới thực hiện được các nhiệm vụ của nó. Do đó, ngày 15/12/2000 Chính phủ ra Nghị
định số 77/2000/NĐ-CP về việc điều chỉnh mức lương tối thiểu, mức trợ cấp và sinh hoạt
phí đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp, trợ cấp và sinh hoạt phí. Nghị định quy
định mức lương tối thiểu là 210.000 đồng/tháng.
Sau 8 năm thực hiện, Bộ luật lao động đã góp phần tạo nên trật tự cho các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực lao động đã có nhiều thay đổi nên các quy định về tiền lương không còn
10


phù hợp. Trước tình hình đó, ngày 2/4/2002 Bộ luật lao động đã được sửa đổi, bổ sung. Để
cụ thể hoá các quy định mới, ngày 31/12/2002 Chính phủ ra Nghị định số 114/2002/NĐ-CP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về tiền lương thay
thế Nghị định số 197/CP năm 1994.
Tháng 12/2002, Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá XI đã ra các Nghị quyết số
09/2002/QH11 về dự toán “ngân sách nhà nước năm 2003” và Nghị quyết số 14/2002/QH11
về “nhiệm vụ năm 2003”. Theo đó, tiền lương phải được thay đổi một cách toàn diện với tất
cả các đối tượng lao động. Trên cơ sở đó, ngày 15/01/2004, Chính phủ ra Nghị định số
03/2003/NĐ-CP về việc điều chỉnh tiền lương, trợ cấp xã hội và đổi mới một bước cơ chế
quản lý tiền lương. Nghị định này quy định mức lương tối thiểu là 290.00 đồng/tháng.
Mặc dù lương tối thiểu đã được tăng 38% so với trước đây. Tuy nhiên, lần tăng
lương này là giải pháp trước mắt về tiền lương. Trước tình hình giá cả leo thang liên tục đòi
hỏi phải có một chính sách tiền lương mới toàn diện, hợp lý hơn, đảm bảo được giá trị của
đồng lương trong thực tế. Do đó, nước ta đã thành lập Ban nghiên cứu chính sách tiền lương
mới. Ngày 19/03/2003, Trưởng ban chỉ đạo nghiên cứu chính sách tiền lương mới phải toàn
diện, lâu dài, liên tục, mở ra một giai đoạn mới của việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu ở
Việt Nam, kéo dài liên tục, từng bước trong vòng 2 năm từ năm 2004 đến năm 2005.
Ngày 14/12/2004, Chính phủ ra Nghị định số 203/2004/NĐ-CP quy định mức lương

tối thiểu tăng lên 310.000 đồng/tháng. Tiếp đó, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tài chính, ngày
15/09/2005 Chính phủ ra Nghị định số 118/2005/NĐ-CP điều chỉnh mức lương
tối thiểu chung lên 350.000 đồng/tháng.
Để cụ thể hoá chính sách tiền lương mới, ngày 04/10/2005, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội ra Thông tư số 25/2005/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều chỉnh tiền lương và
phụ cấp lương trong doanh nghiệp theo Nghị định số 118/2005/NĐ-CP. Thông tư đã quy
định phạm vi, đối tượng điều chỉnh tiền lương, phụ cấp lương và hướng dẫn cách tính lương
cho các đối tượng ở trên, đảm bảo cho Nghị định số 118/2005/NĐ-CP được thực hiện trên
thực tế.
Như vậy, lần cải cách chính sách tiền lương này kéo dài suốt 2 năm và được cải cách
theo nhiều bước, vừa đảm bảo cuộc sống của người lao động và gia đình họ, vừa không tạo
ra gánh nặng cho quỹ lương của Nhà nước và người sử dụng lao động, đảm bảo tính hợp lý
và hài hoà lợi ích giữa các bên tham gia quan hệ lao động.
Để đảm bảo đời sống của người lao động và phù hợp với tình hình chung của nền
kinh tế đất nước, năm 2006 Nhà nước ta đã có nhiều thay đổi về chính sách tiền lương.
Khởi đầu là những quy định về mức lương tối thiểu trong khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài. Sau khi tham khảo ý kiến của các doanh nghiệp và Tổng Liên đoàn Lao động
11


