Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

DUONG LOI KHANG CHIEN CHONG THUC DAN PHAP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
CỦA ĐẢNG VÀ MỘT SỐ CHIẾN DỊCH TIÊU BIỂU
BUỔI:

TIẾT: 7-9

HỌC KỲ: 2 – NĂM HỌC:
GVHD:
SVTH:

TP. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2016


Họ tên SV thực hiện đề tài:

Giảng viên hướng dẫn:

ĐIỂM:

NHẬN XÉT CỦA GV:
.....................................................................................................................
.....................................................................................................................
.....................................................................................................................
.....................................................................................................................


.....................................................................................................................
.....................................................................................................................
.....................................................................................................................

GV ký tên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
1.
Đặt vấn đề..............................................................................................1
2.
Mục tiêu nghiên cứu...............................................................................2
CHƯƠNG 1: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
CỦA ĐẢNG 1946-1954.......................................................................................3
1.1.
Hoàn cảnh lịch sử...............................................................................3
1.1.1. Thuận lợi...........................................................................................3
1.1.1. Khó khăn...........................................................................................3
1.2.
Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến............4
1.1.2. Quá trình hình thành.......................................................................4
1.1.3. Nội dung đường lối..........................................................................5
1.1.4. Ý nghĩa.................................................................................................6
Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông năm 1947 (từ 7-10-1947 đến 2212-1947) ...............................................................................................................8
Cuộc chiến đấu ở ở Hà Nội và các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16......10
Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950.........................................11
Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954....................14
Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)..............................................14
3.1.

Anh hùng liệt sỹ Bế Văn Đàn.........................................................16
3.2.
Anh hùng liệt sỹ Phan Đình Giót.....................................................17
3.3.
Anh hùng Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện........................................................18
3.4.
Anh hùng Liệt sĩ Trần Can................................................................19
3.5.
Anh hùng Liệt sĩ Trần Cừ.................................................................20
3.6.
Liệt sĩ Trần Thị Bắc..........................................................................21
3.7.
Anh hùng Liệt sĩ Bùi Thị Cúc............................................................22
3.8.
Anh hùng Liệt sĩ Mạc Thị Bưởi.......................................................23
PHẦN KẾT LUẬN..................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................25


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Chiến tranh là thử thách lớn đối với mỗi quốc gia dân tộc trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội. Thử thách đó càng lớn hơn nhiều với nước ta vào cuối
nǎm 1946. Nền độc lập mới gình lại được 16 tháng, chính quyền chưa được
củng cố vững mạnh, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, nên các mặt đời sống xã
hội chưa thật sự ổn đinh, mà dân tộc ta đã phải đương đầu với cuộc chiến tranh
trên quy mô toàn quốc. Sớm ý thức được "sự mâu thuẫn giữa Anh - Mỹ - Pháp
và Liên Xô có thể làm cho Anh - Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở
lại Đông Dương", Đảng và Nhà nước ta đã tích cực, chủ động chuẩn bị mọi mặt
để sẵn sàng đối phó với hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, đồng

thời làm hết sức mình để cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp không
mở rộng ra cả nước. Nhân dân ta muốn hoà bình, ta đã nhân nhượng, nhưng thực
dân Pháp càng lấn tới, buộc nhân dân ta phải cầm súng để bảo vệ nền độc lập
dân tộc, bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám 1945. Vào lúc 20 giờ ngày 1912-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng là một hệ thống
quan điểm, chủ trương, chính sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ
và giải pháp của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, giành độc lập dân tộc. Những quan điểm, chủ trương, chính sách đó
gắn liền với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước ta lúc bấy giờ. Đó là
đứng trước những thuận lợi và vô vàng những khó khăn . Trước tình hình
đó Đảng đã đề ra đường lối kháng chiến cho toàn dân với những nội dung
cơ bản, đúng đắn, sáng tạo phù hợp với tình hình nước ta lúc bấy giờ , kế
thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với nguyên lí về chiến tranh cách
mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Chính vì thế đã đưa cuộc kháng chiến của
dân tộc ta nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng và từng
bước đi đến thắng lợi.

18


Vậy nên để làm sáng tỏ và nhận thức đúng đắn hơn về đường lối kháng
chiến chống Pháp của Đảng, chúng em đã chọn đề tài : “Đường lối kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược của Đảng (1945-1954)” để làm bài
tiểu luận của nhóm.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này giúp trang bị cho bản thân những hiểu biết
cơ bản về tình hình nước ta trong giai đoạn này : những chủ trương, chính
sách của Đảng đã đề ra để có thể vận dụng để giải quyết những khó khăn
mà nhân dân ta phải đương đầu, đưa cuộc cách mạng của dân tộc đi đến
thắng lợi hoàn toàn.

