Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

ÁP DỤNG KỸ THUẬT CAO TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ HIẾM MUỘN NAM DO BẾ TẮC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 14 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

ÁP DỤNG KỸ THUẬT CAO TRONG CHẨN ĐOÁN
VÀ ĐIỀU TRỊ HIẾM MUỘN NAM DO BẾ TẮC
Nguyễn Thành Như*, Nguyễn Đạo Thuấn*, Vũ Lê Chuyên*, Dương Quang Trí**, Trần Văn Sáng**

TÓM TẮT
Mở đầu và mục tiêu: Hiếm muộn nam do bế tắc là lĩnh vực còn bỏ ngỏ lâu nay do thiếu trang bị kỹ
thuật cao. Với sự phát triển của các kỹ thuật cao hiện tại tại bệnh viện Bình Dân như chụp X quang lúc mổ,
siêu âm qua trực tràng, vi phẫu thuật, đã cho phép tiến hành chẩn đoán chính xác và điều trị hiếm muộn
nam do bế tắc có hiệu quả. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá vai trò của siêu âm Doppler bìu,
siêu âm qua ngả trực tràng và phẫu thuật thám sát bìu kết hợp chụp ống dẫn tinh trong xác định vị trí tắc
đối với các trường hợp vô tinh do bế tắc (VTBT) mắc phải tại mào tinh không do triệt sản. Ngoài ra, với sự
trợ giúp của dụng cụ vi phẫu, chúng tôi đánh giá hiệu quả của vi phẫu thuật nối thông lại ống dẫn tinh và
mào tinh, bắc cầu qua chổ tắc.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân VTBT điều trị tại bệnh viện Bình Dân từ tháng 10
năm 2000 đến tháng 11 năm 2004. Nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt dọc, theo phương thức can thiệp lâm sàng.
Kết quả và bàn luận: 83 trường hợp VTBT. Tuổi trung bình là 36,42 ± 1,45 năm. Độ nhạy của siêu
âm bìu trong chẩn đoán tắc mào tinh là 6,94%, độ đặc hiệu là 72,72%. Độ nhạy của siêu âm qua ngả trực
tràng trong chẩn đoán tắc ống phóng tinh là 100%, độ đặc hiệu là 48,23%. Chụp ống dẫn tinh (ODT) xác
định vị trí tắc đường dẫn tinh đoạn xa có thể thực hiện bằng bơm dung dịch sinh ký và luồn chỉ nylon 2-0.
Trong số những bệnh nhân này, 39 trường hợp được điều trị bằng vi phẫu thuật nối ống dẫn tinh – mào
tinh, trong đó có 12 bệnh nhân được phẫu thuật nối bên-bên và 27 bệnh nhân được phẫu thuật nối tận-bên
cải biên. Kết quả được đánh giá dựa trên tinh dịch đồ sau mổ 1-3-6-9-12 tháng, và sự thụ thai của vợ. 2
trường hợp nối bên – bên thành công (có tinh trùng trong tinh dịch) với 1 trường hợp vợ bệnh nhân vợ có
thai. 17/27 trường hợp nối tận – bên có sự thông thương trở lại với 10 trường hợp có thai. Hiệu quả thông
thương của phẫu thuật nối tận – bên kiểu lồng cải biên (khâu dọc ống mào tinh) là tương đương với phẫu
thuật nối tận – bên không lồng và phẫu thuật nối tận – tận (63% so với 60% - 78%), hơi thấp hơn phẫu
thuật nối tận – bên kiểu lồng tam giác (85,7 - 92%). Phẫu thuật nối bên-bên với bao xơ mào tinh có tỉ lệ


thành công thấp nhất. Kỹ thuật nối tận bên kiểu lồng cải biên, với hiệu quả có thai là 37% (10/27 trường
hợp) tương đương với kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm với vi thao tác tiêm tinh trùng vào bào tương
trứng, mà chi phí thấp hơn nhiều (khoảng 1/10).
Kết luận: Chẩn đoán tắc tại tinh hoàn hay mào tinh dựa trên quan sát mào tinh lúc mổ và khảo sát tìm
tinh trùng trong dịch ODT. Chẩn đoán tắc ở ODT có thể bằng bơm dung dịch sinh lý kết hợp luồn chỉ
polypropylene 2-0 trong lòng ODT. Nối ống dẫn tinh – mào tinh vi phẫu nên thực hiện trong điều trị vô
sinh trên những bệnh nhân vô sinh do tắc mào tinh. Kỹ thuật nối ống dẫn tinh – mào tinh kiểu lồng 2 mũi
cải biên đem lại hiệu quả cao về sự thông thương và thích hợp về mặt kinh tế.

* Bệnh viện Bình Dân
**
Đại Học Y Dược, TP. HCM.

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

1


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

ABSTRACT
APPLYING HIGH-TECHNOLOGY IN DIAGNOSIS
AND TREATMENT OF MALE OBSTRUCTIVE INFERTILITY
Nguyen Thanh Nhu, Nguyen Dao Thuan, Vu Le Chuyen, Duong Quang Tri, Tran Van Sang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 314 - 325
Introduction and objective: Male obstructive infertility has been under-developped due to lack of
high-tech instruments. Applying high technology at Binh Dan hospital such as in-operative radiology, transrectal ultrasounds, microsurgery helped urlogists to make accurate diagnosis and effective treatment for male
obstructive infertility. This research was to evaluate the role of scrotal Doppler ultrasound, trans-rectal

ultrasound and scrotal exploration combined with vasography in determining the obstructive site. Moreover,
by using microsurgical instruments, we did this research to evaluate the effectiveness of the
epididymovasostomy, to overcome the obstruction.
Patients and methods: A clinical analytic prospective cohort study on azoospermic patients with
epididymal obstruction received surgical treatment at Binh Dan hospital from October 2000 to November 2004.
Results and discussions: 83 patients, average age was 36.42 ± 1,45 years. The sensitivity and
specificity of Doppler ultrasound was 6.94 and 72.72%. The sensitivity and specificity of transrectal
ultrasound was 100 and 48.23%.Vasography to determine the obstructive site could be performed by normal
saline injection and passing a 2-0 nylon suture through the vas opening. Among these patients, 39 cases of
acquired epididymal obstructive azoospermia received microsurgical epididymovasostomy at Binh Dan
hospital, in which, 12 patients were performed the laterolateral technique and 27 patients with the modified
intussupceptive terminolateral technique. The patency of the anastomosis site was evaluated by spermiogram
done at 1-3-6-9-12 month post-operative time and the conception. 2 cases of the laterolateral technique were
suscessful (presence of sperm in the ejaculate) with 1 couple was conceived. 17/27 cases of the terminolateral
technique were suscessful with 9 cases got conceived.. The patency of the modified intussupceptive
terminolateral anastomosis (63%) was equal to the patency of the non-intussupceptive terminolateral and
terminoterminal techniques (60-78%), slightly lower than the intussupceptive terminolateral triangular
technique (85.7-92%). The laterolateral technique (with epididymal capsule) had the lowest succesful rate.
The modified intussupceptive terminolateral technique had a pregnancy rate of 33% (9/27 cases), equal to the
invitro fertilization with intracytoplasmic sperm injection microtechnique, with a much lower cost (1/10).
Conclusions: Testicular and epididymal obstruction sites are confirmed by direct intraoperative and
inspection and finding sperm in vasal fluid. Vasal obstructive site is determined by injecting normal saline and
passing a 2-0 nylon suture through the vas lumen. Microsurgical vasoepididymostomy should be considered for
epididymal obstructive male infertility treatment The modified intussupceptive terminolateral
epididymovasostomy technique with 2 points had a high patency rate and an appropriate cost.
(hậu viêm, hậu chấn thương hay không rõ
MỞ ĐẦU
nguyên nhân), vị trí tắc cần được xác định để từ
Vô tinh do bế tắc là dạng hiếm muộn nam có
đó có thể tiến hành phẫu thuật thông đường dẫn

