Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

VIỆC GIẢI QUYẾT mối QUAN hệ GIỮA HAI NHIỆM vụ dân tộc và dân CHỦ TRONG GIAI đoạn CÁCH MẠNG 1930 – 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.24 KB, 8 trang )

Chuyên đề
VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NHIỆM VỤ DÂN TỘC VÀ DÂN
CHỦ TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG 1930 – 1945
Nguyễn Thị Hương MÃ
MÃ: SU15 (NEW)
I. PHẦN MỜ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn Lịch sử ở trường THPT là môn Khoa học Xã hội, mỗi con người Việt Nam
chỉ có thể phát triển mọi năng lực sẵn có trên nền tảng những tri thức về lịch sử và văn
hoá dân tộc. Môn Lịch sử là môn học có nhiều cơ hội nhất và khả năng lớn nhất trong
nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giáo dục và rèn luyện đạo đức
con người Việt Nam
Lịch sử Việt Nam là lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước, nhân dân Việt Nam
làm ra lịch sử bằng xương máu của mình, nên vô cùng yêu quý lịch sử dân tộc, qua lịch
sử nuôi dưỡng ý chí dân tộc và lưu truyền cả một kho tàng kinh nghiệm đấu tranh giành
và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, nhiệm vụ xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa luôn gắn chặt với nhiệm
vụ bảo vệ đất nước, giữ gìn chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, môn Lịch sử càng
phải đặt đúng vị thế và chức năng của nó trong hệ thống giáo dục phổ thông để thế hệ trẻ
lớn lên qua một nền giáo dục phổ thông với niềm yêu mến lịch sử dân tộc, có một vốn
hiểu biết cần thiết về lịch sử và văn hoá dân tộc và nhân loại, luôn có một niềm tự tin
vững chắc, biết kế thừa các truyền thống dân tộc, hình thành phẩm chất của người công
dân Việt Nam.
Dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng ở trường THPT là quá trình mà
trong đó vai trò của người giáo viên Lịch sử là người hướng dẫn và tổ chức điều khiển
học sinh phát triển tư duy lịch sử nhất là tư duy độc lập, sáng tạo, phải làm cho quá trình
học tập của học sinh trở thành quá trình chủ động học tập, tiến dần lên quá trình tự
nghiên cứu độc lập. Nhiệm vụ tư duy đặt ra cho học sinh nhất là học sinh trường THPT
chuyên phần lớn là những vấn đề lịch sử tổng hợp, sâu rộng. Vì vậy, học sinh chuyên
cần có một khối lượng lớn tri thức đã được thông hiểu và nắm vững, biết vận dụng kiến
thức đã học để hiểu biết kiến thức mới và giải quyết được các dạng bài tập lịch sử.


Để thực hiện mục tiêu trên, chúng tôi lựa chọn và biên soạn chuyên đề: Việc giải
quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong giai đoạn cách mạng
1930 – 1945. Đây là một nội dung quan trọng trong phần Lịch sử Việt Nam lớp 12, một
nội dung thường gắn với các kỳ thi của học sinh 12 với mục đích nhằm chia sẻ với các
thầy, cô giáo dạy Lịch sử nói chung và các thầy, cô giáo đang dạy đội tuyển cũng như


học sinh giỏi đang ôn luyện đội tuyển Quốc gia môn lịch sử nói riêng về những kiến
thức cơ bản và cách tiếp cận vấn đề trên, góp phần vào việc tổ chức cho học sinh nghiên
cứu và ôn luyện về vấn đề lịch sử quan trọng này.
2. MỤC ĐÍCH CỦA CHUYÊN ĐỀ
Nghiên cứu chuyên đề này nhằm hai mục đích:
1. Khẳng định sự cần thiết kết hợp các kĩ năng nghiên cứu kiến thức, xác định và
giải quyết mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử với
nhau; so sánh, phân tích, phản biện các nhận định, luận điểm lịch sử trong nhiều giai
đoạn lịch sử...; vận dụng, liên hệ kiến thức lịch sử trong chương trình học để giải quyết
những vấn đề thực tiễn đặt ra.
2. Làm sáng tỏ việc giải quyết hai nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam giai đoạn
1930 – 1945 là nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến nhằm hai mục tiêu là mục
tiêu dân tộc và dân chủ
II. PHẦN NỘI DUNG
Việt Nam là một nước thuôc địa, do đó việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề dân chủ trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một trong
những nội dung cơ bản trong các giai đoạn cách mạng Việt Nam. Trong tác phẩm
Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã phân biệt hai loại cách mạng: “giai cấp kách
mệnh” (cách mạng tư sản, cách mạng vô sản) và “dân tộc kách mệnh”, đồng thời xác
định tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là “dân tộc kách mệnh”. Đó là cuộc
cách mạng của dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc.
Tháng 2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam mới ra đời, thông qua Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng, Cương lĩnh đã xác định mục tiêu chiến lược là “độc lập dân tộc” và