Việt Nam, ngày 06/01/2006. Chính phủ ra Nghị định số 03/2006/NĐ- CP quy định mức
lương tối thiểu đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam.
Tiếp đó ngày 07/09/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 94/2006/NĐ-CP
điều chỉnh mức lương tối thiểu chung, nâng mức lưong tối thiểu chung lên 450.000
đồng/tháng.
Cuối năm 2006, Việt Nam ra nhập WTO. Cùng với sự kiện này, yêu cầu đặt ra là
phải thay đổi mức lương tối thiểu làm sao cho không những phù hợp với tình hình chung
của đất nước mà còn phải phù hợp với tình hình thế giới và nhu cầu hội nhập.
Nói tóm lại, sau gần 60 năm, tiền lương tối thiểu ở nước ta đã dần dần phát triển và đi

tới hoàn thiện để tạo ta “lưới an toàn” bảo vệ người lao động. Đồng thời cũng là động lực
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, sức lao
động được coi là hàng hoá, vấn đề bảo vệ người lao động càng phải được quan tâm bởi họ
chính là người tạo ra của cải vật chất và thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
3.2. Một số quy định của Nhà nước về lương tối thiểu
3.2.1. Lương tối thiểu chung
Ngày 27/07/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 66/2013/NĐ-CP về việc quy
định mức lương tối thiểu chung. Theo đó, mức lương tối thiểu chung quy định là
1.150.000đ/tháng/người, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/08/2013. Mức lương tối thiểu
chung quy định tại Nhị định này áp dụng đối với: cơ quan Nhà nước; lực lượng vũ trang, tổ
chức chính trị-xã hội; đơn vị sự nghiệp Nhà nước; đơn vị sự nghiệp của tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội; công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ
sở hữu được tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp
3.2.2. Lương tối thiểu vùng
Nghị định quy định mức lương tối thiểu vùng số 103/2014/NĐ-CP áp dụng đối với
người lao động làm việc ở doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá
nhân và các cơ quan, tổ chức có thuê mướn lao động theo hợp đồng lao động theo quy định
của Bộ luật Lao động.
Về đối tượng áp dụng:
- Doanh nghiệp thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp (kể
cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không đăng ký lại hoặc chưa
chuyển đổi theo quy định tại (Điểm a Khoản 2 và Khoản 3 Điều 170 của Luật Doanh
nghiệp)

12


- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ
chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động theo hợp đồng lao động
- Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt

Nam có thuê mướn lao động theo hợp đồng lao động (trừ trường hợp điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Nghị
định này).
Tuy nhiên mức lương tối thiểu vùng năm 2016 đã được Chính phủ quy định tại Nghị
định 122/2015/NĐ-CP quy định về mức lương tối thiểu vùng.
3.2.3. Xử lý vi phạm pháp luật về tiền lương tối thiểu
Song song với việc ban hành các quy định về tiền lương tối thiểu thì Nhà nước còn
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hình thức xử lý vi phạm đối với tiền
lương tối thiểu nhằm đảm bảo thực hiện tốt các quy định.
Theo đó, khoản 4 Điều 12 Nghị định 113/2004/NĐ-CP ngày 16/4/2004 của Chính
phủ quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động quy định về xử phạt
hành chính về tiền lương tối thiểu.
3.3. Thực trạng tình hình áp dụng chế độ tiền lương tối thiểu ở Việt Nam
3.3.1. Kết quả đạt được
Mức lương tối thiểu chung của nước ta dược quy định từ năm 1993 đến nay và liên
tục điều chỉnh tăng dần cùng với việc quy định mức lương tối thiểu vùng đã đạt được:
Tiền lương tối thiểu đã thực hiện được chức năng chính của mình trong việc tái sản
xuất sức lao động cho những người lao động làm công ăn lương góp phần làm tăng NSLD
trong doanh nghiệp cung như trên cả nước, phù hợp với điều kiện kinh tế, khả năng chi trả
của người sử dụng lao động, đảm bảo thực hiện tốt cơ chế ba bên, phù hợp với tiền công
trên thị trường lao động. Cụ thể: theo Tổng cục Thống kê, năng suất lao động xã hội năm
2014, cơ quan thống kê cho biết theo giá hiện hành của toàn nền kinh tế ước tính đạt 74,3
triệu đồng mỗi lao động (tương đương 3.515 USD). Trong đó năng suất khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản đạt 28,9 triệu đồng (bằng 38,9% mức chung), công nghiệp và xây dựng
là 133,4 triệu đồng, khu vực dịch vụ đạt 100,7 triệu đồng. Tính theo giá so sánh năm 2010,
năng suất lao động toàn nền kinh tế năm 2014 ước tính tăng 4,3% so với năm 2013. Trong
đó năng suất lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,4%, công nghiệp và xây
dựng tăng 4,3%, dịch vụ tăng 4,4%. Cơ quan thống kê nhận định, năng suất lao động của
Việt Nam liên tục tăng trong thời gian qua, bình quân đạt tốc độ 3,7% mỗi năm trong giai
đoạn 2005 – 2014

