Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Một số vấn đề về thuế thu nhập cá nhân ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.56 KB, 65 trang )

Lời nói đầu
Việt Nam đang đi trên con đờng đổi mới và hội nhập với nền kinh tế
thế giới. Những qui luật kinh tế khách quan và tất yếu đang từng giờ, từng
phút điều chỉnh nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của từng khu vực, từng
quốc gia và bản thân mỗi chúng ta. Chúng ta cần phải hiểu các qui luật đó
và tự điều chỉnh bản thân cho phù hợp với diễn biến của qui luật. Quá trình
mở cửa, hội nhập kinh tế trong khu vực tiến đến toàn cầu hóa nền kinh tế
đang dần chứng tỏ là một qui luật của loài ngời tiến bộ. Để bắt kịp với quá
trình này thì mỗi quốc gia phải liên tục có những cải cách nhằm làm phù
hợp và thích nghi với môi trờng bên ngoài. Trong công cuộc cải cách đó, cải
cách về thuế luôn đợc các quốc gia đặc biệt chú trọng bởi tầm quan trọng
của nó đối với sự phát triển và ổn định lâu dài về mọi mặt của mỗi quốc gia.
Khái niệm cạnh tranh về thuế giữa các quốc gia lớn trên thế giới đã xuất
hiện trong một hai thập kỉ gần đây đã khiến cho các quốc gia còn lại cũng
phải liên tục tiến hành cải cách thuế nhằm tăng cờng sức cạnh tranh trên
các lĩnh vực thơng mại mậu dịch, lực lợng lao động...
Đối với Việt Nam trong thời gian tới, khi Hiệp định về thuế quan
AFTA, Hiệp định thơng mại Việt-Mỹ và tiếp tục sau khi Việt Nam đợc gia
nhập WTO phát huy hiệu lực thì những biến đổi về cơ cấu thuế và nguồn
thu ngân sách sẽ là một điều không thể tránh khỏi. Nhận thức đợc điều đó,
nớc ta đã và đang tiến hành cuộc cải cách nhằm hoàn thiện hệ thống thuế
còn nhiều thiếu sót để có thể theo kịp và bắt nhịp với tốc độ phát triển kinh
tế của các nớc trong khu vực và thế giới, đồng thời cũng có thể đạt đợc các
mục tiêu về kinh tế-xã hội-chính trị mà Nhà nớc đã đề ra.
Trong mời năm gần đây, hệ thống thuế nớc ta đã có rất nhiều thay
đổi; nhiều sắc thuế mới đã ra đời, các sắc thuế có từ trớc cũng đợc sửa đổi
nhằm thích nghi với điều kiện mới. Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân ra đời
năm 1991, cho đến nay qua năm lần sửa đổi, bổ sung và hiện nay Chính
phủ đang nghiên cứu nhằm xây dựng thành Luật thuế thu nhập cá nhân là
một trong những minh chứng cho công cuộc cải cách thuế của Việt Nam.
Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế trực thu có vai trò hết sức


quan trọng. Nó đã ra đời tơng đối sớm ở các nớc phát triển và ngày nay thì
phát triển rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự phát triển của nó
đồng hành với sự phát triển của nền kinh tế. Điều đó đã đợc khẳng định khi
nhìn vào lịch sử phát triển thuế thu nhập cá nhân ở các nớc phát triển. Việt
1


Nam đang trên con đờng phát triển và thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế
không thể thiếu đợc. Nó sẽ sớm khẳng định đợc vai trò và chức năng của
mình là một nguồn thu quan trọng trong ngân sách nhà nớc và là công cụ
góp phần đảm bảo công bằng xã hội một cách đắc lực. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu và hoàn chỉnh pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân, đồng thời sớm
xây dựng thành Luật thuế thu nhập cá nhân là một việc làm cần thiết từ bây
giờ.
Là một sinh viên chuyên ngành Tài chính công-Thuế, em rất mong
muốn đợc tìm hiểu và nghiên cứu về thuế. Đề tài Một số vấn đề về

thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam mà em dự định nghiên cứu sẽ là
một cơ hội tốt cho em để đợc nghiên cứu sâu hơn về thuế, trong đó đặc biệt
là thuế thu nhập cá nhân. Em hi vọng sau khi viết đề tài này, với sự giúp đỡ
của cô giáo hớng dẫn em là TS. Nguyễn Thị Bất và các cô chú trên Tổng
cục thuế, nơi em thực tập, em sẽ bổ sung và hoàn chỉnh hơn nữa những kiến
thức và hiểu biết của mình về thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói
riêng.

2


Chơng 1
Thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế

thu nhập cá nhân
1.1

Các vấn đề cơ bản của thuế thu nhập cá nhân

1.1.1 Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế trực thu đánh trên thu
nhập của các cá nhân trong từng thời kì.
Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế xuất hiện tơng đối sớm. Lần
đầu tiên nó xuất hiện ở nớc Anh vào năm 1799. Đầu tiên nó đã bị phản đối
rất nhiều, bản thân thủ tớng nớc Anh William Pitt năm 1798 đã từng nói
Thật là nhục nhã và xấu hổ đối với cơ quan thuế và hình ảnh của một quốc
gia khi bắt một quí ông hay một quí cô phải nói với ai đó về thu nhập của
họ. Nhng chỉ một năm sau thì chính ông đã phải thay đổi quan điểm, và
thuế thu nhập cá nhân đã ra đời. ở Mỹ, thuế thu nhập cá nhân đã xuất hiện
trong thời kì chiến tranh 1812, và nó cũng dựa vào điều luật thuế của nớc
Anh năm 1798. Sau 1815, nó lại bị xoá bỏ ở Mỹ do Nhà nớc không có nhu
cầu tăng thu ngân sách. Nhng cho đến năm 1862, thuế thu nhập cá nhân lại
quay trở lại nớc Mỹ sau khi Bộ luật thuế 1862 đợc tổng thống Licoln phê
chuẩn, nó nhằm mục đích cung cấp nguồn tài chính cho cuộc nội chiến của
nớc Mỹ1. ở một số nớc khác thuế thu nhập cá nhân cũng xuất hiện từ khá
sớm, nớc Nhật năm 1887,Trung Quốc năm 1936 còn Hàn Quốc thì loại thuế
này ra đời muộn hơn vào năm 19742. Vậy thuế thu nhập cá nhân là gì, nó có
những đặc điểm và vai trò gì mà khiến các quốc gia đặc biệt quan tâm và đa
nó thành một sắc thuế trong hệ thống thuế?
1.1.2 Các loại hệ thống thu thuế thu nhập cá nhân
Hệ thống thuế thu nhập cá nhân thờng đợc tổ chức theo hai mô
hình: hệ thống tổng thể ( global system ) và hệ thống riêng biệt ( schedular
system ).
Hệ thống tổng thể: sử dụng một thuế suất để tính nghĩa vụ thuế cho

thu nhập từ các nguồn khác nhau. Tạo điều kiện cho công bằng dọc.

1
2

Nguồn: History of Taxation- www.tax.org
Nguồn: Giáo trình quản lý thuế-ĐHKTQD, trang 105

3


Hệ thống riêng biệt: sử dụng các thuế suất khác nhau cho thu nhập từ
các nguồn khác nhau
Hầu hết các quốc gia đều chọn hệ thống tổng thể.
Tuy nhiên trong một số trờng hợp hệ thống riêng biệt cũng có thể đợc
vận dụng kết hợp, nhằm đảm bảo tính linh hoạt cao hơn và có ảnh hởng đến
những động cơ khuyến khích thúc đẩy tăng trởng kinh tế hay phù hợp với
yêu cầu quản lí đặc thù riêng biệt của từng nguồn thu nhập.
Về cơ sở của việc tính thuế: để hớng đến mục tiêu công bằng dọc,
các nớc thờng qui định thu nhập bình quân làm căn cứ tính thuế theo 2 cơ
sở:
Thu nhập bình quân chịu thuế đợc xác định theo từng cá nhân. Mỗi
cá nhân đợc chọn làm cơ sở tính thuế. Cách tính đơn giản, dễ áp dụng
những mục tiêu công bằng đạt đợc cha cao. Các nớc áp dụng theo cách tính
này, thờng kèm theo các qui định khấu trừ hay chớc giảm theo gia cảnh một
số chi phí nhất định cho việc thực hiện nghĩa vụ đối với gia đình.
Thu nhập bình quân chịu thuế xác định theo hộ gia đình. Thu nhập
bình quân/ngời/hộ gia đình sẽ là thu nhập tính thuế. Số thuế thu sẽ sát với
khả năng nộp thuế của các cá nhân và qua đó mục tiêu công bằng có khả
năng đạt đợc nhiều hơn. Tuy nhiên, cách thu này hoàn toàn không đơn giản

