Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Những nội dung mới trong luật doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.6 KB, 13 trang )

Lời nói đầu
Đại hội VI 1986 là mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển biến nền kinh tế nớc ta, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần hoạt động theo cơ chế thị trờng có sự điều tiết của Nhà nớc.
Nhằm cụ thể hoá đờng lối chung, ngày 21/12/1990 Quốc hội đã thông qua
2 đạo luật quan trọng là luật doanh nghiệp ( DN ) t nhân và luật Công ty. Sự ra
đời của 2 đạo luật này đã góp phần to lớn vào việc thể chế hoá nguyên tắc quyền
tự do kinh doanh nhằm thiết lập những điều kiện pháp lý khung cho quá trình
thành cơ chế thị trờng nền kinh tế nớc ta. Trong gần 10 năm tồn tại luật DN t
nhân, luật công ty đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển
thành phần kinh tế t doanh, tạo môi trờng kinh doanh lành mạnh khuyến khích
các nhà đầu t bỏ vốn vào kinh doanh. Cũng trong thời gian này hàng chục ngàn
DN đã đợc thành lập thu hút lợng vốn lớn trong xã hội tạo ra nhiều việc làm mới
tăng thêm thu nhập nâng cao đời sống cho ngời lao động.
Song hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau, luật DN t nhân đặc biệt luật
công ty đã bộc lộ những bất cập thậm chí còn đang là những vạt cản đối với quá trình
phát triển của các hình thức biểu hiện tự do kinh doanh vào cuộc sống thực tiễn của
cơ chế thị trờng hiện đại. Vì lẽ đó dới ánh sáng của nghị quyết hội nghị lần thứ IV và
nghị quyết hội nghị lần thứ VI - BCH TW Đảng khoá VIII luật DN mới đợc soạn
thảo và đợc Quốc hội khoá X thông qua có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2000.
Ngay từ những ngày đầu luật DN đã đợc chào đón nồng nhiệt của mọi tầng lớp
dân c nói chung và của giới doanh nhân nói riêng. Những qui định mới cảu luật DN
đang thực sự đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng tích cực của nó trong giai đoạn
cách mạng ngày nay, giai đoạn đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nớc.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn đang tồn tại nảy sinh
những mặt yếu kém, cần đợc khắc phục trong thực tiễn thi hành luật DN.
Là một sinh viên của trờng Quản lý & Kinh doanh, chuyên ngành Quản lý
doanh nghiệp em rất háo hức chào đón sự ra đời của luật DN và tự nhận thấy
mình có trách nhiệm phải tìm hiểu kỹ LDN và áp dụng LDN vào công tác quản
lý của mình sau này. Xuất phát từ ý tởng đó, đợc sự gợi mở của các thầy cô bộ
môn em quyết định chọn đề tài Những nội dung mới trong Luật Doanh
nghiệp". Do thời gian nghiên cứu không nhiều cùng với lợng kiến thức hạn chế


của một sinh viên nên đề tài khó tránh khỏi những thiếu sót, nhầm lẫn, vậy em
rất mong đợc sự đóng góp ý kiến quí báu của các thầy cô cùng với bạn đọc để
bản đề tài đợc hoàn thiện thoả lòng khát khao tìm hiểu luật DN của bản thân.
Em xin chân thành cảm ơn !

1


Nội dung
Luật doanh nghiệp và những đổi mới
Luật DN đợc ban hành xuất phát từ nhu cầu thực tế của nền kinh tế nhằm
thay thế luật DNTN và luật Cty ngày 21 tháng 12 năm 1990, có hiệu lực thi hành
ngày tháng 1 năm 2000. Luật DN ra đời là cả một quá trình tìm tòi, học hỏi và
nghiên cứu thực tế, từ những sai lầm, thiếu sót trong công tác làm luật trớc đây,
từ những bài học kinh nghiệm của các nớc trong khu vực và trên thế giới.
1.

Mục tiêu của luật DN

Hoạt động của con ngời, theo Mac: Đó là hoạt động có ý thức bởi vậy trớc
khi thực hiện một hành vi, một công việc con ngời luôn xác định cái mà mình
mong muốn đạt đợc thông qua hành vi hay công việc đó. Mỗi một quy phạm
pháp luật đợc ban hành ra nó trở thành khuôn mẫu, mực thớc mang tính cỡng chế
đối với các chủ thể khi tham gia vào quan hệ đó. Do đó quá trình ban hành văn
bản pháp luật phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ có nh vậy sản phẩm tạo ra
mới thực sự có hiệu quả nâng đỡ, bảo vệ các quan hệ xã hội đợc nó điều chỉnh,
vì đặc trng này của các quy phạm pháp luật, lên trớc khi tiến hành soạn thảo, nhà
làm luật phải luôn xác định mục tiêu cần đạt đợc của dự luật mà mình định ban
hành, trên cơ sở muc tiêu đã đợc xác định, nó sẽ quyết định phơng hớng ban
hành văn bản pháp luật. Luật DN cũng không nằm ngoài quy luật trên, t tởng chỉ

