Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO TẠI XÃ LĂNG CAN – HUYỆN LÂM BÌNH – TỈNH TUYÊN QUANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.19 KB, 66 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-----------@&?-----------

NGUYỄN THỊ KHÂM

Tên đề tài:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO TẠI XÃ LĂNG CAN –
HUYỆN LÂM BÌNH – TỈNH TUYÊN QUANG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành : Phát triển nông thôn
Khoa

: Kinh tế & PTNT

Khóa học

: 2012 - 2016


ii

Thái Nguyên - 2016


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-----------@&?-----------

NGUYỄN THỊ KHÂM
Tên đề tài:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO TẠI XÃ LĂNG CAN –
HUYỆN LÂM BÌNH – TỈNH TUYÊN QUANG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành

: Phát triển nông thôn

Lớp

: K44 - PTNT

Khoa

: Kinh tế & PTNT

Khóa học

: 2012 - 2016

Giảng viên hướng dẫn


: ThS. Nguyễn Quốc Huy


ii

Thái Nguyên – 2016


i

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, nay em đã hoàn thành bài báo cáo thực
tập tốt nghiệp theo kế hoạch của trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên với tên đề tài:
“Thực trạng và giải pháp giảm nghèo tại xã Lăng Can – Huyện Lâm Bình – Tỉnh
Tuyên Quang”.
Để có được kết quả này, lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thạc sỹ
Nguyễn Quốc Huy - Giảng viên khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn - Giáo viên hướng
dẫn em trong quá trình thực tập. Thầy đã chỉ bảo và hướng dẫn tận tình cho em những kiến
thức lý thuyết và thực tế cũng như các kỹ năng trong khi viết bài, chỉ cho em những thiếu sót
của mình, để em hoàn thành bài báo cáo thực tập tốt nghiệp với kết quả tốt nhất. Thầy luôn
động viên và theo dõi sát sao quá trình thực tập và cũng là người truyền động lực cho em,
giúp em hoàn thành tốt đợt thực tập của mình.
Cho phép em gửi lời cảm ơn chân thành tới các phòng ban, cán bộ UBND xã Lăng
Can đã tạo mọi điều kiện, nhiệt tình giúp đỡ em, cung cấp những thông tin và số liệu cần
thiết để phục vụ bài báo cáo. Ngoài ra, các cán bộ xã còn chỉ bảo tận tình, chia sẻ những
kinh nghiệm thực tế trong quá trình công tác, đó là những ý kiến hết sức bổ ích cho em sau
khi ra trường.
Em cũng xin cảm ơn người dân xã Lăng Can đã tạo điều kiện cho em trong thời
gian ở địa phương thực tập.

Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình dạy dỗ của các thầy cô trong khoa Kinh tế
và Phát triển nông thôn trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
Sau nữa em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã luôn bên cạnh
động viên em trong những lúc khó khăn.
Thái Nguyên, Ngày tháng năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thị Khâm


ii

DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Cơ cấu nhóm hộ điều tra của xã Lăng Can................................................................18
Bảng 4.1. Bảng tổng hợp hiện trạng sử dụng đất của toàn xã năm 2015...................................23
Bảng 4.2. Tình hình sản xuất nông – lâm nghiệp của xã Lăng Can..........................................23
Bảng 4.3 Tình hình chăn nuôi của xã từ 2013-2015..................................................................24
Bảng 4.4. Tình hình dân số và cơ cấu lao động của xã Lăng Can.............................................25
Bảng 4.5. Tỷ lệ nam giới và nữ giới tại xã lăng Can ................................................................26
Bảng 4.7. Tiêu chí phân loại hộ của xã Lăng can năm 2015.....................................................31
Bảng 4.8. Tình hình nghèo tại xã Lăng Can giai đoạn 2013 – 2015.........................................32
Bảng 4.9: Cơ cấu các nhóm hộ xã Lăng can năm 2015.............................................................33
Bảng 4.10 Phương tiện sản xuất của các hộ điều tra.................................................................35
Bảng 4.12. Tình hình sử dụng đất đai của các hộ điều tra.........................................................36
Bảng 4.13. Số khẩu trung bình của một hộ điều tra...................................................................37
Bảng 4.14. Tỷ lệ người sống phụ thuộc tại các hộ điều tra ......................................................38
Bảng 4.15. Trình độ học vấn của các nhóm hộ điều tại xã Đèo Gia năm 2014.........................39
Bảng 4.16. Tình hình vay vốn sản xuất của các hộ điều tra .....................................................40
Bảng 4.17. Bình quân thu nhập của hộ điều tra.........................................................................41
Bảng 4.18: Các nguyên nhân nghèo đói tại xã Lăng Can Năm 2015........................................42



iii

DANH MỤC HÌNH
Trang
Hình 4.1. Cơ cấu các nhóm hộ xã Lăng can năm 2015.............................................................34


iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1
2
3
4
5

Chữ viết tắt
BHYT
KH- KT
KT-XH
LĐ-TB&XH
NHCSXH và NHNN

Nghĩa
Bảo hiểm y tế
Khoa học- kỹ thuật
Kinh tế- xã hội

Lao động, thương binh và xã hội
Ngân hàng chính sách xã hội và Ngân

6
7
8
9
10
11
12
13
14
15

PTSH
PTSX
TCTK
THCS
UBND
UNDP
USD
WB
XĐGN
HGĐ

hàng nông nghiệp
Phương tiện sinh hoạt
Phương tiện sản xuất
Tổng cục thống kê
Trung học cơ sở