và đòi hỏi nhiều điều kiện mới có thể tổ chức quản lí thu tốt.
1.1.3 Đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân
Thu nhập chịu điều tiết của thuế sẽ căn cứ vào cụ thể nguồn gốc phát
sinh của các khoản thu nhập và căn cứ vào đặc điểm c trú hay một số đặc
điểm khác tuỳ theo luật của từng nớc. Thông thờng các nớc vẫn sử dụng
nguyên tắc c trú để đánh thuế thu nhập cá nhân. Quan niệm về nơi c trú
giữa các quốc gia gần nh là tơng đồng. Nó có những nội dung cơ bản sau:
(i) có nơi ở chính tại quốc gia đó hoặc có thời gian sống ở đó từ 183 ngày
trở lên hoặc lâu hơn những nơi khác. Thời gian này có thể thay đổi theo qui
định của từng quốc gia (ii) Hành nghề chính tại quốc gia đó, tức là phần lớn
thu nhập của đối tợng đợc tạo ra từ những hoạt động này (iii) Có trung tâm
lợi ích kinh tế tại quốc gia đó, tức là có phần vốn đầu t chủ yếu hoặc có trụ
sở hoạt động ở quốc gia đó. Thu nhập chịu thuế bao gồm tất cả các khoản
thu nhập theo qui định của Nhà nớc sau đó đợc khấu trừ đi các khoản chi
phí khác đợc phép khấu trừ theo qui định của Nhà nớc. Nhà nớc sẽ có một
danh mục các khoản thu nhập mà phải tính vào thu nhập chịu thuế, đồng
4


thời sẽ có một danh mục khác liệt kê các chi phí đợc phép khấu trừ khỏi thu
nhập chịu thuế trớc khi tính thuế. Ví dụ ở Pháp thì ngời ta chia ra làm tám
loại thu nhập. Ta có thể kể tóm tắt ở đây: thu nhập từ cho thuê bất động sản;
thu nhập từ tiền lơng...; thu nhập từ hoạt động sản xuất công nghiệp và thơng mại; thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp; thu nhập của một số
lãnh đạo doanh nghiệp; thu nhập từ hoạt động phi thơng mại; thu nhập từ
bán tài sản; thu nhập từ đầu t động sản. Còn ở Việt Nam, ngời ta chia thu
nhập chịu thuế ra làm hai loại là thu nhập thờng xuyên và thu nhập không
thờng xuyên; trong đó thu nhập thờng xuyên có năm loại thu nhập chịu thuế
và thu nhập không thòng xuyên có sáu loại thu nhập chịu thuế. Ta sẽ trình
bày chi tiết hơn về nội dung thuế của Việt Nam ở chơng sau. Ngoài ra, có
những trờng hợp các cá nhân có thu nhập phát sinh ở nớc ngoài mà đã nộp

thuế một phần ở nớc ngoài, thì khi đó việc khấu trừ thuế nộp ở trong nớc sẽ
phụ thuộc vào hiệp định kí kết giữa quốc gia đó và bên nớc ngoài về việc
tránh đánh thuế trùng. Các đối tợng không c trú tại quốc gia đó thì sẽ chỉ có
nghĩa vụ nộp thuế TNCN đối với phần thu nhập phát sinh tại quốc gia đó.
Do đối tợng nộp thuế đồng thời cũng chính là đối tợng chịu thuế nên
thuế thu nhập cá nhân đợc xếp vào loại thuế trực thu. Phạm vi điều chỉnh
của luật thuế thu nhập cá nhân là rất rộng lớn và do đặc điểm đối tợng chịu
thuế trực tiếp phải nộp thuế nên sức ảnh hởng của nó đối với nền kinh tế và
thái độ của dân c là hết sức to lớn. Không giống nh các loại thuế gián thu,
ví dụ thuế tiêu dùng, khoản thuế đợc tính sẵn trong giá thanh toán nên nó
không ảnh hởng nhiều đến tâm lí của ngời mua về khoản thuế mình phải
nộp, thuế trực thu có thể hiểu bóng bẩy là Nhà nớc trực tiếp thò tay vào túi
chúng ta và lấy tiền của ta ra, điều đó chắc chắn sẽ có ảnh hởng mạnh về
tâm lí của ngời nộp thuế. Chính vì vậy, mỗi khi chính phủ có những thay
đổi trong chính sách thuế TNCN nh việc điều chỉnh thuế suất và thay đổi
phạm vi các đối tợng đợc miễn giảm thuế thì đều gây ra những phản ứng
mạnh mẽ trong dân c. Ví dụ ở Mỹ vừa qua, khi tổng thống George Bush
quyết định giảm mức lãi suất thuế TNCN từ nay cho đến năm 2006 và giảm
dần các đối tợng đợc miễn giảm thuế, nó lập tức đã gây ra những phản ứng
rất gay gắt. Bởi vì họ cho rằng sự giảm thuế suất thì chỉ nhằm vào các bậc
thuế ở mức thu nhập cao, tức là nó đem lại lợi ích cho tầng lớp giàu có và
vó thu nhập cao trong xã hội, còn đối với tầng lớp dân c có mức thu nhập
trung bình và thấp thì chính sách thuế của Tổng thống dờng nh không đem
lại cho họ điều gì. Mà nó cũng đồng nghĩa với việc nguồn thu ngân sách
5


chính phủ có thể giảm đi, các hoạt động mang tính phúc lợi xã hội mà chủ
yếu nhằm hỗ trợ ngời nghèo do đó cũng sẽ giảm đi. Hoặc ngay nh tại Việt
Nam, khi Pháp lệnh thuế TNCN lần đầu tiên đi vào thực hiện 1-4-1991, các

cá nhân ngời nớc ngoài làm việc và có thu nhập phát sinh tại Việt Nam
phản ứng cũng khá quyết liệt khi thấy rằng thuế suất thuế TNCN đối với họ
là quá cao, do lúc đó thu nhập trung bình của nớc ta vẫn còn thấp còn trong
khi đó lơng trả cho các chuyên gia nớc ngoài thì cao hơn nhiều so với trong
nớc. Sau này,chúng ta đã phải liên tục sửa đổi bổ sung nội dung pháp lệnh
nhằm đảm bảo phù hợp hơn. Tuy nhiên cho đến nay, sau năm lần sửa đổi bổ
sung nội dung pháp lệnh thì chúng ta vẫn còn nhiều điều phải bàn. ở đây, ta
muốn khẳng định lần nữa là thuế TNCN mang đặc điểm là loại thuế trực thu
và phạm vi điều tiết rất rộng nên nó có ảnh hởng rất mạnh đến tâm lí của
dân c.
Thuế thu nhập cá nhân thông thờng là loại thuế lũy tiến. Các nớc thờng
xây dựng một biểu thuế luỹ tiến, các bậc ứng với mức thu nhập càng cao thì
có mức thuế suất biên càng cao. Do đó những ngời có thu nhập càng cao thì
phải chịu mức thuế đóng góp cao hơn so với những ngời có mức thu nhập
thấp hơn. Nó góp phần đảm bảo tính chất công bằng trong phân phối xã hội,
công bằng ở đây là công bằng theo chiều dọc. Biểu thuế luỹ tiến đợc xây
dựng căn cứ vào nguyên tắc đánh thuế dựa vào khả năng nộp thuế của các
cá nhân khác nhau. Những ngời có thu nhập cao thì có nhiều khả năng nộp
thuế cao hơn những ngời có thu nhập thấp và ngợc lại. T tởng đánh thuế dựa
vào khả năng nộp thuế của Nhà vua Writ3- vị vua nớc Anh vào thế kỉ thứ
17- đã là cơ sở cho sự phát triển rất sớm của các biểu thuế luỹ tiến. Khoảng
cách tơng đối giữa các bậc thuế suất sẽ quyết định tính chất luỹ tiến mạnh
hay yếu của biểu thuế. Khoảng cách này mà càng lớn thì mức độ lũy tiến
của biểu thuế càng cao và ngợc lại.
Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế phức tạp và mang tính trung lập
đối với cơ cấu kinh tế. Do đặc điểm là điều tiết lên thu nhập của dân c,
phạm vi điều tiết rất rộng nên việc quản lý đối với loại thuế này là hết sức
khó khăn. Nó dễ gây phản ứng của ngời nộp thuế. Đồng thời do tính chất
phân tán và động của đối tợng chịu thuế và nguồn thuế nên công tác quản lí
thu rất khó khăn. Chính vì đặc điểm này mà chi phí hành thu của thuế thu

nhập cá nhân rất cao.Ngoài ra, nó điều tiết lên thu nhập chứ không phải là
lên tiêu dùng nên nó không có tác động trực tiếp đối với một ngành kinh tế
3