đạo của luật DN là nhằm đạt đợc các mục tiêu sau:
Xuất phát từ thực tế nền kinh tế, kế thừa những bài học kinh nghiệm qua
việc thi hành luật DNTN, luật Cty, nhằm phù hợp với thông lệ quốc tế và sự phát
triển nền kinh tế thời gian tới. Luật DN cần phải cởi bỏ những hạn chế, kìm hãm
đối nền kinh tế nói chung, đối các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói
riêng, giải phóng và phát huy mọi lực lợng, mọi tiềm năng, tạo điều kiện thuận
lợi nhất cho mọi thành phần, mọi cá nhân, mọi doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả, tạo môi trờng và điều kiện thuận lợi cho kinh kế t nhân phát triển. Đây là
mối quan hệ cơ bản trong một phơng thức sản xuất, mối quan hệ giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thợng tầng, cơ sở hạ tầng có tính quyết định đến tính chất, hình
thức kiến trúc thợng tầng, song đến lợt nó, kiến trúc thợng tầng lại tác động ngợc
trở lại. Do đó mục đích đầu tiên mà luật DN hớng tới không phải là cái gì khác,
mà chínhlà hiện thực của nền kinh tế và xu hớng tiến triển của các mối quan hệ
kinh tế.

2


Nh chúng ta đã biết con ngời trong xã hội chủ nghĩa vừa là chủ thể cải tạo
xã hội, vừa là mục tiêu của cải tạo, do đó trong đờng lối chính sách của mình
đảng luôn đặt vấn đề con ngời lên vị chí hàng đầu, làm sao để mọi ngời trong xã
hội đều có cơ hội phát huy mọi năng lực của mình để tạo ra của cải cho bản thân,
cho gia dình và cho xã hội, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống ngời lao
động. Luật DN cũng vậy với việc quy định những loại hình doanh nghiệp mới,
đồng thời với việc đơn giản hoá thủ tục hành chính, cùng với việc bãi bỏ các loại
giấy phép không cần thiết là điều kiện để huy động tối đa nguồn lực trong xã
hội, tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới cho ngời lao động.
2.

Những nội dung mới đợc quy định trong luật doanh Nghiệp.


Luật DN đợc chia thành 10 chơng và 124 điều. Quy định địa vị pháp lý của
các loại hình DN: quyền, nghĩa vụ, cơ cấu tổ chức của mỗi loại hình đó...
Luật DN là văn bản kế thừa và phát triển của hai đạo luật, luật DNTN, luật
Cty nó không phủ định sạch trơn các chế định trong hai đạo luật này, trên cơ sở
giữ lại những quy dịnh phù hợp, sửa đổi, bổ sung những quy định cha phù hợp,
đồng thời bãi bỏ những quy định đã lỗi thời, lạc hậu không đáp ứng đợc yêu cầu
nền kinh tế trong giai đoạn mới, giai đoạn Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nớc.
So với pháp luật kinh doanh trớc đây luật doanh Nghiệp có những nội dung
mới cơ bản sau đây:
2.1. Luật DN bỏ thủ tục xin giấy phép thành lập.
Trong thời gian qua do kế thừa t duy quản lý kinh tế cũ: bộ máy hành chính
cồng kềnh, kém hiệu quả, thủ tục nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá, tập
chung do đó tệ giấy tờ, quan liêu của một số cán bộ gây lên sự bất bình trong các
tầng lớp nhân dân.
Đại hội VIII đã nhấn mạnh vấn đề cải cách nền hành chính nớc ta là nhiệm
vụ bức thiết trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhằm phục vụ cho sự nghiệp
CNH - HĐH đất nớc, trong đó cải cách thủ tục hành chính đợc coi là trọng tâm,
cốt lõi trong cải cách hành chính quốc gia.
Để thực hiện Nghị Quyết trên, đồng thời đáp ứng những mong muốn thiết
thực của giới kinh doanh, phù hợp với sự phát triển mới của nền kinh tế đất nớc,
phù hợp với thông lệ quốc tế, luật doanh Nghiệp qui định bỏ giai đoạn xin giấy
phép thành lập.

