Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Những vấn đề chung về hoạt động nhập khẩu tại các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.5 KB, 27 trang )

Những vấn đề chung về hoạt động nhập
khẩu tại các doanh nghiệp
Biên tập bởi:
Nguyễn Cảnh Hiệp


Những vấn đề chung về hoạt động nhập
khẩu tại các doanh nghiệp
Biên tập bởi:
Nguyễn Cảnh Hiệp
Các tác giả:
Nguyễn Cảnh Hiệp

Phiên bản trực tuyến:
/>

MỤC LỤC
1. Khái niệm về nhập khẩu
2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu
4. Phân loại nhập khẩu
5. Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
6. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
7. Lập phương án kinh doanh, giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng
8. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu
9. Nâng cao hiệu quả kinh doanh trong hoạt động nhập khẩu
Tham gia đóng góp

1/25



Khái niệm về nhập khẩu
Khái niệm về nhập khẩu.
Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, là quá trình trao đổi
hàng hoá giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc trao đổi ngang giá lấy tiền tệ là môi giới.
Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ buôn bán
trong một nền kinh tế có cả tổ chức bên trong và bên ngoài.
Nếu xét trên phạm vi hẹp thì tại Điều 2 Thông tư số 04/TM-ĐT ngày 30/7/1993 của Bộ
Thương mại định nghĩa: “ Kinh doanh nhập khẩu thiết bị là toàn bộ quá trình giao dịch,
ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán thiết bị và dịch vụ có liên quan đến thiết bị trong
quan hệ bạn hàng với nước ngoài ”.
Vậy thực chất kinh doanh nhập khẩu ở đây là nhập khẩu từ các tổ chức kinh tế, các Công
ty nước ngoài, tiến hành tiêu thụ hàng hoá, vật tư ở thị trường nội địa hoặc tái xuất với
mục tiêu lợi nhuận và nối liền sản xuất giữa các quốc gia với nhau.
Mục tiêu hoạt động kinh doanh nhập khẩu là sử dụng có hiệu quả nguồn ngoại tệ để
nhập khẩu vật tư, thiết bị kỹ thuật và dịch vụ phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng,
nâng cao năng suất lao động, tăng giá trị ngày công, và giải quyết sự khan hiếm hàng
hoá, vật tư trên thị trường nội địa.
Mặt khác, kinh doanh nhập khẩu đảm bảo sự phát triển ổn định của các ngành kinh tế
mũi nhọn của mỗi nước mà khả năng sản xuất trong nước chưa đảm bảo vật tư, thiết bị
kỹ thuật đáp ứng nhu cầu phát triển, khai thác triệt để lợi thế so sánh của quốc gia, góp
phần thực hiện chuyên môn hoá trong phân công lao động quốc tế, kết hợp hài hoà và
có hiệu quả giữa nhập khẩu và cải thiện cán cân thanh toán.
thiện cán cân thanh toán quốc tế .

2/25


Đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập
khẩu
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động phức tạp so với hoạt động kinh doanh trong nước.

Hoạt động nhập khẩu có những đặc điểm sau:
- Hoạt động nhập khẩu chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật như điều ước quốc tế và
Ngoại thương, luật quốc gia của các nước hữu quan, tập quán Thương mại quốc tế.
- Các phương thức giao dịch mua bán trên thị trường quốc tế rất phong phú: Giao dịch
thông thường, giao dịch qua trung gian, giao dịch tại hội chợ triển lãm.
- Các phương thức thanh toán rất đa dạng: nhờ thu, hàng đổi hàng, L/C...
- Tiền tệ dùng trong thanh toán thường là ngoại tệ mạnh có sức chuyển đổi cao như :
USD, bảng Anh...
- Điều kiện cơ sở giao hàng: có nhiều hình thức nhưng phổ biến là nhập khẩu theo điều
kiện CIF, FOB...
- Kinh doanh nhập khẩu là kinh doanh trên phạm vi quốc tế nên dịa bàn rộng, thủ tục
phức tạp, thời gian thực hiện lâu.
- Kinh doanh nhập khẩu phụ thuộc vào kiến thức kinh doanh, trình độ quản lý, trình độ
nghiệp vụ Ngoại thương, sự nhanh nhạy nắm bắt thông tin.
- Trong hoạt động nhập khẩu có thể xảy ra những rủi ro thuộc về hàng hoá. Để đề phong
rủi ro, có thể mua bảo hiểm tương ứng.
- Hoạt động nhập khẩu là cơ hội để các doanh nghiệp có quốc tịch khác nhau hợp tác lâu
dài. Thương mại quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ kinh tế - chính trị của các
nước xuất khẩu, góp phần phát triển kinh tế đối ngoại.

3/25


Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh nhập khẩu
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một họat động kinh doanh hết sức phức tạp và nhạy
cảm với môi trường kinh doanh. Kinh doanh nhập khẩu chịu ảnh hưởng của rất nhiều
nhân tố. Có hai nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu, đó là:

Những nhân tố ảnh hưởng bên trong doanh nghiệp.

Các yếu tố bên trong doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh nhập
khẩu của doanh nghiệp, nó tác động một cách trực tiếp và là yếu tố nội lực quyết định
hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp có đạt hiệu quả hay không. Các nhân tố đó là:
* Tổ chức hoạt động kinh doanh: Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện hoạt
động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Nếu như việc tổ chức kinh doanh càng
phù hợp với chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp, phù hợp với yêu cầu kinh tế thị
trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Làm tốt công tác tổ chức kinh doanh có nghĩa là doanh nghiệp
phải là tốt các khâu: Chuẩn bị trước khi giao dịch như nghiên cứu thị trường, khai thác
nhu cầu tiêu dùng trong nước, lập phương án kinh doanh thận trọng...
* Tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp: Bộ máy quản lý doanh nghiệp có ảnh hưởng
một cách gián tiếp tới hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng và hoạt
động kinh doanh toàn doanh nghiệp nói chung. Tổ chức bộ máy quản lý hợp lý, gọn nhẹ,
làm việc có hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh. Việc
xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy của doanh nghiệp là một điều hết sức
quan trọng trong kinh doanh XNK.
* Nhân tố con người: Đội ngũ cán bộ công nhân viên là một nhân tố quan trọng có tính
chất quyết định đối với sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh nói chung
và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Nếu doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ công nhân viên
năng động, có năng lực, trình độ chuyên môn cao, nhiệt tình, tích cực trong công tác kết
hợp với việc bố trí nguồn nhân lực theo chiến lược “ đúng người, đúng việc, đúng lúc”
của doanh nghiệp thì nhất định sẽ có ảnh hưởng tích cực tới hiệu quả kinh doanh.
* Vốn kinh doanh: Là nhân tố tối quan trọng, là thành phần không thể thiếu trong kinh
doanh, nó là cơ sở cho việc mở rộng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
* Cơ sở vật chất và uy tín kinh doanh của doanh nghiệp: Nếu công ty có cơ sở vật chất
kỹ thuật càng hiện đại bao nhiêu thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho công việc kinh

