Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Nghiên cứu Vai trò của công tác chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp tới xoá đói giảm nghèo trên địa bàn huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.38 KB, 90 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Có nhiều vấn đề xã hội đang từng ngày, từng giờ liên tiếp xẩy ra khiến
cho hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới đều phải đối mặt với nó: Như
chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật, tăng dân số…, những vấn đề này làm cản trở
chung của toàn xã hội, cũng như sự tiếp cận các dịch vụ sống của chính mỗi
bản thân con người, đặc biệt là những người nghèo thì việc đó lại càng khó
khăn hơn. Đã hơn 20 năm qua nước ta tiến hành đổi mới, từ đó toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta đã vượt bao khó khăn thử thách để thực hiện thành
công công cuộc đổi mới, bước đầu đã đạt được những thành tựu khả quan,
biểu hiện qua dời sống của đại bộ phận nhân dân, tốc độ tăng trưởng kinh tế
khá và đang hoà chung vào nền kinh tế toàn cầu hoá, đang thực hiện mục tiêu
là một nước CNH, HĐH.
Năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế
giới WTO, tổ chức thành công hội nghị AFEC 14, điều này đánh dấu bước
phát triển mới và qua đó nhằm quảng bá hình ảnh đất Nước, con người Việt
Nam, khẳng định và nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên
Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Nghèo đói vẫn đang là cản trở trên bước
đường phát triển đòi hỏi sự nỗ lực của các cấp, các ngành và toàn dân cùng
tham gia vào trong công tác xóa đói giảm nghèo, chú trọng thường xuyên xây
dựng chương trình dựa án liên quan đến xóa đói giảm nghèo. Hiện nay chúng
ta có 77% dân cư sống ở nông thôn, nông thôn chiếm 40% GĐP, 30% giá trị
xuất khẩu (Đỗ Kim Chung 2006). Ở khu vực nông thôn hiện 70% thu nhập
của nông dân vẫn từ nông nghiệp nên việc phát triển kinh tế nông nghiệp
nông thôn nước ta có một vị trí quan trọng. Để phát triển nhanh chóng nông
nghiệp nông thôn và xoá đói giảm ngheo, con đường tất yếu là phải đưa
nhanh các thành tựu khoa học công nghệ vào phục vụ sản xuất nông nghiệp
1



và đời sống dân cư nông thôn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã xác định phương hướng phát triển khoa học công
nghệ của nước ta đến năm 2010 là: “Việc đổi mới công nghệ sẽ hướng vào
chuyển giao công nghệ, tiếp thu, làm chủ những công nghệ mới, đặc biệt lựa
chọn những công nghệ cơ bản , có vai trò quyết định đối với nâng cao trình độ
công nghệ của nhiều nghành, tạo ra bước nhảy vọt về chất lượng và hiệu quả
kinh tế”. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò của công nghệ đối với sự
nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp nông nông thôn Đảng và nhà nước ta đã dành
nhiều tài lực và vật lực cho việc đưa nhanh các thành tựu khoa học và công
nghệ vào nông thôn nói chung và nông nghiệp nói riêng. Công tác chuyển
giao công nghệ được thực hiện rộng khắp ở vùng nông thôn, vùng núi, vùng
sâu, vùng xa và đã đem lại hiệu quả cao trong sản xuất nông nghiệp, góp phần
rất lớn cho việc xoá đói giảm nghèo cho đại đa số bà con nông dân. Tuy vậy
hiệu quả của công tác chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp còn nặng đưa
từ trên xuống, chưa phù hợp với điều kiện hoàn cảnh kinh tế xã hội, tập quán
và nhu cầu của nông dân cà của cộng đồng. Chưa gắn chặt với chuyển giao và
thị trường tiêu thụ các nông sản phẩm. Công tác chuyển giao chưa huy động
được sự tham gia có hiệu quả của nông dân và cộng đồng vì thế các công
nghệ được chuyển giao trong nông nghiệp thường không bền vững. Mặt khác,
trình độ dân trí còn hạn chế (tỷ lệ nghèo đói cao). Đây là yếu tố làm hạn chế
hiệu quả công tác chuyển giao. Vì vậy công tác chuyển giao công nghệ trong
nông nghiệp nói chung và công tác chuyển giao tới các hộ nghèo nói riêng
của nước ta hiện nay đang còn đặt ra nhiều vấn đề cần được quan tâm.
Anh Sơn là một huyện miền núi có tổng diện tích đất tự nhiên 60299,91
ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 62,48% . Chủ yếu là đất đồi núi,
khí hậu Anh Sơn khắc nghiệt, gây khó khăn cho sản xuất, hoạt động kinh tế
chủ yếu của huyện là dựa vào nông-lâm nghiệp. Huyện Anh Sơn có mức thu
nhập thấp so với toàn tỉnh và cả nước, năng suất và hiệu quả thấp, tỷ lệ hộ
nghèo trên toàn huyện cao, tỷ lệ dân tộc thiểu số đông. Để giải quyết vấn đề
2



này cần phải đẩy mạnh việc chuyển giao KHCN phù hợp với trình độ của
nông dân để từng bước nâng cao mức sống của người dân trong thời gian tới,
đồng thời góp phần thúc đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông
thôn của huyện nhà.
Từ những vấn đề tìm hiểu được ở địa phương, những vấn đề còn tồn tại
trong thực tế chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu Vai trò của
công tác chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp tới xoá đói giảm nghèo
trên địa bàn huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An”.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1.2.1 Mục tiêu chung
Phân tích vai trò của công tác chuyển giao công nghệ trong nông
nghiệp tới xoá đói giảm nghèo của huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An, từ đó đề
xuất một số định hướng nhằm nâng cao vai trò của công tác chuyển giao công
nghệ đối với xoá đói giảm nghèo trên địa bàn huyện.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiến về xoá đói giảm nghèo và
chuyển giao công nghệ.
- Phân tích vai trò của công tác chuyển giao công nghệ đối với xoá đói giảm
nghèo trên địa bàn huyện Anh Sơn-Nghệ An. Đề xuất một số định hướng nhằm
nông cao vai trò chuyển giao công nghệ đối với xoá đói giảm nghèo trên địa bàn
huyện.
1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài dựa trên chủ thể là trạm khuyện
nông huyện Anh Sơn-Nghệ An và các hộ nông dân trên địa bàn huyện.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian:
+ Thực trạng chung được nghiên cứu từ năm 2006-2008.

3


+ Thời gian thu thập số liệu sơ cấp được thu thập của 3 năm được thu
thập của năm 2008.
+ Thời gian tiến hành đề tài từ ngày 20/02/2009 đến ngày 20/05/2009.
- Về không gian: đề tài tập trung nghiên cứu vai trò chuyển giao công nghệ
trong nông nghiệp và xoá đói giảm nghèo trên địa bàn huyện Anh Sơn- Nghệ
An.
- Về nội dung.
Tập trung nghiên cứu công tác chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp
đến các hộ sản xuất nông nghiệp đồng thời đánh giá vai trò của chuyển giao
công nghệ tới xoá đói giảm nghèo.

