Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Mối quan hệ giữa luật sư và các cơ quan, người tiến hành tố tụng – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.33 KB, 16 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI TIỂU LUẬN
LUẬT SƯ VÀ NGHỀ LUẬT SƯ

Chuyên đề: Mối

quan hệ giữa Luật sư và các cơ quan, người

tiến hành tố tụng – Thực trạng và giải pháp

Họ và tên: Nguyễn Thúy Diễm
Sinh ngày 11 tháng 12 năm 1984
SBD:08 / Lớp: LS khóa XIV

Cần Thơ, ngày 28 tháng 07 năm 2013

1


MỤC LỤC

1. GIỚI THIỆU
Luật sư là một nghề đang được xã hội quan tâm, đặc biệt là trong điều kiện
kinh tế thị trường bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Luật sư được hiểu như
một nghề dựa trên sự am hiểu pháp luật và áp dụng pháp luật 1, họ gánh vác sứ mệnh
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của khách hàng nhưng đồng thời cũng có trách
nhiệm tôn trọng tính tối cao của pháp luật, bảo đảm pháp chế. Với thiên chức của
nghề, người luật sư đòi hỏi cần phải nhận thức và ứng xử một cách có đạo đức trong
xã hội, về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể, tuân thủ những giá


trị chuẩn mực của cuộc sống đã đem lại. Trong các mối quan hệ xã hội đó, có thể nói,
Cơ quan tiến hành tố tụng (gọi tắt là “CQTHTT”), người tố tụng (gọi tắt “NTHTT” )
là những người mà Luật sư phải tiếp xúc thường xuyên và làm việc rất nhiều như một
hoạt động cơ bản hàng ngày.
Do đó, việc nhận thức được bản chất mối quan hệ giữa Luật sư và CQTHTT,
NTHTT sẽ giúp cho Luật sư có được chuẩn mực đạo đức nhất định cũng như bản
lĩnh khi hành nghề. Nếu nhận thức được sâu sắc và đúng bản chất mối quan hệ này sẽ
giúp nâng cao ý thức tự giác của luật sư trong việc chấp hành các nghĩa vụ đạo đức
và ứng xử nghề nghiệp trong hành nghề và trong giao tiếp xã hội và cũng giúp cho
mối quan hệ tránh bị đẩy về hai thái cực hoàn toàn đối kháng nhau về mục đích, ý
nghĩa và cả quyền lợi trong công việc.
Nhận thức được mối liên hệ chặt chẽ đó, Bộ tư pháp đã có hướng dẫn và Liên
đoàn Luật sư đã ban hành “Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư” để
hạn chế những sai lầm, ngộ nhận và vi phạm trong hoạt động nghề nghiệp, nâng cao
1
2


được hiệu quả trong việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng, góp phần thực hiện chức
năng xã hội của luật sư, tạo lập vị thế và tiếng nói phản biện mạnh mẽ trong sự
nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền, tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong
hoạt động tư pháp, giúp Luật sư dành được sự tôn trọng từ phía CQTHTT và NTHTT
nói riêng và từ xã hội nói chung. Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ tổng hợp và
phân tích mối quan hệ giữa Luật sư với CQTHTT, NTHTT trên thực tế ở một khía
cạnh trung thực và khách quan cũng như mong muốn được đề xuất một vài giải pháp
từ quan điểm cá nhân cho thực trạng này.
2. MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT SƯ VÀ CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ
TỤNG, NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
Trước khi nhìn nhận vào khía cạnh thực tế của mối quan hệ này, người viết sẽ
làm rõ vai trò, nhiệm vụ của luật sư cũng như những quy định về ranh giới đạo đức,

ứng xử của luật sư trong mối quan hệ này.
2.1 Vai trò, nhiệm vụ của Luật sư:
Theo điều 3 của Luật luật sư (2006) cũng như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật luật sư (2012) đã khẳng định rất rõ ràng chức năng xã hội của luật sư là góp
phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân; quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức; phát triền kinh tế, xã hội; xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Với vai trò cao quý đó, Luật sư được hành nghề trong các hoạt động như: tham
gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là
người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự; tham gia tố tụng với tư cách là
người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo
quy định của pháp luật; thực hiện tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng cho khách