3


Trớc đây trong luật Cty, luật DNTN qui định trớc khi thành lập, ngời muốn
lập doanh nghiệp phải gửi hồ sơ xin phép thành lập đến cơ quan nhà nớc có thẩm
quyền, hồ sơ xin giấy phép phả bao gồm các dữ liệu về thân nhân ngời muốn

thành lập, các điều kiện về vốn, ngành nghề kinh doanh, phơng án kinh doanh...
Trong một chừng mực nào đó việc qui đinh nh vậy cũng có một ý nghĩa nhất
định: giúp nhà nớc có khả năng quản lý đợc các doanh nghiệp đang hoạt động
hoặc sắp đợc thành lập, nắm đợc qui mô cũng nh lĩnh vực kinh doanh của các
doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin cho các đối tợng quan tâm, đồng thời
đảm bảo nguồn vốn cho các nhà đầu t khi góp vào công ty. Doanh nghiệp muốn
đợc cấp giấy phép thành lập phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về vốn, ngành
nghề kinh doanh phải có phơng án kinh doanh khả thi... đây là bớc nặng nề nhất
đối với doanh nghiệp bởi vì với qui định nh vậy, ngời muốn thành lập phải xin
nhiều loại giấy tờ, chứng thực khác nhau. Lợi dụng sơ hở đó các cơ quan nhà nớc
có thẩm quyền đã ban hành nhiều loại giấy phép chuyên ngành, lĩnh vực mà
mình quản lý tạo ra những tiêu cực không đáng có trong xã hội, nạn cửa quyền,
tham nhũng có đất tồn tại.
Sau khi đợc cấp giáy phép thành lập, ngời muốn thành lập phải tiến hành
đăng ký kinh doanh tại sở Kế Hoạch - Đầu T, nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ
sở chính. Việc quy định các cơ quan khác nhau cùng có thẩm quyền liên quan
đến việc xem xét hồ sơ xin thành lập doanh nghiệp, trong khi các cơ quan độc
lập với nhau, chỉ xem xét phần việc của mình do đó thời gian hoàn thành việc
thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh mất rất nhiều thời gian thờng từ
bốn đến sáu tháng, cùng với một khoản lệ phí không nhỏ.
Xét về mặt quản lý trong giai đoạn ngày nay, khi mà đảng và nhà nớc đang
có chủ trơng cải cách thủ tục hành chính, thì quy định nh vậy là không hợp lý và
đi ngợc lại với đờng lối, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng ngày nay. Xét về
mặt hiệu quả, quy định nh vậy không tạo ra hiệu quả trong công tác quản lý, vìcó
có quá nhiều cơ quan tham gia vào cùng một vấn đề, trong khi đó khong có một
cơ quan nào chịu trách nhiệm chính dẫn đến nhà nớc rất khó quản lý một cách
tập chung các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Hơn nữa quy định nh vậy không
khuyến khích đợc các nhà đầu t bỏ vốn vào kinh doanh bởi thủ tục quá rờm rà
dẫn đến tốn kém thời gian, tiền của ảnh hởng tới hiệu quả sản xuất của nhà đầu
t.

Xuất phát từ những lý do đó, luật DN quy dịnh trình tự thành lập doanh
nghiệp chỉ còn bớc đăng ký kinh doanh, trong bớc này, ngời muốn thành lập
doanh nghiệp tiến hành lập hồ sơ gửi đến cơ quan nhà nớc có thẩm quyền-phòng

4


ĐKKD cấp tỉnh thuộc sở KH_ĐT. Lụât DN không chỉ bỏ bớc xin phép thành
lập, mà ngay trong bớc ĐKKD luật quy định rõ ràng: cơ quan ĐKKD không đợc
yêu cầu, đòi hỏi những giấy tờ khác ngoài những giấy tờ quy định trong luật DN
bao gồm: đơn đăng ký kinh doanh; điều lệ đối công ty; tên chủ sở hữu đối
DNTN, danh sách đối công ty; đối ngành nghề kinh doanh đòi hỏi có vốn pháp
định thì phải có giấy tờ chứng thực nguồn vốn đó. Rõ ràng với việc quy định cụ
thể các loại giấy tờ mà ngời muốn thành lập doanh nghiệp phải nộp trong hồ sơ
của mình là một bớc tiến trong cải cách thủ tục hành chính, tránh đợc hiện tợng
các cơ quan nhà nớc tuỳ tiện ban hành các loại giấy phép còn gây khó khăn cho
các nhà đầu t trong quá trình thành lập doanh nghiệp.
Ngoài ra với quy đinh nh vậy thì trách nhiệm của nhà nớc phần nào đợc
giảm nhẹ, theo quy định tại k2 Đ12 cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ chịu trach
nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ ĐKKD, còn về các lĩnh vực khác liên quan đến
tình hình tài chính, hoạt động của các doanh nghiệp... thì buộc các nhà đầu t phải
tự tìm hiểu, nếu muốn cùng nhau hợp tác kinh doanh, điều này khác với trớc đây,
khi mà các doanh nghiệp thờng thông qua sự xác nhận của nhà nớc để đánh giá
tình hình kinh doanh của các đối tác, bạn hàng từ đó xuất hiện t tởng dựa dẫm,
trông chờ vào các cơ quan nhà nớc dẫn đến tình trạng, thông tin thiếu chính xác,
không cập nhập và còn là cơ sở phát sinh các tệ nạn trong quản lý hành chính
nhà nớc. Để việc tìm hiểu đợc dễ dàng, các cơ quan nhà nớc có trách nhiệm cung
cấp thông tin cần thiết về các doanh nghiệp cho những đơn vị, cá nhân có yêu
cầu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm đợc bạn hàng phù hợp nhất với
mình.