Nghiên cứu vấn đề này còn bồi dưỡng niềm tin vào sự lãnh đạo sáng
suốt, tài tình của Đảng, định hướng phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng và
đường lối của Đảng, nâng cao ý thức trách nhiệm của bản thân trước những
nhiệm vụ, vận mệnh của đất nước, giúp nâng cao tinh thần yêu nước, đóng
góp tài sức, trí tuệ để cùng nhau xây dựng đất nước, đặc biệt là trong thời
kỳ đất nước đang phát triển và hội nhập trên trường quốc tế.

18


CHƯƠNG 1: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
CỦA ĐẢNG 1946-1954
1.1.

Hoàn cảnh lịch sử
Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải

Phòng và thị xã Lạng Sơn, cho quân đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu
khích, tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội, Trung ương Đảng đã chỉ đạo tìm cách liên
lạc với phía Pháp để giải quyết vấn đề bằng biện pháp đàm phán thương lượng.
Ngày 19/2/1946, trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước vũ khí của tự
vệ Hà Nội, kiểm soát an ninh trật tự Thủ đô, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
đã họp tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh
để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp phía Pháp để
đàm phán, song không có kết quả. Hội nghị cho rằng hành động của Pháp chứng
tỏ chúng cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng hòa hoãn không còn.
Hòa hoãn nữa sẽ dẫn đến họa mất nước. Hội nghị đã quyết định hạ quyết tâm
phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công trước khi thực
dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng
chiến được phát đi. Vào lúc 20 giờ ngày 19/12/1946, tất cả các chiến trường

trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài Tiếng nói Việt
Nam.
1.1.1. Thuận lợi
Nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là
chiến đấu để bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc và đánh địch trên đất nước
mình nên có chính nghĩa, có “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Ta cũng đã có sự
chuẩn bị cần thiết về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân
xâm lược. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng có nhiều khó khăn về chính trị,
kinh tế, quân sự ở trong nước và tại Đông Dương không dễ gì có thể khắc phục
được ngay.
1.1.1. Khó khăn
18


- Tương quan lực lượng quân sự của ta yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn
phía, chưa được nước nào công nhận giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối
tân, đã chiếm đóng được hai nước Campuchia, Lào và một số nơi ở Nam Bộ
Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở miền Bắc.
- Xác định đúng thuận lợi và khó khăn là cơ sở để Đảng đề ra đường lối
cho cuộc kháng chiến.
1.2.

Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến

1.1.2.

Quá trình hình thành

- Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước trong quá

trình chỉ đạo Nam bộ kháng chiến, qua thực tiễn đối phó với âm mưu, thủ đoạn
của địch cũng như từ thực tiễn chuẩn bị lực lượng về mọi mặt của ta.
- Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trong chỉ thị kháng
chiến kiến quốc, Đảng ta nhận định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc là
thực dân Pháp, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong quá trình
chỉ đạo cuộc kháng chiến Nam bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ
đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu
của Pháp định tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam.
- Ngày 19/10/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị quân
sự toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ
nhận định: “Không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình nhất định phải
đánh Pháp”, Hội nghị đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng
và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong
chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ” ngày 05/11/1946, Hồ Chí Minh đã nêu lên
những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng
định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
- Đường lối kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập trung
trong ba văn kiện lớn được soạn thảo và công bố sát trước và sau ngày cuộc
kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban

18


Thường vụ Trung ương Đảng ngày 22/12/1946, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến” của Hồ Chí Minh ngày 19/12/1946 và tác phẩm “Kháng chiến nhất định
thắng lợi” của Trương Chinh xuất bản đầu năm 1947.
1.1.3.

Nội dung đường lối


- Mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng
Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
- Tính chất kháng chiến: trường kì kháng chiến, toàn diện kháng chiến.
- Nhiệm vụ kháng chiến: “Cuộc kháng chiến này chính là một cuộc chiến
tranh cách mạng có tính chất dân tộc độc lập và dân chủ tự do…nhằm hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và phát triển dân chủ mới”.
- Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính.
+ Kháng chiến toàn dân: “Bất kì đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc, bất kì người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên
đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là
một pháo đài.
+ Kháng chiến toàn diện: đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế,
văn hóa, ngoại giao. Trong đó:
• Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng,
chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu
chuộng tự do, hòa bình.
• Về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến
tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là “triệt để dùng du kích, vận động
chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài… vừa đánh vừa võ trang thêm;
vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”.

18


• Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát
triển nền nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc
phòng.

• Về văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa
dân chủ theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
• Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên
hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu
Pháp công nhận Việt Nam độc lập,…
+ Kháng chiến lâu dài (trường kì): là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng
nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”
của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh
hơn địch, đánh thắng địch.
+ Dựa vào sức mình là chính: “phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao
vây bốn phía. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song
lúc đó cũng không được ỷ lại.
+ Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất
định thắng lợi.
1.1.4.