3


hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật; thực hiện dịch vụ pháp lý
khác theo quy định của Luật này (Quy định tại điều 22 Luật luật sư năm 2006).
Như vậy, từ những quy định trên pháp luật, luật sư quả là được hành nghề trong
phạm vi khá rộng, đại diện cho mọi mặt của đời sống pháp lý hiện tại để nhằm xây
dựng và bảo vệ nhà nước pháp quyền Việt Nam. Song trên thực tế, Luật sư có được
tạo điều kiện đề thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình hay không?
2.2 Bản chất mối quan hệ giữa Luật sư với CQTHTT, NTHTT
2.2.1 Quan hệ giữa luật sư với người tiến hành tố tụng là quan hệ giữa những
đồng nghiệp trong công tác pháp luật.
Luật sư, thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên… về thực chất là những đồng

nghiệp của nhau, họ là những luật gia, người làm công tác pháp luật, người thực thi
pháp luật. Tuy cương vị và tư cách tố tụng mỗi người mỗi lúc có khác nhau nhưng
trên hết họ là những đồng nghiệp của nhau trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp
luật, cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp.
Phẩm chất của những người được xem là đồng nghiệp này có ảnh hưởng đến
thanh danh, uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng, của hệ thống các cơ quan bảo
vệ pháp luật nói chung. Dưới mắt công chúng và cũng là sự tồn tại khách quan, họ là
những người “cùng hội, cùng thuyền”. Chưa kể theo truyền thống một số nước,
những người này thường có sự chuyển hóa nghề nghiệp cho nhau, chẳng hạn một
người trước khi được xem xét bổ nhiệm chức danh thẩm phán, nhất thiết phải trải qua
cương vị luật sư với một số thâm niên nhất định. Ở Việt Nam ta, theo Luật Luật sư,
thì những người là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên… đến tuổi hưu hoặc
chuyển ngành, có thể gia nhập đoàn luật sư để trở thành luật sư. Trong thực tế, mối
quan hệ giữa luật sư và công chức ở các cơ quan tiến hành tố tụng là mối quan hệ đan
xen, bổ sung lẫn nhau.

4


2.2.2. Quan hệ giữa luật sư với người tiến hành tố tụng là quan hệ bình đẳng,
tôn trọng vì công lý.
Sự bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau giữa những người làm công tác pháp luật
vốn là một truyền thống xuất phát từ quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của mỗi chủ thể. Thái độ tôn trọng lẫn nhau giữa những đồng nghiệp giúp cho mỗi
người ý thức trách nhiệm hơn trước công việc và nâng cao lòng tự trọng. Sự tôn
trọng lẫn nhau giữa những người hoạt động pháp luật làm cho tính tôn nghiêm ở
chốn pháp đình càng được đề cao, tạo nên vẻ đẹp cho“văn hóa pháp đình”, làm mẫu
mực cho công chúng noi theo, làm tấm gương trong việc tuyên truyền pháp luật.
Trong hoạt động nghề nghiệp, giữa các cơ quan và các cá nhân không tránh
khỏi có những lúc có ý kiến bất đồng, đối lập nhau… Đó là điều tất nhiên trong việc

tìm ra chân lý, tuy nhiên đó cũng chỉ là sự bất đồng về quan điểm pháp lý, chứ không
nên và không thể là sự bất đồng, mâu thuẫn đối kháng giữa những cá nhân và tổ chức
cơ quan. Không thể đem những bất đồng về quan điểm pháp lý vào cuộc sống đời
thường, vào những quan hệ thường nhật của những đồng nghiệp. Pháp đình phải
là “ngôi nhà chung” của những người làm công tác pháp luật.
2.2.3 Quan hệ giữa luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng còn là quan hệ
phụ thuộc và hỗ tương nhau.
Khi xác định hoạt động luật sư là hoạt động bổ trợ tư pháp thì cũng đã hàm ý
hoạt động này phải có sự liên kết, phải mang yếu tố phụ thuộc, phải được sự hỗ trợ từ
nhiều phía. Ngược lại, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể thiếu sự bổ trợ
tư pháp từ luật sư.
Luật sư không phải là những người tiến hành tố tụng nhưng hoạt động tố tụng
không thể thiếu vắng luật sư. Sự có mặt của luật sư không chỉ do yêu cầu của đương
sự… mà trong nhiều trường hợp là do sự trưng cầu của Tòa án hoặc Viện kiểm sát
hoặc do cơ quan điều tra… Trong nhiều trường hợp, sự hiện diện của luật sư là bắt