Nguồn: www.taxworld.org: History of taxation

6


cụ thể nào cả. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách sâu sắc thì thuế thu nhập cá
nhân vẫn có những tác động nhất định đối với cơ cấu nền kinh tế. Thuế thu
nhập cá nhân đợc sử dụng nh là một công cụ thuế đắc lực trong chính sách
tài khóa quốc gia, nó ảnh hởng đến tổng cầu nền kinh tế, do đó nó cũng có
những ảnh hởng nhất định đối với cơ cấu kinh tế.
1.1.4 Vai trò của thuế thu nhập cá nhân
Nền kinh tế ngày càng phát triển, mức sống ngời dân càng cao thì thuế
thu nhập cá nhân ngày càng góp phần quan trọng trong nguồn thu ngân
sách Nhà nớc. Chúng ta biết rằng thuế thu nhập cá nhân thu đợc dựa vào
mức thu nhập của dân c. Thu nhập của dân c càng cao thì nó cũng đồng
nghĩa với mức thu từ thuế TNCN sẽ tăng. Điều đó chỉ có thể có đợc khi nền
kinh tế có tốc độ tăng trởng kinh tế cao, GDP lớn. Thông thờng, ở những nớc càng phát triển thì tỉ trọng đóng góp của thuế trực thu càng lớn, trong đó
thuế TNCN chiếm tỉ trọng khá cao. Ta có thể thấy đợc điều đó qua số liệu
một số nớc phát triển trong khối OECD năm 1980 tỉ lệ thuế thu nhập cá
nhân của các nớc trong khối OECD là 10,9% GDP, trong khi đó tỉ lệ này
vào năm 1995 là 10,4%4. Ta cũng có thể xem cấu trúc thuế trong khối
OECD từ năm 1980-1995 để từ đó thấy đợc vai trò của thuế thu nhập cá
nhân trong nguồn thu ngân sách chính phủ hàng năm ở những nớc phát
triển.
Bảng 1- Thay đổi cấu trúc thuế trong khối OECD từ 1980-1995
Đơn vị tính:%

Sắc thuế
1980
1985
1990
1995
Thuế thu nhập cá nhân
32
30
30
27
Thuế thu nhập công ti
7
8
8
8
Bảo hiểm xã hội
25
25
25
25
Thuế tài sản
5
5
5
5
Thuế tiêu dùng chung
14
16
17
18

Thuế hàng hóa và DV khác
17
16
15
15
(Nguồn OECD Revenue Statistic)

Còn ở những nớc đang phát triển, đời sống ngời dân cha cao, thu nhập
trung bình mới chỉ đủ cho các hoạt động sinh hoạt cần thiết của ngời dân và
tiết kiệm ra một phần nhỏ. Số lợng những ngời có thu nhập cao, giàu có
trong xã hội thì chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong xã hội, đại bộ phận dân c
là có thu nhập và mức sống còn thấp so với dân c các nớc phát triển. Chính
vì vậy, khả năng đóng góp thuế TNCN cho Nhà nớc ở các nớc đang phát
4

Nguồn: Tài chính tháng 5/2001

7


triển vẫn còn rất thấp. Ví dụ ở Trung Quốc là một nớc đang phát triển nhng
có mức độ phát triển cao thì thuế TNCN chỉ chiếm 13,4% năm 1994 và
16,3% năm 1996 tổng số thu; trong khi đó nguồn thuế TNCN ở Mỹ đạt xấp
xỉ 48% năm 1994 trên tổng số thu các loại thuế và phí; còn ở nớc ta thì con
số này là 0,87% năm 19945. Nhìn vào số liệu, ta có thể thấy rằng thuế
TNCN thu đợc tỉ lệ thuận với mức độ phát triển của nền kinh tế, với thu
nhập trung bình của dân c. Thuế TNCN do đó tất yếu sẽ dần trở thành một
nguồn thu quan trọng hàng đầu trong nguồn thu ngân sách nhà nớc.
Thuế thu nhập cá nhân góp phần tăng tỉ lệ tiết kiệm quốc gia, tạo điều
kiện tăng đầu t và thúc đẩy tăng trởng kinh tế. Ta biết rằng mỗi một đơn vị

thu nhập bao gồm hai phần: đơn vị tiêu dùng và phần còn lại là đơn vị tiết
kiệm. Khi bạn có thu nhập là một triệu đồng, bạn phải nộp thuế giả sử là
100.000, bạn còn lại 900.000 trong đó bạn tiêu dùng hết 800.000 còn
100.000 bạn dành tiết kiệm. Nếu nh không có thuế thu nhập cá nhân, bạn
có quyền tiêu dùng 850.000 và tiết kiệm 150.000; Nếu nh khoản thuế nộp
không sử dụng trong chi tiêu chính phủ thì có nghĩa là tiết kiệm quốc gia
trong trờng hợp trớc là 200.000 (100.000+100.000); còn ở trờng hợp sau thì
tiết kiệm quốc gia chỉ là 150.000 bằng chính với tiết kiệm khu vực t nhân.
Khi tiết kiệm tăng thì sẽ có nhiều nguồn vốn hơn dành cho đầu t vào trang
thiết bị máy móc. Theo phân tích mô hình của nhà kinh tế học Solow thì tỉ
lệ tiết kiệm quốc gia có ảnh hởng vô cùng quan trọng trong tăng trởng và ổn
định kinh tế lâu dài. Nó cung cấp nguồn vốn để đầu t vào máy móc, thiết bị,
nhà xởng, hay nghiên cứu khoa học để có thể tăng sản lợng trong tơng lai.
Nhật Bản là minh chứng rõ nét nhất cho thấy ảnh hởng của tiết kiệm đối với
sự phát triển kinh tế. Việc sử dụng thuế TNCN là một công cụ điều tiết giữa
tiêu dùng và tiết kiệm, tránh những tiêu dùng xa hoa mà thay vào đó là đầu
t vào t bản và con ngời, sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế lâu dài.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là càng tăng thuế TNCN thì sẽ càng tăng
tỉ lệ tiết kiệm quốc gia. Chúng ta cũng đã đề cập ở trên là thuế thu nhập cá
nhân có ảnh hởng mạnh đến tâm lí và phản ứng của dân c. Nếu chúng ta cố
gắng duy trì mức thuế suất thuế TNCN cao thì sẽ không khuyến khích ngời
lao động tham gia sản xuất kinh doanh. Sở dĩ nh vậy là vì ngời lao động
cảm thấy khi họ lao động vất vả để kiếm tiền thì ngay sau khi nhận tiền họ
đã phải trả một phần lớn thu nhập đó cho Nhà nớc. Do đó họ sẽ không còn
động lực cao trong lao động và kiếm tiền. Đây cũng là một nguyên nhân để
5

Nguồn: Nghiên cứu Tài chính kế toán số 52

8



giải thích tại sao một số nớc Bắc Âu nh Thụy Điển, nơi mà có mức điều tiết
thu nhập giữa ngời giàu và ngời nghèo cao, trong xã hội có mức phúc lợi
cao trên thế giới thì hiện nay lại tụt hậu về kinh tế hơn so với một số nớc
Tây Âu, nơi mà sự điều tiết về thu nhập không mạnh mẽ bằng; điều tơng tự
cũng xảy ra giữa Mỹ và Canada. Theo các nhà kinh tế giải thích thì một
phần nguyên nhân là do việc điều tiết thu nhập của ngời có thu nhập cao
quá lớn đã dẫn đến mất động lực của ngời lao động hoặc ngời lao động sẽ
chuyển sang làm việc ở những nớc khác có mức thuế TNCN thấp hơn. Do
đó, năng suất lao động đã không tăng mạnh nh đáng lẽ nó có thể. Chúng ta
cần có một mức thuế suất vừa phải và hợp lí để đảm bảo việc tăng tỉ lệ tiết
kiệm quốc gia nhng đồng thời vẫn duy trì đợc nỗ lực và động cơ làm việc
của ngời lao động.
Thuế thu nhập cá nhân góp phần đảm bảo tính công bằng và giảm bớt
sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Một chức năng quan trọng của thuế là
nhằm đảm bảo tính công bằng và giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo trong xã
hội. Trong các loại thuế thì thuế TNCN thể hiện rõ nét nhất vai trò này. Do
đặc điểm là thuế đánh trên thu nhập của các cá nhân cùng với tính chất luỹ
tiến của thuế TNCN đã thu hẹp đợc khoảng cách về thu nhập giữa các cá
nhân có mức thu nhập cao và các cá nhân có mức thu nhập thấp. Đây là
quan điểm công bằng theo chiều dọc, những ngời có khả năng nộp thuế
càng cao thì sẽ nộp nhiều thuế hơn và ngợc lại. Nó khác so với quan điểm
công bằng theo chiều ngang là tất cả mọi ngời sẽ nộp thuế cùng với một tỉ
lệ nh nhau. Các khoản thuế thu đợc sau đó có thể đợc chính phủ sử dụng để
trợ giúp lại những ngời có mức thu nhập thấp. Trên lí thuyết đây là một loại
thuế rất u việt trong việc điều hòa thu nhập giữa ngời giàu và ngời nghèo.
Tuy nhiên trên thực tế nó vẫn còn gây rất nhiều tranh cãi giữa các nhà kinh
tế. Khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày càng mở rộng hơn. Ngời ta
đặt ra câu hỏi là liệu chính sách thuế TNCN có thực sự đem lại sự phân phối

công bằng hơn cho xã hội hay là nó không có tác dụng gì cả hay nếu có thì
là không đáng kể. Và một vấn đề nữa cũng đợc đem ra tranh cãi giữa các
nhà kinh tế về tính công bằng của chính sách thuế. Ngời ta đặt câu hỏi là
liệu hiệu quả công bằng mà chính sách thuế đem lại có xung đột với hiệu
quả kinh tế hay không. Chúng ta đã biết rằng bất cứ một hoạt động nào
cũng chứa đựng trong nó hai tác dụng; tác dụng hiệu quả kinh tế và tác
dụng về hiệu quả công bằng. Hiệu quả kinh tế là việc sử dụng tối u nhất các
nguồn lực của xã hội mà từ đó có thể tạo ra tổng lợi ích cho xã hội là lớn
9