Ý nghĩa

- Trong nước: việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công
nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; làm thất
bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến
tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều
kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc
đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng
cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

18



- Quốc tế: thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách
mạng thế giới, cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của
chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực
dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, Hồ Chí Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa
nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó cũng là một thắng lợi
vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của
các lực lượng hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới”.

18


2. CHƯƠNG 2: MỘT SỐ CHIẾN DỊCH TIÊU BIỂU
Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông năm 1947 (từ 7-10-1947 đến 22-121947)
Là một chiến dịch quân sự do quân đội Pháp thực hiện tại Việt Nam trong
chiến tranh Đông Dương, nhằm phá tan cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt
bộ đội chủ lực của Việt Minh, lập ngụy quyền toàn quốc và đặt ách thống trị
thực dân trên toàn bộ nước Việt Nam, đồng thời khóa chặt biên giới Việt –
Trung, ngăn chặn đường liên lạc giữa Việt Nam và quốc tế.
Ngày 10 tháng 9 năm 1947 khi đã có hơn 12 vạn quân viễn chinh, cao ủy
Pháp Bô-la (Bollaert) tuyên bố không công nhận nước Việt Nam độc lập và đưa
ra những quy định nhằm thiết lập lại chế độ thực dân kiểu cũ của Pháp ở Đông
dương.
Ngày 15 tháng 9 năm 1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị
“Sửa soạn phá những cuộc tấn công lớn của địch” nhằm phá vỡ những mưu đồ
của bọn thực dân. Ngày 17 tháng 9 năm 1947, Hội nghị quân sự lần thứ tư và
sau mười ngày tiếp đó là Hội nghị quân sự lần thứ năm được triệu tập để thống

nhất nhận định về âm mưu và hướng tiến công sắp tới của giặc Pháp, đề ra chủ
trương tác chiến trong thu đông. Khắp nơi nổi lên khẩu hiệu: “Đập tan cuộc tấn
công mùa đông của giặc Pháp”. Quân và dân cả nước tích cực chuẩn bị phá
cuộc tiến công mùa đông của địch.

18


Bộ đội tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu- Đông năm 1947
Phía quân đội Việt Nam, ngày 8 tháng 10 năm 1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi thư kêu gọi, bộ đội, quân dân du kích và toàn thể đồng bào ra sức tiêu diệt
địch. Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 15
tháng 10 năm 1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “phải phá cuộc
tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Nghiên cứu thế lực của ta và địch trên chiến
trường, Bộ tổng chỉ huy quyết định tập trung lực lượng đánh địch trên 3 mặt
trận: “Đánh mạnh ở mặt trận Sông Lô; đường số 4 và đường số 3 nhằm phá vận
tải tiếp tế địch, phục kích các đường rừng, đánh đường sông; tại những căn cứ
của địch luôn quấy rối, với những vị trí nhỏ thì bao vây tiêu diệt để phối hợp với
Việt Bắc”. Quân đội ta sử dụng các trung đoàn 147, 165 (chủ lực Bộ); 72, 74,
121 (Khu 1); 11, 36; 59; 98 (Khu 12); 1 tiếu đoàn pháo binh và Trung đoàn
Sông Lô (Khu 10); 5 tiểu đoàn độc lập của Bộ, Khu 1 và Khu 12, các đơn vị
binh chủng và du kích trên địa bàn chiến dịch. Chiến khu do Bộ Tổng chỉ huy

18


trực tiếp chỉ huy, Đồng chí Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng. Chiến dịch tấn
công của quân Pháp bắt đầu thì chiến dịch phản công của quân đội ta tại Việt
Bắc cũng bắt đầu.


Các chiến sĩ pháo binh Trung đoàn sông Lô trong chiến dịch Việt Bắc ThuĐông năm 1947
Ở mặt trận Sông Lô – Chiêm Hóa, địch vừ đổ bộ lên bến Bình Ca bị quân
đội ta bắn chìm một pháo thuyền địch, tiếp đó diệt hơn một tiểu đội giặc lập
chiến công đầu tiên trên sông Lô. Những trận đánh địa lôi, phục kích, bắn tỉa của
quân đội ta làm cho quân đội Pháp không thể tiến theo các đường thủy, đường
bộ, buộc chúng phải tiếp viện quân nhảy dù xuống Chiêm Hóa. Đoàn pháo binh
cùng các binh đoàn chủ lực bắn chìm một số tàu chiến và ca nô của quân Pháp
tại Đoan Hùng, Khoan Bộ, Khe Lau. Đường tiếp viện của quân Pháp từ Hà Nội
lên bị cắt đứt.
Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông 1947, làm phá tan kế hoạch “tấn công
chớp nhoáng” để kết thúc chiến tranh của Pháp. Một lần nữa chứng minh đường
lối và sự chỉ đạo kháng chiến của Đảng là đúng đắn, đánh dấu bước trưởng
thành mới của quân đội ta, đưa kháng chiến dân tộc sang một giai đoạn mới, giai
đoạn chiến lược phòng ngự sang giai đoạn chiến lược cầm cự.
Cuộc chiến đấu ở ở Hà Nội và các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16