“ruộng đất cho dân cày”, tuy nhiên tùy vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà có cách giải
quyết thích hợp giữa hai vấn đề đó.
Trong giai đoạn cách mạng 1930 – 1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã giải
quyết linh hoạt, sáng tạo mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến nhằm thực hiện hai mục tiêu là dân tộc và dân chủ, đưa đến sự thành công
của cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ nhằm đi đến mục tiêu
cuối cùng là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Vấn đề dân tộc
và dân chủ có tác động chi phối toàn bộ vấn đề khác: lực lượng cách mạng, khẩu hiệu
đấu tranh, hình thức tổ chức tập hợp lực lượng đấu tranh, hình thức đấu tranh và quyết
định đến sự thành, bại của cách mạng


1. Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến trong giai đoạn cách mạng 1930 – 1931
Những năm 1929 - 1933, thế giới tư bản lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm
trọng trên quy mô lớn, để lại hậu quả hết sức nặng nề. Cuộc khủng hoảng đó đã tác động
đến Việt Nam, làm trầm trọng thêm tình trạng đói khổ của các tầng lớp nhân dân lao
động. Mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản là mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ
phong kiến. Đầu năm 1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân đảng lãnh
đạo đã bị thất bại. Chính quyền thực dân tiến hành một chiến dịch khủng bố dã man
những người yêu nước. Điều đó càng làm tăng thêm những mâu thuẫn và tình trạng bất
ổn trong xã hội Việt Nam.
Tháng 2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, là bước ngoặt vĩ đại vĩ đại trong
lịch sử Việt Nam. Từ đây, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam được
đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng có đường lối
cách mạng khoa học và sáng tạo, có tổ chức chặt chẽ đã quy tụ lực lượng toàn dân tộc
Việt Nam, kịp thời lãnh đạo nhân dân ta bước vào một thời kì cách mạng mới. Sự ra đời
của Đảng đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng kéo dài mấy chục

năm đầu thế kỷ XX, đưa cách cách mạng Việt Nam bước lên một con đường mới - con
đường đấu tranh giành độc lập dân tộc và hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi Đảng ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn
Ái Quốc soạn thảo đã xác định nhiệm vụ cho cách mạng Việt Nam là đánh đổ ách thống
trị của đế quốc Pháp, bọn phong kiến và phản cách mạng làm cho nước Việt Nam được
độc lập tự do; lập chính phủ công nông binh; tổ chức quân đội công nông, tịch thu hết
sản nghiệp của đế quốc; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn phản cách mạng chia
cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất v.v.
Như vậy, nhiệm vụ cách mạng được đề ra bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân
chủ, chống đế quốc và phong kiến nhưng nổi lên hàng đầu là chống đế quốc để giành
độc lập dân tộc, quyền lợi ruộng đất của nông dân chỉ đặt ra ở mức độ thích hợp. Điều
đó đáp ứng đúng đòi hỏi khách quan của lịch sử, vì ở nước Việt Nam thuộc địa, mâu
thuẫn trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành nên
những mâu thuẫn đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức
và bóc lột càng tăng thì mâu thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn
vong của dân tộc càng phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và
hình thức. Ngược lại, sự xung đột, đấu tranh về quyền lợi riêng của mỗi giai cấp trong
nội bộ dân tộc được giảm thiểu và không quyết liệt như cuộc đấu tranh dân tộc. Đây là


sự sáng tạo của Người, không rập khuôn máy móc học thuyết về đấu tranh giai cấp vào
điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào quần chúng phát triển rộng khắp chưa từng
có trong giai đoạn trước đó, với đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh. Tháng 10/1930, Ban
 