Ủy ban nhân dân
Chương trình phát triển Liên hợp quốc
Đô la Mỹ
Ngân hàng Thế Giới
Xóa đói giảm nghèo
Hộ gia đình


v

MỤC LỤC
Thái Nguyên - 2016.....................................................................................................................ii
Thái Nguyên – 2016....................................................................................................................ii
LỜI CẢM ƠN...............................................................................................................................i


1

PHẦN 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Ngày nay trên thế giới còn khoảng 1,2 tỷ người sống trong cảnh nghèo đói
tập chung chủ yếu ở các nước đang phát triển thuộc khu vực Châu Á và Châu Phi…
Trong điều kiện hiện nay sự toàn cầu hóa đem lại hiệu quả hết sức to lớn về phát
triển kinh tế, khoa học công nghệ, song mặt trái của nó chính là tỷ lệ gia tăng thất
nghiệp, nghèo đói và hàng loạt các vấn đề nổi cộm cần giải quyết thuộc về các quốc
gia nói riêng và toàn cầu nói chung.
Ngày nay, việc giảm bớt nghèo đói đã trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu ở
các nước đang phát triển. Mặc dù tăng trưởng có thể đem lại lợi ích cho tất cả các

thành viên trong xã hội nhưng người nghèo bao giờ cũng nhận được phần ít hơn
trong thành quả tăng trưởng của nền kinh tế. Thiên tai, nạn đói và bệnh tật vẫn
thường xuyên đe dọa cuộc sống của người nghèo, cho nên, việc nghiên cứu tìm ra
những yếu tố ảnh hưởng đến sự nghèo đói để cải thiện đời sống của người nghèo đã
trở thành ưu tiên hàng đầu cho chiến lược phát triển kinh tế của các quốc gia.
Đói nghèo là nỗi ám ảnh thường trực đối với loài người. Thế giới đã chứng
kiến những thảm họa của chiến tranh, thảm họa của thiên tai, dịch bệnh với bao nỗi
kinh hoàng. Thế nhưng hậu quả do những nạn đói gây ra cũng vô cùng khủng
khiếp. Nếu như các cuộc chiến tranh dù khốc liệt vô cùng nhưng rồi trước sau cũng
được giải quyết, nếu như những thảm họa do thiên tai, dịch bệnh gây ra từng bước
cũng sẽ được khắc phục thì vấn đề nghèo đói của nhân loại lại là một vấn đề vừa
cấp bách, vừa phức tạp lại như một căn bệnh kinh niên khó bề chạy chữa.
Đói nghèo diễn ra trên tất cả các châu lục với những mức độ khác nhau. Đặc
biệt ở các nước đang phát triển, sự đói nghèo của dân cư đang là một vấn đề nhức
nhối rất cấp bách phải tháo gỡ nhưng cũng vô cùng khó khăn trong việc thực hiện
xóa đói giảm nghèo.
Những năm gần đây, nhờ những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền
kinh tế nước ta đã có những bước chuyển mình rất quan trọng. Đặc biệt là vào năm 2006


2

nước ta đã chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới
WTO. Những nhân tố đó đã làm cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, đại bộ
phận đời sống nhân dân đã được nâng lên một cách rõ rệt. Song, một bộ phận không nhỏ
dân cư đặc biệt là dân cư ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa... đang chịu cảnh nghèo đói,
chưa đảm bảo được những điều kiện tối thiểu của cuộc sống như ăn, ở, mặc, đi lại...
Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản hướng vào
phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá trình
phát triển KT - XH của đất nước, để cho người nghèo có cơ hội và điều kiện tiếp

cận các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự vươn lên thoát khỏi nghèo luôn là điều
mà Đảng và Nhà Nước ta luôn đặt ưu tiên lên hàng đầu.
Với tầm quan trọng và tính cấp thiết như trên tại xã Lăng Can - Huyện Lâm
Bình – Tỉnh Tuyên Quang cùng với sự giúp đỡ quan tâm của các cấp ban ngành của
Đảng và Nhà Nước thì những năm qua xã Lăng Can đã tổ chức và thực hiện rất nhiều
những chương trình theo chủ chương chính sách của Nhà Nước trong việc hỗ trợ và
giúp đỡ người nghèo nhằm giảm tỷ lệ nghèo đói nơi đây. Là một người con trong xã và
cũng là một sinh viên sắp ra trường. Trải qua quá trình tìm tòi và nghiên cứu tôi đã thấy
được tính cấp thiết của của việc giảm nghèo, cho nên tôi đã quyết định chọn đề tài khóa
luận tốt nghiệp của mình đó là: “ Thực Trạng và giải pháp giảm nghèo tại xã Lăng
Can - Huyện Lâm Bình – Tỉnh Tuyên Quang”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng nghèo tại xã Lăng Can - Huyện
Lâm Bình – Tỉnh Tuyên Quang và đưa ra những giải pháp giảm nghèo cải thiện đời
sống nhân dân trong xã..
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Điều tra sơ bộ và phân tích thực trạng đói nghèo.
- Đưa ra được những nguyên nhân dẫn tới nghèo tại địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất được các giải pháp giảm nghèo phù hợp và thật sự thiết thực giúp các hộ
gia đình nghèo tại địa phương nhằm góp phần giảm tỷ lệ nghèo và xây dựng địa phương
ngày càng phát triển.