Tiền lương tối thiểu đã bảo vệ được người lao động không bị chèn ép, bóc lột sức lao
động do lượng cung cầu trên thị trường ảnh hưởng đến mức lương tối thiểu. Đông thời mức
13


tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định có tác động ổn định mức sống tối thiểu cho người
lao động, là biện pháp quan trọng bảo vệ người lao động thoát khỏi sự nghèo đói
Tiền lương tối thiểu thiết lập mối quan hệ về kinh tế giữa người lao động và người sử
dụng lao động
Tiền lương tối thiểu thiết lập mối quan hệ về kinh tế giữa người lao động và người
sử dụng lao động, duy trì nâng cao sức cạnh tranh của lao động. Tăng khả năng hội nhập
của thị trường lao động của khu vực và quốc tế
Trong quá trình thực hiện, tiền lương tối thiểu đã góp phần tạo động lực cho người
lao động nhằm thúc đẩy tăng NSLD, tham gia vào quá trình điều tiết quan hệ cung cầu lao
động trên thị trường. Thông qua việc quy định tiền lương tối thiểu, đã dần đưa tiền lương
trong khu vực sản xuất linh doanh dần trả đúng giá trị lao động, phụ thuộc vào năng suất lao
động, hiệu quả sản xuất kinh doanh.
3.3.2. Những mặt còn tồn tại


Về tiền lương tối thiểu chung

Tiền lương tối thiểu chung hiện nay là 1.150.000đ/tháng/người, với mức lương này
thì thực tế còn khá thấp không đáp ứng nhu cầu cuộc sống cho người lao động bình thường.
Trong khi đó theo thông tư 08/2013/TT-BNV quy định về việc năng bậc lương đối với các
cán bộ công chức, viên chức và người lao động, theo đó: Thời gian giữ bậc để xét nâng bậc
lương thường xuyên:
- Đối với chức danh chuyên gia cao cấp: Nếu chưa xếp bậc lương cuối cùng trong
bảng lương chuyên gia cao cấp, thì sau 5 năm (đủ 60 tháng) giữ bậc lương trong bảng lương
chuyên gia cao cấp được xét nâng một bậc lương;

- Đối với các ngạch và các chức danh có yêu cầu trình độ đào tạo từ cao đẳng trở lên:
Nếu chưa xếp bậc lương cuối cùng trong ngạch hoặc trong chức danh, thì sau 3 năm (đủ 36
tháng) giữ bậc lương trong ngạch hoặc trong chức danh được xét nâng một bậc lương;
- Đối với các ngạch và các chức danh có yêu cầu trình độ đào tạo từ trung cấp trở
xuống và nhân viên thừa hành, phục vụ: Nếu chưa xếp bậc lương cuối cùng trong ngạch
hoặc trong chức danh, thì sau 2 năm (đủ 24 tháng) giữ bậc lương trong ngạch hoặc trong
chức danh được xét nâng một bậc lương
Từ yếu tố đó ta thấy việc tạo động lực giúp nâng cao NSLD không thực sự hiệu quả.
Với một mức lương thấp cộng thêm việc thời gian nâng bậc lương quá lâu như vậy thì dẫn
đến việc người lao động không hứng thú trong công việc và dễ phát sinh một số yếu tố tiêu
cực tác động trái chiều với mong muốn.