Chấp
 hành
 Trung
 ương

 lâm
 thời
 của
 Đảng
 họp
 lần
 thứ
 nhất
 ở
 Hương
 Cảng
 (Trung
 
Quốc),
 Hội
 nghị
 thông
 qua
 Luận
 cương
 chính
 trị
 do
 Trần
 Phú
 khởi
 thảo.
 Luận
 cương
 

chính
 trị
 của
 Đảng
 đã
 xác
 định
 hai
 nhiệm
 vụ
 chiến
 lược
 của
 cách
 mạng
 là
 đánh
 đổ
 
phong
  kiến
  và
  đánh
  đổ
  đế
  quốc
  có
  quan
  hệ
  khăng

  khít
  với
  nhau,
  không
  tách
  rời
 
nhau
  vì
  “có
  đánh
  đổ
  đế
  quốc
  chủ
  nghĩa
  mới
  phá
  tan
  được
  giai
  cấp
  địa
  chủ
  và
  làm
 
cách
  mạng
  thổ

  địa
  thắng
  lợi,
  mà
  có
  phá
  tan
  được
  chế
  độ
  phong
  kiến
  thì
  mới
  đánh
  đổ
 
được
  đế
  quốc
  chủ
  nghĩa”.
 Như
 vậy,
 Luận
 cương
 chưa
 nêu
 được
 mâu

 thuẫn
 chủ
 yếu
 
của
 xã
 hội
 Đông
 Dương,
 không
 đưa
 ngọn
 cờ
 dân
 tộc
 lên
 hàng
 đầu
 mà
 nặng
 về
 đấu
 
tranh
 giai
 cấp
 và
 cách
 mạng
 ruông

 đất.
 Những
 hạn
 chế
 này
 được
 dần
 dần
 khắc
 phục
 
trong
 thực
 tiễn
 đấu
 tranh
 cách
 mạng.
 

  Dưới
  sự
  lãnh
  đạo
  của
  Đảng
  phong
  trào
  cách
  mạng

  1930
  –
  1931
  nổ
  ra
  trong
thời gian dài, liên tục,
 rộng
 khắp
 trong
 cả
 nước,
 từ Bắc chí Nam, từ nông thôn đến
thành thị; từ các nhà máy đến các hầm mỏ và đồn điền, nhưng mang tính thống nhất
cao nhằm chống lại kẻ thù của dân tộc là đế quốc và bọn phong kiến tay sai. Từ
phong trào này,
  một
  hình
  thức
  chính
  quyền
  mới,
  xuất
  hiện
  đầu
  tiên
  ở
  hai
  tỉnh
 

Nghệ
  An
  và
  Hà
  Tĩnh.
  Đây
  là
 mẫu
  hình
  chính
  quyền
  cách
  mạng
 đầu
  tiên
  ở
  Việt
 
Nam,
 một
 chính
 quyền
 nhà
 nước
 của
 dân,
 do
 dân,
 vì
 dân.

 Tuy
 nhiên,
 phong
 trào
 
nổ
 ra
 khi
 Đảng
 mới
 ra
 đời,
 chưa
 có
 kinh
 nghiệm
 trong
 lãnh
 đạo
 nên
 không
 tránh
 
khỏi
  sai
  lầm
  nhất
  là
  trong
  việc

  giải
  quyết
  mối
  quan
  hệ
  giữa
  hai
  nhiệm
  vụ
  phản
  đế
 

  phản
  phong,
  do
  đó
  chưa
  chú
  trọng
  tập
  hợp
  lực
  lượng
  phản
  đế
  vào
  mặt
  trận
 

dân
  tộc
  thống
  nhất.
  Phải
  trải
  qua
  thực
  tiễn
  đấu
  tranh,
  những
  hạn
  chế
  đó
  mới
  dần
 
dần
 được
 khắc
 phục.
 