4


PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN
2.1 XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1.1 Lý luận
2.1.1.1 Một số khái niệm
Quan niệm thế nào là nghèo? Ai là người nghèo? Họ đang sống ở đâu? Họ
nghèo đói vì nguyên nhân gì? Làm thế nào để giảm nghèo? Để trả lời các câu
hỏi trên cần hiểu rõ bản chất và nội hàm của nghèo đói. Trước tiên phải khẳng
định là không có sự thống nhất tuyệt đối về nghèo đói do bản thân quan niệm
về nghèo đói đã thay đổi nhanh chóng qua 3 thập kỷ qua. Nếu như đầu những

năm 70, nghèo đói chỉ được coi là nghèo đói về tiêu dùng, với tư tưởng cốt lõi
là căn bản nhất để một người bị coi là nghèo đói, đó là sự “thiếu hụt” so với
một mức sống nhất định mà sự thiếu hụt này được xác định theo các chuẩn
mực xã hội và phụ thuộc vào không gian và thời gian.
Tuy nhiên quan niệm về nghèo đói hay nhận dạng về nghèo đói của từng
quốc gia hay từng vùng, từng nhóm dân cư, nhìn chung không có sự khác biệt
đáng kể, tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay
chi tiêu để thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người. Sự khác nhau
chung nhất là thoả mãn ở mức cao hay mức thấp mà thôi, điều này phụ thuộc
vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của từng
vùng, từng quốc gia.
Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về nghèo đói do hội nghị chống đói
nghèo khu vực châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Bangkok,
Thái Lan vào tháng 9 năm 1993: “Nghèo khổ là tình trạng một bộ phận dân
cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà
những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục
tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận”.
Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhagen - Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về
5


nghèo đói như sau: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn
dưới 1 đô la (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền coi như đủ mua những
sản phẩm thiết yếu để tồn tại”.
Thực ra vấn đề nghèo và đói là hai vấn đề khác nhau:


Đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo, có mức sống


dưới mức tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.


Nghèo: Đó là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có các điều

kiện vật chất và tinh thần để duy trì cuộc sống của gia đình họ ở mức tối thiểu
trong điều kiện chung của cộng đồng. Mức tối thiểu được hiểu là các điều
kiện ăn, ở, mặc và các nhu cầu khác như: văn hoá, giáo dục, y tế, đi lại, giao
tiếp… chỉ đạt mức duy trì cuộc sống rất bình thường và dưới đó là đói khổ.
Nghèo luôn luôn là dưới mức trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương
diện. Giữa mức nghèo và mức trung bình của xã hội có một khoảng cách
thường là ba lần trở lên.
Ngân hàng Chân Á đưa ra khái niệm về nghèo tuyệt đối và nghèo
tương đối như sau:


Nghèo tuyệt đối: Là việc không thoả mãn những nhu cầu tối thiểu

để duy trì cuộc sống của con người.


Nghèo tương đối: Là tình trạng không đạt tới mức tối thiểu tại một

thời điểm nào đó.
Theo nghiên cứu của “TS.Nguyễn Thị Hằng - Khẩn trương thực hiện
Nghị Quyết Trung ương 4 khoá VIII về XĐGN”. Về mặt lượng nếu một con
người chỉ được thoả mãn dưới mức 1500 calo/người/ngày thì là đói và dưới
mức đó là đói gay gắt. Để lượng hoá các tiêu chí đói người ta dùng số liệu đo
hiện vật theo quy chuẩn gạo hoặc số đo giá trị theo quy chuẩn tiền theo mức
bình quân đầu người/tháng. Ở đây mức chênh lệch cũng có khác nhau giữa

các vùng nông thôn và thành thị, nhưng cái chung nhất là dùng mức hiện vật
(gạo) để đo hiện trạng đói nghèo.

6


2.1.1.2 Nguyên nhân đói nghèo ở Việt Nam
Theo đánh giá của Bộ LĐ - TB và XH nguyên nhân đói nghèo là hậu quả
của nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính gây ra đói nghèo có thể
chia theo 3 nhóm như sau:
o

Nhóm nguyên nhân do điều kiện tự nhiên - xã hội: Khí hậu khắc

nghiệt, thiên tai, bão lũ, hạn hán, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao thông
khó khăn, kinh tế chậm phát triển, hậu quả của chiến tranh để lại.
o

Nhóm nguyên nhân thuộc cơ chế chính sách: Thiếu hoặc không đồng

bộ về chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn, chính sách
khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông,
lâm ngư, chính sách trong giáo dục - đào tạo, y tế, giải quyết đất đai, định
canh định cư, kinh tế mới và đầu tư nguồn lực còn hạn chế.
o

Nhòm nguyên nhân thuộc về bản thân hộ nghèo: Do chính bản thân

hộ nghèo không biết cách làm ăn, không có hoặc thiếu vốn để sản xuất, gia
đình đông con, ít người làm, do chi tiêu lãng phí bừa bãi, lười lao động, mắc

tệ nạn xã hội như: cờ bạc rượu chè, nghiện hút… Ngoài ra còn do một bộ
phận không nhỏ người nghèo vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ
của Nhà nước nên chưa chủ động vươn lên để thoát nghèo.
2.1.1.3 Tính tất yếu của việc xoá đói, giảm nghèo
Báo cáo tổng kết chương trình giảm nghèo ở Châu Á - Thái Bình Dương
đã đánh giá rằng: “Sống một cuộc sống nghèo khổ hiển nhiên sẽ gây ra những
thất vọng, mà thất vọng này là nguồn gốc của những hành động phá phách,
gây phiền hà cho cuộc sống và trật tự xã hội. Hoàn cảnh nghèo khổ buộc
người ta phải khai thác bừa bãi môi trường và làm giảm khả năng sản xuất
của nó, ấp ủ các xung đột về chính trị, xã hội. Phá hoại những giá trị cơ bản
của con người và làm xói mòn hạnh phúc gia đình. Những hành động kiểu
này đang là bi kịch cho nhiều gia đình và xã hội”.
Nghèo đói là nguyên nhân của hàng loạt những tác động tiêu cực tới sự
phát triển xã hội và phát triển con người mà biểu hiện cụ thể của nó là:
7