thể điều trị được bằng phẫu thuật, chiếm một tỉ
tinh. Trong trường hợp vị trí tại mào tinh (MT),
lệ đáng kể trong những bệnh nhân hiếm muộn
nối thông lại ODT và MT, bắc cầu qua chổ tắc là
do vô tinh nói riêng: 19-43%(2,11,18) và trong những
giải pháp hợp lý.
người hiếm muộn nói chung: 3-14% (2,26,30). Trong
triệt sản nam, vị trí tắc là chỗ cắt-cột ống dẫn
tinh. Trong các trường hợp tắc mắc phải khác

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
2


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm
đánh giá vai trò của siêu âm Doppler bìu, siêu
âm qua ngả trực tràng và phẫu thuật thám sát
bìu kết hợp chụp ống dẫn tinh trong xác định
vị trí tắc đối với các trường hợp vô tinh do bế
tắc (VTBT) mắc phải tại mào tinh không do
triệt sản. Ngoài ra, với sự trợ giúp của dụng cụ
vi phẫu, chúng tôi đánh giá hiệu quả của vi
phẫu thuật nối ODT – MT.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân bị VTBT đến điều trị tại

bệnh viện Bình Dân từ tháng 10 năm 2000 đến
hết tháng 11 năm 2004.

Phương pháp nghiên cứu
Tiền cứu, mô tả cắt dọc, theo phương thức
can thiệp lâm sàng. Các bệnh nhân đều được
thực hiện siêu âm Doppler bìu (SÂDB) và siêu
âm qua ngả trực tràng (SÂTT), thám sát bìu
(TSB) kết hợp chụp ống dẫn tinh (ODT). Trong
trường hợp tắc tại MT mà có thể nối thông
được, bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật
nối ODT-MT.

Nghiên cứu Y học

+Tắc thân mào tinh: chỗ tắc nằm ở bất cứ vị
trí nào tại thân mào tinh.
+Tắc đuôi mào tinh hay tắc toàn bộ mào tinh:
chỗ tắc nằm ở đoạn nối đuôi mào tinh và ODT.
-Tắc ODT: khảo sát dịch ODT có tinh trùng.
Tiến hành chụp ODT. Chụp ODT với chất cản
quang tan trong nước. Thay vì dùng chất cản
quang, có thể kiểm tra sự thông của ODT bằng
bơm dung dịch sinh lý pha với chất chỉ thị màu
xanh indigo carmine (nếu ODT thông, ống thông
Foley bàng quang sẽ thu được nước tiểu có màu
xanh(6)) hay chỉ cần dùng dung dịch sinh lý
thường để khảo sát ODT (nếu dung dịch được
bơm dễ dàng, chứng tỏ ODT thông (8),(11)). Khi
biết rõ có tắc ODT, có thể sử dụng chỉ nylon 2-0

hay 1-0 luồn qua lỗ mở ODT để biết vị trí tắc.
+Tắc ODT đoạn gần: chỗ tắc nằm ở đoạn
ODT trong bìu
+Tắc ODT đoạn xa: chỗ tắc nằm ở ODT đoạn
bẹn hay chậu.
+Tắc ODT nhiều chỗ hay tắc toàn bộ ODT
nếu vừa tắc ODT đoạn gần vừa có tắc ODT đoạn
xa hay lòng ODT bít kín toàn bộ.
-Tắc ống phóng tinh: chiều dài đoạn ODT từ
đuôi mào tinh tới chỗ tắc khoảng 30 cm hay
chụp ODT có hình ảnh tắc tại ống phóng tinh.

Kỹ thuật TSB kèm chụp ODT
Lúc mổ để xác định vị trí tắc (hình 1)(10). Mê
toàn thân hay tê tủy sống là lý tưởng nhất.
Chuẩn bị sẵn các dụng cụ vi phẫu thuật. Rạch da
đường giữa bìu, mở cả hai tinh hoàn ra ngoài.
Mở tinh mạc hai bên,
Các tình huống xảy ra:
-Tắc tại tinh hoàn (22): mào tinh xẹp.
-Tắc mào tinh: mào tinh căng. Tiến hành cắt
mở ODT tại chỗ nối giữa đoạn xoắn và đoạn
thẳng trong bìu để khảo sát dịch ODT. Nếu dịch
ODT không có tinh trùng thì có tắc tại mào tinh.
Vị trí tắc trên mào tinh được xác định qua quan
sát mào tinh, là ranh giới giữa mào tinh bên trên
căng giãn và mào tinh bên dưới xẹp (8).

Hình 1: Các vị trí tắc đường dẫn tinh trong VTBT.
“Nguồn: Hendry, 1983”.

-Tắc phối hợp (ODT và mào tinh, ODT và
tinh hoàn, ống phóng tinh và mào tinh hay ống
phóng tinh và tinh hoàn).

+Tắc đầu mào tinh: chỗ tắc nằm ở đoạn nối
đầu và thân mào tinh.

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

3


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
Kỹ thuật nối bên-bên ODT với bao xơ MT
Kỹ thuật đã được mô tả từ năm 1903 bởi
Martin (17), Hendry là một trong những tác giả
trung thành với kỹ thuật nầy (10) (hình 2). ODT
được xẻ dọc, lộ niêm mạc. Phần MT có ống MT
giãn được xẻ ra, dịch MT được soi dưới kính
hiển vi tìm tinh trùng. Khi có tinh trùng, dưới
kính hiển vi, bao MT và thành ODT được khâu
lại với nhau bằng chỉ prolene 6-0, đi từ cực dưới
trước, khâu vắt, lên cực trên, mặt sau. Sau đó,
khâu vắt mặt trước tương tự.

Nghiên cứu Y học

nầy sẽ được móc lần lượt vào hai đầu của ống
MT giãn căng, nhưng không đâm xuyên qua
(hình 4).