nhất, còn hiệu quả công bằng quan tâm đến việc phân phối tổng lợi ích xã
hội đã thu đợc cho các thành viên trong xã hội. Giữa hiệu quả kinh tế và
hiệu quả công bằng thờng xảy ra những mâu thuẫn đối nghịch, đợc cái này
thì phải hi sinh cái còn lại. Chính vì vậy, đối với các nớc đang phát triển, bài
toán đợc đặt ra là nên đa vấn đề nào lên u tiên, hiệu quả kinh tế hay công
bằng. Các nớc chấp nhận một cái bánh to và chia không đều hay một cái
bánh nhỏ và chia đều? Để đánh giá hiệu quả kinh tế thì ngời ta có nhiều
công cụ để tính toán, nhng để đánh giá hiệu quả công bằng thì là một vấn
đề hết sức khó khăn vì bản thân nó đã là một khái niệm trừu tợng. Thế nào
là công bằng? Rất khó có thể đa ra một định nghĩa hoàn chỉnh để tất cả mọi
ngời thống nhất. Bạn trồng trong vờn của mình một vờn hoa rất đẹp và rất
thơm, rất nhiều ngời trầm trồ khen ngợi vờn hoa của bạn và mỗi buổi chiều
thờng sang vờn hoa nhà bạn để thởng thức. Nhng có một ngời hàng xóm
của bạn bị bệnh về đờng hô hấp sang phàn nàn với bạn rằng hơng hoa nhà
bạn làm anh ta cảm thấy khó chịu và đòi bạn phá vờn hoa đó đi. Câu hỏi đặt
ra là bạn nên để nguyên đó hay phá vờn hoa đi, có cách lựa chọn nào là
công bằng không? Vấn đề công bằng càng trở nên phức tạp hơn khi phân
tích về chính sách thuế TNCN. Ngời có thu nhập cao thắc mắc tại sao họ
phải đóng thuế nhiều hơn những ngời có thu nhập thấp hơn họ. Họ nói rằng

bởi vì tôi lao động nhiều hơn, hoặc trớc đây tôi phải vất vả học hành, bỏ chi
phí thời gian và tiền của để có thể làm đợc những công việc đòi hỏi trình độ
hơn, do đó tôi có thu nhập cao hơn những ngời lời lao động hoặc không
chịu khó vơn lên là điều tất nhiên. Do đó tiền thuế thu nhập mà mọi ngời
phải đóng phải là nh nhau. Cách giải thích này cũng hoàn toàn có cơ sở của
nó. Nhng ngợc lại, ngời có thu nhập thấp lại lí luận rằng vì tôi không có cơ
hội nhận đợc việc làm tốt, vì trớc đây gia đình tôi khó khăn nên tôi không
có điều kiện đi học đại học... những ngời có thu nhập cao hơn là do họ có
những điều kiện thuận lợi và may mắn hơn tôi, do đó cần phải lấy một phần
thu nhập của họ để hỗ trợ chúng tôi bù đắp vào sự không may mắn và
không thuận lợi mà chúng tôi đã gặp phải. Lí luận của những ngời này cũng
không sai. Nếu cho họ mọi điều kiện y hệt nh ngời có thu nhập cao thì họ
chắc sẽ cũng có một mức thu nhập tơng tự. Vậy cách đánh thuế nh thế nào
là công bằng? Liệu chính sách thuế thu nhập theo biểu thuế lũy tiến đã là
công bằng với những ngời có thu nhập cao hay cha? Và biểu thuế lũy tiến
với các bậc thuế nh vậy đã là công bằng hay cha? Các chính phủ đều chấp
nhận và coi một biểu thuế lũy tiến là công bằng hơn cho tất cả, tất nhiên nó
10


cũng phải hi sinh quyền lợi của một số ít để đảm bảo quyền lợi số đông.
Việc điều chỉnh mức thuế suất thuế thu nhập sẽ là công cụ để chính phủ
điều chỉnh mức công bằng lệch về phía nào, ngời có thu nhập cao hay ngời
có thu nhập thấp. Chúng ta cần phải hiểu ở đây ý nghĩa công bằng chỉ là
mang tính tơng đối, nó công bằng cho một bộ phận dân c nhng nó cũng là
không công bằng cho một bộ phận dân c khác. Chính sách thuế TNCN đợc
xây dựng nhằm mục đích là đem lại sự công bằng cao nhất cho xã hội trong
điều kiện có thể, tất nhiên là nó cũng cần phải đảm bảo các mục tiêu khác
của xã hội.
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế đợc các Chính phủ ở các nớc phát

triển sử dụng rộng rãi trong việc điều hành chính sách tài khoá và các
chính sách kinh tế khác. Do thuế TNCN chiếm một phần lớn nguồn thu
ngân sách Nhà nớc, đồng thời nó ảnh hởng trực tiếp đến quyết định tiêu
dùng và tiết kiệm của dân c nên nó có vai trò hết sức quan trọng trong chính
sách tài khóa của chính phủ các nớc. Chính sách tài khóa của chính phủ là
chính sách sử dụng chi tiêu chính phủ và thuế là hai công cụ cơ bản để điều
chỉnh tổng cầu của nền kinh tế, khi nền kinh tế suy thoái thì chính phủ có
thể tăng chi tiêu hoặc giảm thuế để từ đó kích cầu và đa nền kinh tế tăng trởng trở lại; còn khi nền kinh tế đang ở thời kì phát triển quá nóng so với
mức bình thờng thì chính phủ lại giảm chi tiêu của mình hoặc tăng thuế để
làm giảm tổng cầu. Chính phủ có thể điều chỉnh các loại thuế khác nhau
căn cứ theo diễn biến chu kì kinh doanh, nhng loại thuế đợc điều chỉnh chủ
yếu vẫn là thuế thu nhập, có thể là thuế thu nhập công ti hoặc thuế thu nhập
cá nhân. Mức sản lợng của nền kinh tế tơng ứng với tổng mức thu nhập của
chính nó, do đó để điều chỉnh mức sản lợng ngời ta có thể điều chỉnh mức
thu nhập của dân c, từ đó điều chỉnh tổng cầu và đa nền kinh tế đến mức
sản lợng mong muốn. Khi tăng thuế thu nhập thì thu nhập thực tế của dân c
giảm đồng nghĩa với việc giảm chi tiêu của dân c do đó tổng cầu giảm, sản
lợng cân bằng của nền kinh tế giảm; còn khi giảm thuế thì điều ngợc lại sẽ
xảy ra. Mức độ ảnh hởng của thuế thu nhập cá nhân sẽ phụ thuộc vào độ co
giãn của thu nhập đối với sự thay đổi của thuế suất. Nếu độ co giãn là nhạy
cảm thì chỉ cần thay đổi thuế suất một tỉ lệ nhỏ cũng có thể làm thay đổi
tổng cầu một lợng đáng kể; ngợc lại nếu là không nhạy cảm thì tổng cầu sẽ
thay đổi không đáng kể. Thuế thu nhập cá nhân cũng là loại thuế đợc sử
dụng chủ yếu trong việc thanh toán nợ của chính phủ. Nếu thế hệ chúng ta
chi tiêu nhiều hơn so với mức thu thì đồng nghĩa với việc thế hệ sau chúng
11


ta sẽ phải gánh chịu thuế thu nhập cá nhân cao hơn để thanh toán các khoản
nợ nần đó. Bên cạnh chức năng là một công cụ đắc lực trong việc thực hiện