Thu nhập thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới mức sống của con người. Mức
sống không đảm bảo dẫn tới hậu quả tất yếu, đó là suy dinh dưỡng ở trẻ em và
giảm tuổi thọ ở người lớn. Nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại là nhu cầu bản năng,
nhu cầu đầu tiên của mỗi con người. Trong điều kiện thu nhập thấp, thì chi
tiêu cho giáo dục, cho y tế và cho các sinh hoạt khác sẽ bị cắt giảm để nhường
chỗ cho các chi tiêu về lương thực, về quần áo…Thiếu sự chăm sóc về y tế,
giáo dục, thiếu các kiến thức về sức khoẻ sinh sản, phòng tránh thai cũng như
chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em sẽ dẫn tới tỷ lệ sinh cao, tỷ lệ tử vong cao ở
trẻ sơ sinh, thậm chí cả ở các bà mẹ.
Tỷ lệ tăng dân số cao dẫn tới áp lực về việc làm. Mặt khác, chính lực
lượng lao động được bổ sung một cách “hào phóng” này hàng năm lại thiếu
các kiến thức, kỹ năng do được “hưởng” sự chăm sóc kém về giáo dục, đào
tạo, dẫn tới thất nghiệp tràn lan, năng suất lao động thấp. Điều này cũng có

nghĩa là thu nhập thấp và cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói hoàn tất chu kỳ
của mình.
Trong báo cáo phát triển thế giới (World Development Report 1992) nêu
rõ: “Hơn một tỷ người ngày nay đang sống trong tình trạng nghèo đói, đa số
những người này sẽ sinh ra những gia đình nghèo…”. Tuy nhiên, vấn đề
không chỉ dừng lại ở mức độ “nghèo đói duy trì sự nghèo đói” mà nó còn làm
cho tình trạng này ngày một trầm trọng hơn và lây lan sang những lĩnh vực
tưởng như không có liên quan, đó là môi trường và đạo đức xã hội. Mức sống
thấp cộng với lối sống du canh du cư đã tồn tại từ lâu đời của đồng bào miền
núi làm cho rừng bị tàn phá ngày một nặng nề hơn. Còn ở những nơi không
có rừng để tàn phá thì nghèo đói, thiếu việc làm sẽ nảy sinh tự phát dòng di
dân ra thành phố, khu công nghiệp cửa khẩu biên giới để kiến sống. Mức độ
di chuyển này ngày càng tăng là nguồn gốc gây mất an ninh trật tự và lây lan
các tệ nạn xã hội, kể cả tội phạm.
Nghèo khổ không chỉ gây nhức nhối cho người nghèo ở khía cạnh vật chất
mà còn phải kể đến nghèo khổ cả về mặt tinh thần, làm thui chột cả hệ thống
8


giá trị của con người trong cuộc sống. Nó làm giảm khả năng tham gia vào
các hoạt động của cộng đồng, thiếu niềm tin và hoài bão trong cuộc sống và
dễ bị ảnh hưởng tiêu cực chi phối.
“Vì vậy trách nhiệm của thế giới là phải làm giảm nạn nghèo khổ. Điều đó
vừa là mệnh lệnh của đạo lý, vừa là cái tất yếu để có được sự bền vững của
môi trường” (World Development Report 1992).
2.1.2 Thực tiến một số nước trên thế giới

Đói nghèo là vấn đề đang đặt ra cho tất cả các quốc gia trên thế giới, nó
trở thành vấn nạn trên toàn cầu. Trong lịch sử đã có nhiều nạn đói chết hàng
triệu người dân châu Á, châu Phi. Dân số thế giới tăng nhanh với tốc độ ngày

càng cao. Đầu thế kỷ XX mới có 1,6 tỷ người, đến năm 1986 là 5 tỷ người,
năm 1996 có 5,8 tỷ người, dự kiến vào năm 2010 sẽ la 10,2 tỷ người.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về lương thực tháng 11/1998 đã thừa nhận
có tới 1,3 tỷ người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó có hơn 840 triệu người
thiếu đói. Năm 1990, ngân hàng Thế giới (WB) tính toán và cho rằng nếu coi
thu nhập 1 người 1 tháng dưới 31,32 USD là người nghèo khổ thì vào năm
1990, toàn thế giới có 1,1 tỷ người nghèo khổ, tăng 1,3 tỷ người vào năm
1996. Trong khi đó, sản xuất nông nghiệp thế giới lại có chiều hướng sụt
giảm: gần 3% vào thập niên 60; 2,3% vào thập niên 70; 2% vào thập niên 80
và vào đầu thế kỷ XXI, chỉ còn 1,8%. Mức độ sụt giảm nhiều hơn ở các nước
đang phát triển.
Chống đói nghèo trên toàn thế giới thực sự là cuộc đấu tranh gay go,
quyết liệt với rất nhiều những bất lợi, mâu thuẫn. Đó là vấn đề phân hoá giàu
nghèo đang ngày một gay gắt, vấn đề quốc gia, dân tộc, sắc tộc, tôn giáo,
xung đột vũ trang và những vụ khủng bố diễn ra ở nhiều nơi chính là những
rào cản của công cuộc XĐGN, nâng cao mức sống của con người vì mục tiêu
phát triển bền vững.

9


* Kinh nghiệm XĐGN của một số nước
Vấn đề nghèo đói và XĐGN đang trở thành chủ đề quan tâm của toàn
nhân loại. Việc hạn chế và từng bước xoá bỏ nghèo đói là nhiệm vụ quan
trọng và nặng nề của nhiều tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia. Trong một vài
thập kỷ gần đây, công cuộc XĐGN trên Thế giới và một số quốc gia đã đạt
được một số kết quả nhất định. Các kết quả này được tổng kết và đúc rút
thành kinh nghiệm để các nước tham khảo và học tập.



Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trung Quốc là một nước có dân số đông nhất thế giới và cũng là nước có
số người nghèo chiếm tỷ lệ cao. Tỷ lệ nghèo khổ chiếm 20% dân số, trong đó
80 triệu người quá nghèo khổ chiếm 8% dân số (Số liệu của FAO, 1990).
Bước vào thời kỳ cải cách kinh tế, nông thôn Trung Quốc đã có sự thay đổi
lớn, tuyệt đại đa số nông dân đã giải quyết được vấn đề no cơm ấm áo, tỷ lệ
nghèo khổ giảm đáng kể do Trung Quốc sớm quan tâm và thực hiện rất có
hiệu quả chương trình “xoá đỏi giảm nghèo” ở trên phạm vi cả nước nhất là
khu vực nông thôn. Kinh nghiệm thành công của Trung Quốc trong công cuộc
XĐGN cho thấy tầm quan trọng của việc kết hợp tăng trưởng kinh tế gắn với
những biện pháp giải quyết việc làm ở nông thôn, mở rộng hệ thống dạy
nghề, tăng kỹ thuật mới, giảm nhẹ điều kiện việc làm, cải thiện đời sống. Phát
triển công nghiệp nông thôn nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế, cải tạo nền kinh tế
thuần nông với phương châm “ly nông bất ly hương”. Đối với các vùng nghèo
chính phủ có các chương trình riêng như:
Giúp đỡ các huyện nghèo khó theo phương châm lấy phát triển kinh tế là
chính với mặt công tác sau: Kết hợp khai thác tổng hợp nông nghiệp, đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển ngành nghề địa phương, phòng chống cơ
bản về các bệnh tật, phổ cập giáo dục tiểu học nâng cao trình độ văn hoá trình
độ kỹ thuật cho người lao động. Khống chế tốc độ gia tăng dân số, khai thác
và bảo vệ tốt tài nguyên môi trường sinh thái.