2.2. Luật doanh Nghiệp bỏ mức vốn pháp định đối hầu hết các ngành
nghề kinh doanh.
Vốn của doanh nghiệp là cơ sở vật chất quan trọng nhất để chủ doanh
nghiểp triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh, hơn nữa vốn còn là bảo
đảm về mặt tài chính của doanh nghiệp đối các chủ nợ. Do đó luật DNTN, luật
Cty quy định vốn pháp định là một trong những điều kiện bắt buộc phải có để có
thể thành lập doanh nghiệp. Điều này có nghĩa: vốn đầu t ban đầu mà doanh
nghiệp bỏ ra phải phù hợp với quy mô, ngành nghề dự định kinh doanh. Số vốn
này không đợc thấp hơn số vốn tối thiểu mà pháp luật quy định, tuỳ thuộc vào
ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh và loại hình doanh nghiệp, đây là mức bảo đảm
tối thiểu về tài sản của doanh nghiệp đối với khách hàng.
Tuy nhiên trong khi thi hành hai đạo luật này, thì quy định về mức vốn
pháp định không còn phát huy đợc hiệu quả nh ý nghĩa ban đầu của nó, tức thể

5


hiện khả năng kinh tế của doanh nghiệp và đảm bảo khả năng thanh toán cho
chủ nợ. Thực tế cho thấy cả hai ý nghĩa trên đều không đợc đảm bảo, vì nhà nớc
không quản lý đợc nguồn vốn của doanh nghiệp sau khi đợc thành lập, dẫn đến
có doanh nghiệp khi làm hồ sơ thành lập đã đi vay mợn toàn bộ số vốn pháp định
để đủ điều kiện khi thành lập nhng sau đó lại rút toàn bộ số vốn để trả nợ, thực tế
là doanh nghiệp đợc thành lập mà không có vốn, đây chính là sơ hở để các doanh
nghiệp lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của nhau. Bên cạnh đó việc quy định về mức
vốn pháp định đã tạo điều kiện cho hiện tợng cửa quyền, tham nhũng phát triển
làm giảm lòng tin của nhân dân, doanh nghiệp vào các chính sách đúng đắn của
Đảng, Nhà nớc.
Vì vậy luật DN quy định: các doanh nghiệp ĐKKD hầu hết các ngành nghề
đều không cần tuân thủ quy định về vốn pháp định, trừ một số ngành nghề quan
trọng ảnh hởng trực tiếp tới sự thăng trầm nền kinh tế dẫn đến đòi hỏi cần có sự