5


buộc, không thể thiếu. Nếu thiếu vắng luật sư thì hoạt động tố tụng sẽ bị đình trệ,
gián đoạn, không tiến hành được.
2.3 Nhận diện phạm vi mối quan hệ giữa luật sư với CQTHTT và NTHTT
Theo quy định của pháp luật về tố tụng, Luật sư tham gia tố tụng với tư cách
là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
các đương sự khác trong vụ án. Trong mối quan hệ của luật sư với các CQTHTT thì
mối quan hệ giữa luật sư và tòa àn, luật sư và thẩm phán là thường xuyên và quan
trọng hơn hết. Với tư cách là một người bảo vệ công lý thì luật sư phải cân bằng
quyền lợi của khách hàng và tính nghiêm minh của pháp luật.
Từ thực tiễn tham gia tố tụng, có thể nhận thấy mối quan hệ giữa luật sư với
CTHTT chủ yếu tập trung vào các hành vi ứng xử theo các phạm vi sau đây:

- Tiếp xúc, nhận diện chính xác các CQTHTT, người THTT để làm thủ tục
tham gia tố tụng, tham gia các buổi hỏi cung, làm việc giữa điều tra viên, kiểm sát
viên và thẩm phán với bị can, bị cáo; tiến hành một số hoạt động, thao tác, kỹ năng,
thực hiện các quyền và nghĩa vụ, những việc được làm và không nên làm của người
bào chữa trong các giai đoạn tố tụng hình sự… Luật sư phải biết vận dụng, ứng xử
linh hoạt, đúng đắn khi tham gia vào từng phạm vi công việc hay giai đoạn tố tụng,
đặt yêu cầu hay đề xuất, kiến nghị được chính xác, phù hợp.
- Nhận thức và ứng xử khi tham gia phiên tòa của luật sư (và thông qua luật
sư, là thái độ ứng xử của khách hàng) với các thành phần NTHTT về vị trí, vai trò
của luật sư góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, trên cơ sở bảo vệ các
quyền và lợi ích khách hàng.
- Nhận thức và ứng xử trong cuộc sống, với truyền thông, đảm bảo cho việc xử
lý các quan hệ này một cách lành mạnh, chuẩn mực, không có hành động lôi kéo, làm
trung gian, móc nối các CQTHTT và người THTT vào việc làm trái pháp luật, hoặc
cố ý gây nhầm tưởng về sự quen biết nhằm tác động đến sự lựa chọn luật sư của
khách hàng; lợi dụng các phương tiện truyền thông nhằm nói xấu, xúc phạm, làm ảnh
hưởng đến uy tín của CQTHTT.
6


Ngoài ra, khi hành nghề với tư cách đại diện ngoài tố tụng, luật sư tư vấn hoặc
thực hiện dịch vụ pháp lý khác cho khách hàng, phạm vi quan hệ luật sư thường uyển
chuyển, phong phú, đa dạng hơn nhiều so với những quy chuẩn nghiêm ngặt khi
tham gia tố tụng trong vụ án hình sự. Chính sự khác biệt này đôi khi làm cho luật sư
coi nhẹ việc chuẩn bị tư thế, thái độ, hành vi và ứng xử với NTHTT hoặc người có
trách nhiệm giải quyết công việc, yêu cầu của khách hàng. NTHTT là đối tượng giao
dịch, tiếp xúc trực tiếp của Luật sư. Họ đại diện cho CQTHTT nhiều dạng, cấp khác
nhau, mở rộng ra tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để có thái độ ứng xử chuẩn
mực, đạt được yêu cầu mong muốn của khách hàng, luật sư cần nhận biết thẩm
quyền, chức năng, nhiệm vụ của NTHTT, người có trách nhiệm giải quyết, thông