10


Ngoài những nỗ lực đó còn có chính sách tín dụng cho hộ nghèo vay vốn
với lãi suất thấp thực hiện ưu đãi về thuế tín dụng. Nhà nước tăng các khoản
đầu tư vào các vùng nghèo khó, động viên các lực lượng xã hội chi viện cho
vùng nghèo khó, triển khai kế hoạch khoa học kỹ thuật và đã thu được những

kết quả tốt.
Giũp đỡ xã nghèo, thôn nghèo và các hộ nghèo như phổ biến kinh
nghiệm, hợp tác kinh tế giúp đỡ lẫn nhau cùng có lợi để đưa xã nghèo, thôn
nghèo, hộ nghèo thoát khỏi khó khăn tiến tới giàu có.


Kinh nghiệm của Inđônêxia.

Chính phủ Inđônêxia rất chú trọng khắc phục tình trạng khủng hoảng
lương thực và tạo khả năng cho nông dân tự nâng cao mức sống của mình.
Chính phủ đã tiến hành “cuộc cách mạng xanh” trong nông nghiệp, áp dụng
các kỹ thuật chọn giống, thành lập các nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu, phân
bón tạo điều kiện cho việc nâng cao năng suất cây lương thực. Hàng năm,
chính phủ đã trợ cấp ngân sách hỗ trợ tín dụng cho người nghèo, khuyến
khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn, mở rộng và củng
cố hệ thống hợp tác xã của những người kinh doanh nhỏ… Nhờ những biện
pháp tích cực, nên số người nghèo của Inđônêxia giảm liên tục. Năm 1976, số
người dưới mức nghèo khổ là 54 triệu người, nhưng đến năm 1987, chỉ còn
30 triệu người. Năm 1996, Inđônêxia được giải thưởng của Liên hợp quốc về
thực hiện chương trình XĐGN.


Kinh nghiệm của Ấn Độ

Trước đây Ấn Độ là một trong những nước có số người nghèo khổ nhiều
nhất trên thế giới. Theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc, hiện nay Ấn Độ có
khoảng 420 triệu người ở tình trạng nghèo đói chiếm 37,6% tổng số người
nghèo khổ trên thế giới chiếm 55% dân số đất nước.
Từ những năm 1950 - 1970 Chính phủ Ấn Độ đặt ra vấn đề phát triển toàn
diện khơi dậy tiềm năng sẵn có trong nông thôn. “Cuộc cách mạng xanh” với

việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phẩm chất tốt cùng với
11


chuơng trình phát triển nông nghiệp khác đã đưa Ấn Độ từ một nước phải
nhập khẩu lương thực nay trở thành một nước có khả năng tự túc lương thực.
Chính phủ Ấn Độ đã có biện pháp giúp đỡ từng nhóm hộ gia đình phát triển
sản xuất nên đã có 15 triệu hộ gia đình với 75 triệu người thoát khỏi cảnh
nghèo khổ. Hiện nay Ấn Độ có khoảng 12 - 15% số hộ nông dân khá - giàu.
Đây là một kết quả cũng là thành tựu mà Đảng và Nhà nuớc Ấn Độ có được.


Kinh nghiệm của Nhật Bản

Nhật Bản là quốc gia đất hẹp người đông, điều kiện phát triển kinh tế rất
khó khăn, nghèo tài nguyên lại thường hay động đất… Nhưng đặc điểm của
người Nhật Bản là rất ham làm việc, biết tiết kiệm và căn cơ. Chỉ hơn 20 năm
sau chiến tranh, từ đống tro tàn đổ nát, Nhật Bản đã vươn lên thành cường
quốc về kinh tế, đời sống nhân dân tăng cao, tình trạng đói nghèo đã giảm
xuống thấp. Hiện nay 90% dân số Nhật Bản là tầng lớp trung lưu. Có được
thành quả như vậy là do Nhật Bản đã đưa ra kế hoạch và chính sách rất đúng
đắn và thực hiện tích cực, góp phần đẩy nhanh phát triển kinh tế, nâng cao đời
sống nhân dân, XĐGN bền vững.
Nhật Bản đã áp dụng các giải pháp sau:
+ Thực hiện quá trình dân chủ hoá sau chiến tranh, nhằm tạo lập một nền
kinh tế thị trường, bao gồm nhiều chủ thể có sự bình đẳng tương đối trong sản
xuất kinh doanh, thực hiện dân chủ hoá lao động.
+ Xoá bỏ cơ sở gây ra sự phân hoá giàu nghèo, tạo lập mặt bằng bình
đẳng hơn cho xã hội đối với tài sản và đất đai nhanh chóng thực hiện mục tiêu
“ruộng đất cho người cày”.

+ Thực hiện chính sách cùng hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế.
+ Thực hiện chính sách thuế thu nhập để điều tiết giảm bớt chênh lệch về
thu nhập.
+ Thực hiện chính sách vùng, khu vực: Khuyến khích phát huy lợi thế so
sánh giữa các vùng… hỗ trợ khu vực nông thôn nông nghiệp thông qua chính
sách bảo hộ đối với sản xuất nông nghiệp.
12


+ Thực hiện chính sách về phúc lợi xã hội: Thông qua hệ thống bảo hiểm
rộng lớn trên các lĩnh vực: tương trợ công cộng, dịch vụ, phúc lợi bảo hiểm xã
hội (chăm sóc sức khoẻ, trợ cấp con cái, hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp và tai
nạn lao động), y tế công cộng, trợ cấp và giúp đỡ của Nhà nước cho các nạn
nhân chiến tranh. Các khoản chi cho bảo hiểm xã hội ở Nhật Bản không nhỏ,
năm 1989 con số này đã chiếm 14% thu nhập quốc dân và từ đó đến nay các
khoản chi này không ngừng tăng lên. Đây chính là biện pháp có hiệu quả để
những người nghèo sớm thoát khỏi cảnh đói nghèo va những người không
may gặp rủi ro nhanh chóng trở lại cuộc sống ổn định, nâng cao chất lượng
cuộc sống.
2.2 Chuyển giao khoa học, công nghệ: Lý luận và thực tiến
2.2.1 Lý luận

2.2.1.1 Một số khái niệm
* Công nghệ là hệ thống các giải pháp được tạo nên bởi sự ứng dụng các
kiến thức khoa học, được sử dụng hoặc giải quyết một hoặc một số nhiệm vụ
thực tế trong sản xuất được thể hiện dưới dạng bí quyết kỹ thuật, phương án,
quy trình công nghệ, tài liệu…và các dịch vụ hỗ trợ tư vấn (Đặng Kim
Nhung, 1994, chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị trường và vận
dụng vào Việt Nam, NXB NN).
Như vậy công nghệ gồm hai bộ phận:



Phần cứng bao gồm: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, kết cấu xây dựng nhà
xưởng.