Về tiền lương tối thiểu vùng
Trong một thời gian dài, tốc độ tăng năng suất lao động (NSLĐ) của nền kinh tế rất
thấp, thấp hơn nhiều lần so với tốc độ tăng lương. Trong giai đoạn 2000-2013, trong khi

14


NSLĐ của nền kinh tế tăng chưa đến 50% thì mức lương trung bình ở Việt Nam tăng tới 2,8
lần (theo số liệu của Economist Intelligence Unit).
Trong giai đoạn 2000-2015, năng suất lao động phi nông nghiệp chỉ tăng chưa đến
30%. Thế nhưng cũng trong giai đoạn này, đặc biệt là ngay sau bất ổn vĩ mô, lương tối thiểu
liên tục tăng, có năm (2011) còn tăng tới hai lần. Kết quả là trong giai đoạn 2000-2015,
lương tối thiểu thực (sau khi điều chỉnh lạm phát) tính theo tiền đồng tăng tới gần 5 lần, còn
nếu tính theo đô-la Mỹ thì thậm chí còn tăng cao hơn, lên đến hơn 9 lần.
Dựa vào số liệu ta có thể thấy nền kinh tế Việt Nam phải đối diện với một thực tế là
tốc độ tăng năng suất lao động thấp, tốc độ tăng tiền lương cao, khu vực doanh nghiệp suy
yếu, và năng lực cạnh tranh suy giảm. Có thể nói rằng mức lương tuy tăng nhưng không tác
động mạnh đế NSLD của người lao động

Thực tế, mức lương người lao động thực nhận cao hơn nhiều lương ghi trong hợp
đồng làm căn cứ để đóng bảo hiểm xã hội từ 10-14% tùy theo từng vùng. Mức lương để tính
đóng bảo hiểm xã hội của người lao động chiếm 86,3% tiền lương thực nhận, cụ thể tỷ lệ
này theo các vùng như sau: Vùng 1 là 85,4%, vùng 2 là 87,5%, vùng 3 là 86,1% và vùng 4
là 86,7%. Tính trung bình các khoản thu nhập ngoài lương cơ bản như làm thêm giờ, trợ
cấp, hỗ trợ chiếm từ 20-25% tổng thu nhập của người lao động, tức là tiền lương cơ bản chỉ
chiếm 75%-80% thu nhập. Do đó, những tháng không làm thêm giờ, thu nhập sẽ giảm sút,
đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn
Điều tra của Viện Công nhân - Công đoàn thì 19% trả lời lương không đủ sống, 32%
tạm đủ sống, 42% trả lời đủ sống nhưng sống rất tằn tiện, chỉ có 8% trả lời có số dư nhưng
số dư rất ít. Nhận thấy, với mức lương dù đã liên tục tăng qua các năm nhưng nhu cầu sống
của người lao động vẫn chưa được đảm bảo
Như vậy, một thực tế chúng ta thấy được là mức lương tối thiểu vùng tăng qua các
năm nhưng thực tế mức lương này còn qua thấp so với mức sống của người lao động; kéo
theo đó là việc tái sản xuất sức lao động của người lao động chưa thực sự hiệu quả, kèm
theo đó là việc NSLD của người lao động sẽ giảm xuống.

15


CHƯƠNG 4.
MỘT SỐ KẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN
LƯƠNG TỐI THIỂU VÀ NSLD CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG.
4.1. Định hướng thay đổi chính sách tiền lương tối thiểu ở nước ta
Từ những phân tích trên ta nhận thấy tiền lương nói cung và tiền lương tối thiểu nói
riêng tác động khá lớn đến NSLD, nó là nguồn động lực chủ yếu của nền kinh tế đất
nước. Vì vậy, việc tác động vào tiền lương tối thiểu có tác dụng khá lớn làm tăng
NSLD của người lao động và nền kinh tế. Đòi hỏi Chính phủ phải có chính sách phù
hợp để tác động vào tiền lương tối thiểu và tránh các tác động tiêu cực việc tăng
lương.