18


Mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, quân dân ta chủ động tiến công quân
Pháp, bao vây, giam chân lực lượng chúng ở Thủ đô Hà Nội, các thành phố và
các thị xã, tạo thế trận đi vào cuộc chiến đấu lâu dài.
Trong gần hai tháng (từ ngày 19 - 12 - 1946 đến ngày 17 - 2 - 1947), quân
dân ta ở Hà Nội đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, thủ và phá hủy
nhiều phương tiện chiến tranh, thực hiện được nhiệm vụ giam chân địch ở thành
phố để hậu phương kịp thời huy động lực lượng kháng chiến, di chuyển kho
hàng, công xưởng về chiến khu, bảo vệ an toàn cho Trung ương Đảng, Chính
phủ trở lại căn cứ địa, lãnh đạo kháng chiến lâu dài.
Tại các thành phố Nam Định, Huế, Đà Nẵng..., quân dân ta chủ động tiến
công, tại khỏi vòng chiến đấu một số lực lượng của chúng; bao vây, giam chân

Pháp suốt trong hai, ba tháng chiến đấu, cuối cùng quân ta chủ động rút khỏi
thành phố, lui về căn cứ, tổ chức cuộc chiến đấu lâu dài. Riêng thành phố Vinh,
ngay từ đầu cuộc chiến đấu, quân dân ta đã buộc địch đầu hàng.
Phối hợp với cuộc chiến đấu ở các đô thị phía bắc vĩ tuyến 16, quân dân ta ở các
tỉnh phía nam (Nam Bộ và Nam Trung Bộ) đã đẩy mạnh chiến tranh du kích,
chặn đánh địch trên các tuyến giao thông, phá cơ sở hậu cần của chúng.
Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950
Trong giai đoạn nửa cuối năm 1949 - đầu năm 1950, thành trì vững chắc
của phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc thế giới là Liên Xô đã
có nhiều sự thay đổi trong chính sách đối ngoại, tạo điều kiện có lợi cho cách
mạng giải phóng dân tộc trên thế giới. Cách mạng Trung Hoa thành công, nước
CHND Trung Hoa cùng với hàng loạt nước XHCN ở Đông Âu ra đời…đều là
những diễn biến có lợi cho tiến trình cách mạng ở Việt Nam.

18


Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đại tướng Võ Nguyên Giáp nghiên cứu phương
án tác chiến chiến dịch Biên Giới, năm 1950.
Ngày 16-9-1950, Trung đoàn 174 và Trung đoàn 209 của quân Việt Minh
chủ động đánh cứ điểm Đông Khê với mục đích cô lập Cao Bằng, uy hiếp cứ
điểm Thất Khê và phá thế trận phòng thủ của quân Pháp trên đường số 4. Đến
ngày 18, cứ điểm Đông Khê hoàn toàn thất thủ, mặc dù đã được không quân
yểm trợ. Quân Pháp nhanh chóng điều động quân đội ở Bắc Bộ thực hiện cuộc
“hành quân kép”:
- Một cánh do Trung tá Le Page chỉ huy hành quân từ Thất Khê lên nhằm
chiếm lại cứ điểm Đông Khê, mở lại đường số 4 và thu hút chủ lực của quân
Việt Minh.
- Một cánh do trung tá Charton chỉ huy tiến công từ Cao Bằng xuống gặp
Le Page ở Đông Khê.


18


Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đài quan sát mặt trận Đông Khê, chiến dịch
Biên Giới, ngày 16- 9- 1950.
Tính đến ngày 8-10, bộ đội Việt Minh đã loại khỏi vòng chiến đấu 8 tiểu
đoàn quân Pháp, làm sụp đổ kế hoạch phòng thủ biên giới. Trước nguy cơ Thất
Khê sẽ bị tiêu diệt như Đông Khê, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã ra lệnh
rút khỏi Thất Khê trong rối loạn và chịu đựng những tổn thất nặng nề khi bị 4
tiểu đoàn của Đại đoàn 308 cùng toàn bộ Trung đoàn 174 (Cao Bắc Lạng) truy
kích.
Ngày 17-10, Việt Minh chủ động kết thúc chiến dịch. Dưới sự uy hiếp của
bộ đội Việt Minh và sự hoang mang của Bộ Chỉ huy Pháp, tới ngày 22-10-1950,
quân đội Pháp phải rút hoàn toàn khỏi các cứ điểm còn lại trên đường 4 như:
Thất Khê, Na Sầm, Lạng Sơn…với thiệt hại nặng về trang bị.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và cán bộ, chiến sĩ sau khi kết thúc chiến dịch Biên
Giới, năm 1950.
Với đường lối chiến tranh đúng đắn kết hợp với nghệ thuật chiến tranh đạt
tới đỉnh cao cùng với sự chỉ đạo tài tình, sáng suốt đã tạo nên chiến thắng to lớn
ngoài dự kiến trong Chiến dịch Biên giới 1950. Thắng lợi to lớn này đã mở ra
thời kỳ mới trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược thời kỳ thế chủ động trên chiến trường nằm trong tay quân đội cách mạng
Việt Nam.
18


Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954
Phần trưng bày giới thiệu: Kế hoạch Na Va, chủ trương tác chiến của ta
trong Đông Xuân (1953 -1954), quyết tâm chiến đấu của quân và dân ta cho trận

quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, cách đánh của bộ đội ta trong chiến dịch,
chiến tranh du kích vùng sau lưng địch phối hợp với mặt trận chính.
Về chủ trương, đường lối của Đảng, phần trưng bày thể hiện bằng nhóm
hiện vật bàn ghế, đèn măng xông, tài liệu, nghị quyết lãnh đạo...Về bộ đội thể
hiện qua hành trang chiến sỹ Điện Biên, với mũ nan, bát gỗ, tranh cổ động, bản
tin tuyên truyền trên dù, các phương tiện vận tải, công binh mở đường. Về dân
công thể hiện qua chiếc xe đạp thồ trên 300kg vượt đèo dốc và các phương tiện
vận chuyển như quang gánh, lừa ngựa, xe bò...Tất cả thể hiện quyết tâm của
toàn quân toàn dân ta tiêu diệt bằng được toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ, giành thắng lợi quyết định trong chiến cục Đông Xuân 1953-1954.
Phần trưng bày thất bại của địch được thể hiện qua các loại vũ khí, trang bị
bộ đội ta thu được của địch tại Điện Biên Phủ. Đặc biệt có sưu tập hiện vật là
các loại phù hiệu các đơn vị lính Pháp tham chiến tại Điện Biên Phủ.
Chiến dịch Điện Biên Phủ là đòn tiến công tiêu diệt lớn nhất, điển hình
nhất của quân và dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, cùng với thắng
lợi của các chiến trường khác, trong Đông Xuân (1953-1954), đã giáng đòn
quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp góp phần dưa Hội nghị Giơ ne
vơ về Đông Dương đến thành công.
Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)
Chiến dịch Điện Biên Phủ (từ 13/3 đến 7/5/1954)
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bí thư Đảng uỷ kiêm Tư lệnh Bộ chỉ huy
chiến dịch.
- Phó thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng - Chủ nhiệm Hội đồng Cung
cấp mặt trận.

18


- Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Phó tổng tham mưu trưởng QĐNDVN Tham mưu trưởng chiến dịch.
- Đồng chí Lê Liêm - Chủ nhiệm chính trị.

Lực lượng ta có: 3 Đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh
57 (Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh - pháo binh 351.
Lực lượng quân Pháp ở Điện Biên Phủ có: 12 tiểu đoàn, 7 đại đội bộ binh,
3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội máy
bay (sau tăng viện 4 tiểu đoàn và 2 đại đội dù), tổ chức phòng ngự thành 3 phân
khu, 8 trung tâm đề kháng, gồm 49 cứ điểm được trang bị hoả lực mạnh, có 2
căn cứ hoả lực và 2 sân bay ở Mường Thanh và Hồng Cúm.
Chiến dịch dự định bắt đầu ngày 25/1/1954, (kế hoạch đầu tiên là ngày
20/1/1954), theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.
15h ngày 7/5, ta tổng công kích vào trung tâm Mường Thanh, bắt tướng
ĐờCatxtơri và toàn bộ ban tham mưu tập đoàn cứ điểm, buộc số địch còn lại ở
phân khu trung tâm phải đầu hàng, truy kích, bắt gọn bộ phận địch ở Hồng Cúm
định rút chạy.
Chiến dịch Điện Biên Phủ giành toàn thắng, diệt và bắt hơn 16.200 địch (có
một thiếu tướng, 369 sĩ quan từ đại tá đến thiếu uý), thu toàn bộ vũ khí trang bị,
bắn rơi 62 máy bay.
Chiến dịch Điện Biên Phủ là đòn tiến công tiêu diệt lớn nhất, điển hình
nhất của quân và dân Việt trong kháng chiến chống Pháp.

18


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ TẤM GƯƠNG TIÊU BIỂU
3.1.