Phần mềm bao gồm:
+ Phần con người : tức là đội ngũ nhân lực có sức khoẻ, có kĩ năng có
kinh nghiệm sản xuất.

+ Phần thông tin: gồm các giữ liệu, thuyết minh, dự án, phần mô tả sáng chế
chỉ dẫn kỹ thuật, điều hành sản xuất…

13


+ Phần tổ chức: Bao gồm những quan hệ, bố trí, sắp xếp, đào tạo đội ngũ
cho các hoạt động như phân chia nguồn lực, tạo mạng lưới, lập kế hoạch kiểm
tra điều hành.
+ Phần bao tiêu: Nghiên cứu thị trường đầu ra.
* Chuyển giao công nghệ là sự dịch chuyển toàn bộ một phần công nghệ từ
nhóm người này sang nhóm người khác. Khái niệm chuyển giao công nghệ
chính thức được đưa ra trong một vài thập niên gần đây. Thực tế trong nhiều
thế kỷ qua, những hoạt động này ở mức độ khác nhau đã xuất hiện. Nó được
phát triển theo thời gian cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong nội bộ các quốc
gia và giữa các quốc gia với nhau thông qua mua bán thương mại, chiến tranh
chinh phục và di cư.
Như vậy hoạt động chuyển giao công nghệ thường được thực hiện tham gia
của nhiều tổ chức, cá nhân, với tư cách là những chủ thể:

Các tổ chức, cơ quan chính phủ hoặc phi chính phủ, doanh nghiệp, những
tập thể, cá nhân, các nhà khoa học, các tổ chức môi giới, tư vấn…
Nói tóm lại: Chuyển giao công nghệ là một lĩnh vực hoạt động nhằm đưa
những công nghệ từ nơi có nhu cầu chuyển giao công nghệ đến nơi có nhu
cầu nhận công nghệ, từ nơi có công nghệ cao hơn đến nơi có trình độ công
nghệ thấp hơn một cách hiệu quả, đáp ứng yêu cầu các bên tham gia.
2.2.1.2Vai trò công nghệ trong nông nghiệp
Áp dụng công nghệ mới vào sảnn xuất là một đòi hỏi hết sức quan
trọng đối với sản xuất nông nghiệp hiện nay. Mấy năm gần đây trên thế giới
cũng như ở nước ta sự bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật trên nhiều
lĩnh vực cũng như trong nông nghiệp đã làm cho mức phát triển kinh tế của
nhiều nước có nhịp độ tăng đáng kể. Đổi mới công nghệ xảy ra ở mọi lĩnh
vực của nghành nông nghiệp, phần lớn thể hiện ở khâu tiền vốn đầu tư là máy
móc, hệ thống tưới tiêu và nhà xưởng. Nhưng những công nghệ mới nhất là
những giống cây trồng năng suất cao, giống gia súc đã cải tạo, thức ăn gia súc
tiên tiến, phân bón, thuốc trừ sâu có hiệu quả cao hơn. Tiến bộ công nghệ đã
14


trở thành hiển nhiên trong nghành trồng trọt chăn nuôi và trình độ quản lí của
người nông dân.
Các nhà kỷ thuật cho rằng công nghệ là một tập hợp những kỹ thuật săn
có hoặc có trình độ kiến thức về mỗi quan hệ giữa các yếu tố đầu vào và sản
lượng đầu ra băng vật chất nhất định. Còn đổi mới công nghệ là cải tiến trình
độ kiến thức sao cho nâng cao được năng lực sản xuất để có thể làm ra nhiều
sản phẩm hơn so với số lượng đầu vào như cũ hoặc làm ra một sản lượng như
cũ với khối lượng Ban đầu ít hơn. Nhiều đổi mới công nghệ trong nông
nghiệp còn nhằm tiết kiệm lao động ( trong trường hợp sử dụng công cụ máy
móc mới) hoặc tiết kiệm đất đai (do đưa giống năng suất cao và phân bón
hiệu quả cao hơn).

2.2.1.3 Mục đích của chuyển giao công nghệ.
Công tác chuyển giao công nghệ nhằm giúp nông dân có khả năng tự
giải quyết các vấn đề của gia đình và cộng đồng nhằm đẩy mạnh sản xuất,
nâng cao đời sống và dân trí, góp phần xây dựng và phát triển nông thôn mới
qua áp dụng thành công các công nghệ mới bao gồm cả những kiến thức và kĩ
năng quản lí thông tin và thi trường, các chủ trương chính Sách về nông
nghiệp và nông thôn ( FAO, 2001).
Chuyển giao công nghệ còn được nông dân liên kết lại với nhau để
phòng và chống thiên tai, tiêu thụ sản phẩm, phát triển nghành nghề, xúc tiến
thương mại giúp nông dân phát triển khả năng quản lý và điều hành và tổ
chức các hoạt động xã hội nông thôn ngày càng tốt hơn (Bộ nông nghiệp và
phát triển nông thôn 2002). Như vậy mục đích của chuyển giao công nghệ là
(Đỗ Kim Chung, 2005).
1. Đẩy mạnh sản xuất hàng hoá một cách bền vững, góp phần xây dưng
nông thôn theo hướng CNH-HĐH, dân chủ hoá và hợp tác hoá.
2. Nâng cao thu nhập của nông dân, giúp nông dân giải quyết và áp dụng
được các yêu cầu cơ bản của họ, thực hiện xoá đói giảm nghèo.
3. Nâng cao dân trí nông thôn
15


4. Phát hiện các vấn đề nảy sinh, thẩm định các kết quả nghiên cứu để
hình thành những chiến lược nghiên cứu. Công tác chuyển giao được
nông dân chấp nhận, tồn tại bền vững trong nông dân và cộng đồng góp
phần cải thiện cuộc sống của nông dân.
2.2.1.4 Đặc điểm chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp
- Có sự kết hợp chặt chẽ giữa kĩ thuật hiện đại với kĩ thuật truyền thống
của bản địa. Khi áp dụng công nghệ vào địa phương phải tôn trọng, bảo tồn
những ưu điểm, hạn chế những nhựơc điểm của công nghệ mới, phát huy tác
dụng và khắc phục nhược điểm của công nghệ truyền thống.