4/25



doanh bấy nhiêu như: việc giữ gìn bảo quản hàng hoá được tốt hơn, tiết kiệm chi phí
trong khâu vận chuyển , nâng cao chất lượng phục vụ
* Thị trường - khách hàng: Thị trường là một tấm gương trung thực cho các doanh
nghiệp tự soi vào để đánh giá hiệu quả kinh doanh của mình. Hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp có đạt hiệu quả cao hay không phụ thuộc vào mức độ đáp ứng các yêu cầu
của thị trường.

Những nhân tố ảnh hưởng bên ngoài doanh nghiệp.
Đây là nhóm nhân tố có tầm ảnh hưởng vĩ mô điều tiết hoạt động doanh nghiệp, nó bao
gồm:
* Quan hệ chính trị và kinh tế giữa nước ta với nước khác: Hoạt động nhập khẩu hoạt
động trong một khung cảnh rộng lớn là nền kinh tế thế giới, thị trường quốc tế, đối tượng
hợp tác rất đa dạng. Việc mở rộng các mối quan hệ chính trị ngoại giao sẽ tạo điều kiện
thuận lợi và tiền đề pháp lý cho các tổ chức kinh doanh phát triển những bạn hàng mới.
* Hệ thống luật pháp: Nó tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động. Hệ thống
luật pháp yêu cầu phải động bộ, nhất quán và phù hợp với thông lệ quốc tế.
* Môi trường chính trị - xã hội: Nhân tố này gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động
nhập khẩu. Có đảm bảo ổn định về chính trị, giữ vững môi trường hoà bình và hữu nghị
với các nước trên khu vực và trên thế giới thì mới tạo bầu không khí thuận lợi cho các
hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng.
* Môi trường kinh doanh: Phải đảm bảo sự ổn định vĩ mô nên kinh tế trong đó chú ý
đảm bảo tỷ giá hối đoái ổn định và phù hợp, khắc phụ sự thâm hụt của cán cân thương
mại và cán cân thanh toán quốc tế nhăm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh, sẽ tạo
thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu.

5/25


Phân loại nhập khẩu
Dưới đây là một số loại hình nhập khẩu cơ bản và phổ biến nhất:


Nhập khẩu trực tiếp.
Theo cách thức này, bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau, việc mua và việc
bán không ràng buộc nhau. Bên mua có thể chỉ mua mà không bán, bên bán có thể chỉ
bán mà không mua. Hoạt động chủ yếu là doanh nghiệp trong nước nhập khẩu hàng hoá,
vật tư ở thị trường nước ngoài đem về tiêu thụ ở thị trường trong nước. Để tiến tới ký kết
hợp đồng kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ nhu cầu nhập khẩu
vật tư, thiết bị trên thị trường nội địa, tính toán đầy đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh
nhập khẩu có hiệu quả, đàm phán kỹ lưỡng về các điều kiện giao dịch với bên xuất khẩu,
thực hiện theo hành lang pháp lý quốc gia cũng như thông lệ quốc tế.
Đặc điểm: Được tiến hành một cách đơn giản. Bên nhập khẩu phải nghiên cứu thị
trường, tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng và thực hiện theo đúng hợp đồng, phải tự bỏ
vốn, chịu mọi rủi ro và chi phí giao dịch, nghiên cứu, giao nhận, kho b•i cùng các chi
phí có liên quan đến tiêu thụ hàng háo, thuế nhập khẩu...

Nhập khẩu uỷ thác.
Theo quyết định số 1172/TM/XNK ngày 22/9/1994 của Bộ trưởng Bộ Thương Mại về
việc ban hành” Quy chế XNK uỷ thác giữa các pháp nhân trong nước” đ• định nghĩa
như sau:
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động dịch vụ thương mại dưới hình thức nhận làm dịch vụ
nhập khẩu. Hoạt động này được làm trên cơ sở hợp đồng uỷ thác giữa các doanh nghiệp
phù hợp với những quy định của pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Như vậy, hợp đồng uỷ thác nhập khẩu được hình thành giữa các doanh nghiệp trong
nước có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu một loại vật tư, thiết bị nào đó nhưng
lại không được phép nhập khẩu trực tiếp hoặc gặp khó khăn trong việc tìm kiếm bạn
hàng, thực hiện thủ tục uỷ thác nhập khẩu cho doanh nghiệp có chức năng thương mại
quốc tế tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải cung cấp cho
bên uỷ thác các thông tin về thị trường, giá cả, khách hàng, những điều kiện có liên quan
đến đơn hàng uỷ thác thương lượng đàm phán và ký kết hợp đồng uỷ thác. Bên nhận uỷ
thác phải tiến hành làm các thủ tục nhập khẩu và được hưởng phần thù lao gọi là phí uỷ

thác.

6/25


Đặc điểm: Doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ nhập khẩu uỷ thác không phải bỏ vốn,
không phải xin hạn ngạch, không phải tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng nhập, giá trị
hàng nhập chỉ được tính vào kim ngạch XNK không được tính vào doanh thu. Khi nhận
uỷ thác phải làm hai hợp đồng: Một hợp đồng mua bán hàng hoá, vật tư với nước ngoài
và một hợp đồng uỷ thác nhập khẩu với bên uỷ thác ở trong nước.

Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu trong Thương mại quốc tế là một phương thức giao dịch trao đổi hàng
hoá trong đó nhập khẩu kết hợp chặt chẽ với xuất khẩu, người bán đồng thời là người
mua và ngược lại. Lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi có giá trị tương đương. Giao dịch
đối lưu dựa trên bốn nguyên tắc cân bằng: Cân bằng về mặt hàng, cân bằng về giá cả,
cân bằng về cùng một điều kiện giao hàng và cân bằng về tổng giá trị hàng hoá trao đổi.
Đặc điểm: Hợp đồng này có lợi ở chỗ là cùng một hợp đồng ta có thể tiến hành đồng
thời hoạt động xuất và nhập khẩu. Đối với hình thức này thì lượng hàng giao đi và lượng
hàng nhận về có giá trị tương đương nhau. Doanh nghiệp xuất khẩu được tính vào cả
kim ngạch xuất nhập khẩu, doanh thu trên hàng hoá nhập và hàng xuất.