đảm bảo về mặt tài chính nh: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán... quy định nh
vậy là hoàn toàn phù hợp, vừa giảm bớt thủ tuc hành chính, vừa nâng cao trách
nhiệm của chính doanh nghiệp trớc khi giao kết hợp đồng kinh tế.
Những một câu hỏi đặt ra: Làm sao có thể bảo vệ đợc lợi ích của các chủ
nợ, khi bỏ các quy định về vốn pháp định? giải pháp cho câu hỏi này trớc tiên ở
phía các nhà kinh doanh, để đảm bảo quyền lợi của mình đòi hỏi mỗi doanh
nhân trớc khi ký kết hợp đồng với khách hàng đều phải xem xét kỹ lỡng năng lực
tài chính của khach hàng đó chánh trờng hợp lừa đảo, gian lận trong kinh doanh.
Về mặt pháp luật để giải quyết vấn đề này trong luật doanh Nghiệp đã quy định
một loạt các nguyên tắc và nghĩa vụ của DN đối với vốn và tài sản.
Với các loại hình công ty luật quy định: DN chỉ đợc giảm vốn điều lệ, thanh
toán phần vốn góp hoặc cổ phần đợc mau lại, chia lợi nhuận, trả cổ tức, ... Khi
mà doanh nghiệp đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và các nghĩa vụ
tài sản khác. Ngoài ra luật còn quy định các biện pháp khác để bảo vệ quyền lợi
các chủ nợ: Tài sản góp vốn nếu không phải là tiền VN, ngoại tệ tự do chuyển
đổi, vàng thì phải đợc định giá và đợc thông qua theo nguyên tắc nhất trí. Trong
trờng hợp định giá cao hơn so với giá trị tài sản tại thời điểm góp vốn, thì ngời
góp vốn và ngời định giá phải góp đủ số vốn nh trong biên bản định giá, nếu gây
thiệt hại cho ngời khác thì phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thờng. Trờng hợp
ngời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có bằng chứng cho rằng tài sản đã đợc định
giá sai so với giá trị thực của nó thì có quyền yêu cầu cơ quan ĐKKD buộc ngời
định giá phải định giá lại giá trị tài sản góp vốn. Sở dĩ phải quy định nh vậy, vì
với các loại hình doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạnvề công nợ trên tài sản

6


hiện có của doanh nghiệp, thì việc định giá cao hơn giá trị thực của tài sản dễ
làm cho khách hàng lầm tởng khả năng thanh toán của doanh nghiệp dẫn đến ký
kết hợp đồng, song thực tế tài sản của doanh nghiệp lại không đủ để bảo đảm

khoản nợ đối với khách hàng, đặc biệt khi doanh nghiệp bị phá sản khách hàng
có thể mất một khoản tiền nào đó ứng với phần tài sản bị định giá sai.
Đối loại hình Cty TNHH hai thành viên trở lên luật DN quy định, nếu
không góp đủ, đúng hạn số vốn đã cam kết, thì số vốn đó đợc coi là nợ của thành
viên đối công ty và phải chịu trách nhiệm bồi thờng thiệt hại phát sinh do không
góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết. Bản thân ngời đại diện theo pháp luật còn
phải báo cáo về trờng hợp nói trên cho cơ quan ĐKKD trong thời hạn nhất định,
kể từ thời điểm cam kết góp vốn, sau thời hạn này mà khong thông báo bằng văn
bản đến cơ quan ĐKKD, thì ngời đại diện theo pháp luật của công ty phải liên
đới chịu trách nhiệm cùng với thành viên cha góp đủ vốn về phần vốn cha góp và
thiệt hại phát sinh do số vốn đó gây ra. Quy định nh vậycũng do xuất phát từ bản
chất của loại hình Cty TNHH tức chỉ chịu trách nhiệm công nợ công ty trên cơ
sở phần vốn góp, do đó số vốn thiếu của thành viên đợc chuyển sang nợ, tơng đơng một khoản tài sản mà công ty có, do vậy chủ nợ yên tâm hơn mặc dù tài sản
đó không thực có tại Cty.
Ngoài những nguyên tắc trên, để bảo vệ lợi ích chính đáng của các nhà đầu
t luật còn quy định chế độ hậu kiểm của các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền đối
các doanh nghiệp thông qua chế độ thanh tra và kiểm tra, điều này không những
giúp cơ quan nhà nớc tình hình các doanh nghiệp, mà còn có tác dụng cung cấp
các thông tin về khả năng tài chính, nguồn vốn khả dụng của các doanh nghiệp
cho các khách hàng có nhu cầu.
2.3. Luật doanh Nghiệp qui định về công ty TNHH một thành viên.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một loại hình doanh nghiệp
mới lần đầu tiên đợc đa vào nớc ta mặc dù nó đã đợc luật hoá từ lâu trên thế giới.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế của giới kinh doanh, một số ngời trong số họ có vốn
và đầu t vào kinh doanh, song họ không muốn thành lập doanh nghiệp t nhân bởi
tính rủi ro qúa cao của nó, do DNTN phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các
khoản nợ của doanh nghiệp, song họ cũng không muốn góp vốn vào công ty do
không muốn chia sẻ quyền chủ động trong kinh doanh cũng nh những khoản lợi
mà doanh nghiệp có thể thu dợc.
Trong thực tế những năm qua mặc dù pháp luật không quy định loại hình

doanh nghiệp này nhng lại mặc nhiên cho nó tồn tại dới một số hình thức và tên
gọi khác nh: DNNN do nhà nớc làm chủ sở hữu duy nhất, doanh nghiệp cuả các
7