3

1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài là cơ hội để cho sinh viên thực hành những kiến thức đã học,
áp dụng kiến thức vào thực tế, là khung chương trình mà bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra

có tính chất tất yếu giúp sinh viên nâng cao kiến thức và kinh nghiệm thực tế.
Nghiên cứu đề tài đòi hỏi sinh viên phải vận dụng nhiều kiến thức đã học để
đưa vào thực tế, các thủ thuật về xác suất thống kê, kỹ năng đặt câu hỏi khai thác
thông tin, các phương pháp PRA, khả năng phân tích xử lý số liệu, khả năng nhận
định theo các nguyên lý phát triển nông thôn, sự tổng hợp và đưa ra lý luận từ những
vấn đề thực tiễn...
Nghiên cứu đề tài được xem như bài học thực tế đầu tiên giúp cho sinh viên
làm quen khi bắt tay vào thực tế, nó là cơ hội nhưng cũng đầy thách thức mà sinh
viên phải đối mặt và trải qua trước khi ra trường và bắt tay vào công việc, nghề
nghiệp của mình sau này.
Đây là đề tài nghiên cứu có tính chất cấp thiết và quan trọng hàng đầu trong
các chương trình phát triển kinh tế, xã hội của thế giới cũng như Việt Nam. Bởi
trong các vấn đề của xã hội thì nghèo đói được xem là gốc dễ dẫn tới nhiều những
vấn đề khác của cuộc sống. Nó là một mắt xích trong vòng luẩn quẩn của các vấn
đề xã hội.
Đây cũng là nguồn tài liệu bổ xung cho kho thư viện phục vụ cho công tác
nghiên cứu học tập của các bạn sinh viên khóa sau cũng như công tác giảng dạy của
các thầy các cô. Và cũng là cơ sở cho việc hình thành, thực hiện những ý tưởng
khoa học sau này.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài sẽ góp phần vào việc đánh giá thực trạng đói nghèo tại địa phương,
những nguyên nhân nghèo đói, hiệu quả của các chính sách, chương trình triển khai
tới đời sống sinh hoạt và sản xuất của bà con địa phương.
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ là cơ sở giúp chính quyền và ban ngành đoàn thể
trong xã đưa ra được những biện pháp giảm nghèo có hiệu quả hơn.


4

PHẦN 2

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Một số quan điểm về nghèo và giảm nghèo
2.1.1.1. Một số khái niệm và định nghĩa danh từ nghèo
Quan niệm về nghèo đói hay nhận dạng về nghèo đói của từng quốc gia hay
từng vùng, từng nhóm dân cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể, tiêu chí
chung nhất để xác định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thoả mãn những
nhu cầu cơ bản của con người. Sự khác nhau chung nhất là thoả mãn ở mức cao hay
thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như
phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về nghèo đói do hội nghị chống đói
nghèo khu vực châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Bangkok - Thái Lan
vào tháng 9 năm 1993: “Nghèo khổ là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả
năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu ấy phụ
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và
những phong tục ấy được xã hội thừa nhận” [20].
• Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen,
Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về nghèo đói như sau:
“Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập dưới 1 đô la (USD) mỗi ngày cho
mỗi người, số tiền coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại” [17].
Vậy tiêu chí để xác định nghèo ở nước ta là:
• Xác định giàu nghèo là một việc khó vì nó gắn với từng thời điểm, từng
quốc gia, và được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau .Ở nước ta, từ khi có chủ
trương xoá đói giảm nghèo, các cơ quan trong nước và quốc tế đã đưa ra những
chuẩn mực để xác định tình hình đói nghèo. Đó là: chuẩn mực của bộ lao động
thương binh xã hội, chuẩn mực của TCTK, chuẩn mực đánh giá của WB để có cơ
sở xây dựng chương trình xoá đói giảm nghèo phù hợp với tập quán và mức sống ở


5


nước ta hiện nay. Song quan niệm thống nhất cho rằng: “Nghèo đói là tình trạng
một bộ phận dân cư có mức thu nhập thấp với điều kiện ăn, mặc, ở và nhu cầu cần
thiết khác bằng hoặc thấp hơn mức tối thiểu để duy trì cuộc sống ở một khu vực tại
một thời điểm nhất định” [2].
Thực chất, hai vấn đề đói và nghèo là khác nhau:
+ Đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo, có mức sống dưới mức
tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
+ Nghèo: Là tình trạng của một bộ phân dân cư chỉ có các điều kiện vật chất
và tinh thần để duy trì cuộc sống của gia đình họ ở mức tối thiểu trong điều kiện
chung của cộng đồng. Mức tối thiểu được hiểu là các điều kiện ăn, ở, mặc và các
nhu cầu khác như: Văn hoá, giáo dục, y tế, đi lại, giao tiếp... Chỉ đạt mức duy trì
cuộc sống rất bình thường và dưới đó là đói khổ.
Nghèo luôn luôn là dưới mức trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương
diện. Giữa mức nghèo và mức trung bình của xã hội có một khoảng cách thường là
ba lần trở lên.
Ngân hàng Thế Giới đưa ra khái niệm về nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối
như sau:
* Nghèo tuyệt đối?
Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát
triển, Robert McNamara, khi là giám đốc của Ngân hàng Thế giới, đã đưa ra khái
niệm nghèo tuyệt đối. Ông định nghĩa khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: "Nghèo ở
mức độ tuyệt đối... là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo
tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và
trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn
của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta." [21].
WB xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của địa
phương so với (đô la thế giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho
nạn nghèo tuyệt đối. Trong những bước sau đó các trị ranh giới nghèo tuyệt đối
(chuẩn) cho từng địa phương hay từng vùng được xác định, từ 2 đô la cho khu vực