Nhập khẩu tái xuất.
Mỗi nước có một định nghĩa riêng về tái xuất, nhưng đều thống nhất một quan điểm về
tái xuất là xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá trước đây đ• nhập khẩu, chưa
qua chế biến ở nước tái xuất. Có nghĩa là tiến hành nhập khẩu không phải để tiêu thụ
trong nước mà để xuất sang một nước thứ ba nhằm thu lợi nhuận. Giao dịch tái xuất bao
gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một lượng ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ
ra ban đầu. Giao dịch này luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước
nhập khẩu.

Đặc điểm:
- Doanh nghiệp tái xuất phải tính toán toàn bộ chi phí nhập hàng và xuất hàng sao cho
thu hút được lượng ngoại tệ lớn hơn chi phí ban đầu bỏ ra.
- Doanh nghiệp tái xuất phải tiến hành hai loại hợp đồng: Một hợp đồng nhập khẩu và
một hợp đồng xuất khẩu nhưng không phải nộp thuế XNK.
- Doanh nghiệp tái xuất được tính kim ngạch trên cả hàng tái xuất và hàng nhập, doanh
số tính trên giá trị hàng hoá tái xuất do đó vẫn chịu thuế.
- Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng từ
nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu theo hình thức chuyển khẩu, nhưng tiền phải do
người tái xuất trả cho người nhập khẩu và thu từ người nhập khẩu.
7/25


Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập
khẩu
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một trong hai bộ phận cấu thành nên nghiệp vụ
ngoại thương. Biểu hiện là việc mua hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ nhu
cầu tiêu dùng trong nước hoặc nhằm tái sản xuất với mục đích thu lợi nhuận. Nhập khẩu
thể hiện mối tương quan gắn bó chặt chẽ với nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia
với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên mỗi một thời kỳ đều có đặc điểm riêng, chiến lược
phát triển kinh tế riêngvì vậy mà vai trò, nhiệm vụcủa hoạt động kinh doanh nhập khẩu
cũng được điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu nhà nước đề ra.
Trên thực tế, một khi nền kinh tế quốc gia đã hoà nhập vào nền kinh tế thế giới thì vai
trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu ngày càng trở nên quan trọng, có thể thấy cụ
thể là:
- Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng trong nước, cho phép tiêu dùng một lượng
hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng
cao cũng như thị hiếu của người tiêu dùng, làm tăng mức sống người dân, tăng thu nhập
quốc dân.
- Nhập khẩu tạo sự chuyển giao công nghệ, do đó có thể tái xuất mở rộng hàng hoá có

hiệu quả, tiết kiệm thời gian và chi phí, tạo ra sự đồng đều về phát triển trong nước.
- Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh tích cực giữa hàng nội và hàng nhập khẩu tức là tạo
ra động lực cho các nhà sản xuất trong nước không ngừng vươn lên, tạo đà cho xã hội
ngày càng phát triển.
- Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để cơ chế tự cung tự cấp của nền
kinh tế đóng.
- Nhập khẩu giải quyết được các nhu cầu đặc biệt như hàng hoá khan hiếm, hàng hoá
cao cấp, công nghệ hiện đại mà trong nước không thể sản xuất được hay khó khăn trong
quá trình sản xuất vì nguồn lực khan hiếm.
- Nhập khẩu góp phần khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của một quốc gia, tham gia
sâu rộng và sự trao đổi quốc tế và sự phân công lao động quốc tế trên cơ sở chuyên môn
hoá sản xuất, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, từng bước hoà nhập nền
kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên, để phát huy được hết vai trò và nhiệm vụ của hoạt động nhập khẩu còn tuỳ
thuộc và quan điểm đường lối lãnh đạo của mỗi nước. Với nước ta, trong cơ chế kế
8/25


hoạch hoá tập trung, nhà nước quản lý kinh tế đối ngoại tập trung bằng mệnh lệnh, nghị
định của chính phủ... làm cho hoạt động nhập khẩu mất đi tính linh hoạt và không đúng
với bản chất của nó. Từ sau ĐH VI, nhà nước đã đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối
ngoại phù hợp với nền kinh tế thị trường thì hoạt động nhập khẩu đang dần khởi sắc và
đi vào quỹ đạo của nó.
Tuy chỉ qua một thời gian ngắn mà hoạt động nhập khẩu đã phát huy được vai trò lớn
của nó, thực sự đã tạo cho thị trường trong nước trở nên sôi động, đa dạng và phong phú
về hàng hoá, vật tư. Tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế. Nền kinh tế nước ta đang chuyển mình hoà nhập với nền kinh tế khu
vự và thế giới.

9/25



Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu là cả một quá trình tìm kiếm khách hàng và có hệ thống
cùng với việc phát triển tổng hợp các thông tin cần thiết để giải quyết vấn đề Marketing.
Bởi vậy, nghiên cứu thị trường ngày càng đóng vai trò quan trọng để giúp các nhà kinh
doanh đạt hiệu quả cao trong hoạt động nhập khẩu.
Để nắm vững các yếu tố thị trường hiểu rõ quy luật vận động của thị trường nhăm ứng
xử kịp thời, các nhà nhập khẩu nhất thiết phải tiến hành công tác nghiên cứu thị trường,
bao gồm: Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu, nghiên cứu dung lượng thị trường, lựa chọn
bạn hàng, nghiên cứu giá cả hàng hoá trong nhập khẩu.

Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu.
Mục đích nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu là để tiến hành nhập khẩu đúng chủng loại
mà thị trường trong nước cần kinh doanh có hiệu quả, đạt được mục tiêu lợi nhuận của
doanh nghiệp. Việc nhận biết mặt hàng nhập khẩu trước hết căn cứ vào nghiên cứu sản
xuất và tiêu dùng trong nước về số lượng, chất lượng, tính thời vụ, thị hiếu cũng như tập
quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó tiến hành xem xét các khía
cạnh của hàng hoá cần nhập khẩu như công dụng, đặc tính, quy cách, phẩm chất, mẫu
mã, giá cả, điều kiện mua bán, kỹ năng sản xuất và các dịch vụ kèm theo...