Anh hùng liệt sỹ Bế Văn Đàn

Anh hùng Liệt sĩ Bế Văn Đàn (193012/12/1953), Anh hùng Lực lượng Vũ
trang


Nhân

dân

(truy

phong;

31/05/1955), hy sinh là Tiểu đội phó
thuộc Đại đội 674, Tiểu đoàn 251,
Trung đoàn 174, Đại đoàn 316.
Huân chương Quân công hạng
Nhì, Huân chương Chiến công hạng
Nhất.
Bế Văn Đàn sinh năm 1931, dân tộc Tày, quê ở xã Triệu Ấu, huyện Phục Hoà
(nay là huyện Quảng Hòa), tỉnh Cao Bằng. Anh sinh ra trong một gia đình có mẹ
chết sớm, cha làm thợ mỏ, chú hoạt động cách mạng bị thực dân Pháp bắt rồi
giết. Anh phải đi ở cho địa chủ từ nhỏ. Sau năm năm đi ở, anh trốn về ở với dì
và tham gia du kích. Tháng 1 năm 1949, Bế Văn Đàn xung phong vào bộ đội và
tham gia nhiều chiến dịch.
Bế Văn Đàn vừa đi công tác về đã xung phong làm nhiệm vụ. Anh vượt
qua lưới đạn dày đặc của địch truyền mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chu đáo.
Sự hy sinh anh dũng của Anh hùng Liệt sĩ Bế Văn Đàn đã đi vào thơ ca. Tên của
anh được đặt cho nhiều đường phố và trường học.

18


3.2.


Anh hùng liệt sỹ Phan Đình Giót
Anh hùng Liệt sĩ Phan Đình Giót (192213/3/1954), Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân
dân (truy phong; 31/3/1955), Khi hy sinh anh là
Tiểu đội phó bộ binh Đại đội 58, Tiểu đoàn 428,
Trung đoàn 141, Đại đoàn 312, Đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Huân chương Quân công hạng Nhì.
Gia đình anh Phan Đình Giót rất nghèo. Bố bị

chết đói. Anh phải đi ở từ năm 13 tuổi cực nhọc, vất vả. Cách mạng tháng Tám
thành công, anh tham gia tự vệ chiến đấu, đến năm 1950, anh xung phong đi bộ
đội chủ lực. Trong cuộc sống tập thể quân đội, Phan Đình Giót luôn tự giác
gương mẫu về mọi mặt, hết lòng thương yêu giúp đỡ đồng đội, sẵn sàng nhận
khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn nên được đồng đội mến phục. Phan
Đình Giót tham gia nhiều chiến dịch lớn như: Trung Du, Hoà Bình, Tây Bắc,
Điện Biên Phủ.
Lửa căm thù bốc cao, anh lao lên đánh liên tiếp hai quả nữa phá toang hàng
rào cuối cùng, mở thông đường để đồng đội lên đánh sập lô cốt đầu cầu. Lợi
dụng thời cơ địch đang hoang mang, Phan Đình Giót vọt lên bám chắc lô cốt số
2, ném thủ pháo, bắn kiềm chế cho đơn vị tiến lên. Anh lại bị thương vào vai,
máu chẩy đầm đìa.
"Quyết hy sinh…vì Đảng…vì dân!!.." rồi rướn người lấy đà, lao cả thân
mình vào bịt kín lỗ châu mai địch. Hoả điểm lợi hại nhất của quân Pháp đã bị
dập tắt, toàn đơn vị ào ạt xông lên như vũ bão, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam,
giành thắng lợi trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi
hy sinh, Phan Đình Giót đã được Tiểu đoàn, Đại đoàn khen thưởng 4 lần.

18



3.3.

Anh hùng Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện
Anh hùng Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện (19245/1953), Anh hùng Lực lượng Vũ Trang
Nhân dân (Truy phong; 7/5/1955), khi hy
sinh, anh là Tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37
ly thuộc Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung
đoàn 367.
Huân chương Quân công hạng Nhì,
Huân chương Chiến công hạng Nhất
Tô Vĩnh Diện sinh trưởng trong một gia đình
nghèo, ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống,

tỉnh Thanh Hoá. Lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ. Suốt 12 năm đi ở, anh phải
chịu bao cảnh áp bức bất công. Năm 1946, anh tham gia dân quân ở địa phương.
Năm 1949, đồng chí xung phong đi bộ đội.
Tháng 5 năm 1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn
bị đánh lớn. Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo
cao xạ. Trong quá trình hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1000 km tới
vị trí tập kết để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, anh luôn luôn gương mẫu
làm mọi việc nặng nhọc, động viên giúp đỡ đồng đội kéo pháo tới đích an toàn.
Trong lúc kéo pháo qua những chặng đường khó khăn nguy hiểm, anh
xung phong lái để bảo đảm an toàn cho khẩu pháo. Trong lúc kéo pháo cũng như
lúc nghỉ dọc đường, Tô Vĩnh Diện luôn luôn nhắc đồng đội chuẩn bị chu đáo và
tự mình đi kiểm tra tỉ mỉ đường dây kéo pháo, xem xét từng đoạn đường, từng
cái dốc rồi phổ biến cho anh em để tránh những nguy hiểm bất ngờ xẩy ra.
Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của đồng chí Tô Vĩnh Diện đã cổ vũ
mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, chuẩn bị chiến đấu và
chiến đấu thắng lợi.