suốt về quy trình, thời hạn giải quyết, giới hạn của việc tư vấn và khả năng đáp ứng
yêu cầu của khách hàng. Mặt khác, mối quan hệ này cũng tiềm ẩn những xung đột
tiềm tàng, do không được thỏa mãn yêu cầu, khách hàng dễ bị kích động dẫn đến
khiếu nại, tố cáo vượt cấp, không đúng sự thật, làm ảnh hưởng đến quá trình giải
quyết, cũng như uy tín của NTHTT. Việc tuân thủ và vận dụng đúng đắn các quy tắc
đạo đức và ứng xử sẽ gầy dựng niềm tin của khách hàng đối với việc hành nghề của
luật sư, đồng thời cũng dành được sự tôn trọng của NTHTT đối với luật sư.
2.4 Các quy định về quy tắc ứng xử của Luật sư trong mối quan hệ với
CQTHTT, NTHTT
Nghề luật sư vốn dĩ gắn bó mật thiết với số phận con người, đòi hỏi phép ứng
xử chuẩn mực, mang tính chuyên nghiệp và dựa trên nền tảng cơ bản của đạo đức
nghề nghiệp. Việc hình thành các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư
trong mối quan hệ với CQTHTT, CQNN khác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
việc đánh giá vị thế, vai trò và hiệu quả hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
Chính vì tầm quan trọng này nên Điều 5 của Luật luật sư năm 2007 đã quy
định rõ 6 nguyên tắc hành nghề của luật sư trong đó việc tuân thủ hiến pháp và pháp
luật và quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư được xem là 2 nguyên tắc
quan trọng hàng đầu, theo sau là nguyên tắc độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật
khách quan.
7


Trên cơ sở các nguyên tắc hành nghề này, chương IV Quy tắc đạo đức và ứng
xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam của Hội đồng luật sư toàn quốc (Ban hành kèm theo
quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày 20/7/2011) đã dành 2 quy tắc để nói về quan hệ
của Luật sư với CQTHTT.
Trong quy tắc 23, ứng xử của luật sư trong quan hệ với các CQTHTT chủ yếu
được quy định trong việc chấp hành nội quy, khi trao đổi ý kiến với người tiến hành
tố tụng cũng như cách hành xử của luật sư tại phiên tòa, trong khi làm nhiệm vụ bảo
vệ quyền lợi của thân chủ.

Việc luật sư phải nghiêm chỉnh chấp hành nội quy và các quy định có liên
quan trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng; có thái độ hợp tác, lịch sự, tôn
trọng những người tiến hành tố tụng mà luật sư tiếp xúc khi hành nghề đã được xác
định rõ ràng trong quy tắc này. Tuy nhiên, việc nhận thức và “nội hàm” của phạm vi
tiếp xúc, địa điểm tiếp xúc và hiểu thế nào là “trao đổi ý kiến nghiệp vụ” với người
THTT cần phải làm rõ. Cụ thể : Việc tiếp xúc và trao đổi này về nguyên tắc cần được
tiến hành công khai, tại trụ sở CQTHTT, trong giờ hành chính, liên quan chủ yếu trao
đổi về các căn cứ kết tội và bằng chứng gỡ tội, cung cấp tài liệu do luật sư thu thập,
xác minh hoặc kiến nghị bào chữa bảo vệ quyền lợi hợp pháp, xin thay đổi biện pháp
ngăn chặn cho khách hàng…
Luật sư cần nhận thức việc tiếp xúc, trao đổi ý kiến về nghiệp vụ là cần thiết
và có lợi cho khách hàng, nên đương nhiên phải giữ tính độc lập, không bị chi phối
hoặc lệ thuộc vào ý kiến khác mình làm ảnh hưởng tới việc xây dựng quan điểm,
phương án bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng.
Tại phiên tòa, tự bản thân quan điểm bào chữa hay tranh luận của luật sư đã
bao hàm mang tính chủ quan, nhưng vấn đề cần phân biệt chính là ở chỗ cần tránh
nhận thức chủ quan, phiến diện mà dẫn đến trong lời nói, hành động, trong tài liệu
gửi đến CQTHTT, có những lời lẽ, câu chữ mang tính chất kích động, quy chụp, kết
tội người khác. Điều này vẫn thường xảy ra trên thực tế, có thể do vị thế của luật sư
đứng trên quyền lợi của khách hàng khác nhau, hoặc do thiếu kiềm chế dẫn đến quy
chụp mang tính cá nhân, thoát ly khỏi nội dung tranh tụng của vụ án.