Hình 3: Kẹp Babcock cải tiến, không có thanh ngang.
Hình 2: Nối ODT-MT bên-bên. “Nguồn: Hendry, 1983”

Kỹ thuật mổ nối ODT-MT kiểu lồng.
Vị trí nối được chọn nằm trên chỗ nghi tắc,
gần chỗ có u hạt tinh trùng, tại đó ống MT
giãn được nhìn thấy rõ bên dưới bao MT.
Chọn nơi tương đối vô mạch, giữ bằng kẹp
Babcock cải tiến (kẹp đã được cắt bỏ hai thanh
ngang ở đầu kẹp) để làm căng MT (hình 3).
Một lỗ khuy áo khoảng 3-4 mm được tạo
trên bao MT bằng kéo vi phẫu để tạo một lỗ
tròn tương ứng với đầu ống dẫn tinh. Chọn
một đoạn ống MT dài nhất, chúng tôi bóc tách
nhẹ nhàng bằng kéo sắc và kéo cùn cho tới khi
đoạn ống MT giãn to được bộc lộ rõ. Chúng tôi
sử dụng kỹ thuật khâu 2 mũi chỉ hai đầu đoạn
ống MT và xẻ ngang thân ống, theo kỹ thuật
Marmar cải biên. Dùng chỉ prolene 9-0, 10-0,
hai đầu kim, một đầu kim được khâu móc từ
lòng ODT ra một nửa thành ống, kéo xuyên
kim, đầu kim còn lại sẽ khâu vào ống MT sau.
Thực hiện tương tự cho một sợi chỉ prolene 90, 10-0 khác, khâu móc vào bên đối diện của
ODT. Sau đó, 2 mũi kim của hai sợi chỉ prolene

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
4


Hình 4: Nối ODT-MT tận-bên kiểu lồng hai mũi cải
biên. A: cắt mở ngang ống mào tinh, lần lượt đâm
xuyên cả hai kim trên ống. B: cột hai mối chỉ, kéo ống
mào tinh lồng vào lòng ODT. C và D: mối nối ODTMT hoàn tất.
Cắt mở ngang ống MT ở giữa 2 mũi chỉ.
Dịch MT được hút bằng kim luồn mềm 24G, nhỏ
lên một lam kiếng trộn với dung dịch sinh lý,


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
đậy bằng lam kiếng mỏng, khảo sát trên kính
hiển vi bởi phẫu thuật viên dưới độ phóng đại
x40. Nếu có tinh trùng (di dộng hay bất động),
tiến hành nối. Trước đó, chúng tôi nhỏ tinh
trùng hút được vào ống môi trường EPSS, gởi
trữ lạnh. Nếu không có tinh trùng, lổ mỗ MT
được đốt, khâu lại bằng chỉ Vicryl 5-0. Chúng tôi
di chuyển lên phía đầu MT, cách chổ cũ khoảng
0,5cm. Đầu ODT cũng được cắt rời, di chuyển
theo. Quá trình được thực hiện lại cho tới khi có
tinh trùng trong dịch MT.

Nghiên cứu Y học

Taéc ODT hai beân

30

Taéc ODT T
ODT P thoâng


3

Taéc ODT P
ODT T thoâng

5
45

Hai ODT thoâng
0

10

20

30

40

50

Số trường hợp

Biểu đồ 1: Kết quả chụp ODT

Kế đến, chúng tôi kéo xuyên hai mũi kim
trên ống MT. Mỗi mũi khâu được cột lại, sẽ làm
ống MT lồng vào trong lòng ống dẫn tinh. Mép
lổ mở bao xơ MT được khâu với bao ngoài ODT

bằng 4-6 mũi chỉ prolene 8-0. Nếu thực hiện tốt
thao tác, ODT sẽ được khâu đứng vuông góc vối
thân MT, không căng.

Theo dõi kết quả phẫu thuật
Kết quả được đánh giá dựa trên tinh dịch đồ
(TDĐ) sau mổ 1-3-6-9-12-24 tháng và sự thụ thai
của vợ.

KẾT QUẢ
Từ tháng 10 năm 2000 đến tháng 11 năm
2004, 83 trường hợp VTBT mắc phải đã được
chúng tôi phẫu thuật TSB tại bệnh viện Bình
Dân, trong đó có 39 trường hợp được tiến hành
phẫu thuật nối ODT-MT. Tuổi trung bình là
36,42 ± 1,45 năm, nhỏ nhất là 24, lớn nhất là 53.
Nhóm tuổi gặp nhiều nhất là 30-39 tuổi (51 bệnh
nhân, chiếm 61,4%).

Kết quả chụp ODT
Chụp ODT được tiến hành ngay trong lúc
mổ TSB (biểu đồ 1).

Hình 5: Chụp ODT hai bên, thuốc cản quang phun
ngược vào hai túi tinh và vào bàng quang, hai ODT
đều thông.

Vị trí tắc
Bảng 1: Phân bố theo vị trí tắc
Phải

Vị trí tắc

Số
TH
Tại tinh hoàn 11
Mào tinh
30
Đầu MT
7
Thân MT
4
Đuôi MT
19
Ống dẫn tinh 23
ODT nhiều chỗ 14
ODT chậu
7
ODT bẹn
0
ODT bìu
1
Bất sản ODT
1
Kết hợp ODT
15
và MT
Ống phóng tinh

1


13,75
37,50
8,75
5,00
23,75
28,75
17,5
8,75
1,25
1,25

Số
TH
7
37
5
3
29
24
12
11
1
0
0

8,75
46,25
6,25
3,75
36,25

30,00
15,00
13,75
1,25
-

Chung
Số
%
TH
18 11,25
67 41,86
12
7,50
7
4,38
48 30,00
47 29,38
26 16,25
22 13,75
1
0,63
1
0,63
1
0,63

18,75

11


13,75

26

16,25

1,25

1

1,25

2

1,25

%

Trái
%

* TH: trường hợp.

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

5


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Vị trí tắc được xác định như sau:
-Tắc tại tinh hoàn: mào tinh xẹp.

Nghiên cứu Y học

Bảng 2: Giá trị chẩn đoán tắc mào tinh của siêu âm
bìu
Kết quả siêu âm bìu
Có tắc MT
Không tắc MT
Trái Phải Tổng Trái Phải Tổng
Có tắc MT
5
5
10
70
64
134
Không tắc MT 1
5
6
5
11
16

-Tắc mào tinh: mào tinh căng. Tiến hành cắt
mở ODT tại chỗ nối giữa đoạn xoắn và đoạn
thẳng trong bìu để khảo sát dịch ODT. Nếu dịch
ODT không có tinh trùng thì có tắc tại mào tinh.
Vị trí tắc trên mào tinh được xác định qua quan

sát mào tinh, là ranh giới giữa mào tinh bên trên
căng giãn và mào tinh bên dưới xẹp.

Độ nhạy của siêu âm bìu trong chẩn đoán có
tắc tại mào tinh là 6,94% (10/144) và độ đặc hiệu
là 72,72% (16/22).