tổ chức trính trị, tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài
ngoài ra còn tồn tai một thực tế là, hiện nay có nhiều công ty TNHH đợc thành
lập và đang hoạt động trên danh nghĩa hai thành viên trở lên nhng thực chất là
công ty TNHH một thành viên, bởi các thành viên góp vốn có thể là vợ, chồng
hoặc anh em bạn bè nhờ đứng tên cho đủ điều kiện đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật.
Từ nhu cầu và thực tế đó cùng với việc xem xét kinh nghiệm các nớc trên
thế giới, luật DN đã đa vào loại hình công ty TNHH một thành viên.
Tại điều 46 luật DN quy định "Công ty TNHH một thành viên là doanh
nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về công nợ
và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn điều lệ của
công ty". Nh vậy theo luật DN thì chỉ có các tổ chức mới đơc phép thành lập
công ty TNHH một thành viên, đây là điểm khác biệt giữa pháp luật nớc ta với
pháp luật các nớc trên thế giới và khác biệt với luật Đầu T Nớc ngoài Tại Việt
Nam. Điều khác biệt cơ bản công ty TNHH một thành viên với DNTN là ở việc
quy định trách nhiệm của chủ sở hữu đối nghĩa vụ và các khoản nợ của doanh
nghiệp, và đây cũng chính là yếu tố tạo lên u điểm của công ty TNHH một thành
viên so với DNTN; việc chuyển nhợng toàn bộ hoặc một phần vốn góp của công
ty đợc thực hiện một cách dễ dàng, khác với loại hình DNTN chủ sở hữu chỉ đợc
cho thuê hoặc bán toàn bộ doanh nghiệp cho ngời khác. Công ty TNHH chuỷên
sang hoạt động theo cơ chế của công ty TNHH hai thành viên trở lên khi
mộtphần vốn đợc chuyển nhợng cho ngời khác. Cũng nh DNTN, cty TNHH một
thành viên không đợc phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào ra công
chúng để huy động vốn. Cty TNHH một thành viên có t cách pháp nhân kể từ khi
đợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

2.4. Luật công ty quy định về loại hình công ty Hợp Danh.
Trên thế giới từ lâu đã tồn tại hai loại công ty: công ty đối nhân, công ty đối
vốn. Việc chia làm hai loại hình công ty là căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ
trách nhiệm của thành viên công ty và ý chí của nhà lập pháp.
Cty đối nhân là những công ty mà việc thành lập dựa trên sự liên kết chặt
chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia, vốn là nhân tố thứ
yếu. Đặc điểm cơ bản nhất của công ty đối nhân là: không có sự tách bạch rõ
ràng giữa tài sản công ty và tài sản thành viên, các thanh viên liên đới chịu trách
nhiệm vô hạn về công nợ của công ty hoăc ít nhất phải có một thành viên chịu
trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ đó. Hiện nay cty Đối nhân tồn tại dới hai
dạng cơ bản: công ty Hợp Danh và công ty Hợp Vốn Đơn Giản.
8


Công ty Hợp Danh là công ty mà trong đó các thành viên cùng nhau tiến
hành các hoạt động kinh doanh dới cùng một doanh nghiệp và cùng liên đới chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của công ty. Vì tính chất liên đới chịu trách nhiệm
vô hạn nên các thành viên phải có sự hiểu biết rõ về thân nhân cũng nh trình độ,
chuyên môn và khả năng tài chính của nhau. Công ty Hợp Danh đợc thành lập
khi có ít nhất hai thành viên thoả thuận với nhau trên cơ sở hợp đồng thành lập
công ty. Chủ nợ có thể yêu cầu bất cứ thành viên nào thực hiện toàn bộ nghĩa vụ
đối với mình và thành viên đó không đợc quyền từ chối, song có quyền yêu cầu
các thành viên còn lại bồi hoàn..Trong công ty hợp Danh không có sự phân biệt
rõ ràng giữa tài sản của công ty và tài sản cá nhân thành viên, sự chuyển dịch từ
tài sản chung sang tài sản riêng đợc thực hiện một cách dễ dàng và rất khó kiểm
soát.
Đối với công ty hợp vốn đơn giản thì ngoài thành viên hợp danh còn có
thành viên góp vốn, cũng giống nh công ty Hợp Danh, thành viên hợp danh của
công ty Hợp Vốn Đơn Giản cũng phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các
khoản nợ của công ty, còn thành góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm trên phần