2.
  Việc
  giải
  quyết
  mối
  quan
  hệ

  giữa
  hai
  nhiệm
  vụ
  chống
  đế
  quốc
  và
  chống
 
phong
 kiến
 trong
 giai
 đoạn
 cách
 mạng
 1936
 –
 1939
 
Từ
 đầu
 những
 năm
 30
 của
 thế
 kỉ
 XX,

 tình
 hình
 thế
 giới
 và
 trong
 nước
 có
 nhiểu
 
biến
  chuyển.
  Quán
  triệt
  chủ
  trương
  được
  đề
  ra
  tại
  Đại
  hội
  lần
  thứ
  7
  của
  Quốc
  tế
 
Cộng

  sản,
  tháng
  7/1936,
  Hội
  nghị
  Ban
  Chấp
  hành
  Trung
  ương
  lần
  thứ
  nhất
  của
 
Đảng
 Cộng
 sản
 Đông
 Dương
 đã
 họp
 ở
 Thượng
 Hải
 (Trung
 Quốc),
 Hội
 nghị
 căn

 cứ
 
vào
 tình
 hình
 cụ
 thể
 ở
 Việt
 Nam
 để
 đề
 ra
 đường
 
 lối
 và
 phương
 pháp
 đấu
 tranh
 thích
 
hợp.
 


Hội
 nghị
 đã

 khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ Việt
Nam là chống đế quốc chống
 phong
 kiến
 không
 hề
 thay
 đổi.
 Nhưng
 để
 phù
 hợp
 với
 
tình
  hình
  mới,
  Đảng
  xác
  định
  kẻ
  thù
  của
  nhân
  dân
  Việt
  Nam
  lúc
  này
  là

  bọn
  phản
 
động
 thuộc
 địa
 và
 tay
 sai
 của
 chúng
 không
 thực
 hiện
 những
 chính
 sách
 mà
 Chính
 
phủ
  Mặt
  trận
  nhân
  dân
  Pháp
  đã
  ban
  hành,
  đây

  là
  bộ
  phận
  nguy
  hiểm
  nhất
  trong
 
toàn
 bộ
 thực
 dân
 Pháp
 ở
 Đông
 Dương,
 tức
 là
 bộ
 phận
 nguy
 hiểm
 nhất
 trong
 kẻ
 thù
 
của
  dân
  tộc.

  Chống
  lại
  bộ
  phận
  nguy
  hiểm
  nhất
  trong
  kẻ
  thù
  của
  dân
  tộc
  nên
  phong
 
trào
 mang
 tính
 chất
 dân
 tộc.
 
 
Để
 thực
 hiện
 mục
 tiêu
 đó,

 Đảng
 chủ
 trương
 tạm
 gác
 khẩu
 hiệu
 độc
 lập
 dân
 tộc
 

 cách
 mạng
 ruộng
 đất,
 chỉ
 chủ
 trương
 đấu
 tranh
 đòi
 mục tiêu trực tiếp, trước mắt là
chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ,
cơm áo, hòa bình. Đó
 là
 những
 quyền
 dân

 chủ
 nhưng
 cũng
 là
 quyền
 lợi
 của
 dân
 tộc
 

 phải
 đấu
 tranh
 đòi
 từ
 tay
 kẻ
 thù
 dân
 tộc.
 
 
Như vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất (7/1936) đã nhận thức
được tầm quan trọng của nhân tố dân tộc ở một nước thuộc địa, đã giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu chiến lược của cách mạng, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề, mối quan hệ giữa phong trào cách mạng ở Đông
Dương và phong trào cách mạng
 thế
 giới,

 bước
 đầu
 giải
 quyết
 mối
 quan
 hệ
 giữa
 vấn
 
đề
 giai
 cấp
 và
 vấn
 đề
 dân
 tộc.
 Sự
 chỉ
 đạo
 sáng
 tạo
 của
 Đảng
 đã
 tập
 hợp
 được
 đông

 
đảo
 quần
 chúng
 đấu
 tranh
 trong
 cuộc
 vận
 động
 dân
 chủ
 những
 năm
 1936
 -­‐
 1939.
 