6

Mỹ La tinh và Carribean đến 4 đô la cho những nước Đông Âu cho đến 14,40 đô la
cho những nước công nghiệp. (Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc 1997).
* Nghèo tương đối?
Nghèo tương đối có thể xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực
vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định
so với sự xung túc xã hội đó.
Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc
vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ
quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định
khách quan. Bên cạnh thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài
nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hoá xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được
các nhà xã hội học xem như là thách thức nghiêm trọng[21].
2.1.1.2. Khái niệm giảm nghèo và quan điểm về giảm nghèo
Giảm nghèo hiểu đơn giản là làm cho kinh tế của những hộ nghèo khá lên,
thoát khỏi ngưỡng nghèo. XĐGN phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh,
hiệu quả và bền vững, đồng thời chủ động tạo các nguồn lực cho các hoạt động
trợ giúp người nghèo đói.
Quan điểm này dựa trên lô-gic biện chứng là muốn giúp đỡ, hỗ trợ có hiệu
quả người nghèo đói thì Nhà nước phải có đủ nguồn lực vật chất trong tay, bởi vì
chính bản thân nhà nước là chủ thể có đầy đủ các khả năng điều hoà thu nhập
giữa các nhóm dân cư. Hơn nữa, các nguồn lực vật chất để thực hiện sự điều hoà
thu nhập ấy lại chỉ có thể có được khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và
bền vững. Thực tế cho thấy, nhờ kinh tế phát triển mà Nhà nước đã có đủ tài
chính để mở rộng các dự án, các chương trình xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ cho
hàng ngàn xã khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, trên cơ sở đó
những người nghèo ở những vùng sâu, vùng xa có thêm cơ hội để vươn lên thoát

nghèo đói. Nhìn chung, ở đâu kinh tế phát triển, ngành nghề và hoạt động kinh tế
đa dạng, việc làm đầy đủ, thì ở đó số hộ nghèo đói giảm nhanh, số hộ giàu tăng
lên và bộ mặt xã hội của cộng đồng thay đổi nhanh chóng.


7

XĐGN không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của toàn xã hội, mà trước
hết là bổn phận của chính người nghèo, phụ thuộc vào sự vận động tự giác của
bản thân người nghèo, cộng đồng nghèo.
XĐGN phải được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo, cộng đồng
nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để thoát nghèo chính là động lực, là điều
kiện cần cho sự thành công của mục tiêu chống đói nghèo ở các nước.
Nhà nước sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái
nghèo khi gặp rủi ro. Bên cạnh sự hỗ trợ về vật chất trực tiếp thì việc tạo việc
làm cho người nghèo bằng cách hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh doanh
phát triển kinh tế theo điều kiện cụ thể của họ chính là điều kiện xoá đói giảm
nghèo thành công nhanh và bền vững.
2.1.2 Cơ sở phân định hộ nghèo, cận nghèo tại xã giai đoạn 2010 - 2015
* Chuẩn nghèo cũ từ năm 2006 - 2010
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 08
tháng 07 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng giai đoạn 2006 - 2010 thì:
* Mức chuẩn nghèo áp dụng trong giai đoạn này như sau
Khu vực nông thôn: Những hộ có thu nhập bình quân 200.000đ/người/tháng (từ
2.400.000đ/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Khu vực thành thị: từ 260.000đ/người/tháng (từ 3.120.000đ/người/năm) trở
xuống là hộ nghèo.
* Mức chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015
Ngày 21/9/2010 Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị số 1752/CT-TTg về việc
tổng điều tra hộ nghèo trên toàn quốc, thực hiện cho việc thực hiện các chính sách

an sinh xã hội giai đoạn 2011- 2015. Theo đó, tiêu chí về mức chuẩn nghèo áp dụng
cho giai đoạn 2011 -2015 như sau:
Hộ nghèo ở nông thôn có thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng
trở xuống, hộ nghèo ở thành thị có thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng
trở xuống.


8

Hộ cận nghèo ở khu vực này nông thôn có thu nhập từ khoảng 401.000 đồng
đến 520.000 đồng/người/tháng. Còn ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập từ
501.000 - 650.000 đồng/người/tháng.
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Thực trạng nghèo trên thế giới và khu vực hiện nay
Theo báo cáo mới nhất của WB, trong năm 2015 có khoảng 702 triệu người,
tương đương 9,6% dân số trên thế giới, sống dưới chuẩn nghèo, chủ yếu ở Châu Á
và khu vực nam Sahara của châu phi. Số liệu này giảm mạnh so với 902 triệu người
nghèo, chiếm 13% dân số toàn cầu, trong năm 2012. Năm 1999, số người nghèo
cùng cực trên thế giới chiếm tới 29%[14].
Khu vực Nam Sahara Châu Phi vẫn là điểm nóng về nghèo cùng cực trên thế
giới toàn cầu, chiếm gần một nửa số người nghèo trên thế giới. Tỷ lệ hộ nghèo
trong khu vực này cũng giảm chậm hơn so với các nước khác, giảm từ 56% vào
năm 1999 với một dự báo 35% trong năm 2015[14].
Theo báo cáo năm 2014 được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
(UNDP) công bố tại Tokyo ngày 24/7, số người nghèo và cận nghèo trên thế giới
lên tới hơn 2,2 tỷ người. Các cuộc khủng hoảng tài chính, thiên tai, giá lương thực
tăng và các cuộc xung đột có thể làm tình hình trở nên trầm trọng hơn [19].
Báo cáo cho biết, trong khi tình trạng nghèo đói đang có chiều hướng giảm trên
toàn thế giới thì sự bất bình đẳng và "những tổn thương mang tính cơ cấu" vẫn là một
mối đe dọa nghiêm trọng. Gần 1,5 tỷ người tại 91 quốc gia đang phát triển sống trong

tình trạng nghèo đói, trong khi 800 triệu người đang ngấp nghé “bờ vực” nghèo.
Nghèo đói tập trung chủ yếu vào hai khu vực đó là Châu Phi và Châu Á:
Với Châu Á là nơi có nhiều người bị đói nhất, khoảng 526 triệu. Ở Haiti, số người
đói ăn chiếm 4,4% dân số trong giai đoạn 1990-1992 nhưng nay tăng lên thành
5,35% trong giai đoạn 2012-2014.
Với Châu Phi, theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, châu Phi là châu lục có tỉ
lệ thanh niên thất nghiệp cao nhất thế giới (25,6% ở khu vực Trung Đông và Bắc
Phi). Thất nghiệp là một trong những vấn đề chủ chốt gây ra nạn đói nghèo của lục