chính sách tài khoá của chính phủ, việc quản lí thuế TNCN cũng giúp Nhà
nớc trong quản lí giám sát thu nhập của dân c, từ đó có thể đánh giá chính
xác hơn về mức sống và thu nhập của dân c nhằm đa ra các chính sách kinh
tế phù hợp hơn. Để tiến hành thu thuế thu nhập của dân c thì chính phủ
cũng phải xây dựng một hệ thống thuế để tiến hành thu và cũng là để giám
sát việc thu nộp. Vì vậy chính phủ có thể nắm rõ đợc tình hình thu nhập của
toàn bộ dân c. Khi làm đợc điều này, chính phủ sẽ có thể đánh giá chính
xác hơn về thực trạng nền kinh tế, sự phân bố thu nhập trong dân c và còn
rất nhiều yếu tố khác nữa, từ những đánh giá này mà chính phủ có thể đa ra
các chính sách kinh tế phù hợp hơn nh là các chính sách về việc làm, chính
sách bảo hiểm trợ cấp xã hội...
Thuế thu nhập cá nhân làm cho mỗi ngời dân có ý thức hơn về nghĩa vụ
và quyền của mình đối với Nhà nớc. Điều này ta có thể thấy rõ nét khi đem
so sánh về ý thức con ngời giữa các nớc phát triển nh Mỹ, Pháp, Đức... với
các nớc đang phát triển nh Indonesia, Lào hay nh bản thân Việt Nam. Do ở
các nớc phát triển, hệ thống thuế trực thu đã phát triển và hầu hết mọi ngời
dân đều phải tự tính thuế và nộp thuế cho mình, do đó quan niệm về thuế
của họ rất rõ ràng, họ cảm thấy mình có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nớc của
mình. Họ cảm thấy tự hào khi nộp thuế vì biết mình đã đóng góp cho Nhà
nớc. Tất nhiên cũng có nhiều trờng hợp trốn thuế nhng đây chỉ là những trờng hợp cá biệt. Còn ở những nớc đang phát triển thì sao? Khái niệm nộp
thuế cho Nhà nớc còn là điều hết sức mới lạ đối với rất nhiều ngời. Họ
không biết mình phải nộp thuế. Hàng ngày chúng ta vẫn phải nộp thuế, nhng do là thuế gián thu nên chúng ta không biết. Khi phải tính và nộp thuế
trực thu thì nhiều ngời không hề thấy thoải mái chút nào. Chính vì không
phải tự tính thuế và nộp thuế cho mình nên ý thức thuế của ngời dân ở
những nớc đang phát triển là rất thấp. Minh chứng đơn giản là việc dân c đi
qua cầu phải nộp phí, lệ phí; có phải ai cũng nộp không, nếu trốn nộp đợc
thì họ cũng sẽ sẵn sàng làm ngay cho dù đó chỉ là một khoản tiền rất nhỏ.
Nhìn những nớc phát triển, dù không có ngời thu tiền phí và lệ phí thì ngời
đi qua những nơi mà phải nộp phí và lệ phí vẫn tự giác bỏ đồng xu vào chỗ
thu tiền rồi mới đi qua. Cũng chính vì sự nhận thức về nghĩa vụ nộp thuế

đối với Nhà nớc của ngời dân những nớc đang phát triển thấp hơn ngời dân
những nớc phát triển cho nên ý thức về quyền con ngời của họ cũng thấp
12


hơn. Những ngời càng có ý thức về nghĩa vụ của mình đối với Nhà nớc càng
cao thì họ càng có ý thức về quyền của mình đối với Nhà nớc cao hơn, họ
đòi hỏi Nhà nớc cũng phải thực hiện lại những nghĩa vụ đối với họ. Chính vì
vậy, ta có thể thấy rằng sự phát triển của thuế thu nhập cá nhân cũng là một
bớc đánh dấu sự phát triển về nhận thức và văn hóa của con ngời. Đi kèm
với sự phát triển về kinh tế bao giờ cũng là sự phát triển về con ngời.
1.2

Quản lý thuế thu nhập cá nhân

1.2.1 Nội dung của quản lý thuế thu nhập cá nhân
Quản lý thuế thu nhập cá nhân hết sức phức tạp, nó khó khăn hơn rất
nhiều so với quản lý các sắc thuế khác. Do cơ sở thuế ở đây là thu nhập của
các cá nhân, các khoản thu nhập thì hết sức phong phú và đa dạng, đối tợng
nộp thuế thì phân tán... nên việc quản lý đợc các khoản thu nhập của dân c
là hết sức khó khăn. Chính vì khó khăn trong công tác quản lý thu nhập nên
công tác tính thuế thu nhập cá nhân càng trở nên khó khăn hơn.
Muốn quản lý tốt thuế thu nhập cá nhân thì trớc hết chúng ta cần phải
hoàn chỉnh nội dung Luật thuế thu nhập cá nhân. Sau khi có các văn bản
qui định về thuế thu nhập cá nhân thì đến công tác quản lý thuế thu nhập cá
nhân. Nhiệm vụ của công tác này là đảm bảo việc thực hiện tốt các qui định
về thuế thu nhập cá nhân trong văn bản pháp luật, đồng thời từ quá trình
thực hiện sẽ rút ra đợc những khúc mắc, những vấn đề cha hợp lý để đề xuất
lên cơ quan làm luật nhằm nghiên cứu điều chỉnh lại cho phù hợp. Chính vì
sự ràng buộc chặt chẽ giữa văn bản qui định về thuế thu nhập cá nhân và

công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân, nên khi đề cập đến nội dung công
tác quản lý thuế thu nhập cá nhân, ta không thể không đề cập đến công tác
xây dựng văn bản pháp luật qui định về thuế thu nhập cá nhân.
(i)
Nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng văn bản pháp luật nói
chung là phải đơn giản, rõ ràng và chặt chẽ. Điều này càng
đúng hơn đối với quá trình xây dựng văn bản pháp luật qui
định về thuế, bao gồm cả thuế thu nhập cá nhân. Nguyên tắc
này rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đến hiệu quả thực
hiện của công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân. Ngoài yêu
cầu cơ bản này thì văn bản thuế thu nhập cá nhân phải qui định
sao cho đảm bảo đợc nguồn thu ngân sách đã đợc đề ra. Đó là
các qui định về mức thuế suất, về các bậc thu nhập trong biểu
thuế suất... Trong mỗi điều kiện hoàn cảnh kinh tế thì cần phải
13


(ii)

(iii)

có sự điều chỉnh đảm bảo sự phù hợp của biểu thuế với tình
hình kinh tế-xã hội cũng nh yêu cầu đặt ra trong việc huy động
nguồn thu cho ngân sách. Qui định trong văn bản thuế TNCN
cũng cần phải đảm bảo tính công bằng đối với cả ngời nộp
thuế và cả xã hội. Nó đóng vai trò là phân phối lại thu nhập
trong xã hội, giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội nhng nó cũng đồng thời phải đảm bảo cho thu nhập thực tế sau
khi nộp thuế của các đối tợng nộp thuế. Bởi vì mức thuế phải
nộp có ảnh hởng không nhỏ đối với động cơ và sự phấn đấu
làm việc của ngời lao động. Tất nhiên, xây dựng một sắc thuế

TNCN hoàn chỉnh mà có thể thỏa mãn đầy đủ các nguyên tắc
trên là một điều hết sức khó khăn. Chính vì vậy, mỗi quốc gia
khi xây dựng Luật thuế TNCN cho nớc mình thì phải căn cứ
vào tình hình cụ thể, căn cứ vào hiệu quả và chi phí kinh tế để
quyết định xem cần chú trọng vào vấn đề nào hơn.
Đối với công tác quản lý thu thuế thì trớc hết chúng ta cần phải
xây dựng Bộ máy quản lý thuế thu nhập cá nhân. Một đội ngũ
cán bộ thuế chuyên trách đợc đào tạo chuyên sâu trong công
tác quản lý thu thuế TNCN là điều cần thiết nếu nh chúng ta
muốn thực hiện thực hiện tốt công tác quản lý thuế thu nhập cá
nhân. Đội ngũ này cần phải tổ chức lại một cách thống nhất,
đồng bộ và có khoa học. Nếu làm đợc điều này thì chúng ta sẽ
vừa tiết kiệm đợc chi phí cho công tác quản lý thu thuế đồng
thời vẫn đảm bảo thực hiện tốt công tác thu thuế.
Công tác quản lý thu thuế thu nhập cá nhân đặc biệt quan trọng
ở khâu quản lý thu nhập của các đối tợng nộp thuế. Nếu quản
lý tốt đợc thu nhập của ngời lao động thì công tác quản lý thuế
thu nhập cá nhân chắc chắn cũng sẽ đợc thực hiện tốt. Vậy thì
cần phải làm gì trong công tác quản lý thu nhập của đối tợng
nộp thuế? Rõ ràng chúng ta cha biết chính xác ai là những đối
tợng phải nộp thuế trớc khi kê khai thu nhập của họ. Chính vì
vậy, chúng ta cần phải giám sát thu nhập của tất cả các đối tợng lao động. Để từ đó chúng ta có thể xác định đợc đối tợng
nào phải nộp thuế và nộp thuế là bao nhiêu. Muốn thực hiện tốt
điều này thì chúng ta cần phải có chế độ giám sát các khoản
thu nhập một cách chặt chẽ. Cần phải có chế độ sổ sách kế
14


(iv)