+Tắc đầu mào tinh: chỗ tắc nằm ở đoạn nối
đầu và thân mào tinh.

Siêu âm qua ngả trực tràng

+Tắc thân mào tinh: chỗ tắc nằm ở bất cứ vị
trí nào tại thân mào tinh.
+Tắc đuôi mào tinh: chỗ tắc nằm ở bất cứ vị
trí nào tại đuôi mào tinh.
-Tắc ODT: khảo sát dịch ODT có tinh trùng.
Tiến hành chụp ODT xác định chỗ tắc:
+Tắc ODT bìu: chỗ tắc nằm ở đoạn ODT
trong bìu.
+Tắc ODT bẹn: chỗ tắc nằm ở ODT đoạn
bẹn.
+Tắc ODT chậu: chỗ tắc nằm ở ODT đoạn chậu.
+Tắc ODT nhiều chỗ hay tắc toàn bộ ODT
nếu vừa tắc ODT đoạn gần vừa có tắc ODT đoạn
xa hay lòng ODT bít kín toàn bộ.
-Tắc kết hợp ODT và mào tinh: vừa có tắc
mào tinh vừa có tắc ODT.
-Tắc ống phóng tinh: chiều dài đoạn ODT từ
đuôi mào tinh tới chỗ tắc khoảng 30 cm hay

chụp ODT có hình ảnh tắc tại ống phóng tinh.

Kết quả mổ
TSB

Hình ảnh SÂTT được chia thành ba nhóm:
nhóm gợi ý có tắc ống phóng tinh, nhóm không
tắc ống phóng tinh và nhóm bất sản túi tinh. Ở
nghiên cứu này không có trường hợp nào SÂTT
ghi nhận bất sản túi tinh.
Kết quả SÂTT trước mổ được kiểm chứng
bằng chụp ODT khi mổ TSB. Chúng tôi xem có
tắc ống phóng tinh nếu chụp ODT có hình ảnh
tắc ống phóng tinh với nang tuyến tiền liệt, hoặc
khi luồn chỉ polypropylene 2-0 vào ODT thấy vị
trí tắc cách đuôi MT khoảng 30cm (bằng chiều
dài của ODT). Các trường hợp tắc ODT tại vùng
bẹn, vùng chậu, hay tắc ODT nhiều chỗ được
xem là có thể kèm tắc ống phóng tinh. Các
trường hợp chụp ODT thông suốt được xem là
không tắc ống phóng tinh. Kết quả được trình
bày trong bảng 3.
Bảng 3: Giá trị chẩn đoán tắc ống phóng tinh của SÂTT.

6 trường hợp có một tinh hoàn không sinh
tinh (3 bên trái và 3 bên phải) không được liệt kê
trong bảng 1.

Kết quả của siêu âm qua ngả trực tràng
Có tắc OPT

Không tắc OPT
Trái Phải Tổng Trái Phải Tổng
Tắc OPT
1
1
2
0
0
0
Có thể tắc OPT 11
9
20
30
29
59
Không tắc OPT 21
23
44
20
21
41

Siêu âm bìu

*OPT: ống phóng tinh.

Siêu âm Doppler bìu được thực hiện trước
mổ ở 83 bệnh nhân. Hình ảnh siêu âm được chia
thành hai nhóm: nhóm có dấu hiệu tắc tại mào
tinh (nhân xơ mào tinh, nang mào tinh, đóng vôi

đuôi mào tinh) và nhóm không tắc mào tinh. Kết
quả siêu âm bìu trước mổ được kiểm chứng khi
phẫu thuật TSB. Kết quả được trình bày trong
bảng 2.

Độ nhạy của SÂTT trong chẩn đoán tắc ống
phóng tinh là 100% (2/2) và độ đặc hiệu là
48,23% (41/85).

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
6

Kết quả của
chụp ODT

Kết quả phẫu thuật nối ODT - MT
Tuổi của vợ các bệnh nhân tập trung vào
thời điểm sinh sản mạnh ( ≤ 35 tuổi): 31 trường
hợp (79,5%). Thời gian từ khi lập gia đình đến


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

khi phẫu thuật trung bình là 6 năm (từ 1 đến 20
năm). Không có trường hợp nào ghi nhận có thời
gian ngừa thai.


-Không có kết quả TDĐ (do bệnh nhân ở xa,
ngại xét nghiệm sau khi đã có con) nhưng vợ có
thai: 1 trường hợp.

Thời gian phẫu thuật

Bảng 5: Kết quả của phẫu thuật nối ODT-MT.

39 trường hợp được phẫu thuật nối ODT-MT
(12 trường hợp bên-bên (BB) và 27 trường hợp
tận-bên (TB)), chúng tôi chia làm 4 nhóm: phẫu
thuật nối BB một bên, nối BB hai bên, nối TB một
bên, nối TB hai bên (bảng 4).
Thời gian phẫu thuật được ghi nhận cụ thể
như sau:
Bảng 4: Thời gian phẫu thuật.
Thời gian phẫu thuật
trung bình (phút)
Nối bên - bên (n = 12)
Nối tận - bên (n = 27)
p

Một bên
(n = 20)
60 ± 13,7
76,7 ± 19,1
0,0602

Hai bên
(n = 19)

80 ± 7,6
110,4 ± 21,7
0,0001

Kết quả phẫu thuật
Kết quả ở các bảng 5 được phân tích dựa
trên kết quả TDĐ sau cùng và sự thụ thai của
người vợ. Chúng tôi theo dõi ít nhất là 2 năm để
không bỏ sót những trường hợp chỗ nối ODTMT thông trễ.
Trong 27 trường hợp nối TB, có 17 trường
hợp thành công gồm:
-Có tinh trùng trong tinh dịch và vợ chưa có
thai: 7 trường hợp.
-Có tinh trùng trong tinh dịch và vợ có thai: 6
trường hợp. Không trường hợp nào TDĐ vừa
đạt mật độ >20 triệu/ml và vừa có độ di động
>50%.
-Không có kết quả TDĐ (do bệnh nhân ở xa,
ngại xét nghiệm sau khi đã có con) nhưng vợ có
thai: 4 trường hợp.
Trong 12 trường hợp nối BB, có 2 trường hợp
thành công:
-Có tinh trùng trong tinh dịch và vợ chưa có
thai: 1 trường hợp.