9

địa Đen và ảnh hưởng tiêu cực đến các chương trình và các kế hoạch phát triển, với
tỉ lệ tăng 10% mỗi năm. 32 trong số 38 nước nghèo nhất thế giới là thuộc châu Phi.
Số tiền nợ của châu Phi lên tới 425 tỉ USD. Tuổi thọ trung bình ở châu Phi thấp
nhất thế giới, 45 tuổi. Chỉ có 58% số người dân châu Phi được dùng nước sạch.
Với Châu Âu, Ngày 4-11- 2014, Cơ quan Thống kê châu Âu (Eurostat) công
bố báo cáo về tình trạng nghèo đói và phân biệt đối xử trong xã hội tại Liên minh
châu Âu (EU) năm 2013 cho biết, hiện có khoảng 122,6 triệu người (tức 24,5% dân
số) các nước thành viên EU có nguy cơ rơi vào tình trạng nghèo đói và bị phân biệt
đối xử trong xã hội. Con số này dù đã giảm nhẹ so với năm 2012 (24,8%) nhưng
cao hơn năm 2008 (23,8%).
Theo báo cáo, 5 quốc gia thành viên EU có tỷ lệ người dân có nguy cơ nghèo
đói hoặc bị phân biệt đối xử trong xã hội “đứng đầu bảng” trong năm 2013 gồm:
Bulgaria với tỷ lệ 48% số dân, Romania 40,4%, Hy Lạp 40,4%, Latvia 40,4% và
Hungary 40,4%. Tỷ lệ thấp hơn được ghi nhận tại các nước như Cộng Hòa Czech
với 14,6%, Hà Lan 15,9%, Phần Lan 16%, Thụy Điển 16,4%. “Xếp hạng” nghèo
đói của các nước này cũng tương tự bảng xếp hạng cách đây 3 năm, theo đó
Bulgaria giữ chức “quán quân” với 42%, Romania 41%, Latvia 38%.
* Thực trạng nghèo đói tại 1 số nước

• Trung Quốc:
Trung Quốc là một nước có số dân đông nhất thế giới và cũng là nước có số
dân nghèo chiếm tỷ lệ cao. Tỷ lệ nghèo khổ chiếm 20% dân số, trong đó 80 triệu
người quá nghèo khổ chiếm 8% dân số (số liệu của FAO,1990). Bước vào thời kỳ
cải cách kinh tế, nông thôn Trung Quốc đã có sự thay đổi lớn, tuyệt đại đa số nông
dân đã giải quyết được vấn đề no cơm ấm áo, tỷ lệ nghèo khổ giảm đáng kể do
Trung Quốc sớm quan tâm và thực hiện rất có hiệu quả chương trình “xoá đói giảm
nghèo” ở trên phạm vi cả nước, nhất là khu vực nông thôn. Kinh nghiệm thành
công của Trung Quốc trong công cuộc XĐGN cho thấy tầm quan trọng của việc kết
hợp tăng trưởng kinh tế gắn với những biện pháp giải quyết việc làm ở nông thôn,
mở rộng hệ thống dạy nghề, tăng kỹ thuật mới, giảm nhẹ điều kiện việc làm, cải
thiện đời sống, phát triển công nghiệp nông thôn nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế, cải


10

tạo nền kinh tế thuần nông với phương châm "ly nông bất ly hương". Đối với các
vùng nghèo, Chính phủ có các chương trình riêng như:
Giúp đỡ các huyện nghèo theo phương châm lấy phát triển kinh tế là chính
với các công tác sau: Kết hợp khai thác tổng hợp nông nghiệp, đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng, phát triển ngành nghề địa phương, phòng chống về các bệnh tật, phổ cập
giáo dục tiểu học nâng cao trình độ văn hoá, trình độ kĩ thuật cho người lao động.
Khống chế tốc độ gia tăng dân số, khai thác và bảo vệ tốt tài nguyên môi trường
sinh thái.
Ngoài những nỗ lực đó còn có các chính sách tín dụng cho hộ nghèo vay vốn
với lãi suất thấp thực hiện ưu đãi về thuế tín dụng. Nhà nước tăng các khoản đầu tư
vào các vùng khó khăn, động viên các lực lượng xã hội chi viện cho vùng nghèo
khó về vốn sản xuất; khoa học kỹ thuật (KHKT) và đã thu được những kết quả tốt.
Giúp đỡ xã nghèo, thôn nghèo và các hộ nghèo như phổ biến kinh nghiệm, hợp
tác kinh tế giúp đỡ lẫn nhau cùng có lợi để đưa xã nghèo, thôn nghèo, hộ nghèo

thoát khỏi khó khăn tiến tới giàu có [6].
• Ấn Độ:
Trước đây Ấn Độ là một trong những nước có số người nghèo khổ nhiều
nhất thế giới. Theo tiêu chuẩn của liên hợp quốc, hiện nay Ấn Độ có khoảng 420
triệu người ở tình trạng nghèo đói chiếm 37,60% tổng số người nghèo khổ trên thế
giới, chiếm 55,00% dân số đất nước.
Từ những năm 1950 - 1970 chính phủ Ấn Độ đặt ra vấn đề phát triển toàn
diện khơi dậy tiềm năng sẵn có trong nông thôn. “Cuộc cách mạng xanh” với việc
đưa tiến bộ KHKT vào sản xuất, phẩm chất tốt cùng với chương trình phát triển
nông nghiệp khác đã đưa Ấn Độ từ một nước phải nhập khẩu lương thực nay trở
thành một nước có khả năng tự túc lương thực. Chính phủ Ấn Độ đã có biện pháp
giúp đỡ từng nhóm hộ gia đình phát triển sản xuất nên đã có 15 triệu hộ gia đình với
khoảng 75 triệu người thoát khỏi cảnh nghèo khổ. Hiện nay Ấn Độ có khoảng 12 -