(v)

toán, chứng từ đầy đủ chặt chẽ, tất cả các khoản chi trả thu
nhập cần phải đợc làm sáng tỏ trong sổ sách kế toán. Khi đó cơ
quan thuế sẽ dễ dàng hơn nhiều trong việc xác định cũng nh
kiểm tra thu nhập của ngời lao động. Đồng thời để tạo thuận
lợi cho công tác giám sát kiểm tra các đối tợng nộp thuế thì cơ
quan thuế cần phải tiến hành cấp mã số thuế cho các đối tợng
nộp thuế và cơ quan chi trả thu nhập. Sau khi cấp mã số thuế
thì cơ quan thuế có thể giám sát các đối tợng qua mã số thuế
của họ, nhờ đó mà tránh đợc tình trạng thiếu sót các đối tợng
nộp thuế đồng thời cũng đảm bảo sự nhanh gọn cho cơ quan
thuế trong công tác quản lý thu thuế.
Sau khi quản lý đợc thu nhập của các đối tợng nộp thuế thì cơ
quan tiến hành công tác tính thuế và các đối tợng phải nộp thuế
sẽ nộp thuế cho cơ quan thuế. Việc tính thuế và nộp thuế có thể
đợc thực hiện theo hai cách. Cách thứ nhất là thông qua cơ
quan uỷ nhiệm thu, hay là cơ quan chi trả thu nhập tính thuế
cho các đối tợng nộp thuế mà làm việc trong đơn vị mình và có
thu nhập do đơn vị mình chi trả. Sau khi tính thuế và khấu trừ
thuế của đối tợng nộp thuế thì cơ quan chi trả thu nhập sẽ tiến
hành khấu trừ phần thuế phải nộp ra khỏi thu nhập trớc thuế
của đối tợng nộp thuế để đem nộp cho cơ quan thuế. Cơ quan
chi trả thu nhập sẽ đợc hởng một khoản tiền theo tỉ lệ trên số
thuế thu đợc và nộp cho cơ quan thuế.
Cách thứ hai là
đối tợng nộp thuế sẽ trực tiếp kê khai thu nhập của mình và tự
tính mức thuế mình phải nộp. Sau đó, các đối tợng nộp thuế sẽ
đến nộp tờ khai cho cơ quan thuế và tiến hành nộp khoản thuế
cho cơ quan thuế hay cơ quan có chức năng thu thuế. Cơ quan

thuế sẽ có nhiệm vụ ghi lại tất cả các khoản thuế mà các đối tợng nộp thuế phải nộp, để từ đó có thể giám sát và kiểm tra khi
cần thiết. Đồng thời đó cũng là cơ sở để đảm bảo sự minh bạch
trong công tác thu nộp thuế, cả cho đối tợng nộp thuế và cơ
quan thuế cũng nh cơ quan uỷ nhiệm thu.
Công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân không chỉ dừng lại ở
việc thu thuế đầy đủ đúng nh qui định, nó còn cần phải phát
hiện ra những bất cập, thiếu sót trong qui định về nội dung luật
thuế cũng nh những qui định trong công tác quản lý kê khai
15


nộp thuế. Trong quá trình thực hiện quản lý thuế, cơ quan sẽ dễ
dàng tìm ra những sai sót trong quá trình lập chính sách, đồng
thời cũng sẽ dễ tìm ra những cách thức phơng pháp quản lý
thuế tốt nhất, thuận tiện nhất, đơn giản nhất và tất nhiên đảm
bảo đợc yêu cầu thu đủ và kịp thời. Qua đó cơ quan thuế có thể
kiến nghị lên cấp trên xem xét để từ đó có thể hoàn thiện tốt
hơn Luật thuế TNCN và công tác tổ chức quản lý thuế thu
nhập cá nhân.
1.2.2 Sự cần thiết phải tăng cờng quản lý thuế TNCN
Nh chúng ta đã đề cập trong phần vai trò của thuế TNCN, ta có thể
thấy rằng sắc thuế có một tầm quan trọng đặc biệt trong hệ thống thuế của
mọi quốc gia.Nó đợc đánh giá cao trong vai trò tạo nguồn thu trong ngân
sách và vai trò điều tiết thu nhập của dân c, đồng thời nó cũng đợc xem là
công cụ thuế đắc lực trong việc thực hiện chính sách tài khóa của chính
phủ. Chính vì tầm quan trọng của sắc thuế này nên chúng ta cần thiết phải
tổ chức tốt công tác quản lý thuế TNCN. Quản lý tốt là quản lý sao cho đạt
đợc các mục tiêu đã đề ra trong kế hoạch. Các mục tiêu đó thông thờng bao
gồm các mục tiêu về số thu thuế, số đối tợng nộp thuế phải đầy đủ, đảm bảo
sự công bằng trong quá trình thu nộp thuế đồng thời cũng phải tối thiểu chi

phí cho công tác tổ chức quản lý thu. Đồng thời việc quản lý tốt thuế TNCN
cũng sẽ góp phần giám sát tốt thu nhập của dân c, tránh đợc các khoản thu
nhập ngầm phi pháp. Việc quản lý tốt sẽ khuyến khích ngời dân hiểu và tự
giác thực hiện tốt việc kê khai và nộp thuế. Nó cũng sẽ góp phần đa sắc
thuế này thành một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hởng đến công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân
1.2.3.1 Nội dung Luật thuế thu nhập cá nhân
Đây là yếu tố đầu tiên và cũng là quan trọng nhất. Muốn thực hiện tốt
thì trớc hết nội dung Luật phải thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng và dễ hiểu. Đây
mới là những điều kiện bớc đầu để có một hệ thống Luật không có khe hở
và mâu thuẫn, tránh những trờng hợp do Luật có khe hở và các đối tợng lợi
dụng để trốn thuế. Còn muốn có một Luật thuế hoàn chỉnh, có thể phát huy
tối đa hiệu quả đối với toàn bộ xã hội và nền kinh tế thì chúng ta còn cần có
những nghiên cứu toàn diện về mặt kinh tế và xã hội để từ đó xây dựng biểu
thuế hợp lí, phát huy có hiệu quả nhất đối với sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế và xã hội.
16


1.2.3.2 Bộ máy hành thu của cơ quan thuế
Đây là cơ quan chịu trách nhiệm tiến hành tính thuế và thu thuế đối với các
đối tợng có nghĩa vụ phải nộp thuế. Hiệu quả hoạt động của Bộ máy hành
thu phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ cán bộ thu thuế và cách thức tổ chức
đội ngũ này. Một đội ngũ cán bộ thu thuế có trình độ và nghiệp vụ thuế tốt
cộng với phẩm chất đạo đức tốt là một điều kiện hết sức quan trọng đối với
bộ máy của cơ quan thuế. Đồng thời với việc sắp xếp tổ chức đội ngũ cán
bộ khoa học, có phân công trách nhiệm và công việc rõ ràng thì sẽ càng góp
phần tăng tính hiệu quả của Bộ máy hành thu. Quá trình thanh tra công tác
thu nộp thuế thờng xuyên của cấp trên cũng sẽ góp phần quan trọng vào
việc thực hiện nghiêm túc của cơ quan thu thuế cấp cơ sở cũng nh của ngời

nộp thuế. Đồng thời Bộ máy hành thu của cơ quan thuế cũng cần phải tăng
cờng sự gắn kết với các cơ quan nơi các đối tợng nộp thuế làm việc và có
thu nhập. Mối dây liên kết càng chặt chẽ sẽ càng làm giảm đi những khai
báo sai của đối tợng chịu thuế đồng thời cơ quan thuế cũng sẽ dễ dàng phát
hiện những sai phạm hơn.
1.2.3.3 Sự phát triển của hệ thống ngân hàng và ứng dụng các tiến bộ
khoa học về tin học và mạng
Muốn có một hệ thống thu thuế phát triển thì sự phát triển của hệ thống
ngân hàng là điều kiện không thể thiếu đợc. Việc sử dụng tài khoản rộng rãi
trong dân c, giảm bớt việc nắm giữ tiền mặt sẽ giúp cho cơ quan thuế giảm
bớt khối lợng những công việc không cần thiết đồng thời cũng giảm bớt các
hiện tợng tiêu cực do việc kiểm tra trên tài khoản sẽ đơn giản và rõ ràng
hơn nhiều so với kiểm tra tiền mặt. Một hệ thống thanh toán điện tử hiện
đại sẽ giúp giảm bớt các chi phí về đi lại, sổ sách giấy tờ... Sự phát triển nh
vũ bão của khoa học công nghệ thông tin đã đem lại những ứng dụng vô
cùng quí giá và công tác thu thuế cũng sẽ hiệu quả hơn rất nhiều nếu biết sử
dụng những thành tựu này.
1.2.3.4 Cơ quan luật pháp
Cơ quan luật pháp làm việc có hiệu quả, luật pháp thực hiện đợc nghiêm
minh thì sẽ đảm bảo việc vi phạm luật sẽ giảm đi. Các đối tợng nộp thuế
cũng nh cơ quan thu thuế cũng sẽ thực hiện nghiêm túc hơn, bởi họ biết
rằng khi vi phạm họ sẽ không tránh khỏi những hình phạt nếu bị phát hiện.
1.2.3.5 Tình hình kinh tế và mức sống ngời dân
17


Hiệu quả của công tác quản lý thu thuế thu nhập cá nhân phụ thuộc không
nhỏ vào mức độ phát triển kinh tế và đời sống của dân c. Cùng một đơn vị
thu thuế trên một khu vực, nếu số đối tợng nộp thuế thu nhập nhiều thì sẽ
giảm bớt chi phí trên một đồng thuế thu đợc, ngợc lại nếu có ít đối tợng nộp

thuế và số thuế thu đợc ít thì chi phí cho một đồng thuế thu đợc sẽ cao. Sự
phát triển kinh tế sẽ đồng hành với sự phát triển của cơ sở hạ tầng phục vụ
cho công tác quản lý nói chung và công tác quản lý thuế nói riêng, khi cơ
sở hạ tầng tốt thì khả năng quản lý thuế cũng sẽ đơn giản và hiệu quả hơn.
1.2.3.6 Trình độ dân trí
Trình độ dân trí tỉ lệ thuận với ý thức về trách nhiệm nộp thuế.
1.3

Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở một số nớc trên thế giới

Trong phần này chúng ta sẽ đi xem xét và nghiên cứu luật thuế thu
nhập cá nhân và tính chất quản lý thu thuế ở một số nớc trên thế giới. Qua
việc nghiên cứu này, chúng ta sẽ rút ra đợc câu trả lời tại sao họ lại áp dụng
nh vậy, áp dụng đợc trong điều kiện hoàn cảnh nào. Từ đó, căn cứ vào tình
hình cụ thể ở Việt Nam, chúng ta có thể đề ra đợc những biện pháp nhằm
xây dựng tốt nhất Luật thuế thu nhập cá nhân.
1.3.1 Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Anh
Nớc Anh chính thức đa thuế thu nhập cá nhân vào trong hệ thống
Luật thuế là vào năm 1799, dới thời thủ tớng William Pitt, nhằm tài trợ cho
cuộc chiến tranh với Napoleon. Đến nay, sau hai trăm năm lịch sử, thuế thu
nhập cá nhân ở nớc Anh đang ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của
mình.
(i) Về nội dung Luật thuế
Thu nhập tính thuế
Nớc Anh qui định tất cả các cá nhân c trú trên lãnh thổ nớc Anh, nhận đợc
các khoản thu nhập có nguồn gốc từ nớc Anh thì sẽ phải kê khai thu nhập
và tính thuế thu nhập. Các khoản thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ
tiền công, bao gồm cả tiền thởng; lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh; cổ tức
từ cổ phần; lãi đầu t và gửi ngân hàng; tiền trợ cấp tìm việc.
Bảng 2- Biểu thuế suất thuế thu nhập cá nhân nớc Anh

Thu nhập chịu thuế (Ê/tháng )
0-1880
1880-29400
29400-

Thuế suất(%)
10
22
40
Nguồn: www.irs.org.uk
18


Mức chớc giảm cá nhân là 4535 Ê, tức là 4535 Ê thu nhập đầu tiên sẽ
không bị đánh thuế, đơn vị thu nhập thứ 4536 trở đi mới bắt đầu bị tính
thuế. Ngoài ra, còn có các mức chớc giảm gia cảnh khác nữa, ví dụ đối với
ngời già thì mức chớc giảm là 5990 Ê ( 65-74 tuổi) và 6260 Ê ( 74 tuổi trở
lên).
(ii) Về tổ chức quản lý thu thuế
Nớc Anh áp dụng phơng pháp khấu trừ tại nguồn để tiến hành thu
thuế thu nhập cá nhân ( PAYE- Pay As You Earn ). Phơng pháp này đã đợc
sử dụng từ năm 1944. Thu nhập của ngời lao động sẽ đợc khấu trừ đi khoản
thuế mà họ phải đóng, khi đó khoản thu nhập mà ngời lao động nhận đợc là
khoản thu nhập sau thuế. Cơ quan chi trả thu nhập cho ngời lao động sẽ
khấu trừ và nộp lại thuế cho cơ quan thuế. Tuy nhiên hiện nay cách thức
này đang gặp một số vấn đề bất cập do những biến đổi về xã hội. Trớc đây,
ngời lao động thờng làm việc gắn với chủ, nhng bây giờ thì việc thay đổi
việc làm, có nhiều nghề một lúc, tự làm hay là làm công việc nửa ngày đã
dẫn đến việc thu thuế bằng cách khấu trừ tại nguồn tỏ ra không thực sự hiệu
quả.

1.3.2 Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở nớc Mỹ
(i) Về nội dung Luật thuế
Thu nhập tính thuế
Mỹ đánh thuế thu nhập cá nhân ngời trong nớc và ngời nớc ngoài trên
cơ sở thu nhập toàn thế giới. Đối với ngời nớc ngoài không là đối tợng c trú
thì chỉ nộp thuế trên phần thu nhập phát sinh có nguồn gốc từ Mỹ. Các
khoản thu nhập do làm việc trên đất Mỹ đều phải chịu thuế thu nhập; các
khoản thu nhập do chuyển nhợng tài sản và thu nhập đầu t; các khoản thu
nhập từ tiền lãi, cổ tức, tiền cho thuê và tiền bản quyền có nguồn gốc từ
Mỹ... Đồng thời, các khoản chi phí liên quan đến công việc tạo ra thu nhập
cũng sẽ đợc khấu trừ: công tác phí, chi phí cần thiết cho công việc, tuy
nhiên tổng tất cả các khoản khấu trừ này không đợc phép vợt quá 2% thu
nhập gộp sau khi điều chỉnh. Ngoài ra, trong luật còn qui định cụ thể một
số loại chi phí khác đợc khấu trừ.
Bảng 3- Biểu thuế suất thuế thu nhập cá nhân ở Mỹ
Đối với hai vợ chồng khai chung một tờ khai:
Thu nhập chịu thuế( $/năm)
Thuế suất(%)
0-45200
15
45200-109250
27.5
109250-166500
30.5
166500-297350
35.5
19


297350Đối với hai vợ chồng nộp tờ khai riêng:

Thu nhập chịu thuế( $/năm)
0-22600
22601-54625
54625-83250
83250-148675
148675-

39.1
Thuế suất(%)
15
27.5
30.5
35.5
39.1

Đối với ngời độc thân:
Thu nhập chịu thuế( $/năm)
0-27050
27050-65550
65550-136750
136750-297350
297350

Thuế suất(%)
15
27.5
30.5
35.5
39.1


Đối với ngời chủ gia đình:
Thu nhập chịu thuế( $/năm)
0-36250
36250-93650
93650-151650
151650-297350
297350-

Thuế suất(%)
15
27.5
30.5
35.5
39.1

Nguồn: Đề tài nghiên cứu thuế thu nhập cá nhân của TPHCM

Nớc Mỹ cũng áp dụng việc chớc trừ gia cảnh. Ví dụ, hai vợ chồng cùng
khai thì đợc khấu trừ $7200, $4300 cho ngời độc thân, $6350 cho chủ gia
đình và $3600 cho hai vợ chồng khai riêng. Ngoài ra, còn có một số qui
định cụ thể hơn về các đối tợng đợc chớc trừ gia cảnh.
(ii) Về tổ chức quản lý thu thuế
Nớc Mỹ áp dụng khấu trừ tại nguồn đối với thu nhập từ tiền lơng, tiền
công. Đối với các khoản thu nhập khác (thu nhập kinh doanh cá thể, lãi tiết
kiệm hay cho vay, cổ tức) không thuộc diện khấu trừ tại nguồn thì phải đợc
kê khai hàng quí trên cơ sở tạm khai, tạm nộp vào các ngày 15/4, 15/6,
15/9, 15/12 là hạn chót.
1.3.3 Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Thái Lan.
(i) Về nội dung Luật thuế
Thu nhập tính thuế

Thái Lan đánh thuế thu nhập cá nhân ngời trong nớc và ngời nớc
ngoài đối với thu nhập phát sinh từ tiền lơng, tiền công hoặc thu nhập do
hoạt động kinh doanh thực hiện trên đất Thái Lan, bất kể các khoản thu
nhập này nhận đợc bên trong hay bên ngoài lãnh thổ Thái Lan. Thu nhập
20


chịu thuế ở Thái Lan bao gồm các khoản thu nhập do cung cấp dịch vụ trên
đất Thái Lan, tiền lơng, tiền công, tiền hu bổng, tiền cho thuê nhà, tiền chi
trả hộ;các khoản thu nhập từ chuyển nhợng tài sản và thu nhập đầu t (có
một số ngoại lệ nh thu nhập do chuyển nhợng cổ phần của một công ty có
niêm yết trên thị trờng chứng khoán thì đợc miễn thuế, thu nhập do chuyển
nhợng công phiếu, trái phiếu, tín phiếu kho bạc thì ngời nộp thuế có thể lựa
chọn hoặc nộp thuế khấu lu theo thuế suất cố định là 15% và khỏi phải
cộng thu nhập này vào thu nhập cá nhân để nộp thuế thu nhập); thu nhập từ
tiền lãi gửi ngân hàng, hay cho công ti tài chính vay chịu thuế khấu lu theo
thuế suất cố định 15% và đợc khấu trừ vào số thuế thu nhập phải nộp. Các
khoản chi phí liên quan đến công việc không đợc khấu trừ. Khấu trừ đối với
tiền đóng BHXH tối đa là Bht 300.000 ; tiền lãi vay để mua nhà hoặc xây
nhà đợc trừ tối đa là Bht 10000.
Bảng 4- Biểu thuế suất thuế thu nhập cá nhân ở Thái Lan
Thu nhập chịu thuế( Bht/năm)
Thuế suất(%)
0-100.000
5
100.000-500.000
10
500.000-1.000.000
20
1.000.000-4.000.000