Nghiên cứu dung lượng thị trường.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị
trường nhất định trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Nghiên cứu dung
lượng thị trường phải xác định nhu cầu thật của khách hàng và khả năng cung cấp của
nhà sản xuất. Nghiên cứu dung lượng của thị trường nhằm hiểu rõ hơn về quy luật vận
động của thị trường.

Lựa chọn bạn hàng.
Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng là những người hoặc những tổ chức

có quan hệ với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá hay dịch vụ,
các hoạt động hợp tác kinh tế hay khoa học kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng
hoá.
Chọn thương nhân để giao dịch: Thường chọn những người xuất nhập khẩu trực tiếp.
Chúng ta cần quan tâm đến quan điểm kinh doanh của thương nhân đó, lĩnh vực kinh
doanh của họ, vốn, cơ sở vật chất, uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ.

10/25


Nghiên cứu giá cả hàng hoá trong nhập khẩu.
Giá cả luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố cấu thành thị trường, nghiên cứu giá
cả thị trường là một bộ phận của nghiên cứu thị trường, nó bao gồm các công việc sau:
Nghiên cứu mức giá từng mặt hàng tại từng thời điểm trên thị trường, xu hướng biến
động và các nhân tố ảnh hưởng.
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế
giới và là giá của những giao dịch thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt
nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.

11/25


Lập phương án kinh doanh, giao dịch, đàm
phán và ký kết hợp đồng
Lập phương án kinh doanh.
Bao gồm các bước sau:
- Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
- Đề ra những mục tiêu cụ thể như : sẽ nhập khẩu bao nhiêu với giá cả bao nhiêu, nhập
ở thị trường nào và tình hình tiêu thụ hàng hoá đó như thế nào.

- Đề ra biện pháp thức hiện: Bao gồm cả biện pháp đối với trong nước và biện pháp đối
với thị trường ngoài.
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh

Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng.
Các phương thức chủ yếu trong giao dịch nhập khẩu.
Dưới đây là một số phương thức giao dịch cơ bản trong buôn bán quốc tế:
* Giao dịch trực tiếp: Giao dịch trực tiếp trong kinh doanh thương mại quốc tế là giao
dịch mà người mua (hoặc bán) thoả thuận, bàn bạc trực tiếp (hoặc thông qua thư từ,
điện tín...) với người bán (người mua) về hàng hoá, giá cả, giao dịch, phương thức thanh
toán. Trong phương thức thanh toán này hai bên tiếp cận thị trường hỏi giá, báo giá,
chào hàng và đi đến chấp thuận giá cả của hàng hoá đó. Và từ đó đi đến ký kết hợp đồng
nhập khẩu hàng hoá.
* Giao dịch qua trung gian: Giao dịch qua trung gian trong kinh doanh Thương mại quốc
tế là giao dịch mà người mua (hoặc người bán) quy định về điều kiện trong giao dịch
mua bán về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh toán... phải qua
một người thứ ba là người trung gian buôn bán(chủ yếu là các cửa hàng đại lý, các tổ
chức môi giới). Việc sử dụng đại lý và môi giới có nhiều ưu điểm: Những người trung
gian hiểu rõ về tình hình thị trường, luật pháp, tập quán địa phương, giảm được chi phí
vận chuyển, hình thành được đại lý buôn bán tiêu thụ rộng, tạo điều kiện cho việc chiếm
lĩnh thị trường mới. Tuy nhiên giao dịch này cũng có những nhược điểm là mất liên hệ
trực tiếp với khách hàng, thị trường buôn bán, lợi nhuận bị chia sẻ....
12/25


* Giao dịch tại hội chợ triển lãm: Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào
một thời gian nhất định. Tại đó người bán trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với
người mua để ký kết hợp đồng mua bán.
* Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá: Sở giao dịch hàng hoá là thị trường đặc biệt, tại
đó thông qua người môi giới do sở giao dịch chỉ định người mua và người bán mua bán

hàng hoá có khối lượng lớn có phẩm chất đồng loại và có thể thay thế nhau. Các loại
giao dịch ở sở giao dịch là: Giao dịch ngay, giao dịch kỳ hạn, nghiệp vụ tự bảo hiểm...
Đàm phán
Đàm phán thương mại là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một quan hệ
kinh doanh nhằm đi tới thống nhất các điều kiện, cách xử lý những vấn đề nảy sinh trong
quan hệ buôn bán. Nội dung của các cuộc đàm phán thương mại gồm: Tên hàng, phẩm
chất, số lượng, bao bì, đóng gói, giao hàng, giá cả, thanh toán, bảo hiểm, bảo hành...
Ký kết hợp đồng nhập khẩu.
Một hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận giữa những đương sự có quốc tịch
khác nhau trong đó một bên bán (bên xuất khẩu) là một tài sản nhất định gọi là hàng
hoá. Bên mua có trách nhiệm trả tiền và nhập hàng. Hình thức hợp đồng bằng văn bản
là một hình thức bắt buộc đối với các đơn vị XNK ở nước ta. Các điều khoản trong hợp
đồng do bên mua và bên bán thoả thuận chi tiết, mặc dù trước đó đã có đơn đặt hàng và
chào hàng, nhưng vẫn phải thiết lập văn bản hợp đồng làm cơ sở pháp lý cụ thể cho các
hoạt động trao đổi hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác, và làm căn cứ cho việc
xác định lỗi khi có tranh chấp xảy ra.