Đối với tiền lương tối thiểu thì tiền lương trả cho người lao động được trích một phần
từ ngân sách Nhà nước nhưng với tình hình hiện nay của nước ta thì ngân sách còn khá hạn
hẹp trong việc trả lương cho người lao động. Để khắc phục tình trạng trả lương cho người
lao động hiệu quả Chính phủ cần phải xem xét cắt giảm mức tối đa số đối tượng hưởng
lương cũng như các chế độ khác từ ngân sách Nhà nước. Ở nước ta số người hưởng lương
từ ngân sách nhà nước rất nhiều và không kiểm soát được số lượng đó là yếu tố đầu tiên.
Yếu tố thứ hai đó là đối với các doanh nghiệp Nhà nước phải thực hiện tái cơ cấu giảm bớt
gánh nặng ngân sách đối với các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả.
Chính sách tiền lương và vấn đề NSLD cung nhu thu nhập của người lao động là vấn
đề luôn được quan tâm hàng đầu của người làm chính sách và đối với toàn xã hội. Sự thiếu
sót trong tiền lương và thu nhập của người lao động sẽ làm cho NSLD của họ giảm về lâu
dài sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển của cả nền kinh tế đất nước. Vì thế vấn đề cải cách
chính sách tiền lương trở thành yếu tố quan trọng.
-

Những yêu cầu về vấn đề cải cách chính sách tiền lương cần phải xử lý

Tiền lương tối thiểu phải đảm bảo mức sống của người lao động. Cần phải có
phương pháp tiếp cận và phương pháp xác định mức lương chính xác, hiệu quả và phải linh
hoạt; đặc biệt chú trọng đến mối quan hệ nhu cầu mức sống tối thiểu của người lao động với
thị trường, khả năng biến động của nền kinh tế và hội nhập.
Đảm bảo trả lương hiệu quả cho người lao động đảm bảo việc tạo động lực cho họ,
đồng thời phải trả lương phù hợp với mối quan hệ giữa tiền lương với hệ thống chính trị,
chính sách xã hội, an sinh xã hội, BHXH, các ưu đãi người có công và trợ cấp xã hội
Thiết lập và vận hành tốt cơ chế ba bên trong quan hệ lao động một cách thực tế,
đúng nguyên tắc thị trường, tránh hình thức, nhận định chủ quan.
-

Yêu cầu đối với việc thực hiện chính sách tiền lương
16



+ Đối với doanh nghiệp
Tiền lương tối thiểu vùng thì yếu tố đầu tiên và quan trọng hàng đầu là phải đảm bảo
mức sống tối thiểu cho người lao động, đảm bảo tái sản suất sức lao động của người lao
động. Nhà nước trong khi xác định lương tối thiểu phải đảm bảo phù hợp với mặt bằng trên
thị trường đảm bảo lợi ích doanh nghiệp, người lao động, ngân sách Nhà nước; phù hợp với
trình độ phát triển của nền kinh tế
Để đảm bảo công bằng trong giữa người lao động và doanh nghiệp, tiền lương tối
thiểu phải phù hợp với trình độ lao động của nước ta hiện nay, sự đóng góp của họ, cùng với
đó là NSLD của chính bản thân người lao động. Từ đó từng bước thực hiện chính sách tiền
lương gắn với NSLD.
Phải thống nhất cơ chế tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp cụ thể là doanh
nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tiến hành thực hiện các
chính sách nhằm tạo sự linh hoạt của doanh nghiệp trong cơ chế trả lương cho người lao
động dựa vào NSLD cá nhân và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Đối với khu vực hành chính Nhà nước:
Nhà nước cần quy định mức lương thấp nhất trong khi vực Hành chính Nhà nước cao
hơn sao với mức lương tối thiểu chung, tiếp tục mở rộng quan hệ tiền lương để đạt mức
bình quân của khu vực này cao hơn mức tiền lương bình quân trong xã hội. Nghiên cứu xây
dựng thang, bảng lương công chức theo mức lương, để khắc phục việc gắn hệ số lương với
mức lương tối thiểu chung
Thực hiện các chính sách giữ nhân tài, đồng thời từng bước thực hiện trả lương theo
vị trí, chức danh, công việc trong hệ thống hành chính nhà nước và hiệu quả công tác.
4.2. Những biện pháp cụ thể về chính sách tiền lương tối thiểu nhằm tác động làm
tăng NSLD.
4.2.1. Cần nâng cao hơn nữa mức lương tối thiểu cho phù hợp với điều kiện
thực tế
Tiền lương tối thiểu là cơ sở để người lao động tái sản xuất sức lao động làm tăng
NSLD, do vậy nếu tiền lương tối thiểu quá thấp sẽ không đáp ứng được nhu cầu sống của