- Chuyển giao công nghệ cho nông dân thường chậm và phải kết hợp
với nhiều chương trình hỗ trợ khác. Nông dân thường có tính bảo thủ, trình độ
tiếp thu kiến thức chậm, thiếu vốn nên khi thực hiện chuyển giao công nghệ
phảo thực hiện các biện pháp kèm theo như: Tập huấn, tín dụng,…đặc biệt là
công tác nâng cao kiến thức cho các đối tượng đựơc chuyển giao.
- Những công nghệ ngành trồng trọt được chuyển giao bao gồm:
+ Về kĩ thuật: Giống cây trồng, phân bón, thuốc BVTV, lai tạo, chăm
sóc, thu hoạch và bảo quản. Giống cây trồng có tính chất quyết định tới năng
suất, chất lượng sản phẩm, nó có tính thích nghi với từng điều kiện sống cụ
thể nên khi chuyển giao cần phải qua giai đoạn thử nghiệm.
+ Tổ chức kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu các loại cây trồng, chú ý đến
cây trồng có giá trị cao, tăng đầu tư thâm canh và quản lí tốt chi phí, tổ chức
bảo quản và tiêu thụ.
2.2.1.5 Người hưởng lợi trong chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp và
nông thôn
Theo quan điểm truyền thống người hưởng lợi trong chuyển giao công
nghệ trong Nông nghiệp và Nông thôn là nông dân nói chung, những người
trực tiếp áp dụng công nghệ mà các cơ quan chuyển giao mang lại. Trong
điều kiện đảm bảo sự phát triển bền vững thị trường công nghệ phát triển,
quan điểm về người hưởng lợi trong chuyển giao công nghệ được hiểu với
16


nghiã rộng hơn và sâu sắc hơn, người hưởng lợi trước hết là nông dân, tiếp
đến là các cơ quan nghiên cứu và khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, các
tổ chức phát triển, tư nhân và các doanh nghiệp.
Nông dân là người hưởng lợi trực tiếp từ các kết quả KTTB được
chuyển giao. Họ là người tiếp thu, ứng dụng TBKT vào sản xuất và đời sống
của họ. Tuy nhiên nông dân rất khác nhau về hoàn cảnh, kinh tế, trình độ, đặc
điểm văn hoá xã hội, do đó rất khác nhau về ứng xử trong tiếp thu cái mới.

Trong nông dân, có nông dân tiến bộ và nông dân bảo thủ, có nông dân
nghèo và nông dân khá giả, có nông dân thuộc dân tộc đa số và dân tộc thiểu
số, có nông dân ở vùng đồng bằng, gần đô thị lại có nông dân ở vùng sâu
vùng xa. Vì thế, tuỳ theo phạm vi và mục tiêu của chương trình chuyển giao
công nghệ, người hưởng lợi trong chuyển giao chia thành các nhóm mục tiêu
cụ thể:
o

Nông dân nghèo

o

Phụ nữ nghèo

o

Dân tộc thiểu số

o

Nông dân vùng sâu vùng xa

Bên cạnh nhóm nhận kết quả chuyển giao công nghệ là nông dân,
nhóm hưởng lợi trong chuyển giao công nghệ còn bao gồm các tổ chức, các
nhóm cá nhân tham gia thực hiện chuyển giao Công nghệ. Đó là các cơ quan
nghiên cứu và Khuyến nông, khuyến lâm, các tổ chức phát triển, các cá nhân
và doanh nghiệp. Các cơ quan nghiên cứu là người hưởng lợi vì kết quả
nghiên cứu của họ được nông dân và thị trường chấp nhận. Các cơ quan
khuyến nông nhà nứơc là người được hưởng lợi từ chương trình chuyển giao
vì họ thực hiện chức năng quản lí nhà nứơc về khuyến nông, chuyển giao

được công nghệ tới nông dân. Các tổ chức phát triển, các chương trình dự án
cũng là người hưởng lợi trong chuyển giao công nghệ vì họ đạt được các mục
tiêu trong các chương trình phát triển như giúp nông dân, những người nghèo,
các dân tộc thiểu số cải thiện đựơc cuộc sống của họ thông qua áp dụng các
17


KHCN, vì họ thực hiện các hoạt động Marketing các sản phẩm dịch vụ họ
mang tới cho nông dân, đáp ứng nhu cầu của thị trường. (Đỗ Kim Chung,
2005).
2.2.1.6 Các nhân tố quyết định tới thành công của công tác chuyển giao công
nghệ trong Nông nghiệp
Thứ nhất là chính sách của Chính phủ
Chính sách của Chính phủ về phát triển Nông nghiệp và nông thôn, về
công tác chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp có tác động lớn đến hình
thành hệ thống, phương thức và kết quả, hiệu quả chuyển giao. Các công cụ
chính sách cho chuyển giao bao gồm chính sách đầu tư chi khuyến nông,
chính sách cho cán bộ chuyển giao, nhất là cán bộ khuyến nông, chính sách
hỗ trợ giá đầu váo (giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…) để nông dân
tiếp thu được kĩ thuật mới. Chính sách phát triển nguồn nhân lực cho các địa
phương và cộng đồng. Xu hướng chung là chính sách cho chuyển giao công
nghệ trong nông nghiệp nhằm phát huy cao độ vai trò của các thành phần kinh
tếm nhất là kinh tế tư nhân, nội lực của cộng đồng, kết hợp sự hỗ trợ hợp lí từ
bên ngoài cộng đồng. Những năm đầu thế kỉ 21, các nước đều thực hiện chính
sách phi tập trung hoá trong chuyển giao, nhằm phát huy quyền chủ động hơn
của nông dân và cộng đồng trong chuyển giao.
Thứ hai là năng lực hệ thống khuyến nông ở địa phương
Năng lực khuyến nông bao gồm mức độ phù hợp với điều kiện chính trị
và xã hội của hệ thống tổ chức khuyến nông cơ sở, năng lực cyuuả cán bộ
khuyến nông, phương pháp khuyến nông, khả năng về tài chính và sự kết hợp

của các cơ quan liên đới trong chuyển giao. Hệ thống khuyến nông càng được
tổ chứcc phù hợp với tập quán văn hoá, xã hội của cộng đồng bao nhiêi thì
hiệu quả chuyển giao càng cao bấy nhiêu. Kiến thức và sự hiểu biết của cán
bộ khuyến nông về kĩ thuật mà họ chuyển giao cho nông dân, khả năng am
hiểu của nông dân, khả năng phân tích vấn đề và cùng nông dân xây dựng giải
pháp, sự vận dụng có hiệu quả phương pháp khuyến nông và khả năng vận
18