13/25


Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Sau khi hợp đồng nhập khẩu được ký kết, đơn vị kinh doanh XNK với tư cách là một
bên ký kết - phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Nói chung cần tiến hành các công việc
sau:
- Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu và xin giấy
phép nhập khẩu đối với hàng chuyên ngành.
- Kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập khẩu: Theo NĐ 200/CP ngày 31/12/1973 và Thông
tư liên Bộ GTVT- Ngoại thương số 52/TTLB ngày 25/1/1975, hàng nhập khẩu khi đi
qua cửa khẩu cần được kiểm tra kỹ càng. Doanh nghiệp nhập khẩu, với tư cách là một

bên đứng tên trong vận đơn, phải lập thư dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thực sự thấy hàng
có tổn thất, sau đó phải yêu cầu công ty bảo hiểm lập biên bản giám định nếu tổn thất
xảy ra bởi những rủi ro đã được mua bảo hiểm.
- Thuê tàu chở hoặc uỷ thác thuê tàu: Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu
việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa vào: Những điều khoản của hợp đồng mua
bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải. Chủ hàng nhập khẩu
phải căn cứ vào đặc điểm và khối lượng vận chuyển của hàng hoá để lựa chọn thuê tàu
cho phù hợp đảm bảo thuận lợi và nhanh chóng.
- Mua bảo hiểm: Các chủ hàng nhập khẩu của ta, khi cần mua bảo hiểm, đều mua tại các
Công ty Việt nam để đề phòng rủi ro. Các đơn vị kinh doanh khi mua bảo hiểm phải làm
một hợp đồng với công ty bảo hiểm. Tuỳ thuộc vào đặc điểm tính chất của hàng hoá,
điều kiện vận chuyển mà mua bảo hiểm chuyến hay mua bảo hiểm bao. Có ba điều kiện
bảo hiểm chính: Bảo hiểm rủi ro (Điều kiện A), Bảo hiểm có tổn thất riêng (Điều kiện
B) và Bảo hiểm miễn tổn thất riêng (Điều kiện C).
- Làm thủ tục Hải quan: Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia để nhập khẩu đều
phải làm thủ tục Hải quan. Thủ tục Hải quan là một công cụ quản lý hành vi mua bán
theo pháp luật của Nhà nước để ngăn chặn buôn lậu. Việc làm thủ tục Hải quan gồm ba
bước chủ yếu: Khai báo Hải quan, xuất trình hàng hoá và thực hiện các quyết định của
Hải quan.
- Giao nhận hàng nhập khẩu: Theo NĐ 200/CP ngày 31/12/1973 “ Các cơ quan vận tải
có trách nhiệm tiếp nhận hàng nhập khẩu trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài
vào, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và giao cho các đơn
vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của tổng công ty đã nhập hàng đó”. Và theo NĐ 200/CP
ngày 31/12/1993 của nhà nước thì mọi việc giao nhận hàng đều phải uỷ thác qua cảng
khi hàng về cảng.
14/25


- Làm thủ tục thanh toán: Nghiệp vụ thanh toán là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện
thanh toán quốc tế, là nghiệp vụ quan trọng và cuối cùng trong việc thực hiện hợp đồng

nhập khẩu. Trong kinh doanh thương mại hiện nay có rất nhiều phương thức thanh toán
khác nhau như: phương thức nhờ thu, phương thức điện chuyển tiền và phương thức tín
dụng chứng từ.
+ Khiếu nại và giải quyết khiếu nại: Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng
nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát thì cần
lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời gian khiếu nại.

15/25


Nâng cao hiệu quả kinh doanh trong hoạt
động nhập khẩu
Hoàn thiện công tác tổ chức kinh doanh nhập khẩu.
Công tác tổ chức kinh doanh có vai trò rất quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Nếu như vịêc tổ chức kinh doanh càng phù hơp với
chức năng, điều kiện của doanh nghiệp, phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường, đáp
ứng nhu cầu thị trường nó sẽ thúc đẩy doanh nghiệp chiếm lĩnh thị phần, thu hút khách
hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, làm tăng tài sản vô hình cho doanh
nghiệp. Để hoàn thiện công tác tổ chức kinh doanh nhập khẩu có thể thực hiện các chiến
lược sau:
1. Đa dạng hoá hình thức nhập khẩu.
Hiện nay, trong hoạt động ngoại thương có bốn hình thức nhập khẩu cơ bản, đó là: Nhập
khẩu trực tiếp, nhập khẩu uỷ thác, buôn bán đối lưu, nhập khẩu tái xuất. Tuy nhiên,
thực tế ở Việt Nam cho tháy nước ta áp dụng hai hình thức nhập khẩu chủ yếu là nhập
khẩu trực tiếpvà nhập khẩu uỷ thác. Vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh XNK phải tìm
mọi biện pháp để thực hiện hai biện pháp này có hiệu quả. Ngoài ra, cần phải khai thác
nhu cầu tiêu dùng ở thị trường trong nước, xem xét khả năng của doanh nghiệp để kết
hợp với các hình thức kinh doanh nhập khẩu khác như nhập khẩu tái xuất nhằm thu lợi
nhuận. Trên cơ sở nước nhập khẩu phải có những khó khăn nhất định trong việc nhập
khẩu trực tiếp hàng hoá, vật tư đó. Tiến hành nhập khẩu vật tư, máy móc thiết bị đồng

thời xuất khẩu sản phẩm cho họ, nhập khẩu hàng hoá kết hợp với tái chế để xuất khẩu
hàng hoá đó, làm trung gian xuất nhập khẩu cho họ...
Linh hoạt trong giao dịch kinh doanh nhập khẩu
Quá trình kinh doanh nhập khẩu được tiến hành qua nhiều khâu, nhiều công việc, từ giai
đoạn chuẩn bị giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng cho đến tổ chức thực hiện hợp đồng.
Giai đoạn chuẩn bị giao dịch phải được thực hiện hết sức cẩn thận, tỉ mỉ và chu đáo;
Linh hoạt trong quá trình nghiên cứu thị trường mà trong đó nghiên cứu hàng hoá, lựa
chọ nhà cung cấp phù hợp là quan trọng; Chính xác và hiệu quả trong khâu lập phương
án kinh doanh.
Việc đàm phán ký kết hợp đồng ngoài việc gặp nhau trực tiếp cần chú trọng đến một vài
hình thức khác nhau như đàm phán ký kết hợp đồng qua điện thoại, thư tín, Fax, mạng
Internet...