11

15% số hộ nông dân khá, giàu. Đây là một kết quả cũng là thành tựu mà Ấn Độ có
được [6].
• Nhật Bản:
Nhật Bản là quốc gia đất hẹp người đông, điều kiện phát triển kinh tế rất khó
khăn, nghèo tài nguyên lại thường hay động đất... Nhưng đặc điểm của người Nhật
Bản là rất hay làm việc, biết tiết kiệm và căn cơ. Chỉ hơn 20 năm sau chiến tranh, từ
đống tro tàn đổ nát, Nhật Bản đã vươn lên thành cường quốc về kinh tế, đời sống
nhân dân tăng cao, tình trạng đói nghèo đã giảm xuống thấp. Hiện nay 90% dân số
Nhật Bản là tầng lớp trung lưu. Có được thành quả như vậy là do Nhật Bản đã đưa
ra kế hoạch và chính sách rất đúng đắn và thực hiện tích cực, góp phần đẩy mạnh
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, XĐGN bền vững. Nhật Bản đã áp
dụng các giải pháp như: Thực hiện quá trình dân chủ hoá sau chiến tranh; Thực hiện
dân chủ hoá lao động; Xóa bỏ cơ sở gây ra sự phân hoá giàu nghèo; Thực hiện

chính sách thuế thu nhập để giảm bớt chênh lệch về thu nhập; Thực hiên chính sách
vùng, khu vực: khuyến khích phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng... Hỗ trợ khu
vực nông thôn nông nghiệp thông qua chính sách bảo hộ đối với sản xuất nông
nghiệp; Thực hiện chính sách về phúc lợi xã hội: Thông qua hệ thống bảo hiểm
rộng lớn trên các lĩnh vực: Tương trợ công cộng, dịch vụ, phúc lợi bảo hiểm xã hội
(chăm sóc sức khoẻ, trợ cấp con cái, hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp và tai nạn lao
động), y tế công cộng, trợ cấp và giúp đỡ của Nhà nước cho các nạn nhân chiến
tranh. Các khoản chi cho bảo hiểm xã hội ở Nhật Bản không nhỏ, năm 1989 con số
này đã chiếm 14% thu nhập quốc dân và từ đó đến nay các khoản chi này không
ngừng tăng lên. Đây chính là biên pháp có hiệu quả để những người nghèo sớm
thoát khỏi cảnh đói nghèo và những người không may gặp rủi ro nhanh chóng trở
lại cuộc sống ổn định, nâng cao chất lượng cuộc sống [ 6].
2.2.2. Thực trạng nghèo tại Việt Nam
2.2.2.1 Những thành tựu ấn tượng của Việt Nam về giảm nghèo
Trong Báo cáo "Khởi đầu tốt nhưng chưa phải đã hoàn thành: Thành tựu ấn
tượng của Việt Nam về giảm nghèo và những thách thức mới" của WB ngày


12

24/1/2013 đã ghi nhận: Trong vòng 20 năm (1990 - 2010), tỷ lệ nghèo ở Việt Nam
đã giảm từ gần 60% xuống còn 20,7% với khoảng hơn 30 triệu người thoát nghèo.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đạt được thành tựu ấn tượng về giáo dục và y tế. Tỷ lệ
nhập học ở bậc tiểu học của người nghèo là trên 90% và ở bậc trung học cơ sở là
70%. Trình độ học vấn tăng và sự đa dạng hóa các hoạt động phi nông nghiệp, cơ
hội làm việc ở công trường, nhà máy... cũng đóng góp tích cực cho công tác xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam[15].
Không chỉ Ngân hàng thế giới mà nhiều nước và tổ chức quốc tế khác cũng
đánh giá cao, coi Việt Nam là "một điểm sáng thành công" trong xóa đói giảm
nghèo. Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) cũng vinh danh công nhận

thành tích nổi bật trong xóa đói, giảm nghèo cho 38 quốc gia trên thế giới, trong đó
có Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam cũng nằm trong nhóm 18 quốc gia được trao
bằng khen chứng nhận việc sớm đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ 1, hướng
tới mục tiêu giảm một nửa số người bị đói vào năm 2015. Điều này khẳng định định
hướng chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam là
đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới[15].
Còn theo nguyên Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Phạm
Thị Hải Chuyền, mặc dù kinh tế đất nước còn không ít khó khăn nhưng Đảng, Nhà
nước luôn coi công tác giảm nghèo là một trong những mục tiêu quan trọng. Vì thế,
an sinh xã hội và giảm nghèo luôn là một trong những lĩnh vực ưu tiên hàng đầu
trong hoạt động của Chính phủ những năm qua. Với những nỗ lực liên tục của cả hệ
thống chính trị, mục tiêu giảm nghèo của Việt Nam đã thu được những kết quả quan
trọng, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 58% (năm 1993) xuống còn dưới 10%.
Đến cuối năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo cả nước ước còn 7,8%, giảm 1,8% so với năm
2012; riêng các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a giảm bình quân 5%, từ 48,39%
năm 2012 xuống còn 38,89% [15].
2.2.2.2 Những thách thức mới
Tuy đạt được những thành tích ấn tượng về giảm nghèo thời gian qua, nhưng
các nghiên cứu gần đây cho thấy Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn.