động quần chúng quyết định rất lớn tới sự thành công của công tác chuyển
giao.
Thứ ba là công tác lập kế hoạch khuyến nông
Kế hoạch khuyến nông bao gồm việc xác định đúng nhu cầu của
nông dân cần giải quyết, xác định các giải pháp phù hợp với người dân, tổ
chức tốt nguồn lực thục hiện, đánh giá, rà soát và hoàn thiện quy trình kĩ
thuật và công nghệ có ảnh hưởng tới sự thành công của công tác chuyển giao
công nghệ tới nông dân. Xu hướng chung là các nước đang phát triển, áp
dụng phương pháp kế hoạch khuyến nông có sự tham gia của dân vào các
hoạt động chuyển giao.
Thứ tư là bản chất của công nghệ được chuyển giao tới nông dân
Nếu công nghệ giúp nông dân giải quyết đươcj khó khăn của họ, phù
hợp với nhu cầu của dân và của thị trường, phù hợp với khả năng đầu tư, trình
độ sử dụng của nông dân thì công tác chuyển giao dễ thành công hơn. Xu
hướng chung, ở những vùng sản xuất nông nghiệp còn khó khăn, ở các nước
đang phát triển là công nghệ chuyển giao nên đơn giản, tốn ít đầu tư, phù hợp
với điều kiện sản xuất cuả nông dân.
Thứ năm là các nhân tố thuộc về nông dân
Các nhân tố này bao gồm khả năng về vốn đầu tư, kĩ năng và kiến thức
của nông dân, hình thức tổ chức sản xuất (quy mô lớn hay nhỏ), trình độ văn
hoá, giới tính, lứa tuổi, kinh nghiệm và sự tiếp xúc xã hội và cộng đồng của

nông dân như sự tiếp xúc với cán bộ khuyến nông, tiếp cận các nguồn thông
tin đại chúng, với làng xóm, bạn bè cũng là những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu
quả của công tác chuyển giao.
2.2.2 Thực tiến trên ở một số nước trên thế giới

Chuyển giao công nghệ là một nội dung chủ yếu trong chiến lược phát
triển nông nghiệp nông thôn của các nước trên thế giới và nhất là các nước
đang phát triển. Công tác chuyển giao KTTB chủ yếu do cơ quan khuyến

19


nông Nhà nước, các viện nghiên cứu, các tổ chức phát trỉên và thành phần
kinh tế tư nhân tiến hành.
Chương trình khuyến nông bao gồm 4 yếu tố cấu thành: Xác định nhu
cầu cần giải quyết, xác định kĩ thuật cấn được chuyển giao để giải quyết nhu
cầu đó, nông dân cần được hướng dẫn về tổ chức khuyến nông. Từ đó khoa
học khuyến nông ra đời, khuyến nông được tổ chức từ trung ương đến địa
phương để giúp nông dân giải quyết vấn đề khó khăn của chính họ. Các nứoc
Đông Nam châu Á đều có cục khuyến nông hay các tổ chức tương tự làm
nhiệm vụ khuyến nông. Trung Quốc không tổ chức hình thành cục khuyến
nông nhưng có cục truyền bá kĩ thuật nông nghiệp. Hệ thống khuyến nông
được tổ chức rộng khắp, phương pháp cơ bản trong chuyển giao những năm
cuối thế kỉ 20 là phương pháp nhóm (tập huấn có sự tham gia, mô hình trình
diễn, tham quan, hội nghị đầu bờ), phương pháp cá nhân (tập huấn và gặp gỡ,
trao đổi và tư vấn). Các chính phủ của các nước như Philippin, Sin-ga-po,
Ma-lay-si-a, Thái Lan đều thực hiện chính sách trợ giá đầu vào cho nông dân
thông qua gắn với các chương trình chuyển giao KTTB. Tuy nhiên, trong
nhiều thập kỉ, trợ giá hiệu quả chương trình khuyến nông không cao. Hiện nay
xu hướng chung là công tác chuyển giao KTTB được thực hiện dưới nhiều

hình thức thích hợp giảm dần sự trợ cấp của chính phủ, tăng cường sự tham
gia của nông dân (Đỗ Kim Chung, 2005).
Nghiên cứu tình hình chuyển giao TBKT ở các nước trên thế giới có thể rút ra
một số kinh nghiệm chủ yếu sau (Đỗ Kim Chung, 2005):
1. Chuyển giao KTTB là cần thiết trong mọi chiến lược phát triển nông
nghiệp và nông thôn. Chuyển giao KTTB cần được coi là trọng tâm
trong tổ chức hệ thống nghiên cứu và phát triển nông nghiệp và nông
thôn. Nghiên cứu và chuyển giao là hai nhiệm vụ không thể tách rời.
2. Chuyển giao KTTB lấy chiến lược hướng cầu là chủ yếu: Phải dựa vào
nhu cầu của dân và của thị trường để xác định kĩ thuật cần đưa tới cho
nông dân.
20


3. Trợ cấp cho chuyển giao nên tiến hành ở thời kì đầu để khuyến khích
sự ứng dụng kĩ thuật mới. Việc trợ cấp trong chuyển giao sẽ được giảm
dần trong quá trình lan truyền của kĩ thuật mới. Đồng thời quá trình
chuyển giao KTTB phải đảm bảo phát huy nguồn lực của nông dân, khi
thị trường công nghệ và nền sản xuất hàng hoá phát triển, người nhận
chuyển giao phải trả phí cho công tác chuyển giao mà KTTB họ sử
dụng.
4. Chuyển dần công tác chuyển giao KTTB từ Nhà nước sang trách nhiệm
của các cơ quan nghiên cứu và phát triển có sự tham gia của thành phần
kinh tế công, kinh tế tư nhân.
5. Hiệu quả của công tác chuyển giao chỉ có thể đạt được khi quá trình
chuyển giao có sự tham gia đầy đủ của nông dân trong xác định nhu
cầu, phân tích vấn đề khó khăn. lựa chọn giải pháp, đóng góp nguồn
lực, tổ chức thử nghiệm, đánh giá và hoàn thiện.
6. Các chương trình chuyển giao của Chính phủ nên tập trung vào vùng
có tài nguyên nghèo (tài nguyên rừng, đất, nước bị giảm cấp, thời tiết

khắc nghiệt) người nghèo và dân tộc thiểu số. Có sự phối hợp chặt chẽ
chương trình khác của Chính phủ, các tổ chức phát triển, các doanh
nghiệp và cá nhân.
7. KHCN đựơc chuyển giao phải phù hợp với nhu cầu của dân, của thị
trường, khả năng đầu tư, kiến thức và phong tục tập quán của người
dân.
8. Canh tác “hợp đồng” có thể xem là một trong những phương thức có
hiệu quả để chuyển giao công nghệ.
2.3 VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO

2.3.1 Lý luận về vai trò của chuyển giao khoa học, công nghệ trong xóa đói
giảm nghèo

Như đã nói ở phần trên khoa học công nghệ là sự ứng dụng các kiến
thức khoa học, được sử dụng hoặc giải quyết một hoặc một số nhiệm vụ thực

21


tế trong sản xuất được thể hiện dưới dạng bí quyết kỹ thuật, phương án, quy
trình công nghệ, tài liệu…và các dịch vụ hỗ trợ tư vấn. Vì vậy khoa học công
nghệ có vai trò rất quan trọng trong sản xuất cho nên khoa học công nghệ có
vai trò to lớn trong xoa đói giảm nghèo. Việc đưa các tiến bộ kỹ thuật mới
vào trong sản xuất làm tăng năng suất chất lượng nông sản. Nâng cao được
đời sống của người dân, cuộc sống của họ sẽ đầy đủ hơn và sẽ thoát nghèo.
Mặt khác khi áp dụng tốt các công nghệ mới các hộ giảm được công lao động.
Số lao động còn lại lại làm các công việc khác nên tăng thu nhập cho gia đình.
chưa hết việc chuyển giao công nghệ còn cung cấp nhanh chóng và chính xác
thông tin cho người dân giúp họ có định hướng đúng đắn cho việc sản xuất
của mình nên hiệu quả sản xuất sẽ tăng lên.