họ và ảnh hưởng đến khả năng tái sản xuất sức lao động. Tuy nhiên nếu tăng quá cao thì
ngân sách Nhà nước sẽ không đáp ứng được. Nhận thấy tăng lương phải phù hợp với điều
kiện thực tế của ngân sách,
Mặc khác trong bối cảnh nền kinh tế, tiền lương là thước đo sự cống hiến của người
lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Chuẩn mực để đo mức độ cống hiến đó là tiền
lương tối thiểu và hệ số lương. Hệ số lương là cơ sở đo sự phức tạp của lao động và độ hao
17


phí lao động , trong khi đó tiền lương tối thiểu được xác định theo từng thời kỳ , phụ thuộc
vào tốc độ phát triển kinh tế và quan hệ cung cầu trên thị trường.
4.2.2. Hợp lý hóa quan hệ tiền lương,
Trong điều kiện nền kinh tế chưa ổn định nền kinh tế có nhiều biến động, nhu cầu đời
sống luôn thay đổi, việc xác định mối tương quan tiền lương giữa các loại lao động bằng hệ
số lương là thích hợp. Tất cả đều so với một mốc chung là lương tối thiểu
Các ngạch khác nhau thì không nhất thiết đều phải có các ngạch công chức như nhau.
Độ giãn cách của hệ số lương chuẩn từ ngạch sơ cấp lên trung cấp và từ trung cấp lên
đại học là nhỏ. Điều này làm cho các công chức ở các ngạch này không yên tâm làm việc
lâu dài.
Phải tiến hành xây dựng tiêu chuẩn chức danh công chức trước, rồi mới xây dựng hệ
số lương cho các ngạch, mới biết mỗi ngạch cần có những ngạch bậc gì về hệ số lương
chuẩn bao nhiều thì phù hợp
4.2.3. Cơ chế quản lý tiền lương
Đối với khu vực hành chính, sự nghiệp, quỹ tiền lương được ngân sách cấp, do vậy
Nhà nước phải quản lý chặt chẽ. Nhà nước giao quỹ tiền lương cho các đơn vị dựa vào biên
chế mẫu (trên cơ sở xác định chức năng, nhiệm vụ, khối lượng công việc) và tiền lương cấp
bậc bình quân.
Đối với DNNN, Nhà nước chỉ quản lý đơn giá tiền lương để tính các yếu tố đầu vào
của sản xuất, xác định giá thành sản phẩm làm căn cứ xác định lợi tức chịu thuế của doanh
nghiệp. Việc trả lương cho người lao động phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của

từng doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Nhà nước quản lý bằng các điều luật
nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động.

18


KẾT LUẬN
Tiền lương tối thiểu là vấn đề quan trọng không chỉ so với đời sống cá nhân người
lao động mà đối với toàn xã hội bởi lẽ nó là cơ sở để thuê mướn, trả công lao động trong
nền kinh tế thị trường.
Tiền lương tối thiểu được coi là lưới an toàn cho người lao động làm công ăn lương.
Nó là công cụ pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động khi tham gia vào
quan hệ lao động. Tiền lương tối thiểu còn thiết lập mối quan hệ ràng buộc giữa người lao
động và người sử dụng lao động ( doanh nghiệp) góp phần làm tăng NSLD thúc đẩy sản
xuất phát triển. Tuy nhiên, tiền lương tối thiểu áp dụng cho người lao động hiện nay còn
thấp, chưa đảm bảo chức năng, vai trò đảm bảo mức sống và tạo động lực làm tăng NSLD.
Vì vậy, cần có chính sách tiền lương tối thiểu hợp lý hơn nhằm bảo vệ người lao động đúng
mức. Hơn nữa, cần xóa bỏ việc quy định khác nhau về tiền lương tối thiểu giữa khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các khu vực kinh tế trong nước để tạo sự cạnh tranh
bình đẳng trong sử dụng lao động giữa các khu vực kinh tế đó.
Trước tình trạng đó, việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về tiền lương
tối thiểu là vấn đề cần thiết. Hệ thống pháp luật tiền lương nói chung và tiền lương tối thiểu
nói riêng cần được sửa đổi, bổ sung để bảo vệ người lao động một cách hợp lý, linh hoạt và
bền vững.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình tiền lương tiền công.
2. />3. />4. />5. />6. />7. />
20



×