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

Nối Nối
Nối Nối
Nối

Nối
TB 1 TB 2
BB 1 BB 2
TB
BB
bên bên
bên bên
Số BN mổ nối
thành công
- Có tinh trùng,
chưa có thai
- Có tinh trùng, có
thai
- Chưa làm TDĐ,
có thai
Số BN mổ nối thất
bại
Tổng số BN

8

9

17

1

1

2


3

4

7

1

0

1

3

3

6

0

0

0

2

2

4


0

1

1

7

3

10

4

6

10

15

12

27

5

7

12


* BN: bệnh nhân.
Tỉ lệ thành công của phẫu thuật nối TB là
62,96% (17/27) cao hơn phẫu thuật nối BB là
16,67% (2/12), khác biệt có ý nghĩa (p=0,0075).
Tỉ lệ có thai tự nhiên sau phẫu thuật TB là
37,04% (10/27), phẫu thuật BB là 8,33% (1/12),
khác biệt không có ý nghĩa (p= 0,0659).
Đối với các trường hợp nối thành công, tỉ lệ
có thai tự nhiên sau phẫu thuật TB là 58,82%
(10/17), phẫu thuật BB là 50% (1/2), khác biệt
không có ý nghĩa (p=0,8110).
Tỉ lệ thành công của phẫu thuật nối TB một
bên là 53,33% (8/15) và nối TB hai bên là 75%
(9/12), khác biệt không có ý nghĩa (p=0,2466).
Tỉ lệ có thai sau phẫu thuật nối TB một bên
thành công là 62,50% (5/8) và nối TB hai bên
thành công là 55,56% (5/9), khác biệt không có ý
nghĩa (p= 0,7715).

Diễn tiến của TDĐ sau mổ, đối với các trường
hợp nối thành công
Biểu đồ 2 trình bày diễn tiến của TDĐ của 13
trường hợp nối TB có tinh trùng sau phẫu thuật,
không xét đến 1 trường hợp có tinh trùng sau
nối BB.
Sau mổ, thời điểm có tinh trùng trong tinh
dịch sớm nhất là 1 tháng (2/13 trường hợp,
chiếm 15,38%). Đa số trường hợp, có tinh trùng


7


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
trong tinh dịch sau 3-6 tháng (11/13 trường hợp,
chiếm 84,61%). Một trường hợp có tinh trùng

4
5
4
0
3
5
3
0
2
5
2
0
1
5
1
0

Nghiên cứu Y học

trong tinh dịch sau 36 tháng. Mật độ tinh trùng
cải thiện theo thời gian.
S
H

N
C
T
h
L
T
Đ

5
0
1
tháng

3
tháng

6
tháng

9
tháng

12
tháng

36
tháng

* S, H, …Tr02: tên bệnh nhân được viết tắt.


H0
1
H0
2
N
h
Tr0
1
Tr0
2

Biểu đồ 2: Diễn tiến mật độ tinh trùng trong tinh dịch đồ sau phẫu thuật nối ODT-MT tận-bên.

Mối liên quan giữa mật độ tinh trùng và tình
trạng có thai (cho những trường hợp mổ nối
thành công).
Đối với những trường hợp phẫu thuật thành
công và có làm tinh dịch đồ sau mổ, chúng tôi
khảo sát mối liên quan giữa mật độ tinh trùng
trong tinh dịch của hai nhóm: vợ có thai và vợ
chưa có thai.
Bảng 6: Mật độ tinh trùng và thụ thai.
Tình trạng

Mật độ tinh trùng (triệu/ml)

Mật độ

của từng trường hợp nối


trung bình

thành công

(triệu/ml)

người vợ
Có thai (n
= 6)

15,83 ±
5

6 12 14 16 42

13,54

Chưa có
thai (n = 8) 1

2

4

6 10 21 22 22

11 ± 9,24

Mật độ tinh trùng trung bình giữa hai nhóm
vợ có thai và vợ chưa có thai khác biệt không có

ý nghĩa thống kê (p = 0,2366).

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
8

BÀN LUẬN
Chụp ODT
Chụp ODT bằng cách đâm kim mù vào ODT
vừa khó thực hiện, vừa có thể gây sẹo hẹp tại nơi
đâm kim nên chúng tôi không thực hiện. Chụp
ODT được chúng tôi tiến hành trong lúc mổ
TSB, nhờ máy chụp X quang cơ động (C-Arm)
giúp xác định vị trí tắc.
Chúng tôi đồng ý với Mieusset(18) là khi có tắc
ODT đoạn xa thì chính áp lực trong lòng ống sẽ
không cho phép bơm thuốc cản quang đi xa.
Một trong những trường hợp đầu tiên chúng tôi
tiến hành chụp ODT với máy C-Arm, khi bơm
thuốc cản quang thấy tắc ở đoạn bẹn. Mở ODT
đoạn bẹn không thấy chỗ tắc, chụp lại ODT thấy
chỗ tắc ở đoạn chậu. Dùng chỉ nylon 2-0 luồn
vào lòng ODT thấy chỗ tắc nằm sâu ở ống phóng
tinh. Vì thế, để xác định chính xác vị trí tắc, cần
phối hợp chụp X quang và luồn chỉ nylon 2-0.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
Siêu âm bìu
Theo kết quả trên bảng 2, giá trị chẩn đoán

tắc mào tinh của siêu âm bìu có độ nhạy rất thấp
(6,94%) và độ đặc hiệu cũng không cao (72,72%).
Do vậy, siêu âm bìu ít có giá trị chẩn đoán tắc tại
mào tinh. Nhìn chung, theo Pierik (21), siêu âm
bìu giúp phát hiện giãn tĩnh mạch tinh đi kèm
hay ung thư tinh hoàn.

Siêu âm qua ngả trực tràng
Ngày nay, SÂTT trở thành một phương tiện
chẩn đoán hình ảnh thường qui trong vô tinh do
bế tắc, cho dù tắc gần hay xa tinh hoàn (6). Về
phương diện phôi học, túi tinh, ống dẫn tinh và
phần thân – đuôi mào tinh đều xuất phát từ ống
trung thận hay ống Wolff(28). Do vậy, thiểu sản
hay bất sản của cấu trúc này thường kèm theo
thiểu sản hay bất sản của những cấu trúc còn lại
cùng bên. Giá trị chẩn đoán bất sản ống dẫn tinh
dựa trên hình ảnh bất sản túi tinh được nhiều tác
giả xác nhận (25,31,32). Tuy vậy, suy luận ngược lại
có thể không đúng. Nói cách khác, hình ảnh túi
tinh có thể bình thường trên SÂTT nhưng bệnh
nhân vẫn có bất sản ống dẫn tinh. Chúng tôi ghi
nhận được một trường hợp như vậy.
Các tác giả cho rằng có thể chẩn đoán bế tắc
ống phóng tinh dựa trên SÂTT (hình ảnh giãn
túi tinh với đường kính trước-sau >15 mm, nang
Muller, nang tuyến tiền liệt, nang ống phóng
tinh) phối hợp với tinh dịch đồ có thể tích tinh
dịch thấp (<1 ml), pH tinh dịch axít(20,23). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, trong số 32 trường

hợp SÂTT ghi nhận bế tắc ống phóng tinh, chỉ
một trường hợp có bế tắc ống phóng tinh thật sự
(bảng 3). Tất cả trường hợp còn lại đều không có
bế tắc ống phóng tinh trên chụp ODT. Vì vậy,
cũng như Sigman(25), Colpi(5), Cornud(7), chúng tôi
cho rằng SÂTT chỉ có vai trò gợi ý bế tắc tại ống
phóng tinh. Chụp ODT vẫn được xem là
phương tiện chẩn đoán phải có để chẩn đoán bế
tắc ống phóng tinh.