13

Đó là tốc độ giảm nghèo không đồng đều, chưa bền vững. Tỷ lệ nghèo đã giảm
nhanh ở các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc, nhưng
nhiều nơi vẫn còn trên 50% (có nơi còn trên 60 - 70%). Ngoài ra, tỷ trọng hộ nghèo
ở đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 47% tổng số hộ nghèo cả nước. Thu nhập bình
quân của hộ dân tộc thiểu số chỉ bằng 1/6 mức thu nhập bình quân của cả nước.
Để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững từ nay đến năm 2020, nguyên Bộ
trưởng Phạm Thị Hải Chuyền cho rằng cần tiếp tục ưu tiên nguồn lực cho các vùng

nghèo nhất, cho các khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Việc xây dựng, ban hành
chính sách hỗ trợ mới cần theo hướng mở rộng đối tượng là hộ mới thoát nghèo và
hộ cận nghèo, nhằm hạn chế tái nghèo, góp phần giảm nghèo bền vững, các mức
chính sách được thiết kế theo nguyên tắc: hộ nghèo được ưu tiên nhất, sau đó mới
đến hộ mới thoát nghèo và hộ cận nghèo.
Theo nguyên Bộ trưởng, cần khuyến khích tăng cường tính tự chủ, vươn lên
của người nghèo. “Việc hỗ trợ của Nhà nước là cần thiết và quan trọng nhưng cần
xác định xóa đói giảm nghèo là việc của bản thân người dân, phải làm cho người
dân tự giác, chủ động thực hiện và có trách nhiệm hơn nữa để vươn lên thoát
nghèo” – nguyên Bộ trưởng nhấn mạnh. Vì vậy giai đoạn tới, chính sách nghèo cần
được gắn với điều kiện, hạn chế việc hỗ trợ cho không; đồng thời quy định thời hạn
tối đa hộ nghèo được hỗ trợ chính sách (từ 3 - 5 năm) nhằm khắc phục tư tưởng
trông chờ, ỷ lại.
Đáng lưu ý, vấn đề chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo đói từ
đơn chiều sang đa chiều được nguyên Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền đề cập đến
như một giải pháp nhằm tăng độ bao phủ chính sách tới các đối tượng và thực hiện
mục tiêu giảm nghèo hiệu quả hơn. Đáng chú ý, được sự hỗ trợ từ Liên hợp quốc,
Việt Nam trở thành một trong 20 quốc gia tiên phong trong nghiên cứu và áp dụng
các phương pháp đo lường nghèo đa chiều để hiểu rõ hơn về các nguyên nhân gốc
rễ gây ra tình trạng nghèo và thiết kế các chính sách, chương trình mục tiêu phù hợp
hơn. Chính phủ đã giao Bộ LĐ-TB&XH phối hợp với các Bộ, ngành nghiên cứu
xây dựng đề án chuyển đổi, trình Chính phủ phê duyệt để áp dụng sau năm 2015...


14

Tin rằng, với quyết tâm của cả hệ thống chính trị và người dân, công tác xóa
đói giảm nghèo năm 2014 sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu lớn hơn, góp phần
từng bước thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững từ nay đến năm 2020 [15].
2.2.3.Một số địa phương làm tốt công tác giảm nghèo ở nước ta.

2.2.3.1 Giảm nghèo ở huyện Na Hang – Tuyên Quang.
Đầu năm 2015, huyện Nà Hang có hơn 2.500 hộ nghèo, chiếm 25,7%. Trong
đó có 1.000 hộ nghèo thiếu tư liệu sản xuất, 289 hộ thiếu đất sản xuất, 140 hộ thiếu
việc làm, 626 hộ không biết cách làm ăn, còn lại là những nguyên nhân khác. Trước
thực trạng này, Huyện ủy, UBND huyện Nà Hang đã họp bàn và triển khai thực
hiện nhiều chương trình, chính sách giúp đỡ hộ nghèo giảm nghèo như: Tạo điều
kiện cho hộ nghèo tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi của Ngân hàng Chính sách xã hội;
phối hợp với Trung tâm giới thiệu việc làm, các khu công nghiệp, các chương trình
khuyến nông, khuyến lâm tạo điều kiện thuận lợi để người nghèo được đào tạo nghề
và có việc làm ổn định thu nhập…[13].
Trong năm 2015, huyện đã tạo điều kiện cho 654 hộ nghèo vay trên 22,4 tỷ
đồng phát triển chăn nuôi trâu, bò, dê; giải quyết việc làm cho 947 lao động tại địa
phương, đưa 360 lao động đi làm việc tại các khu công nghiệp trong nước; mở 11
lớp dạy nghề cho lao động nông thôn; tổ chức tập huấn chuyển giao khoa học kỹ
thuật khuyến nông, lâm cho hơn 5.300 lượt hộ gia đình…[13].
Quan tâm giải quyết tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân, trong năm 2015, huyện đã tạo điều kiện thuận lợi để các hộ
nghèo tiếp cận với dịch vụ y tế, giáo dục; trên 35.300 hộ nghèo được khám, chữa
bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế; hơn 1.700 học sinh, sinh viên được miễn học phí, hơn
3.100 học sinh được hỗ trợ học phí, hơn 2.100 học sinh được hỗ trợ gạo. Từ nguồn
vốn chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững, năm 2015 huyện đã đầu
tư xây dựng mới 19 công trình hạ tầng, với tổng vốn trên 11,8 tỷ đồng[13].
Với nhiều giải pháp giảm nghèo hiệu quả, đến cuối năm 2015, số hộ nghèo của
toàn huyện còn hơn 2.000 hộ, giảm hơn 500 hộ so với đầu năm. Đến nay, tỷ lệ hộ
nghèo của huyện đã giảm xuống còn hơn 20%. Những địa phương thực hiện hiệu
quả công tác giảm nghèo là: xã Năng Khả, giảm được 114 hộ; xã Đà Vị giảm được
43 hộ, xã Yên Hoa giảm được 60 hộ… Đồng chí Ma Văn Biết, Phó Bí thư Đảng ủy