30
4.000.00037
Nguồn: Đề tài nghiên cứu thuế thu nhập cá nhân của TPHCM

Thái Lan cũng xem xét tới miễn giảm gia cảnh. Cá nhân có thu nhập
từ tiền lơng đợc hởng khoản chớc giảm cá nhân bằng 40% tiền lơng, nhng
không quá Bht 60.000; mỗi cá nhân đợc hởng các khoản khấu trừ là Bht
30.000 cho bản thân mình và cho vợ ( chồng); Bht 15.000 cho mỗi đứa con
và Bht 12.000 cho mỗi đứa con đợc đi học ở trờng đợc Nhà nớc công nhận.
(ii) Về tổ chức quản lý thu thuế
Thái Lan sử dụng phơng pháp khấu trừ tại nguồn đối với các khoản
thu nhập từ tiền lơng, các phụ cấp khác, các thu nhập từ cổ tức... Số thuế
nộp bên ngoài Thái Lan không đợc xem là khấu trừ thuế trừ khi có hiệp
định thuế. Năm tính thuế là năm dơng lịch và mọi ngời đều phải nộp tờ khai
thuế chậm nhất là ngày 31/3 năm sau.
1.3.4 Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Singapore
Các cá nhân thờng trú tại Singapore thuộc đối tợng chịu thuế có
nghĩa vụ nộp thuế thu nhập đối với các khoản: thu nhập phát sinh tại
Singapore, hoặc xuất phát từ Singapore; thu nhập bên ngoài Singapore đợc
nhận tại Singapore. Đối với những ngời không thờng trú đợc thuê mớn tại
Singapore thì thu nhập có từ việc làm trong thời gian không quá 60 ngày
21


trong 1 năm thì đợc miễn thu thuế, không áp dụng với các đối tợng phục vụ
biểu diễn chuyên nghiệp và các giám đốc không thờng trú của các công ty
thờng trú tại Singapore, còn làm việc trên 60 ngày và dới 183 ngày thì áp
dụng mức thuế suất thống nhất 15% trên tổng số thù lao, nếu mức thuế phải
trả không thấp hơn mức mà ngời thờng trú phải chi trả trong điều kiện tơng
tự.


Bảng 5- Biểu thuế suất thuế thu nhập cá nhân ở Singapore
Thu nhập chịu thuế( S$/năm)
Thuế suất(%)
0-7500
2
7500-20.000
5
20.000-35.000
8
35.000-50.000
12
50.000-75.000
16
75.000-100.000
20
100.000-150.000
22
150.000-200.000
23
200.000-400.000
26
400.00028

Nguồn: Đề tài nghiên cứu thuế thu nhập cá nhân của TPHCM

1.3.5 Biểu thuế suất của một số nớc trên thế giới
Bảng 6- Biểu thuế thu nhập cá nhân của ấn Độ năm 1998-1999
Thu nhập chịu thuế( RS/năm)
Thuế suất(%)

0-40.000
0
40.000-60.000
10
60.000-150.000
20
150.00030

Nguồn: www.njt.com

Bảng 7- Biểu thuế thu nhập cá nhân của Cananda
Thu nhập chịu thuế( Canada $/năm)
Thuế suất(%)
0-30.004
17
30.005-60.009
25
60.00929

Nguồn: www.ccra-adrc.gc.ca/tax/individuals

Bảng 8- Biểu thuế thu nhập cá nhân của Malaysia
Thu nhập chịu thuế( RM/tháng)
Thuế suất(%)
0-2500
0
2500-5000
1
22



5000-10.000
10.000-20.000
20.000-35.000
35.000-50.000
50.000-70.000
70.000-100.000
100.000-150.000
150.000-

3
5
9
15
20
25
28
29

Nguồn: Tạp chí thuế Nhà nớc tháng 2-2002

Trên đây là nội dung cơ bản của Luật thuế thu nhập cá nhân và cách
thức tổ chức quản lý thu thuế thu nhập cá nhân của một số nớc trên thế giới.
Vận dụng những kinh nghiệm trong xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân
của các nớc, căn cứ vào tình hình cụ thể về kinh tế-xã hội-chính trị ở Việt
Nam, sẽ giúp chúng ta hoàn chỉnh tốt nhất nội dung qui định trong Pháp
lệnh thuế thu nhập cá nhân.

23



Chơng 2
Thực trạng quản lý thuế thu nhập cá nhân
ở Việt Nam
ở chơng một, chúng ta đã nghiên cứu những lí luận chung và cơ bản
nhất về thuế thu nhập cá nhân. Đó là những lí luận mang tính căn bản và
làm cơ sở phân tích khi chúng ta bớc tiếp sang chơng hai và chơng ba. ở
chơng hai, chúng ta sẽ nghiên cứu về nội dung pháp lệnh thuế thu nhập cá
nhân nớc ta, những sửa đổi bổ sung từ khi pháp lệnh ra đời cho đến nay; và
sau đó chúng ta sẽ xem xét tiếp quá trình thực hiện nội dung pháp lệnh
trong suốt thời gian qua. Từ đó, chúng ta cũng sẽ rút ra ra những thành tựu
mà pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân đã đạt đợc trong thời gian qua và
những vớng mắc mà chúng ta còn gặp phải để từ đó có thể tìm ra những giải
pháp thích hợp nhất cho quá trình quản lý thực hiện Luật thuế thu nhập cá
nhân trong thời gian tới.
2.1 Lịch sử hình thành và áp dụng thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam
Cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế theo hớng thị trờng và chủ trơng thực hiện một nền kinh tế mở, Luật đầu t nớc ngoài tại
Việt Nam ra đời vào năm 1987 đã tạo điều kiện cho các nhà đầu t nớc ngoài
đa vốn vào Việt Nam làm ăn. Thị trờng lao động cũng bắt đầu xuất hiện
những vấn đề mới. Tiền lơng cho lao động làm ở công ty nớc ngoài cao hơn
nhiều lần so với lao động ở cơ quan Nhà nớc. Sự khác biệt về mức tiền lơng
quá lớn trong xã hội đã gây ra những mâu thuẫn nhất định và hậu quả là
việc chảy máu chất xám. Chính sách thuế thu nhập cá nhân với tên gọi là
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với ngời có thu nhập cao đợc ban hành vào
27/12/1990, có hiệu lực thi hành bắt đầu từ 4/1991, cho đến nay đã qua năm
lần sửa đổi, bổ sung. Những ngày đầu, thuế thu nhập cá nhân chỉ áp dụng
nhằm điều tiết chênh lệch thu nhập cao trong các doanh nghiệp có vốn đầu
t nớc ngoài. Sau đó, qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, phạm vi thu thuế cũng
đợc mở rộng dần đến các khu vực hởng lơng khác tại các doanh nghiệp có
vốn đầu t trong nớc và một số cơ quan của Nhà nớc. Cho đến nay, sau 10

năm Pháp lệnh ra đời, nó đang thể hiện những bớc phát triển nhất định và
chứng tỏ mình là một sắc thuế quan trọng trong nguồn thu ngân sách trong
thời gian tới.
24


2.2 Nội dung cơ bản trong pháp lệnh thuế thu nhập đối với ngời có thu
nhập cao hiện nay
Nh ở phần trên đã trình bày, Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân nớc ta
ra đời từ ngày 1-4-1991, cho đến nay đã qua năm lần sửa đổi và bổ sung
vào các năm 1994,1997,1999 và 2001. Ta sẽ trình bày nội dung pháp lệnh
trên bốn khía cạnh (i) đối tợng nộp thuế và các loại thu nhập phải nộp thuế
(ii) căn cứ tính thuế và biểu thuế (iii) giảm thuế, miễn thuế ; xử lí vi phạm
và khen thởng; công tác khiếu nại
2.2.1 Đối tợng nộp thuế và các loại thu nhập phải nộp
2.2.1.1 Đối tợng nộp thuế
Hiện nay, theo pháp pháp lệnh số 35/2001/PL-UBTVQH và thông t
hớng dẫn số 05/2002/TT-BTC thì đối tợng nộp thuế thu nhập bao gồm:
Công dân Việt Nam ở trong nớc hoặc đi công tác, lao động ở nớc
ngoài có thu nhập.
Cá nhân là ngời không mang quốc tịch Việt Nam nhng định c
không thời hạn tại Việt Nam có thu nhập.
Ngời nớc ngoài có thu nhập tại Việt Nam bao gồm:
- Ngời nớc ngoài làm việc tại Việt Nam trong các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội... của Việt Nam hoặc của
nớc ngoài, các văn phòng đại diện, các chi nhánh công ty nớc
ngoài, các cá nhân hành nghề độc lập
- Ngời nớc ngoài tuy không hiện diện tại Việt Nam nhng có thu
nhập phát sinh tại Việt Nam trong các trờng hợp nh : thu nhập
từ chuyển giao công nghệ, tiền bản quyền.

2.2.1.2 Thu nhập chịu thuế
ở nớc ta, thu nhập chịu thuế đợc chia thành hai loại là thu nhập thờng
xuyên và thu nhập không thờng xuyên .
Thu nhập thờng xuyên gồm
- Các khoản thu nhập dới các hình thức tiền lơng, tiền công, tiền
thù lao
- Các khoản phụ cấp

25


×