 Phong trào dân chủ 1936 – 1939 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương diễn ra trên quy mô rộng lớn từ Bắc, Trung, Nam, từ thành thị đến nông thôn,
qua phong trào đông đảo quần chúng nhân dân như công nhân, nông dân, tư sản,
trung tiểu địa chủ đã đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất. Mặc dù khẩu hiệu
đấu tranh chứa đựng nội dung cải cách dân chủ trong khuôn khổ chính quyển thực
dân cho phép, nhưng phong trào hoàn toàn không có tính cải lương, phong trào đã
buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách trước mắt. Đó thực sự là
cuộc đấu tranh thực hiện mục tiêu dân tộc và dân chủ của cuộc cách mạng.
3.
  Việc
  giải

  quyết
  mối
  quan
  hệ
  giữa
  hai
  nhiệm
  vụ
  chống
  đế
  quốc
  và
 
chống
 phong
 kiến
 trong
 giai
 đoạn
 cách
 mạng
 1939
 –
 1945
 
Tháng 9/1939 Chiến tranh Thế giới thứ II bùng nổ. Ở châu Âu, phát xít Đức kéo
vào thôn tính nước Pháp (6/1940), Chính phủ Pháp đầu hàng quân Đức, thực hiện
chính sách thù địch đối với các lực lượng tiến bộ trong nước và phong trào cách
mạng các nước thuộc địa. Ở Đông Dương, thực dân Pháp đã “phát xít hóa” bộ máy
thống trị tăng cường đàn áp cách mạng, bóc lột nhân dân Đông Dương.



Sự khủng bố và bóc lột của thực dân Pháp ở Đông Dương làm cho mâu thuẫn giữa
nhân dân Đông Dương và thực dân Pháp phát triển gay gắt. Tình hình đó đòi hỏi Đảng
Cộng sản Đông Dương cần thay đổi chiến lược đấu tranh. Tháng 11/1939, Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng họp đã xác định nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh trước mắt
của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông
Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Nghị quyết của Đảng đánh dấu sự thay
đổi quan trọng về chỉ đạo chiến lược, thể hiện sự nhạy bén về chính trị trước sự thay đổi
của tình hình thế giới và trong nước, đưa nhân dân vào thời kì trực tiếp vận động cứu
nước.
Tháng 9/1940, Nhật vào miền Bắc Việt Nam, Pháp đầu hàng nhanh chóng. Nhật
giữ nguyên bộ máy thống trị của Pháp để bóc lột về kinh tế và đàn áp cách mạng.
Phát xít Nhật và tay sai ra sức dọn đường hất cẳng Pháp nhằm độc chiếm Đông
Dương. Chính sách vơ vét, bóc lột của Pháp - Nhật đã đẩy nhân dân ta tới chỗ cùng
cực phải “chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật”, mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân
ta với Pháp - Nhật đã trở nên sâu sắc.
Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng. Trên cơ sở phân tích tình hình quốc tế và trong nước, phân tích thái
độ chính trị của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam, Hội nghị nêu rõ ở nước ta
mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta
với bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật, bởi vì dưới hai tầng áp bức Nhật – Pháp, “quyền
lợi của tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào
bằng”. “Pháp – Nhật ngày nay không phải chỉ là kẻ thù của công nông” mà là kẻ thù
chung của cả dân tộc.
Hội nghị khẳng định: “Cần phải thay đổi chiến lược. Sự thay đổi về kinh tế, chính
trị Đông Dương, lực lượng giai cấp Đông Dương, buộc Đảng ta phải thay đổi chính sách
cách mạng ở Đông Dương cho hợp với nghuyện vọng chung của toàn thể nhân dân
Đông Dương…”. Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật “không phải riêng của của giai cấp vô
sản và dân cày, mà là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Đông Dương”, “cuộc cách

mạng ở Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc
cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một cuộc cách
mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”.
Hội nghị chủ trương: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt
dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc… Nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” . Vì vậy, phải tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ


địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”. Quyền lợi của nông dân được giải quyết ở một
mức độ thích hợp bằng việc thực hiện các khẩu hiệu: tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc
và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô,
giảm tức.
Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông
Dương, nhằm thực hiện chính sách “dân tộc tự quyết”. “Các dân tộc sống trên cõi Đông
Dương sẽ tùy theo ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng
thành thành một dân tộc quốc gia tùy ý”. Cách giải quyết đó có tác dụng phát huy sức
mạnh mỗi dân tộc trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, đập tan những luận điệu
xuyên tạc của kẻ thù về vấn đề dân tộc, đồng thời tạo điều kiện đoàn kết ba dân tộc Việt
Nam, Lào, Campuchia trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung.
Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (5/1941) đã thể
hiện đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề “dân tộc” và “giai cấp”.
Hội nghị đề ra chủ trương đúng đắn trong việc giải quyết “nhiệm vụ giải phóng dân tộc”
và nhiệm vụ “cách mạng ruộng đất”. Hồ Chí Minh đã vận dụng “phương pháp làm việc
biện chứng” của C. Mác, phân tích thực tiễn xã hội Việt Nam thuộc địa, không máy móc,
coi vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề nông dân, nhưng cũng không xem quyền
lợi cơ bản của nông dân là vấn đề ruộng đất. Người nhấn mạnh yêu cầu khách quan của
lịch sử cách mạng ở thuộc địa là giành độc lập dân tộc. Chủ trương giương cao ngọn cờ
giải phóng dân tộc và quan điểm khởi nghĩa dân tộc là sự chuẩn bị về đường lối và

phương pháp cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám sau này.
Thực hiện nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (5/1941),
phong trào cách mạng Việt Nam có nhiều chuyển biến, lực lượng chính trị và lực lượng
vũ trang ngày càng phát triển, căn cứ địa cách mạng được mở rộng. Đến năm 1945,
công cuộc chuẩn bị được tiến hành chu đáo. Toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng đón chờ
thời cơ vùng dậy Tổng khởi nghĩa giành độc lập tự do cho dân tộc.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 là thắng lợi của đường lối giải phóng
dân tộc đúng đắn của Đảng và tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh. “Chủ tịch Hồ
Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn
đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc
đấu tranh chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
III. KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ XUẤT
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, hai vấn dân tộc và dân
chủ có tác động chi phối toàn bộ vấn đề khác: lực lượng cách mạng, khẩu hiệu đấu tranh,


hình thức tổ chức tập hợp lực lượng đấu tranh, hình thức đấu tranh và quyết định đến sự
thành, bại của cách mạng. Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ trở thành trung tâm, nhằm đi đến mục tiêu cuối cùng là giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Vấn đề dân tộc và dân chủ
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương đã nhận thức rõ nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, trong việc tổ
chức thực hiện, do tác động của những yếu tố khách quan và chủ quan, việc giải quyết
mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến chưa hoàn toàn phù hợp
với điều kiện của nước thuộc địa, có lúc quá chú trọng đến đấu tranh giai cấp và
 cách
 
mạng
 ruông
 đất, không

 đưa
 ngọn
 cờ
 dân
 tộc
 lên
 hàng
 đầu.
 Từ những thành công cũng
như sai lầm dù là tạm thời, Đảng đã rút bài học kinh nghiệm quan trọng. Nhờ đó, Đảng
ta đã lôi cuốn được đông đảo nông dân đi theo giai cấp công nhân, động viên được các
tầng lớp nhân dân khác cùng với công, nông bước lên trận tuyến cách mạng chống đế
quốc và phong kiến.
Trong quá trình cách mạng, những nhiệm vụ chiến lược đó đã được cụ thể hoá
bằng những mục tiêu thích hợp với từng thời kì, dựa trên sự phân tích những mối quan
hệ giai cấp cụ thể và khả nǎng phân hoá hàng ngũ kẻ thù đế quốc và phong kiến, nhằm
tập trung ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù nguy hại nhất trong từng thời điểm. Song, dù ở
bất cứ thời kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra, về cơ
bản đều bao hàm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, về cơ bản đều gắn liền hai nhiệm
vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
Qua việc trình bày chuyên đề này, chúng tôi nhận thấy đây là vấn đề quan trọng
trong việc giảng dạy và ôn luyện đối với học sinh giỏi môn Lịch sử. Do đó, chúng tôi hy
vọng với những vấn đề đưa ra sẽ được đồng nghiệp góp ý để đạt đích chung là giúp học
sinh bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu về kiến thức, rèn kĩ năng cơ bản của bộ môn Lịch
sử, đặc biệt là kĩ năng phân tích, so sánh, vận dụng kiến thức trong học tập bộ môn Lịch
sử ở trường THPT chuyên. Và chỉ có như vậy, những kiến thức lịch sử mà các em thu
nhận được mới thực sự là của mình cũng như sẽ giúp ích cho việc học tập và công tác
của các em sau này.




×