16/25


Phải biết sử dụng nghệ thuật ứng xử trong đàm phán. Biện pháp này rất quan trọng, giúp
cho doanh nghiệp giảm được nhiều chi phí, tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng một
cách nhanh chóng. Bên cạnh đó phải linh hoạt trong thủ tục hành chính, cập nhật thông
tin, cập nhật chính sách quant lý vĩ mô của nhà nước... tạo thuận lợi cho việc tổ chức
thực hiện hợp đồng.
Mở rộng danh mục hàng hoá nhập khẩu.
Việc mở rộng danh mục hàng hoá nhập khẩu phải đi đôi với việc mở rộng ngành hàng,
phát triển thị trường, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Bên cạnh việc
xác định mặt hàngnhập khẩu nào là chủ yếu, truyền thống là thế mạnh của doanh nghiệp
là tập trung gia tăng về số lượng cũng như chất lượng và giữ gìn, phát triển thị trường
đó. Cần phải tìm kiếm và khai thác nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nước về các
loại hàng hoá khác. Từ đó doanh nghiệp nghiên cứu khả năng và tìm kiếm nguồn cung
cấp các loại hàng hoá đó trên thị trường thế giới trên cơ sở mối quan hệ và khả năng
của doanh nghiệp, lập phương án kinh doanh cho từng mặt hàng. Kinh doanh nhập khẩu

nhiều loại hàng hoá, vật tư sẽ có cơ sở chiếm lĩnh nhiều đoạn, nhiều khúc thị trường
khác nhau. Từ đó nâng cao được doanh số bán hàng của doanh nghiệp.
Thúc đẩy hoạt động khuyếch trương bán hàng.
Suy cho cùng thì việc doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu hàng hoá, vật tư có đạt hiệu
quả hay không là tuỳ thuộc vào việc hàng hoá, vật tư nhập về có tiêu thụ được hay
không. Để tổ chức tốt khâu bán hàng thì điều qua trọng phải thúc đẩy hoat động khuyếch
trương bán hàng, đó là một công cụ quan trọng trong chiến lược Marketing trong mỗi
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể sử dụng các chiến lược sau:
- Quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Làm tốt các hoạt động xúc tiến bán hàng như: Phát không các tài liệu liên quan đến
sản phẩm cho khách hàng, bán hàng kèm theo quà thưởng...
- Xây dựng tốt mối quan hệ quần chúng nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng như: Tổ
chức hội nghị khách hàng, hội thảo quốc tế, tiến hành các hoạt động tài trợ, từ thiện...
- Tổ chức dịch vụ sau bán hàng như: Doanh nghiệp cần cung cấp tư liệu kỹ thuật như
các bản hướng dẫn sử dụng, sơ đồ cấu tạo và các Catalogue hàng hoá, bảo hành bảo
dưỡng...
- Các điều kiện ưu đãi trong thanh toán.
- Sử dụng các kỹ thuật yểm trợ như: Mở rộng cửa hàng giới thiệu sản phẩm, tham gia
vào các hiệp hội kinh doanh, hội chợ triển lãm...

17/25


Mở rộng trị trường.
Kinh doanh trong cơ chế thị trường, chiếm lĩnh thị trường là yêu cầu quan trọng để phát
triển doanh nghiệp. Các doanh nghiệp bên cạnh việc duy trì và mở rộng thị trường chính
hiện có của mình, cần phải luôn luôn mở rộng thị trường kinh doanh, phân khúc thị
trường hợp lý nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, có
như vậy doanh nghiệp mới đạt hiệu quả kinh doanh cao. Bởi vì, thị trường đóng vai trò
hết sức quan trọng cho mỗi doanh nghiệp, thị trường là môi trường kinh tế-xã hội của

doanh nghiệp, là tấm gương để các doanh nghiệp nhận biết nhu cầu xã hội và đánh giá
kết quả kinh doanh của mình để thông qua đó doanh nghiệp có thể biết được nên kinh
doanh cái gì? Thị trường là nơi hình thành các mối quan hệ kinh tế của doanh nghiệp với
doanh nghiệp, của doanh nghiệp với toàn bộ nền kinh tế quốc dân... Đối với các doanh
nghiệp kinh doanh XNK thì việc mở rộngthị trường có nghĩa là đồng thời mở rộng cả
thị trường mua và thị trường bán.
Thị trường mua.
Việc mở rộng thị trường mua sẽ cho phép doanh nghiệp có nhiều thị trường khác nhau
để nhập khẩu một loại hàng hoá nhất định. Thị trường mua là một thị trường rất quan
trọng bởi vì trong đó hoạt động mua có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh chung
của doanh nghiệp: Hoạt động mua ảnh hưởng tới hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hoạt động
mua ảnh hưởng một cách trực tiếp tới hiệu quả hoạt động kinh doanh... Vì vậy, sự đa
dạng của thi trường mua sẽ cho phép doanh nghiệp tận dụng việc cạnh tranh trong cung
cấp hàng hoá, có cơ hội lựa chon nhà cung cấp; Doanh nghiệp thuận lợi trong việc quyết
định nhập khẩu loại hàng hoá, vật tư nào? của ai? mà thoả mãn được các yêu đặt ra như:
Chi phí thấp nhất, chất lượng hàng hoá cao, các điều kiện về thuế quan, thủ tục hải quan,
vận chuyển và các điều kiện ưu đãi về các dịch vụ khác; Doanh nghiệp cũng thuận lợi
trong việc thu hút người mua, nhằm tiêu thụ nhanh chóng, tốc độ quay vòng vốn nhanh
và đạt lợi nhuận cao. Để mở rộng thị trường nhập khẩu, doanh nghiệp cần thông qua
các tổ chức thương mại, tổ chức kinh doanh quốc tế, tổ chức tư vấn hoặc tự kiểm tra,
nghiên cứu để xác định xem có bao nhiêu nhà cung cấp cùng một loại hàng hoá, vật tư
trên cơ sở cân nhắc về chi phí vận chuyển, chất lượng hàng hoá, các điều kiện cơ sở giao
hàng, phong tục tập quán kinh doanh của thị trường... Từ đó, doanh nghiệp quyết định
nên nhập hàng từ thị trường nào là tối ưu, đồng thời xác định hợp tác làm ăn lâu dài nếu
thấy có lợi.
Thị trường bán.
Việc mở rộng thị trường bán sẽ cho phép doanh nghiệp gia tăng số lương hàng hoá nhập
khẩu, mở rộng danh mục hàng hoá nhập khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp, thúc đẩy gia tăng doanh số bán hàng, tăng lợi nhuận, nâng cao uy tín và vị trí
của doanh nghiệp. Thị trường bán đóng vai trò chủ yếu vì trong đó hoạt động bán hàng

có tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, biểu hiện: chỉ

18/25


có thông qua hoạt động bán hàng các doanh nghiệp mới có thể thực hiện được mục tiêu
của quá trình kinh doanh đề ra, chỉ có bán hàng mới nâng cao trách nhiệm của CBCNV
trong doanh nghiệp để từng bước cải thiện đời sông của họ. Bán hàng nhằm tăng thị
phần cho doanh nghiệp, mở rộng quy mô và phạm vi thị trường hàng hoá; Tối đa hoá
doanh thu và lợi nhuận; Bán hàng nhằm phục vụ khách hàng, góp phần vào việc thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng, phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đây chính là một khía
cạnh chức năng xã hội của doanh nghiệp và tự khẳng định vị trí của minh như một tế bào
của nền kinh tế quốc dân. Để mở rộng thị trường bán, các doanh nghiệp cần tập trung
vào một số biện pháp sau:
- Để tấn công sang thị trường của đối thủ cạnh tranh các doanh nghiệp cần phải tạo ra
ưu thế hơn hẳn cho sản phẩm của mình như: chất lượng, giá cả, các điều kiện mua bán
khác, phương thức thanh toán và hoạt động Marketing.
- Để mở rộng thị trường bán loại hàng hoá doanh nghiệp đang nhập khẩu, doanh nghiệp
cần phải điều tra, xác định đúng nhu cầu của thị trường về các loại hàng hoá đó một cách
linh hoạt như:
+ Với những hàng hoá , vật tư mà việc tiêu thụ thường được tiến hành theo các đơn đặt
hàng thì doanh nghiệp có thể xác định câù bằng cách cộng tất cả các khối lượng hàng
hoá đã được ký kết theo các mức giá bán, theo chủng loại và thời điểm tiêu thụ.
+ Với các doanh nghiệp đã biết được dung lượng thị trường và thị phần tương đối của
doanh nghiệp mình thì có thể xác định cầu bằng công thức:
Nhu cầu TT về hàng hoá của DN = Dung lượng thị trường * Thị phần DN
+ Trong trương hợp các doanh nghiệp không xác định được thị phần của doanh nghiệp
mình họ có thể xác định cầu hàng hoá bằng cách lấy dung lượng thị trường trừ đi phần
thị trường tương đối của các doanh nghiệp trong một ngành.
+ Đối với những hàng hoá mà đối tượng tiêu dùng đã được chỉ định có thể dựa vào quy

mô biên chế và định mức cho phép để xác định nhu cầu thị trường.
Sau khi đã xác định được nhu cầ thị trường sẽ xác định các đối tượng mua cầu sau đó
sử dụng các chính sách như: Giao tiệp khuyếch trương, ưu đãi trong thanh toán... để lôi
kéo khách hàng.
- Đối với những hàng hoá trong nước có nhu cầu tiêu dùng nhưng doanh nghiệp chưa
có điều kiện nhập hay chưa tham gia thì cần phải nhanh chóng tìm kiếm, khai thác
thị trường nhập khẩu hấp dẫn, tìm nhà cung cấp phù hợp, kết hợp với các hoạt động
Marketing để tiến hành nhập khẩu và tiêu thụ thử để dần dần thâm nhập thị trường hàng
hoá đó.

19/25


- Đối với những hàng hoá thị trường trong nước có nhu cầu nhưng chưa biết hoặc tiêu
thụ ít vì thiếu thông tin về hàng hoá hay không có khả năng thanh toán mà doanh nghiệp
có lợi thế về thị trường nhập khẩu thì cần áp dụng phương thức thanh toán linh hoạt,
cung cấp thông tin đầy đủ cho khách hàng có nhu cầu, kết hợp với các biện pháp kích
thích tiêu dùng để có chiến lược kinh doanh nhập khẩu hiệu quả.
Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý của doanh nghiệp.
Bộ máy tổ chức quản lý doanh nghiệp có anh hưởng một cách gián tiếp tơi hiệu quả của
hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Việc tổ chức bộ máy quản lý hợp lý, gọn
nhẹ, làm vịec có hiệu quả, các phong ban và các cán bộ của doanh nghiệp cùng hợp tác
chặt chẽ, tận tình trong các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh
nghiệp giảm được nhưngx chi phí không cần thiết, hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp được nhịp nhàng, công việc kinh doanh được hoàn thành tốt đảm bảo có hiệu
quả. Để hoàn thiện bộ máy quản lý cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Nguồn tài nguyên nhân sự: Đây là một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình
sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp ngày nay chịu tác động bởi
một môi trường đầy cạnh tranh và thách đố, điều quyết định hơn nhau hay không là do
phẩm chất, trình độ, sự gắn bó của công nhân viên đối với doanh nghiệp - nghĩa là các

nhà quản trị phải nhận thức và đề ra chiến lược quản trị tài nguyên nhân sự của mình một
cách có hiệu quả. Nguồn nhân lực cần phải thực sự có năng lực, có trình độ chuyên môn
cao, có phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với công việc và biết tạo bầu không khí văn
hoá lành mạnh cho doanh nghiệp. Đối với nhà quản trị phải biết “Dụng nhân như dụng
mộc”, tức là phải biết tuyển chọn đúng người có khả năng, bố chí họ vào chức vụ hoặc
công việc thích hợp và tuyển dụng phải đúng thời điểm cần thiết, tránh lãng phí về lao
động cũng như chi phí. Kế hoạch này kết hợp với chính sách tiền lương, động viên và
thang thưởng sẽ làm cho năng suất lao động cao, giá thành hạ, tinh thần công nhân viên
được nâng cao và là động lực để phát triển công ty. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải có
các khoá đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho CBCNV để nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho họ, mở rộng kiến thức về kinh tế, thương mại, thị trường, luật pháp... có
như thế đội ngũ lao động mới đáp ứng được đòi hỏi của công việc ngày càng khó khăn
phức tạp, thủ đoạn nghệ thuật kinh doanh ngày càng tinh vi, cơ chế quản lý cũng như
hệ thống pháp luật ngày càng chặt chẽ... nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiêp: Đây là một nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có nhiệm vụ vạch ra phương hướng, nhiệm vụ
kinh doanh và chịu trách nhiệm điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do
đó, bộ máy quản lý phải gọn nhẹ, linh hoạt , tránh tình trạng quản lý chồng chéo gây
phiền phức cho cấp dưới, làm chậm tiến độ SX-KD, lãng phí thời gian và chi phí. Các bộ
phận, phòng ban phải phối hợp chặt chẽ có hiệu quả trong công việc, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp hoàn thành hiệu quả công việc của mình. Các phòng ban có chức năng,

20/25


nhiệm vụ cũng như công việc liên quan với nhau cần phải phối hợp chặt chẽ để tiến độ
công việc được tiến hành một cách hiệu quả, chẳng hạn như: Phòng kinh doanh XNK,
phòng kinh doanh vật tư, phòng kế toán... Việc phối hợp giữa các phong ban này tốt sẽ
giúp cho doanh nghiệp thực hiện tốt công việc giao nhận, tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu,