18


3.4. Anh hùng Liệt sĩ Trần Can
Anh hùng Liệt sĩ Trần Can (1931-7/5/1954), Anh hùng Lực lượng Vũ
trang Nhân dân (Truy tặng; 7/5/1956), Khi hy
sinh anh là Đại đội phó bộ binh thuộc Trung
đoàn 209, Đại đoàn 312, Đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Huân chương Quân công (hạng Nhì, hạng
Ba), 2 Huân chương Chiến công hạng nhất, 2
lần được bầu là chiến sỹ thi đua của đại đoàn.
Trần Can sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê
ở xã Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ
An. Từ hồi còn nhỏ, Trần Can rất ham thích vào bộ đội để được cầm súng giết
giặc cứu nước. Lớn lên, đã ba lần đồng chí xung phong tình nguyện xin đi bộ
đội, nhưng vì sức yếu nên đến lần thứ tư mới được chấp nhận (năm 1951).
Từ khi vào bộ đội, Trần Can chiến đấu rất dũng cảm, mưu trí, chỉ huy hết
sức linh hoạt. Trong mọi trường hợp khó khăn ác liệt, anh đều kiên quyết dẫn
đầu đơn vị vượt lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đã hai lần anh bị thương nặng
vẫn tiếp tục chiến đấu, chỉ huy đơn vị kiên quyết tiến công tiêu diệt địch. Tấm
gương của Trần Can đã thiết thực cổ vũ phong trào thi đua giết giặc lập công sôi
nổi trong toàn đơn vị.
Trong trận đánh đồi Him Lam mở đầu cho chiến dịch Điện Biên Phủ, Trần
Can được giao nhiệm vụ chỉ huy tiểu đội thọc sâu diệt sở chỉ huy và cắm lá cờ
“Quyết chiến quyết thắng” của Hồ Chủ tịch giao cho quân đội lên đồn Pháp. Khi
nổ súng, mặc cho hoả lực quân Pháp bắn ra dữ dội, anh dẫn đầu tiểu đội vượt
qua lô cốt tiền duyên, chọc thẳng vào sở chỉ huy như một mũi dao nhọn cắm vào
giữa tim gan địch, rồi nhẩy lên lô cốt cắm cờ. Sau đó, anh chỉ huy tiểu đội diệt
lính Pháp còn lại trong hầm ngầm, bắt 25 tên, thu nhiều súng.


18


3.5.

Anh hùng Liệt sĩ Trần Cừ

Anh hùng Liệt sĩ Trần Cừ (192016/8/1950), Anh hùng Lực lượng Vũ
trang Nhân dân (Truy tặng 1955), Khi
hy sinh anh là đảng viên, đại đội trưởng
bộ binh đại đội 336, tiểu đoàn 174,
trung đoàn 209, Sư đoàn 312.
Huân chương Quân công (hạng
Nhì, hạng Ba), Huân chương Chiến
công hạng Nhất.
Anh quê ở Khoái Thọ, Đức Bác, Lập
Thạch, Vĩnh PhúcTừ tháng 8 năm 1945
đến tháng 10 năm 1950, Anh chiến đấu trên chiến trường Việt Bắc, rèn luyện và
trưởng thành từ chiến sĩ lên đại đội trưởng và đã từng tham gia hàng chục trận
chiến đấu, trận nào anh cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Lúc đó Quốc Dân Đảng phản động cấu kết với quân Nhật kéo đến Vĩnh
Yên, Việt Trì và một số nơi khác với âm mưu ngóc đầu dậy. Trần Cừ dẫn đầu
một tiểu đội tham gia trận đánh giáp lá cà với địch và chính Anh đã đâm chết
một tên Nhật và thu một khẩu súng. Tại Cầu Oai (Vĩnh Yên), vào đầu năm 1946
đã diễn ra cuộc chiến đấu ác liệt chống bọn Quốc Dân Đảng phản động. Trần Cừ
đã chỉ huy đơn vị dùng súng tiểu liên tiêu diệt hai tiểu đội địch, giữ vững trận
địa, buộc chúng phải rút chạy về thị xã Vĩnh Yên.
Trong chiến dịch Biên giới cách đánh không phải là cách đánh lối du kích,
chống càn, do vậy, người chỉ huy trực tiếp, ngoài mưu trí và dũng cảm ra còn

phải có sự hiểu biết và trình độ chỉ huy hiệp đồng tác chiến, trình độ sử dụng vũ
khí, trang bị kỹ thuật quân sự mới, Anh đã được đơn vị cử sang Trung Quốc

18


học. Tốt nghiệp khoá học, Anh trở về vào đúng lúc chiến dịch giải phóng biên
giới mở màn.
3.6.