vốn mà họ đóng góp. Nh vậy, so với công ty Hợp Danh công ty Hợp Vốn Đơn
Giản có khả năng thu hút đợc nguồn vốn lớn hơn, và rủi ro của các thành viên
hợp danh cũng phần nào đợc san sẻ cho các thành viên góp vốn, vì thành viên
góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về công nợ của công ty trên phần vốn mà
họ đóng góp, do đó họ bị hạn chế quyền điều hành và quản lý công ty, cụ thể:họ
không có quyền đại diện công ty trong các quan hệ đối ngoại, cũng nh không có
quyền tham gia biểu quyết trong các cuộc họp của công ty.
Thực tế ở nớc ta trong thời gian qua có một bộ phận dân c có tiền, muón
tham gia kinh doanh, nhng họ không muốn góp vốn vào công ty cổ phần vì loại
hình này cha phát triển, và không phù hợp với tâm lý cộng đồng của ngời Việt
Nam, hơn nữa thị trờng chứng khoán ở nớc ta cha đi vào hoạt động. Đối với công
ty TNHH thì qui định quá chặt chẽ về đối tợng tham gia thành lập công ty, đồng
thời do tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn, nên nó không tạo đợc sự tin tởng đối
với khách hàng đặc biệt là những dịch vụ mà hậu quả của nó có thể xảy ra rất
nghiêm trọng nh: dịch vụ t vấn pháp lý, t vấn xây dựng... Trong khi đó họ không
muốn một mình gánh chịu rủi ro dới hình thức DNTN, vì nh vậy có thể dẫn tới
sự khánh kiệt gia tài của họ.
Xuất phát từ thực tế đó, trên cơ sở luật Khuyến Khích Đầu T Trong Nớc và
chủ trơng thu hút mọi nguồn lực, tiềm năng của đất nớc để phát triển kinh tế.
Luật DN đã qui định một loại hình doanh nghiệp mới đó là công ty hợp doanh.
Công ty Hợp Doanh theo luật DN ngày 12/6/1999 nó không giống với loại hình
9


công ty HD truyền thống của các nớc trên thế giới, mà nó là sự hoà trộn giữa hai
loại hình công ty HD và công ty hợp vốn đơn giản, tức là vừa có các thành viên
hợp danh, chịu trách nhiệm vô hạn về công nợ công ty, lại vừa có các thành viên
góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về công nợ công ty trên phần vốn mà mình đã góp.
Việc qui định loại hình công ty HD trong luật DN là một bớc tiến quan trọng
trong việc hoàn thiện pháp luật kinh doanh ở nớc ta, nó không chỉ đáp ứng nhu

cầu của giới kinh doanh mà còn phù hợp với thông lệ quốc tế, là loại hình doanh
nghiệp phù hợp nhất đối với các ngành nghề đòi hỏi trách nhiệm cao của cá nhân
với chất lợng của dịch vụ mà mình cung ứng.
Trên đây là những nội dung mới, cơ bản mà luật DN đã đa ra, ngoài ra luật DN
còn qui định mới về đối tợng đợc quyền tham gia thành lập, quản lý và góp vốn vào
các doanh nghiệp nhằm bảo đảm sự thống nhất giữa luật DN với các văn bản pháp luật
khác nh: Bộ Luật Dân Sự, luật Thơng Mại, pháp lệnh Công Chức... đồng thời góp phần
phát huy tối đa mọi nguồn lực hiện có trong xã hội vào đầu t và phát triển sản xuất,
thúc đẩy mọi ngời làm giàu hợp pháp bằng tài năng và nguồn vốn của mình.
Luật DN qui định mọi ngời đều đợc quyền quản lý và thành lập doanh nghiệp
chỉ trừ các đối tợng sau: cơ quan nhà nớc, đơn vị thuộc lực lợng vũ trang nhân dân sử
dụng tài sản nhà nớc và công quĩ để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng
cho đơn vị mình: cán bộ, công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân Đội Nhân Dân, sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các đơn vị thuộc Công An Nhân Dân; cán bộ lãnh
đạo quản lý nghiệp vụ trong các DNNN, ngời cha thành niên, bị hạn chế hoặc mất
năng lực hành vi dân sự; ngời đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải
chấp hành hình phạt tù hoặc đang trong thời gian bị toà án tớc quyền hành nghề vì
phạm một số tội về kinh tế;những ngời đảm nhiệm một số chức danh của doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản; ngời nớc ngoài không thờng trú ở Việt Nam.
Cùng với việc mở rộng đối tợng đợc thành lập và quản lý doanh nghiệp, luật
DN còn cho phép mọi cá nhân, tổ chức đợc quyền góp vốn vào doanh nghiệp, trừ cơ
quan nhà nớc, đơn vị lực lợng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nớc và công quĩ
góp vốn thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình, các đối tợng không đợc quyền góp
vốn vào doanh nghiệp theo qui định của pháp luật về cán bộ, công chức. Ngoài ra
luật còn qui định tổ chức, cá nhân nớc ngoài không thờng trú tai Việt Nam, ngời Việt
Nam định c ở nớc ngoài đợc góp vốn vào công ty TNHH, công ty cổ phần và công ty
Hợp Danh theo qui định luật Khuyến Khích Đầu T Trong Nớc.