Nghiên cứu Y học

100% và độ đặc hiệu là 48,23%, SÂTT chỉ có vai
trò gợi ý tắc ống phóng tinh.

Phẫu thuật nối ODT-MT
Sự khác biệt của các kỹ thuật nối dựa trên
các yếu tố sau:

Hiệu quả thông thương
Trên thực nghiệm, hiệu quả thông thương
được đánh giá qua quan sát trực tiếp chỗ nối
sau khi hy sinh động vật thí nghiệm. Trên lâm
sàng, TDĐ là một bằng chứng gián tiếp của sự
thông thương. Theo tiêu chuẩn đó thì phẫu
thuật nối kiểu lồng là có tỉ lệ thông thương cao
nhất (85,7-92%)(8), phẫu thuật tận – bên không
lồng và phẫu thuật tận – tận vào khoảng 60% 78%(3). Phẫu thuật nối bên-bên với bao xơ MT
có tỉ lệ thành công thấp nhất (48,7% theo Kar(14)
và 43% theo Hendry(9)).


Thời gian mổ
Thời gian mổ càng ngắn mà hiệu quả tốt là
một ưu điểm của kỹ thuật nối. Phẫu thuật nối
tận - bên kiểu Silber cho thời gian rất dài, khoảng
4 giờ(26). Phẫu thuật tận - bên Thomas cũng có
thời gian mổ tương đương(29). Phẫu thuật tận bên kiểu lồng tam giác Berger đã giảm hẳn thời
gian còn 2g30ph(1). Và sau cùng, phẫu thuật tận bên 2 mũi có thời gian mổ chỉ còn 1g30ph(3), nên
được xem là tối ưu nhất. Thời gian mổ của phẫu
thuật nối bên - bên không được Hendry(9) và
Kar(13) đề cập đến.

Vấn đề áp dụng trên lâm sàng và chi phí điều
trị
Phẫu thuật nối ODT-MT vi phẫu là phẫu
thuật khó thực hiện, tinh vi. Vì vậy việc có thể áp
dụng trên lâm sàng và áp dụng rộng rãi là một
vấn đề dáng lưu tâm. Với sự cải tiến của kỹ
thuật nối, từ tận - tận sang tận - bên và từ không
lồng sang lồng đã giúp thao tác giảm nhẹ rất
nhiều, nhờ đó giảm thời gian mổ.

Theo kết quả ở bảng 3, với độ nhạy của
SÂTT trong chẩn đoán tắc ống phóng tinh là

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

9



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
Kỹ thuật nối cải biên của chúng tôi
Kỹ thuật khâu nối kiểu lồng ống mào tinh
vào trong lòng ODT, được Berger thực hiện trên
người bệnh năm 1998, là một bước tiến bộ nhảy
vọt trong khâu nối ODT-MT(1). Tuy nhiên, với
việc sử dụng ba mũi khâu hình tam giác trên
đoạn ống mào tinh, làm cho thao tác khâu nối
ODT- MT vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là rất
khó thực hiện trên đầu mào tinh, nơi mà đường
kính ống mào tinh nhỏ hơn ở đoạn thân mào
tinh. Sự cải tiến của Marmar năm 2000 đã đưa kỹ
thuật nối ODT – MT gần như đạt tới mức hoàn
thiện(15). Với chỉ hai mũi khâu, Marmar đã làm
giảm đáng kể thời gian nối và đơn giản hoá kỹ
thuật nối tới mức tối đa mà hiệu quả không thua
kỹ thuật nối ba mũi tam giác của Berger. Khâu
ngang ống mào tinh theo kiểu của Marmar sẽ
khó thực hiện nếu ống mào tinh quá nhỏ như ở
đầu mào tinh hay khi mào tinh chỉ giãn vừa.
Tương tự, khâu dọc ống mào tinh bằng hai mũi
song song nhau theo Chan cũng khó thực hiện
khi ống mào tinh không căng nhiều(3). Chúng tôi
khâu dọc ống mào tinh bằng hai mũi nằm hai
bên lỗ mở ống mào tinh nên có nhiều không
gian để khâu hơn, và do đó mũi khâu cũng dễ
thực hiện hơn, mà vẫn đạt được mục tiêu lồng
ống mào tinh vào trong lòng ODT.
Nhìn chung, tỉ lệ nối thông của các kỹ thuật
nối ODT-MT vi phẫu là 60-88%, và tỉ lệ có thai tự

nhiên là 25-57%, theo Belker. Hiệu quả thông
thương của nhóm tận-bên của chúng tôi là
62,96%, với tỉ lệ có thai là 37,04%, nằm trong giới
hạn cho phép.

Tắc tái phát sau khi đã thông
Kar thông báo tỉ lệ tắc lại trong những bệnh
nhân nối bên – bên là 7,11% (14). Còn trong kỹ
thuật nối tận – tận và tận – bên kinh điển thì tỉ lệ
tái phát là 13-25 % (8) sau 14 tháng. Chúng tôi
chưa đánh giá được sự tắc chỗ nối sau thông
thương của các bệnh nhân của chúng tôi vì xét
nghiệm TDĐ là một xét nghiệm rất tinh tế,
không như xét nghiệm máu, phân, nước tiểu hay
chụp X quang, bệnh nhân thường rất ngại ngùng

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
10

Nghiên cứu Y học

khi thực hiện xét nghiệm nầy; và một khi vợ đã
có thai thì bệnh nhân thường không quay lại để
xét nghiệm TDĐ nữa. Những trường hợp chưa
có thai tự nhiên, bệnh nhân cũng đến các trung
tâm hỗ trợ sinh sản hơn là quay lại bệnh viện đã
mổ. Ngoài ra, thời gian nghiên cứu không dài, 6
năm, những trường hợp thành công thì con vẫn
còn nhỏ, bệnh nhân chưa có ý định có con thứ

hai, nên có thể chưa phát hiện ra họ bị vô tinh
trở lại, nếu có.

Sự xuất hiện trễ của tinh trùng.
Một mặt, sự tắc tái phát chỗ nối có thể xảy ra,
thì sự thông thương trễ sau nối ODT-MT (sau 6
tháng) có thể gặp trong 41% trường hợp
(Jarow(12)). Sự xuất hiện trễ của tinh trùng có thể
đưa tới đánh giá nhầm là phẫu thuật nối thất
bại. Chúng tôi có 2 bệnh nhân có tinh trùng trễ,
cả hai đựơc đánh gía là thất bại và chuyển sang
thụ tinh trong ống nghiệm. Tới ngày thụ tinh
trong ống nghiệm, 1 trường hợp có tinh trùng
lại, 1 trường hợp vẫn không có. Trường hợp nầy
sau 6 tháng sau đã có tinh trùng trở lại và vợ thụ
thai tự nhiên.
Do vậy, theo Matthews(17), đối với phẫu
thuật nối ODT-MT thì thời gian để kết luận là
phẫu thuật thất bại là 24 tháng, nếu có can
thiệp phẫu thuật nối lại thì chỉ nên thực hiện
sau thời gian nầy.

Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật
Các yếu tố trước mổ
Tiền sử có thai là một yếu tố tiên lượng
(19)
tốt . Cả hai bệnh nhân của chúng tôi đã từng có
con trước đều không may, phẫu thuật thất bại.
Thời gian tắc, có nhiều ý nghĩa trong VTBT
sau triệt sản, nhưng trong VTBT mắc phải không

do triệt sản thì khó khảo sát vì trong nhiều
trường hợp tắc không rõ nguyên nhân. Chúng
tôi có 33 trường hợp không rõ nguyên nhân và
37 trường hợp không xác định được thời gian
tắc, chỉ có 2 trường hợp có tiền sử viêm tinh
hoàn – MT rõ ràng. Nếu có thể tính được thời
gian bị tắc thì, theo Schoor(24), trên 15 năm thì


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
hiệu quả thành công rất kém (15% so với nhóm
dưới 15 năm là 58%).
Tuổi vợ là một yếu tố quan trọng cho sự thụ
thai sau phẫu thuật chứ không phải là mật độ
tinh trùng (4). 35 tuổi được các tác giả xem là mốc
quan trọng về sinh sản đối với nguời vợ. Sau
tuổi nầy khả năng sinh sản giảm nhanh. Tuy
nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi vợ
không phải là yếu tố khác biệt có ý nghĩa thống
kê đối với sự thụ thai tự nhiên.
Kháng thể chống tinh trùng có thật sự ảnh
hưởng lên kết quả điều trị hay không vẫn còn là
vấn đề còn bàn cãi. Nhiều tác giả, trong đó có
Nagler và Rotman, Matsuda không cho rằng
kháng thể chống tinh trùng có ý nghĩa trong sự
thụ thai sau mổ, và do đó các tác giả không cho
bệnh nhân thực hiện thường qui xét nghiệm nầy
trước mổ (16,19).

Các yếu tố trong lúc mổ

Vị trí nối càng gần đuôi MT thì tiên lượng
càng tốt(16). Tuy nhiên, nối ở vị trí nào trên thân
MT thì tiên lượng cũng như nhau, theo
Silber(27). Nối ở đầu MT có thành công thấp
hơn vì ống MT nhỏ, khó nối và vì tinh trùng
tại đó có độ di động kém, khả năng thụ thai
giảm. Tuy nhiên, Silber ghi nhận, sau khi nối
ODT- đầu MT từ 1,5 – 2 năm thì tinh trùng sẽ
thích ứng để có độ di động tăng lên, tăng khả
năng thụ thai tự nhiên(27).
Chúng tôi chỉ thực hiện nối ODT- đầu MT
trong 1 trường hợp mà khả năng thành công
không chắc chắn, tuy bệnh nhân có tinh trùng
sau mổ vì bên MT bên kia chúng tôi nối ODTthân MT. Nói chung, chúng tôi không thực hiện
phẫu thuật nối ODT- đầu MT do hạn chế dụng
cụ. Chúng tôi mong muốn trong tương lai gần,
chúng tôi sẽ có những dụng cụ thích hợp để thực
hiện phẫu thuật tại vị trí khó khăn nầy.
Sự hiện diện của tinh trùng trong dịch mào
tinh. Nếu trong nối ODT-ODT, phẫu thuật nối
có thể vẫn có kết quả tốt cho dù không tìm thấy
tinh trùng trong dịch ODT, thì trong nối ODTMT, phẫu thuật chắc chắn sẽ thất bại nếu không

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

Nghiên cứu Y học

có tinh trùng trong dịch ống mào tinh (26). Belker
khuyến cáo bắt buộc phải tìm thấy có tinh trùng
trong dịch mào tinh thì mới tiến hành nối. Kết

quả nối thành công như nhau cho dù tinh trùng
tại chỗ nối có di động hay không di động (29). Tất
cả các trường hợp nối của chúng tôi, chúng tôi
đều tìm thấy tinh trùng trong dịch mào tinh.

Đặc điểm của tinh trùng sau khi nối thông
Thời gian có lại tinh trùng sau phẫu thuật,
60% trường hợp nối thành công có tinh trùng trở
lại trong tinh dịch ngay sau 1 tháng, theo Chan(3).
Dựa trên biểu đồ 2, chúng tôi có 2/11 (18,18%)
trường hợp nối tận-bên có tinh trùng trong tinh
dịch sau 1 tháng. 6/11 (54,55%) trường hợp nối
tận-bên có tinh trùng trong tinh dịch sau 3 tháng.
8/11 (72,73%) trường hợp nối tận-bên có tinh
trùng trong tinh dịch sau 6 tháng. 1 trường hợp
nối bên-bên có tinh trùng trong tinh dịch sau 6
tháng. Thời điểm có tinh trùng trở lại trong đa số
trường hợp là từ 3-6 tháng sau mổ nối, và theo
dõi càng lâu thì càng có nhiều trường hợp có
tinh trùng trở lại trong tinh dịch.
Mật độ tinh trùng, cũng theo biểu đồ 2, của
từng trường hợp được cải thiện dần theo thời
gian. Tương tự cho độ di động của tinh trùng
cũng cải thiện theo thời gian. Sự cải thiện chất
lượng tinh trùng theo thời gian có thể được hiểu
như sau: trong bế tắc đường dẫn tinh, có sự tồn
đọng nhiều tinh trùng “già” hay chết, không di
động(8), nên trong dịch chảy qua chỗ nối trong
thời gian đầu sẽ có nhiều những tinh trùng già
này, về sau mới có những tinh trùng mới.


KẾT LUẬN
Chẩn đoán xác định vị trí tắc và khả năng
phẫu thuật nối thông chỉ có thể xác định qua
phẫu thuật thám sát bìu kết hợp với chụp ODT
nếu cần. Chẩn đoán tắc tại tinh hoàn hay mào
tinh dựa trên quan sát mào tinh lúc mổ và khảo
sát tìm tinh trùng trong dịch ODT. Chẩn đoán
tắc ở ODT có thể bằng bơm dung dịch sinh lý kết
hợp luồn chỉ polypropylene 2-0 trong lòng ODT.
Vi phẫu thuật nối ODT-MT nên là chọn lựa
hàng đầu trong điều trị VTBT tại MT. Các kỹ

11


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
thuật nối vi phẫu đã làm tăng đáng kể tỉ lệ thông
thương sau nối. Kỹ thuật nối tận-bên kiểu lồng
hai mũi với sự trợ giúp của kẹp Babcock cải tiến,
đã giúp đơn giản hoá kỹ thuật nối, giảm thời
gian phẫu thuật và tỉ lệ thông thương còn có
phần cao hơn các kỹ thuật trước đó. Sự thông
thương sau nối thường xảy ra trước 12 tháng,
nhưng cũng có thể trễ hơn. Trong trường hợp
cần trích tinh trùng để thực hiện thụ tinh trong
ống nghiệm, cần cố gắng tránh tổn thương ống
MT vì sự thông thương MT có thể xuất hiện trễ.