Liệt sĩ Trần Thị Bắc

Liệt sĩ Trần Thị Bắc (193221/3/1954), chị là nữ nguyên mẫu
trong bài thơ Núi đôi của Đại tá
nhà báo, nhà thơ Quân đội Vũ
Cao.
Trần Thị Bắc là con gái đầu của một
gia đình có truyền thống yêu nước. Các
bác, các cậu của cô đều là cơ sở của
Cách mạng, là du kích. Có người là liệt
sỹ, có người từng bị giặc bắt. Bố cô
những năm đó cũng là xã đội phó xông
pha gan dạ, bị địch bắt tra tấn chết đi
sống lại.
Lớn lên giữa những người như vậy, mới chỉ 15 tuổi Bắc đã tham gia các
hoạt động của các đoàn thể. 17 tuổi cô vào đội du kích với nhiệm vụ làm giao
thông liên lạc, tiếp tế cho đội du kích trong những lần đi bắn tỉa đồn Tây. Năm
1950, cô được cử đi học y tá rồi trở về kiêm nhiệm thêm việc cứu thương. Có
lần theo đội du kích đi bắn tỉa, cô bị đạn của kẻ thù bắn xướt qua mặt để lại vết
thương ngay dưới khoé mắt. Nhưng cô không hề biết sợ hãi.

Là một cô gái xinh đẹp, hát hay và khéo ăn nói, năm 1951, Bắc được giao
cả 3 nhiệm vụ: quân báo, cứu thương và binh vận.
Vào ngày 12/3/1954, nhóm cán bộ của ta họp tại Lương Châu để chuẩn bị
cho kế hoạch đánh phục kích địch. Tiên lượng sau khi ta đánh thì địch sẽ tức tối
điên cuồng và tổ chức vây ráp càn quét, cấp trên lệnh rút bớt cán bộ nằm vùng ra

18


vùng tự do để tránh tổn thất. Đoàn cán bộ di chuyển ra vùng tự do ngay trong
đêm hôm đó gồm có trên 30 người. Bắc được cử dẫn đoàn đi vì hai lẽ: Cô thông
thạo địa bàn, gan dạ và khôn khéo trong ứng phó khi có tình huống xấu. Mặt
3.7.

Anh hùng Liệt sĩ Bùi Thị Cúc
Anh hùng Liệt sĩ Bùi Thị Cúc (1930-1951),
Anh hùng Lực lượng Vũ trang Công an Nhân
dân (Truy tặng; 1955).
Bùi Thị Cúc tên thật là Trần Thị Lan, sinh năm
1930, tại làng Vân Mạc, một làng nhỏ thuộc xã Vân
Du, huyện Ân Thi. Gia đình đông con, ông bố mất
khi Cúc còn nhỏ, để lại nhiều nợ nần. Bà mẹ không
trả được, phải gán Cúc làm con nuôi cho một người
làng bên để trừ một khoản vay nợ.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các anh trai đi bộ đội, hoặc công tác
địa phương. Bùi Thị Cúc làm cán bộ phụ nữ ở thôn, được kết nạp Đảng, sau đó
làm cán bộ Huyện hội phụ nữ Ân Thi. Những năm 1947-1950, thực dân Pháp
đánh chiếm các huyện vùng nam Hưng Yên, chúng cấu kết với bọn tay sai phản
động đóng nhiều đồn bốt, lập tề, thường xuyên càn quét, cướp bóc. Ở bốt Cảnh

Lâm gần Vân Mạc, tên Nguyễn Doan Nhi, vốn là một cán bộ địa phương đã
phản bội, cùng anh rể và anh trai làm sếp bốt và phòng nhì, có nhiều thủ đoạn
thâm độc bắt giết cán bộ, khủng bố nhân dân. Huyện ủy Ân Thi cử Bùi Thị Cúc
đóng vai là người cầu an bỏ nhiệm vụ về gia đình buôn bán ở chợ Cảnh Lâm để
làm nhiệm vụ địch vận, phản gián.
Biết không khuất phục được chị, ngày 15 tháng 5 năm 1950 bọn địch đã
đem chị ra đê bờ sông Lực Điền hành hình hết sức dã man. Bùi Thị Cúc đã nêu
gương hy sinh vô cùng kiên cường, bất khuất. Hồ Chủ tịch đã truy tặng chị sáu
chữ: “Sống anh dũng, chết vẻ vang”.

18


×