đảm bảo chi phí, thu hồi vốn nhanh. Nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng
và hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn doanh nghiệp nói chung.
- Tổ chức bộ máy kinh doanh XNK: Đây là một công việc hết sức quan trọng có ảnh
hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Do tính
chất phức tạp của hoạt động nhập khẩu, phải tiến hành qua nhiều khâu, nhiều công đoạn,
các công đoạn lại có những đặc điểm riêng từ nghiên cứu thị trường, lạp phương án kinh
doanh, ký kết hợp đồng cho đến việc tiêu thụ hàng hoá. Vì vậy, cần phải phân công công
việcvà trách nhiệm cho các CBCNV một cách rõ ràng và hợp lý. Mỗi một bộ phận đảm
đương những công việc cụ thể và có trách nhiệm, quyền hạn riêng của bộ phận đó. Tiến
hành thực hiện công việc thông qua sự phối hợp giữa các bộ phận đó với nhau. Như vây,
điều này sẽ quyết định đến chất lượng nội dung của các hợp đồng như: Giá chào, giá
mua, chi phí giao dịch, các thiệt hại do chậm trễ, lưu kho, bến bãi, khiếu nại... Do đó
quyết định hiệu quả của từng hợp đồng.
Ngoài ra, các CBCNV trong phòng kinh doanh XNK phải nắm vững nghiệp vụ ngoại
thương, giao tiếp ứng xử tốt, biết vận dụng nghệ thuật xử thế trong đàm phán ký kết hợp
đồng, có đầu óc kinh tế và nhạy cảm với thị trường...
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một đòi hỏi tất yếu trong môi trường cạnh tranh
của nền kinh tế thị trường. Nó góp phần làm nâng cao hiệu quả hoạt động SX-KD của
doanh nghiệp. Bởi vì vốn là yếu tố đầu vào của quá trình SX-KD, nó quyết định đầu
ra và giá thành sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp thương mại, kinh doanh XNK thì
thường có đặc điểm là vốn cố định chiếm tỷ trọng nhỏ trong vốn SX-KD, trong đó vốn
lưu động quyết định đến hiệu quả kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Cho nên các doanh
nghiệp cần cố gắng duy trì một tỷ lệ thấp vốn cố định bằng việc hạn chế mua sắm các
tài sản cố định không cần thiết. Đối với vốn lưu động cần phải sử dụng và quản lý tốt.
Cần đẩy mạnh tốc độ luân chuyển vốn bằng việc đẩy nhanh tiến độ tiêu thụ hàng hoá
khi nhập khẩu về, ký kết các hợp đồng tiêu thụ, vạch kế hoạch tiêu thụ hàng hoá trước
khi nhập về, tránh việc hàng hoá bị ứ đọng. Đồng thời cần phải hoach định cân đối giữa
khả năng tiêu thụ và khối lượng hàng nhập để giảm chi phí tồn kho, dự trữ và phải có
biện pháp giải quyết thích hợp đối với hàng tồn kho. Để đáp ứng nhu cầu về vốn cho

hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải chú ý huy động vốn từ các nguồn khác
nhau tuỳ theo điều kiện của từng doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp nhà nước thì
bên cạnh nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp, các nguồn có thể bổ sung là: Quỹ đầu
tư phát triển doanh nghiệp trích từ l[ị nhuận, vốn từ liên doanh liên kết, vay tín dụng...

21/25


Việc sử dụng vốn vay: Đối với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại thì nhu cầu về
vốn lưu động không ổn định trong năm, có tháng nhu cầu vốn cao nhưng cũng có tháng
nhu cầu vốn lại thấp, vì vốn lưu động còn tuỳ thuộc vào nhu cầu nhập khẩu hàng hoá,
vật tư trong từng thời kỳ. Do đó, doanh nghiệp cần phải lập kế hoạch dự kiến nhu cầu
vốn lưu động một cách chi tiết để biết rõ nhu cầu về vốn trong từng thời kỳ. Từ đó có
kế hoạch vay vốn và xác định kỳ hạn đối với từng loại vốn vay, các doanh nghiệp này
cần cố gắng rút ngắn kỳ hạn các khoản vay, để tiện lợi cho việc chuyển đổi vốn và giảm
lãi suất phải trả, tránh hiện tượng nhu cầu vốn không cần thiết trong khi vẫn phải trả lãi
suất vay vốn.
Các doanh nghiệp kinh doanh XNK nhiều khi có được cơ hội kimh doanh tốt nhưng
đồng thời đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, chẳng hạn như nhận được Quota nhập khẩu,
hợp đồng kinh tế hoặc khi thị trường có nhiều biến động về giá cả, khi doanh nghiệp
muốn nhập khẩu với số lượng lớn nhằm mục đích cạnh tranh. Đây là cơ hội hứa hẹn
doanh nghiệ thu được lợi nhuận cao trong kinh doanh. Do vậy, doanh nghiệp cần phải
dự kiến các nguồn vốn có thể huy động trong trường hợp cần thiết, tránh trường hợp
phải bỏ lỡ cơ hội kinh doanh vì thiếu vốn.
Như vậy, sử dụng hiệu quả nguồn vốn của doanh nghiệp và tối thiểu hoá được lãi suất
tiền vay của ngân hàng hay các tổ chức tài chính khác sẽ cho phép doanh nghiệp đạt
được hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu vật tư, thiết bị, nhằm phát
triển hoạt động kinh doanh của toàn doanh nghiệp.

22/25



Tham gia đóng góp
Tài liệu: Những vấn đề chung về hoạt động nhập khẩu tại các doanh nghiệp
Biên tập bởi: Nguyễn Cảnh Hiệp
URL: />Giấy phép: />Module: Khái niệm về nhập khẩu
Các tác giả: Nguyễn Cảnh Hiệp
URL: />Giấy phép: />Module: Đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Các tác giả: Nguyễn Cảnh Hiệp
URL: />Giấy phép: />Module: Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Các tác giả: Nguyễn Cảnh Hiệp
URL: />Giấy phép: />Module: Phân loại nhập khẩu
Các tác giả: Nguyễn Cảnh Hiệp
URL: />Giấy phép: />Module: Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Các tác giả: Nguyễn Cảnh Hiệp
URL: />Giấy phép: />Module: Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Các tác giả: Nguyễn Cảnh Hiệp
URL: />
23/25


×