8


Mặt khác, thực tiễn tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự cho thấy, không
phải lúc nào các quan điểm, chứng cứ pháp lý và căn cứ pháp luật có ý nghĩa quan
trọng giúp cho việc giải quyết vụ án được khách quan, đúng pháp luật của luật sư đều
được Hội đồng xét xử chấp nhận. Vấn đề là khi tranh luận, luật sư phải có thái độ
ứng xử chuẩn mực và có văn hóa, vừa kiên trì bảo vệ ý kiến, luận cứ chính đáng và

hợp pháp của mình, nhưng cũng phải kịp thời điều chỉnh, ghi nhận quan điểm có căn
cứ cùa người buộc tội hoặc của luật sư bảo vệ cho khách hàng có quyền lợi đối lập
với khách hành của mình, để tránh tình trạng bị coi là “bào chữa bằng mọi giá”, bất
chấp sự thật khách quan.
Song song với việc quy định các quy tắc về đạo đức ứng xử, luật sư còn phải
lưu tâm đến một số việc luật sư không được làm trong quan hệ với các cơ quan tiến
hành tố tụng theo quy tắc 24.
Xét về tổng thể, nội dung của điểm 1 và điểm 2 của quy tắc 24 phù hợp với
điều 9 Luật luật sư 2007 và tinh thần của BLTTHS. Khái niệm “bất hợp pháp” trong
điểm 3 có thể bao gồm việc luật sư biết rõ yêu cầu trì hoãn, kéo dài việc giải quyết vụ
việc là không có căn cứ pháp luật, nhưng vẫn tự mình hoặc xúi giục khách hàng thực
hiện nhằm trì hoãn hoặc gây khó khăn cho CQTHTT.
Bên cạnh đó, cũng cần nhận thức đúng đắn về chức năng xã hội của luật sư,
khi hành nghề không nên lợi dụng tư cách người tham gia tố tụng tại phiên tòa theo
quy định của pháp luật để phát biểu những lời lẽ gây phương hại đến lợi ích quốc gia,
lợi ích xã hội, đoàn kết dân tộc, tôn giáo hoặc tuyên truyền, phổ biến những quan
điểm trái pháp luật hay đạo đức xã hội. Việc không nên thực hiện nói trên khác về
bản chất với việc luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã phát hiện và đưa ra
những kiến nghị nhằm chấm dứt những vi phạm pháp luật trong hoạt động của các
CQTHTT. Bản lĩnh, phẩm chất chính trị và kỹ năng nghề nghiệp, cùng với trải
nghiệm qua thực tiễn sẽ giúp cho mỗi luật sư tự điều chỉnh ranh giới sao cho hành vi
của mình phù hợp quy tắc nói trên.
3. Thực trạng mối quan hệ giữa Luật sư và các CQTHTT, NTHTT:

9


Xuất phát từ bản chất của mối quan hệ giữa Luật sư và các CQTHTT, NTHTT
thì sự hỗ trợ, phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ là điều không thể
thiếu giữa những người hoạt động tố tụng.

Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động, bản chất công việc của luật sư, mối quan hệ
giữa luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng chưa được nhận thức đầy đủ, dẫn đến
các quy định của pháp luật tố tụng chưa được thực hiện nghiêm chỉnh và mối quan hệ
làm việc có những trở ngại đáng tiếc.
3.1 Mặt tích cực
Thoạt nhìn giữa Luật sư và CQTHTT, NTHTT không có mối liên hệ với nhau
mà thậm chí mỗi chủ thể là một thái cực đối kháng nhau. Ví dụ trong vụ án hình sự
vai trò của Viện kiểm sát là công tố, buộc tội theo chứng cứ cơ quan điều tra cung
cấp, Luật sư bào chữa thì nêu quan điểm đối kháng lại Kiểm sát viên. Mỗi bên điều
có lý lẽ riêng, cùng đấu tranh, mổ xẻ vấn đề để tìm ra chân lý thông qua phán quyết
của Toà án. Tuy nhiên nếu xét về nguyên lý của sự phát triển của sự vật hiện tượng
thì hai mặt đối kháng luôn tồn tại song song bên trong một sự vật hiện tượng.
Thực tế những vụ việc có sự tham gia của Luật sư đều góp phần đảm bảo tính
khách quan, minh bạch, quá trình giải quyết vụ việc diễn ra nhanh chóng. Ví dụ: Luật
sư được tham gia từ giai đoạn điều tra vụ án, tham gia các buổi hỏi cung của Cơ quan
điều tra đối với bị can (án hình sự), Luật sư được cung cấp các tài liệu liên quan đến
vụ việc cho cơ quan tiến hành tố tụng. Với sự có mặt của Luật sư góp phần hạn chế
việc làm trái pháp luật của cơ quan điều tra trong việc bắt giam, nhục hình, mớn
cung.v.v.. với bị can và điều này cũng tạo điều kiện để Luật sư hiểu và nắm bắt nội
dung vụ án ngay từ đầu để bảo vệ cho bị can giúp công tác điều tra, truy tố, xét xử
mang tính khách quan hơn. Ở những vụ, việc có sự tham gia của luật sư thì tiến độ
giải quyết nhanh chóng. Nhanh ở đây không phải là giảm thời gian tố tụng theo quy
định mà là các đương sự, bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại có ý thức và
an tâm hơn khi hợp tác với các cơ quan điều tra, với luật sư. Những việc này giúp
giảm phát sinh những tình huống xấu, phức tạp gây cản trở việc giải quyết của