10



Kết luận
Dới ánh sáng của nghị quyết hội nghị lần thứ IV và nghị quyết hội nghị lần
thứ VI Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII luật DN mới đợc soạn thảo và đợc
Quốc hội khoá X thông qua, có hiệu lực thi hành ngày 1/1/2000. Luật DN ra đời
với những qui định mới về mở rộng đối tợng đợc phép kinh doanh, Côngty
TNHH một thành viên, Công ty hợp danh... so với 2 luật tiền nhiệm trớc đó là
luật công ty, luật DN t nhân đã tỏ rõ u thế hơn hẳn trong việc cụ thể hoá đờng lối
chủ trơng của Đảng và điều 57 hiến pháp năm 1992 Công dân có quyền tự do
kinh doanh theo qui định của pháp luật khuyến khích mọi thành phần kinh tế
đầu t vào sản xuất kinh doanh tạo ra môi trờng kinh doanh lành mạnh, năng
động đáp ứng nhu cầu kinh doanh trong giai đoạn mới, giai đoạn đẩy mạnh Công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đồng thời tăng cờng hiệu lực quản lý của Nhà nớc với
các hoạt động kinh doanh.
Sau 6 tháng thực hiện luật DN, cả nớc có khoảng 6441 DN đợc thành lập với
tổng số vốn đăng ký 5. 733. 598 triệu bao gồm 3031 DN t nhân, 3132 Công ty
TNHH và 282 Công ty cổ phần. Con số này đã phản ánh phần nào sự hởng ứng
nhiệt tình của giới kinh doanh nói riêng và của toàn xã hội nói chung đối với
những đổi mới của luật DN so với luật DN t nhân, luật công ty trớc đây.
Tuy nhiên bên cạnh đó còn tồn tại một số bất cập, hạn chế gây ảnh hởng
không nhỏ tới việc thực thi luật DN. Cản trở lớn nhất trong quá trình thực thi luật
DN là sự chậm trễ của các cơ quan chức năng hớng dẫn thi hành luật DN vào
trong thực tiễn cuộc sống. Mong rằng Chính phủ, Bộ. Ban ngành... sớm có biện
pháp khắc phục để luật DN thực sự phát huy tác dụng của nó để góp phần phát
huy nội lực phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nớc: đẩy
mạnh công cuộc đổi mới kinh tế, bào đảm quyền tự do, bình đẳng trớc pháp luật
trong kinh doanh của các DN thuộc mọi thành phần kinh tế; bảo hộ quyền và lợi
ích hợp pháp nhà đầu t; tăng cờng hiệu lực quản lý nhà nớc đối với các hoạt động
kinh doanh".


11


Danh mục tài liệu tham khảo

1. Hiến pháp 1992
2. Luật doanh nghiệp t nhân, luật công ty 21/12/1990
3. Luật doanh nghiệp 12/6/1999
4. Luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam
5. Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật.
6. Nghị định số 02/2000/NĐ - CP
7. Nghị định số 03/2000/NĐ - CP
8. GS Nguyễn Niên - Bớc phát triển mới của t duy kinh doanh
Pháp luật số 2/2000
9. TS Trần Ngọc Dũng Những quy định về công ty trong luật doanh nghiệp. Luật học số 5/2000.
10. Phạm Chi Lan
Một số ý kiến về luật doanh nghiệp số và việc thi hành luật doanh nghiệp.
Pháp luật số chuyên đề tháng 12.
11. Đặng Ngọc Huy
Những nội dung mới của luật doanh nghiệp. Pháp lý số 10/1999.

12


Mục lục

Lời nói đầu......................................................................................................1
Nội dung...........................................................................................................2
Luật doanh nghiệp và những đổi mới...........................................2

1. Mục tiêu của luật DN ..................................................................................2
2. Những nội dung mới đợc quy định trong luật doanh Nghiệp. ...................3
2.1. Luật DN bỏ thủ tục xin giấy phép thành lập. ......................................3
2.2. Luật doanh Nghiệp bỏ mức vốn pháp định đối hầu hết các ngành
nghề kinh doanh. .......................................................................................5
2.3. Luật doanh Nghiệp qui định về công ty TNHH một thành viên. .........7
2.4. Luật công ty quy định về loại hình công ty Hợp Danh. .......................8

Kết luận........................................................................................................11
Danh mục tài liệu tham khảo.........................................................12

13



×