2.3.2 Thực tiễn những vấn đề về chuyển giao khoa học,công nghệ và xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam

Ở Việt Nam, đói, nghèo đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. Xoá
đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững luôn luôn được Đảng, Nhà nước hết sức
quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế
- xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong gần 20 năm đổi mới, nhờ thực
hiện tốt công tác chuyển giao KTTB đã có những đóng góp quan trọng trong
việc xây dựng mô hình trình diễn, hướng dẫn nông dân sản xuất và áp dụng
KTTB vào sản xuất, từng bước chuyển từ sản xuất tự túc, tự cấp sang nền
nông nghiệp hàng hoá đa dạng và hiệu quả, hướng mạnh xuất khẩu, phát triển
ngành nghề nông thôn mới, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo. Tỷ lệ hộ
nghèo giảm nhanh trong khoảng thời gian 5 năm từ 17,2% năm 2002 với 2,8
triệu hộ, xuống còn 8,3% năm 2006 với 1,44 triệu hộ, bình quân mỗi năm
giảm 34 vạn hộ, đến cuối năm 2007 còn khoảng dưới 7% với 1,1 triệu hộ.
Ngoài ra công tác chuyển giao KTTB trong thời gian qua đã đạt một số kết
quả sau (Đỗ Kim Chung, 2005):
1- Đã đáp ứng nhu cầu chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
22


2- Tạo lòng tin và hưởng ứng của nông dân
3- Đã thực hiện chuyển giao KTTB tới nông dân theo các chương trình
khuyến nông có hiệu quả, đặc biệt trên lĩnh vực giống cây trồng vật nuôi có
ưu thế lai.
Công tác chuyển giao KTTB góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng từ 4
– 4,5%, phát triển nông sản hàng hoá, đời sống nhân dân được cải thiện đáng
kể, đột phá trong chuyển giao KTTB là đưa những giống cây trồng, vật nuôi
năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất áp dụng kĩ thuật canh tác tiên tiến

như quy trình bón phân hợp lí, biện pháp quản lí tổng hợp dịch hại…
Tuy đạt một số kết quả trên, hệ thống khuyến nông của ta còn một số
bất cập sau (Đỗ Kim Chung, 2005):
1. Hệ thống lực lượng cán bộ khuyến nông tuy rộng lớn song còn phân tán
về tổ chức, mục tiêu, nội dung khuyến nông, thiếu vai trò quản lí chung để
hướng công tác khuyến nông phục vụ chiến lược phát triển ngành và địa
phương.
2. Hệ thống khuyến nông cơ sở còn yếu cả về số lượng và chất lượng đặc
biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người, 20% huyện chưa
có trạm khuyến nông, 40% số xã chưa có cán bộ khuyến nông. Việc phân
nhiệm vụ chưa rành mạch ở cấp Trung ương, tỉnh, huyện và xã có biểu hiện
khuyến nông thành công cụ điều hành quản lí Nhà nước, năng lực khuyến
nông bất cập so với yêu cầu thực tiễn.
3. Mục tiêu, nội dung khuyến nông còn hẹp, phân tán chủ yếu mới tập
trung vào hướng dẫn kĩ thuật đơn thuần, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển
nông nghiệp hàng hoá chất lượng cao, chưa vươn tới xây dựng mô hình tổng
hợp gắn trồng trọt với chăn nuôi, chế biến và tiêu thụ.
4. Phương pháp tiếp cận trong khuyến nông còn nặng nề xây dựng mô
hình trình diễn theo kiểu từ trên xuống, chưa phù hơp với dân trí và tâm lý
của nông dân ở các vùng sinh thái. Phương pháp chuyển giao nặng về tập

23


huấn và xây dựng mô hìnm đưa ý tưởng của người ngoài hơn là của ngưòi
dân. Vì thế hiệu lực của chương trình còn bị hạn chế.
5. Chưa có mô hình và phương thức chuyển giao phù hợp, chưa có sự kết
hợp hài hoà các hệ thống khuyến nông Nhà nứơc, các Viện, các doanh nghiệp
và các tổ chức phát triển.
6. Kinh phí cho Khuyến nông còn hạn chế, quá tập trung vào kinh phí trên

cấp, chưa huy động được nguồn lực của địa phương và nhất là của nhân dân.
Một số nơi chưa huy động được nguồn lực của nông dân và của cộng đồng
khi tham gia.
7. Hiện nay tuy cơ chế chính sách Khuyến nông tương đối đồng bộ nhưng
chính sách cho khuyến nông cơ sở chưa rõ ràng, chưa có sự thống nhất. Do
vậy, trong thời gian tới để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của công tác
chuyển giao cần khắc phục những hạn chế để phát huy những mặt tích cực.

24


PHẦN III: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU

3.1 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

3.1.1 Điều kiện tự nhiên

3.1.1.1 Vị trí địa lí
Anh Sơn là một huyện miền núi, nằm phía Tây Nam của tỉnh Nghệ An,
cách thành phố Vinh 100km về phía Tây, trên địa bàn có 19 xã và một thị
trấn. Có quốc lộ 7 chạy xuyên suốt theo chiều dài của huyện, có đường biên
giới giáp với nước bạn Lào.
Huyện Anh Sơn nằm trong phạm vi toạ độ địa lí là:
o

Từ 104055’ - 105015’ kinh độ đông.

o


Từ 180 46’ – 19010’ vĩ độ bắc.

o

Phía bắc giáp với huyện Tân kỳ.

o

Phía Nam giáp với huyện Thanh Chương.

o

Phía Đông giáp với huyện Đô Lương.

o

Phía Tây giáp với huyện Con Cuông và có 17km đường biên giới
giáp với nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.

3.1.1.2 Khí hậu thuỷ văn
Khí hậu của huyện Anh Sơn mang tính chất nhiệt đới nóng ẩm quanh
năm, các chỉ số nhiệt độ, độ ẩm tương đối cao nhưng phân bố không đồng đều
về cả thời gian lẫn không gian. Mùa nắng nóng, mùa mưa lũ từ tháng 5 đến
tháng 11, trong đó các tháng 5, 6 và 7 có nhiệt độ cao kết hợp với gió phơn
Tây Nam (gió Lào gây nắng nóng). Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm
sau, nhiệt độ thấp, âm u và thiếu ánh sáng, nhất là vào tháng1 và tháng 2.
Nhiệt độ bình quân hàng năm là 23,7 0C, trong đó nhiệt độ cao nhất lên tới
39,50C và thấp nhất là 6 – 70C.

25



×