10


CQTT, NTHTT và góp phần tiết kiệm được thời gian, chi phí của nhà nước và các

bên liên quan trong quá trình tố tụng.
3.2. Mặt tiêu cực
Tuy là hai mặt của một vấn đề, có mối quan hệ phụ thuộc và hỗ tương nhau
như thế nhưng các CQTHTT, NTHTT vẫn gây khó khăn cho hoạt động nghề nghiệp
của luật sư, tạo ra sự bức xúc, khiếu nại, khiếu kiện lên các cơ quan có thẩm quyền
để xử lý mâu thuẫn này. Ví dụ, để được cấp giấy chứng nhận bào chữa cho đương sự
(người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) trong án hình sự một số Điều tra viên yêu cầu Luật
sư phải cung cấp cả hợp đồng giữa Văn phòng/Công ty Luật với đại diện hợp pháp
của bị can, bị cáo. Trong khi tại khoản 2, điều 27 Luật luật sư năm 2007 đã quy định
rõ những loại văn bản xuất trình trong từng trường hợp cụ thể.
Đôi khi CQTHTT, NTHTT lại không có thái độ hợp tác với luật sư theo quy
định của pháp luật. Ví dụ, trong các buổi hỏi cung bị can cơ quan điều tra lại “quên”
thông báo cho Luật sư tham gia và dĩ nhiên quyền lợi của khách hàng đã bị hạn chế
khi không có Luật sư với vai trò là người làm chứng, hỗ trợ tích cực cho thân chủ của
mình. Chính những yêu cầu không có căn cứ và thái độ không hợp tác này đã cản trở
quyền, nghĩa vụ của Luật sư trong quá trình hành nghề và hậu quả là luật sư phải
hứng chịu những bức xúc của khách hàng do họ không hiểu được những khó khăn
này.
3.3. Nguyên nhân
Nguyên nhân đầu tiên không thể không nhắc đến đó là xuất phát từ định kiến
của CQTHTT, NTHTT đối với người luật sư, cụ thể từ nhiều phía:
* Cơ quan Công an: phần đông cán bộ công an có tâm lý dè dặt đối với luật
sư vì thường có suy nghĩ là có luật sư tham gia tố tụng sẽ trở ngại cho công tác điều
tra, dễ bị thông cung… Đây là nhận thức pháp luật chưa đúng và là thành kiến cố hữu
ở một bộ phận cán bộ công an…
* Viện kiểm sát: quan hệ giữa cán bộ kiểm sát với luật sư thường thì cởi
mở, tuy nhiên vẫn còn có tâm lý dè dặt, bất hợp tác; ở một bộ phận nhỏ có tâm lý
rằng luật sư là kẻ phá bĩnh, đối kháng với Viện kiểm sát…
11