15


xã Năng Khả cho biết, thực hiện hiệu quả công tác giảm nghèo, Đảng ủy đã chỉ đạo
UBND xã tổ chức triển khai thực hiện tốt việc tuyên truyền vận động các tổ chức xã
hội và quần chúng nhân dân nâng cao ý thức vươn lên thoát nghèo hiệu quả; huy
động, lồng ghép và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực từ các chương trình mục
tiêu quốc gia, các nguồn tài trợ an sinh xã hội, các nguồn vốn vay, hỗ trợ đào tạo
nghề và giải quyết việc làm… Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo của xã chỉ còn 8,53%[13].
2.2.3.2 Giảm nghèo ở huyện Phú Bình - Thái Nguyên.
Năm 2011 Phú Bình có gần 7.000 hộ nghèo (chiếm trên 19,67%), giảm hơn
1.660 hộ so với năm 2010 (đạt tỷ lệ 5,16%, vượt 2,16% so với kế hoạch đề ra); số
hộ cận nghèo là gần 4.680 hộ.
Để thực hiện có hiệu quả công tác giảm nghèo năm 2011, huyện đã siết chặt
việc rà soát và bình xét các đối tượng hộ nghèo.
Sau khi nhận được kết quả sơ bộ về số liệu hộ nghèo trên địa bàn, đối với một
số xã có kinh tế phát triển, thu nhập của người dân cao nhưng tỷ lệ hộ nghèo vẫn
còn nhiều, Ban chỉ đạo giảm nghèo huyện đã trực tiếp yêu cầu Ban chỉ đạo giảm
nghèo các xã đó rà soát danh sách, tiến hành phúc tra lại, đồng thời về xã kiểm tra
đột xuất.
Thực tế cho thấy, bên cạnh việc chú trọng công tác tuyên truyền để các hộ
nghèo nâng cao ý thức vươn lên thoát nghèo thì chính quyền, các ngành, đoàn thể
các cấp luôn tạo điều kiện tốt nhất để các hộ nghèo có nhu cầu được vay vốn của
Ngân hàng Chính sách, từ các chương trình, dự án với lãi suất ưu đãi.
Trong năm, từ nhiều nguồn vốn khác nhau, các cấp chính quyền đoàn thể
trong huyện đã hỗ trợ trên 41,8 tỷ đồng xây dựng 830 nhà ở; thực hiện chi trả trợ
cấp trên 2,1 tỷ đồng cho các hộ nghèo trên địa bàn. Để việc giảm nghèo hiệu quả,
bền vững, chính quyền đoàn thể các địa phương đều có biện pháp giúp các hộ phát
triển kinh tế theo cách hội viên thuộc đoàn thể nào thì đoàn thể đó trực tiếp theo dõi,
giúp đỡ. Cùng với đó, Ban chỉ đạo giảm nghèo huyện tích cực phối hợp với Phòng
Nông nghiệp, Trạm Khuyến nông huyện mở các lớp tập huấn khoa học kỹ thuật cho
người dân về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi.



16

2.2.3.3 Giảm nghèo ở Thành phố Bắc Ninh
Là trung tâm kinh tế-chính trị của tỉnh song tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo của
thành phố Bắc Ninh vẫn ở mức cao. Thời gian qua, với nhiều biện pháp thiết thực,
chủ động cùng sự cố gắng, nỗ lực của chính quyền và bản thân người dân, công tác
giảm nghèo có nhiều chuyển biến tích cực.
Chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 20112015 tại thành phố Bắc Ninh sau 3 năm thực hiện có tác động sâu sắc và huy động
được sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị. Thành phố xây được 46 nhà đại đoàn
kết với mức kinh phí hỗ trợ hơn 1,2 tỷ đồng. Hội Nông dân, Hội Phụ nữ các cấp
đứng ra tín chấp cho hơn 270 nghìn hộ nghèo; 900 lượt phụ nữ nghèo, phụ nữ đơn
thân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được vay vốn phát triển kinh tế với tổng số
tiền hỗ trợ hơn 1,5 tỷ đồng. Thực hiện Đề án 1956 về đào tạo nghề cho lao động
nông thôn, thành phố tổ chức được 70 lớp học với hơn 2 nghìn lao động được đào
tạo nghề miễn phí.
Các chính sách an sinh xã hội cũng được thực hiện triệt để giúp người nghèo,
cận nghèo được tiếp cận, giải quyết những nhu cầu thiết yếu. Riêng trong năm
2014, đã có 161 lượt hộ nghèo và 685 lượt hộ cận nghèo thành phố được vay vốn
Ngân hàng Chính sách Xã hội giúp 195 hộ thoát nghèo, 998 lao động có viêc làm
ổn định. Thành phố cũng đã xây dựng, cải tạo, nâng cấp 564 công trình nước sạch
và vệ sinh môi trường với số vốn gần 7 tỷ đồng; 2.351 người nghèo, 3.587 hộ cận
nghèo và 4.292 đối tượng bảo trợ xã hội được cấp thẻ BHYT… Qua rà soát, năm
2014 số hộ nghèo của thành phố Bắc Ninh giảm từ 1.095 hộ (năm 2013) xuống còn
873 hộ, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống chỉ còn 1,98%.


×