17.


18.

19.

20.

21.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.


12.

13.
14.

15.
16.

Berger
RE
(1998),
“Triangulation
end-to-side
vasoepididymostomy”, J Urol, 159, pp.1951-1953.
Bladou F. (1993), “Azoospermies”, Progres en urologie, Guide
pratique de l’infertilite masculine, pp.32-39.
Chan PT, Li PS, Goldstein M (2003), “Microsurgical
vasoepididymostomy: a prospective randomized study of 3
intussusception techniques in rats.”, J Urol, 169(5), pp.1924-1929.
Chan PTK, Brandell RA, Goldstein M (2005), “Prospective
analysis of outcomes after microsurgical intussusception
vasoepididymostomy”, BJU International, 96, pp.598 – 601.
Colpi G.M., Negri L., Nappi R.E., Chinea B. (1997), “Is
transrectal ultrasonography a reliable diagnostic approach in
ejaculatory duct sub-obstruction? ”, Hum Reprod, 12, pp.21862191.
Colpi G.M., Hargreave T.B., Papp G.K., Pomerol J.M., Weidner
W. (2000), “Obstructive azoospermia”, Guidelines on infertility,
European association of urology, pp.24-29.
Cornud F., Belin X., Delafontaine D., Amar T., Helenon O.,
Moreua J.F. (1997), “Imaging of obstructive azoospermia”, Eur

Radiol, 7 (7), pp.1079-1085.
Goldstein M. (2002), “Surgical management of male infertility
and other scrotal disorders”, Campbell’s Urology, 8th Ed,
W.B.Saunders, Philadelphia, pp.1532-1589.
Hendry WF, Parslow JM, Stedronska J (1983), “Exploratory
scrototomy in 168 azoospermic males”, Br J Urol, 55(6), pp.785791.
Hendry W.F. (1992), “Investigation of male infertility”,
Diagnostic techniques in urology, W.B. Saunders Company,
London, pp.587-598.
Honig S.C. (1994), “New diagnostic techniques in the evaluation
of anatomic abnormalitites of the infertile male”, Urol Clin North
Amer, 21 (3), pp.417-432.
Jarow JP, Sigman M, Buch JP, Oates RD (1995), “Delayed
appearance of sperm after end-to-side vasoepididymostomy”, J
Urol. 153(4), pp.1156-1158.
Kar JK, Phadke AM (1975), “Vasoepididymal anastomosis”,
Fertil Steril, 26 (8), pp.743-756.
Marmar JL (2000), “Modified vasoepididymostomy with
simultaneous double needle placement, tubulotomy and
tubular invagination”, J Urol, 163, pp.483-486.
Martin E (1902), “Surgical treatment of sterility”, Univ Penna
med Bull, 15, p.2
Matsuda T, Horii Y, Muguruma K, Komatz Y, Yoshida O
(1994), “Microsurgical epididymovasostomy for obstructive

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
12

22.


23.

24.

25.
26.

27.
28.

29.
30.

31.

32.

Nghiên cứu Y học

azoospermia: factors affecting postoperative fertility”, Eur Urol,
26(4), pp.323-326.
Matthews GJ, McGee KE, Goldstein M (1997), “Microsurgical
reconstruction following failed vasectomy reversal.”, J Urol,
157(3), pp.844-846.
Mieusset R., Pontonnier F. (1993), “Bilan clinique d’un homme
infertile”, Progres en urologie. Guide pratique de l’infertilite
masculine, pp.13-22.
Nagler HM, Rotman M (2002), “Predictive parameters for
microsurgical reconstruction”, Urol Clin North Am, 29(4),

pp.913-919.
Nudell D.M., Turek P.J. (2001), “Male fertility and infertility”,
Clinical manual of Urology, 3rd Ed, McGraw-Hill, NewYork, pp.
643-674.
Pierik F.H., Dohle G.R., van Muiswinkel J.M., Vreeburg J.T.,
Weber R.F. (1999), “Is routine scrotal ultrasound advantageous
in infertile men?”, J Urol, 162 (5), pp.1618-1620.
Pryor J.P., Hendry W.F. (1991), “Ejaculatory duct obstruction in
subfertile males: analysis of 87 patients”, Fertil Steril, 56 (4),
pp.725-730.
Sadeghi-Nejad H., Oates R.D. (1999), “Male reproductive
dysfunction”, Manual of Urology, Lippincott Williams & Wilkins,
Philadelphia, pp.164-184.
Schoor RA, Elhanbly SM, Ross LS, Niederberger CS (2002),
“The influence of obstructive interval on patency rates
following microsurgical epididymovasostomy”, World J Urol,
19(6), pp.453-456.
Sigman M., Jarow J.P. (2002), “Male infertility”, Campbell’s
Urology, 8th Ed, W.B.Saunders, Philadelphia, pp.1475-1531.
Silber SJ (1978), “Microscopic vasoepididymostomy: specific
microanastomosis to the epididymal tubule”, Fertil Steril, 30(5),
pp.565-571.Silber S.J. (2000), “Evaluation and treatment of male
infertility”, Clinical obstetrics and gynecology, 43(4), pp.854-888.
Silber S.J. (2000), “Evaluation and treatment of male infertility”,
Clinical obstetrics and gynecology, 43(4), pp.854-888
(de la) Taille A., Rigot J.M., Mahe P., Vankemmel O., Gervais R.,
Dumur V., Lemaitre L., Mazeman E. (1998), “Correlation
between genito-urinary anomalies, semen analysis and CFTR
genotype in patients with congenital bilateral absence of the vas
deferens”, Br J Urol, 81, pp.614-619.

Thomas AJ Jr. (1987), “Vasoepididymostomy”, Urol Clin North
Am, 14(3), pp.527-538.
Trần Quán Anh, Nguyễn Bửu Triều, Trần Thị Trung Chiến,
Tôn Thất Bách, Phan Thị Phi Phi, Trần Thị Chính, Lê Văn Vệ,
Nguyễn Phương Hồng (2005), “Bước đầu nghiên cứu nguyên
nhân và đánh giá kết quả điều trị vô sinh nam giới”, Y Học Việt
Nam, 313, tr.886-893.
Trần Văn Sáng, Nguyễn Thành Như, Vũ Lê Chuyên (2003),
“Vai trò của siêu âm qua trực tràng trong vô tinh do bế tắc”, Y
học TP. Hồ Chí Minh, 7 (1), chuyên đề thận-niệu, tr.40-43.
Turek P.J. (2004), “Male infertility”, Smith’s General Urology, 16th
Ed, Lange Medical Books / McGraw-Hill, New York, pp.678712.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

Nghiên cứu Y học

13


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
14

Nghiên cứu Y học




×