* Toà án: do tham gia tố tụng tại tòa thường xuyên, nên quan hệ giữa luật
sư với cán bộ tòa án khá cởi mở… Tuy nhiên do đặc điểm trong thực tế án thường
được duyệt trước, nên thẩm phán có tâm lý ngại có luật sư sẽ mất nhiều thời gian,
nhất là trong tình trạng án quá tải như hiện nay… Do đó, không phải lúc nào, vụ án
nào, khi tham gia tố tụng, luật sư cũng được tạo điều kiện thuận lợi, không phải mọi
ý kiến phát biểu của luật sư được thẩm phán lắng nghe, các đề xuất của luật sư được
Tòa án xem xét giải quyết… Cá biệt, có những trường hợp thẩm phán trong lúc xét
xử đã thiếu kiềm chế, xúc phạm đến luật sư, khiến người dự toà bất bình…
Ngoài ra, bản chất công việc của luật sư và CQTHTT, NTHTT có khác nhau.
Luật sư đại diện cho quyền lợi của đương sự để giải quyết yêu cầu, nguyện vọng của
họ “Ăn cơm người, bảo vệ cho người” Luật sư tham gia vào các vụ, việc không phải
bảo vệ cho cái sai mà họ tham gia bảo vệ cái đúng, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của công dân. Luật sư thay mặt cho thân chủ mình tham gia tố tụng với tư cách là
người bào chữa/bảo vệ quyền lợi, Luật sư gặp gỡ trao đổi với CQTHTT, NTHTT
những cái có lợi cho thân chủ sau đó lại trao đổi lại với thân chủ của mình điều này
giúp Luật sư khai thác triệt để được những điểm có lợi, có hại cho thân chủ. Và có
những quyền tác động trực tiếp ( khiếu nại) đến NTHTT, CQTHTT còn CQHTT,
NTHTT thực hiện trọng trách nhà nước giao cho họ để quản lý, duy trì trật tự an ninh
xã hội các vấn đề họ giải quyết nằm trong khuôn khổ.
Đặc biệt, có không ít luật sư còn bị hạn chế về kiến thức, kỹ năng và phong
cách ứng xử… nên chưa có được quan điểm pháp lý tốt, các luận cứ chưa đủ sức
thuyết phục trước tòa, trước các cơ quan tiến hành tố tụng, chưa tạo được hiệu quả
hoạt động nghề nghiệp. Nhiều luật sư ngại va chạm, chỉ lo an phận thủ thường, nên ít
khi lên tiếng đấu tranh, góp ý xây dựng, không quan tâm góp phần xác lập, cải thiện,
củng cố mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng trên tinh thần tôn trọng và
bình đẳng. Lại có một số ít luật sư có quan điểm lệch lạc, thái độ cực đoan, chỉ biết
chạy theo việc tranh thủ riêng với một số công chức ở cơ quan tiến hành tố tụng để
được việc cho mình mà bỏ qua nguyên tắc tố tụng, đánh mất quan điểm pháp lý cần


12


thiết của nghề nghiệp, qua đó đã vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp luật sư,
làm xoáy mòn lòng tin của công chúng vào cơ quan pháp luật và vị thế luật sư
4. Đề xuất một số giải pháp khắc phục những tồn tại xung quanh mối
quan hệ giữa Luật sư và CQTHTT, NTHTT.
4.1 Đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
Cần có cái nhìn tích cực hơn hay nói khác hơn là phải xóa bỏ thành kiến xem
luật sư là người xúi giục, cản trở công việc của họ. Các CQTHTT, NTHTT phải xem
luật sư là thành tố không thể thiếu trong hoạt động tố tụng; sự hiện diện của luật sư
phải được xem là sự mang tới hiệu quả tích cực cho hoạt động pháp luật.
Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật tố tụng, trong đó có quy
định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo cho luật sư được
hoạt động nghề nghiệp một cách bình thường và thuận lợi.
Cần có thái độ tôn trọng khi luật sư tham gia tố tụng, ghi nhận đầy đủ những
đóng góp của luật sư trong việc giải quyết các vụ án, vụ kiện…
4.2 Đối với đội ngũ luật sư
Bản thân người luật sư phải xác định nghề không phải là công cụ, phương tiện
để mưu cầu lợi ích vật chất mà phải ý thức được vai trò nhiệm vụ cao cả được xã hội
phân công và kỳ vọng vào luật sư. Phải không ngừng phấn đấu nâng cao kỹ năng
nghề nghiệp, nêu cao tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, trung thực, dũng cảm
đấu tranh bảo vệ lẽ phải và công lý.
Việc hình thành các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư trong mối
quan hệ với CQTHTT, NTHTT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá vị
thế, vai trò và hiệu quả hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Đòi hỏi người Luật sư
phải tôn trọng giá trị của quy tắc, phải có tinh thần hợp tác, tôn trọng, nghiêm túc, vô
tư, trong sáng khi làm việc với CQTHTT, NTHTT.
13



Phải phấn đấu để có được bản lãnh nghề nghiệp và phong cách riêng ở mỗi
luật sư. Luật sư phải được trang bị kỹ năng hành nghề và tự bản thân tu dưỡng; Liên
đoàn luật sư phải là đầu mối trong việc tổ chức các buổi toạ đàm, hội thảo giữa Luật
sư Việt Nam và các Hiệp hội luật sư trong khu vực và trên thế giới để Luật sư Việt
Nam có nhiều cơ hội cọ sát, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm, tính chuyên nghiệp
trong hoạt động, hành nghề.
4.3 Đối với các cơ quan nhà nước, cơ quan báo chí
Đảng nhà nước quan tâm sâu sắc và có nhiều giải pháp cho chủ trương về cải
cách hoạt động tư pháp nước nhà. Theo đó xác định đây không là nhiệm vụ của riêng
ngành nào, lĩnh vực nào hay cơ quan cá nhân nào mà đây là mục tiêu chung của toàn
xã hội. Vì lợi ích của nhân dân, sự phát triển của đất nước, sự quan tâm sâu sắc thể
hiện qua tinh thần Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/6/2005 thể hiện tầm nhìn chiến
lược trong bối cảnh kinh tế, an ninh có nhiều biến động.
Chính phủ phải quan tâm sâu sắc, “thấu hiểu”, nhất quán trong việc đề ra
đương lối chủ trương chính sách nâng cao tư tưởng, ý thức, quan điểm của CQTHTT,
NTHTT về hoạt động của Luật sư thể hiện qua việc ban hành các chế định pháp luật
liên quan đến Luật sư; phải phát động xã hôi tham gia phản biện sâu rộng để có cái
nhìn toàn diện.
Các cơ quan báo chí trung ương và địa phương phải xem nhiệm vụ tuyên
truyền phổ biến pháp luật là một trong nội dung hoạt động tuyên truyền để xã hội
nhận thức được vai trò nhiệm vụ của luật sư nói riêng và của pháp luật nói chung.
Thực hiện tốt việc này sẽ tác động hai mặt, một là đưa hình ảnh người luật sư trở nên
gần gủi thân thiện hơn, hạn chế định kiến không đáng có, hai là cũng là khung chuẩn,
gương soi để luật sư tự “soi” mà điều chỉnh cho phù hợp.
5. KẾT LUẬN
Nhiệm vụ của một luật sư bào chữa là trình bày vụ việc của khách hàng bằng
những lý lẻ thuyết phục của mình. Thực hiện nghĩa vụ này và duy trì lòng tin của
khách hàng chính là thái độ cần thể hiện trước tòa.
14



Luật sư và các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cùng nhau
tham gia vào sự nghiệp bảo vệ công lý. Vì vậy họ có cùng chung tiếng nói và cùng
hướng đến việc tháo gỡ vướng mắc một vụ án một cách tốt nhất cho những lợi ích
của đương sự và của xã hội. Dĩ nhiên, sự khác biệt về phương pháp sẽ sớm dẫn tới
những bất đồng mà họ phải vượt qua bởi vì họ phải dành ưu tiên cho những lợi ích
mà họ đang bảo vệ hơn là lợi ích của chính họ.
Luật sư phải tỏ lòng tôn trọng nói chung với người được xã hội giai phó sứ
mệnh thực hiện công lý. Đó là nghĩa vụ đồng thời là quyền lợi của Luật sư bởi vì
đứng trước tòa, luật sư là người yêu cầu thẩm phán bảo vệ quyền và lợi ích của thân
chủ của mình. Nên nhớ rằng, đối với thẩm phán, thái độ của luật sư trước tiên là phải
lịch sự và không được phủ nhận sự thật khách quan. Cuối cùng và quan trọng hơn cả,
luật sư phải tránh bất hòa với tòa án bởi vì điều đó rõ ràng chỉ mang bất lợi cho
quyền lợi của khách hàng mà thôi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về cải cách tư
pháp;

-

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020.
15


-


Luật Luật sư 2007;

-

Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam (Ban hành kèm
theo Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày 20/7/2011 của Hội đồng luật sư
toàn quốc);

-

Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 05/7/2011 của Thủ tướng chính phủ phê
duyệt chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020;

-

NĐ 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 của Chính phủ về việc quy định xử
phạt hành chính trong lĩnh vực tư pháp;

-

NĐ 05/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều của nghị định về đăng ký giao dịch đảm bảo, trợ giúp
pháp lý, luật sư và tư vấn luật.

-

Bài viết “Đạo đức và ứng xử của luật sư trong quan hệ với Cơ quan tiến
hành tố tụng, cơ quan nhà nước khác” của Luật sư Phan Trung Hoài;


-

Bài viết: Luật sư và cơ quan tố tụng: Hợp tác chứ không “đối đầu” đăng
03/3/2011 trên website: phapluattp.vn;

-

Bài viết: Mối Quan Hệ Giữa Luật Sư Với Cơ Quan Điều Tra, Viện Kiểm
Sát, Toà Án đăng 28/5/2012 trên website: phapluattp.vn;

16



×